Lưu Quang Vũ từng làm thơ, làm báo, lại viết văn khá có duyên, cộng với một tâm hồn nhạy cảm, Lưu Quang Vũ đã được chuẩn bị một vốn liếng văn học và nghề nghiệp nhất định trước khi bước
Trang 1Chế Lan Viên
Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm
1920, quê ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị
Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành Chung thì thôi học, đi dạy tự
Chế Lan Viên bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi; đến năm 17 thì xuất bản tập thơ đầu tay Điêu Tàn mà lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn"
Sau 1954, Chế Lan Viên nằm trong Ban lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội, viết nhiều thơ, bút ký, tùy bút, tiểu luận văn học Sau 1975, ông vào Sài Gòn, ở quận Tân Bình, mất tại đấy ngày 19 tháng 6 năm 1989
Tác phẩm tiêu biểu: tập văn xuôi Vàng Sao (1942), các tập thơ Điêu Tàn (1937), Gửi Các Anh (1954), Ánh Sáng và Phù Sa (1960), Hoa Ngày Thường Chim Báo Bão (1967), Hoa Trên Đá (1984)
Người ta thường biết Chế Lan Viên qua tập thơ Điêu Tàn, một trong những tác phẩm nổi bật trong thi đàn tiền chiến Đọc Điêu Tàn là bước vào một thế giới ma quỉ, kinh dị, âm u và huyền bí Tập thơ mượn những lời rên rỉ, khóc than nghẹn ngào, chất chứa bao u uất lẫn căm hờn của một dân tộc bị diệt vong để bộc lộ lòng yêu nước một cách kín đáo
Hải Thượng Lãn Ông
Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia và danh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lệ Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Đương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) Ông thuộc đòng đõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoạ Cha
và chú đều đỗ tiến sĩ và làm quan đến đại thần Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ Đến năm 20 tuổi, gặp buổi nhiễu nhương, chúa Trịnh Giang độc đoán, giặc giã nổi lên khắp nơi, ông quyết định xếp bút nghiên theo việc đao cung Đang ở trong quân ngũ, ông phải về quê ngoại là huyện Hương Sơn (thuộc tỉnh Hà Tĩnh bây giờ) để thay người anh thứ năm phụng đưỡng mẹ già Tại Hương Sơn, ông mắc phải một chứng bệnh đai đẳng, may nhờ một y sĩ họ Trần cứu chữạ Từ đó, ông quyết định rời
bỏ quan lộ, đốc lòng nghiên cứu y học, trở thành một y sĩ có tiếng Ông
mở trường đạy y học và ra công trước tác một bộ sách y khoa đồ sộ : Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi -Đặng Thị Huệ) Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm Cũng may
là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo đài đến năm 1802 mới chấm đứt Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút "Thượng Kinh Ký Sự" Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh Ông mất năm 1791
Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 tại
Lệ Mỹ, Đồng Hớị Thuở nhỏ ông học trung học ở Huế (1928-1930), làm viên chức sở đạc điền ở Quy Nhơn (1932-1933), vào Sài Gòn làm báo rồi lại trở về Quy Nhơn (1934-1935)
Ông mắc bệnh phong từ năm 1937, phải vào nhà thương Quy Hòa tháng 9
năm 1940, và rồi mất ở đấy ngày 11 tháng 11 năm 1940
Trang 2Hàn Mặc Tử bắt đầu làm thơ rất sớm với thể thơ Đường luật và bút danh Minh Duệ thị, Phong Trần; nổi tiếng vì được cụ Phan Bội Châu họa thơ và đề caọ Từ năm 1935 ông đổi bút hiệu thành Lệ
Thanh, rồi Hàn Mạc Tử, và cuối cùng Hàn Mặc Tử
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản trong sinh thời tác giả), Thơ Điên (hay Đau Thương), Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên, Chơi Giữa Mùa Trăng Hàn Mặc Tử đem đến cho Thơ Mới một phong cách độc đáo và sáng tạo: bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí, thậm chí đến điên loạn, phản ảnh trực tiếp một tâm hồn yêu thơ, yêu đời chan chứa, nhưng lại oàn oại vì cơn bệnh đau đớn dày vò
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai, là con của Hồ Sĩ Danh (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một người thiếp quê ở Hải Dương
Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn Ta chỉ biết bà sống vào thời
Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839)
Hồ Xuân Hương học rộng, đọc sách nhiều, uyên thâm cả Nho, Phật, Lãọ Nàng có tài ứng đối, dùng điển tích rất tài tình, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán phục nàng: Tài cao nhã phượng thế gian kinh, Nguyễn Du so sánh nàng với Tiểu Thanh; Trương Đăng Quế, Hoàng Diệu Khuê, Trương Bỉnh Thuyên sánh nàng với Ban Chiêu, Tạ Huệ Liên, Tô Tiểu Muội, Sái
Cơ của Trung Quốc, và đem Mai Am nữ sĩ, tức Công Chúa Lại Đức so sánh với Hồ Xuân Hương, (dĩ nhiên không thể sánh công chúa triều đình với một nhà thơ dâm tục được.)
Hồ Xuân Hương lận đận trên đường tình ái, trên bốn mươi mới gặp được Tri phủ Tam Đái tức Vĩnh Tường, sau được thăng lên làm Hiệp Trấn Yên Quảng là Trần Phúc Hiển, được ba năm Phúc Hiển bị vu tội tham nhũng, nhưng thật ra Phúc Hiển chết là vì vây cánh của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường bị phe Lê Chất, Lê Văn Duyệt diệt, Thi tướng tao đàn Cổ Nguyệt đường là Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán cũng tự tử chết
Tác phẩm nổi bật nhất của bà là số thơ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập (dù có đôi bài đáng nghi vấn) Ngoài ra bà còn để lại tập thơ chữ Hán tựa đề Lưu Hương Ký
Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ
Trang 3Hồ Dzếnh
Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh (Hồ Dzếnh là phiên âm của Hà Anh theo giọng Quảng Đông) Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóạ Cha là người Quảng Đông, sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ là người Việt
Hồ Dzếnh ra Hà Nội học trung học, dạy tư, viết thơ, viết báo từ năm
1931 Năm 1953 vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội viết báo, làm thợ
Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nộị Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Quê Ngoại (1942), Hoa Xuân Đất Việt (1946); tập truyện ngắn Chân Trời Cũ (1942); và các tiểu thuyết Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (1942), Những Vành Khăn Trắng (1946)
Sự pha trộn của hai giòng máu chi phối nhiều sáng tác của tác giả Tập thơ Quê Ngoại gây được nhiều ấn tượng nhất với những lời thơ êm đềm, nhẹ nhàng, trong sáng, và những cảm xúc đằm thắm chân thành dành riêng cho "quê ngoại" thân thương
Ông có viết một tập văn xuôi - Kinh Cầu Tự - nhưng không được thành công mấỵ
Sau năm 1945, Huy Cận theo kháng chiến và ở lại miền Bắc Những tác phẩm sau 1954 được biết đến gồm có: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1964), Những năm 60 (1964) Những tập thơ sau này nghiêng hẳn về Xã Hộị
Lưu Trọng Lư
Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La
Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học
Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi
bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn
Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934 Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973)
Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào
Trang 4nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêụ Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc
Nhận xét của Hoài Thanh - Hoài Chân: " thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta"
Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948 tại
xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa (Vĩnh Phú) Quê ở Quảng Nam - Đà Nẵng
Thuở nhỏ ông sống cùng gia đình ở Việt Bắc
Sau khi xuất ngũ năm năm 1970 xuất ngũ, Lưu Quang Vũ làm nhiều nghề khác nhaụ Nhưng từ tháng 8 năm 1979 cho đến khi mất, ông là một phóng viên của "Tạp chí sân khấu"
Lưu Quang Vũ từng làm thơ, làm báo, lại viết văn khá có duyên, cộng với một tâm hồn nhạy cảm, Lưu Quang Vũ đã được chuẩn bị một vốn liếng văn học
và nghề nghiệp nhất định trước khi bước vào lĩnh vực sân khấu
Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh
Trong hơn 50 tác phẩm trong khoảng thời gian tám năm, mà càng thời gian cuối những sáng tác càng nhiều, có thể chia làm ba loại:
Loại 1: Dựa vào một số tích cũ của văn học dân gian trong và ngoài nước rồi viết lại như: Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da Hàng thịt, Nàng Sita, Đam San, Đôi đũa kim giao, Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá
Loại 2: Dựa vào một cốt chuyện văn học để chuyển thành kịch như: Đôi dòng sữa mẹ, Hẹn ngày trở lại, Chết cho điều chưa có, Muối mặn của đời em
Loại hoàn toàn do sáng tác: Đây là phần chủ yếu, là điểm mạnh và đóng góp lớn nhất cho sân khấu những năm qua và tuyệt đại bộ phận sáng tác này đều là đề tài hiện đạị
Nét quán xuyến trong toàn bộ sáng tác, làm nên phong cách và âm hưởng chủ yếu trong sự nghiệp của Vũ, chính là tính hiện đại trong chủ đề tư tưởng các vỡ diễn, ngay cả khi viết về đề tài lịch sử, dã
sử, truyện cổ dân gian trong nước cũng như của nước ngoàị
Cùng lúc Vũ vừa làm được công việc đưa tác phẩm nghệ thuật đi gần với đời sống, cái khả năng không phải ai cũng có được là biến những sự kiện có thật trong đời sống thành những chi tiết nghệ thuật; đồng thời phổ vào những chi tiết vốn thực có và cá biệt đó, một ý nghĩa phổ biến và có sức khái quát Thiếu điều đó thì sẽ chỉ có một thứ hiện thực "bò sát", hoặc tập hợp những chi tiết hoàn toàn có thật mà vẫn tạo nên một cơ thể nghệ thuật giả
Giữa lúc tài năn đang sung mãn, đột ngột thay, ngày 29 tháng 8 năm 1988, Lưu Quang Vũ từ trần trong một tai nạn giao thông tại tỉnh Hải Hưng, cùng với vợ là nữ thi sĩ Xuân Quỳnh và con trai là Lưu Quỳnh Thợ
5 Cô gái đội mũ nồi xám (1981)
6 Người con gái trở về
Trang 5(Trời xanh trên mái phố) (1981)
15 Nguồn sáng trong đời (1984)
16 Bên sông Thu Bồn (1984)
24 Ngọc Hân công chúa (1984)
25 Lời nói dối cuối cùng (Cuội và Bờm) (1985)
26 Đất sống của người (1985)
27 Vi khuẩn Han-Xen (Hạnh phúc của người bất hạnh) (1985)
28 Đôi dòng sữa mẹ (Hai giọt máu) (1985)
29 Ông vua hóa hổ (1985)
30 Khoảnh khắc và vô tận (1986)
31 Tin ở hoa hồng (1986)
32 Nếu anh không đốt lửa (1986)
33 Hoa cúa xanh trên đầm lầy
34 Muối mặn của đời em
35 Đam San
36 Chết cho điều chưa có
37 Quyền được hạnh phúc (1987)
38 Đôi đũa Kim Giao
39 Ông không phải bố tôi (1988)
40 Linh hồn của đá
41 Bệnh Sĩ (1988)
42 Lời thề thứ chín
43 Chim Sâm Cầm không chết (1988)
44 Trái tim trong trắng (Vụ án hai ngàn ngày) (1988)
50 Tẩy, bút chì và thước kẻ (Chưa công bố)
51 Ngọn gió vô hình (Chưa công bố)
52 Đoàn thanh tra tới
53 Câu chuyện chiều cuối năm
Gốc gác còn nhiều nghi vấn; ta chỉ biết mẹ ông họ Phạm và từ năm ba tuổi ông đã làm con nuôi của
sư Lý Khánh Văn
Trang 6Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Năm 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông được quần thần tôn lên làm vua, đổi niên hiệu là Thuận Thiên và dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, nhân đó
để lại áng văn Thiên Đô Chiếụ<
Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, và rất hâm mộ Phật giáọ
Tác phẩm còn lại gồm có bài Lộ Bố Văn phát ra cho nhân dân Trung Quốc ở các châu Ung Khâm Liêm nhân dịp chủ động đem quân sang đánh Tống năm 1075, lời tâu xin vua Lý Nhân Tông cho đi dẹp loạn Lý Giác năm 1103, và tiêu biểu nhất là bài thơ Nam Quốc Sơn Hà
Nam Cao
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1915-1951) thuộc thế hệ văn học tiền chiến nhưng mất rất sớm trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Tác phẩm của ông quan trọng là của thời trước chiến tranh với những khổ đau của dân quê và những hủ tục của một thời mà con người nghèo nàn chỉ biết bám víu vào những hư vị hão trong thôn đảng
Giá trị con người được đề cao trong truyện của Nam Cao, nhất là trong truyện ngắn nổi danh Chí Phèo mà trước đây ít người được biết.Truyện ngắn Nam Cao có nghệ thuật trong kết cấu và ngôn từ Nhiều truyện của ông mang tính cách tâm lý đến bây giờ vẫn còn là những khuôn thước tốt cho người muốn bước vào lãnh vực truyện ngắn Với Nam Cao, ta có thể nói như với Edgar Poe, truyện ngắn đã thành hình và có quy luật riêng của nó
Có những nhà văn mà tác phẩm càng đi vào thời gian càng có giá trị Nam Cao ở vào trường hợp đó Truyện của ông là những bộ nhớ ghi lại một cách sống động những sinh hoạt đặc biệt của nông thôn Việt Nam cách đây nửa thế kỷ Ta yêu mến dân tộc ta Ta tha thiết với những gì mà dân tộc ta đã trải qua tất nhiên ta tha thiết và mến yêu những nét chấm phá trong truyện của Nam Cao Ở đây có đầy đủ hết, từ anh mõ nghèo nàn nhưng ai cũng sợ, đến những chức dịch luôn luôn ậm ọc nhưng chỉ biết có những miếng đỉnh chung tại chốn đình chung, từ một anh tha phương cầu thực tấp vào sống nhờ trong làng đến một người lính tập có dịp ra khỏi lũy tre làng xã nên đã mở mắt với đời đủ cả
Có người nói Nam Cao nổi tiếng nhờ truyện Chí Phèo Đúng, nhưng thiếu, Chí Phèo là tuyện đỉnh văn chương của Nam Cao, và các truyện khác của ông cũng là những tác phẩm rất có giá trị trong văn chương Việt
Trang 7Nguyễn Bính
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính
Theo tài liệu được Hội Nhà Văn ở Hà Nội công bố về tiểu sử của ông: thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở nhà truờng mà chỉ đuợc học
ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết Năm 1
43, Nguyễn Bính lại đi vào Miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây#
"Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghiã xin đừng tới
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu#."
(Từ Độ Về Đây - 1943)
Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam Đến
Năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được
bố trí phục vụ trong Hội Nhà văn ở Hà Nội một thời gian
Năm 1956, Ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ TRĂM HOA (nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà văn);
Đến năm 1958, Nguyễn Bính chuyển về tỉnh nhà Nam Định và phục vụ trong Ty Văn Hoá Nam Định cho đến ngày ông từ giã cõi đờị
Nguyễn Bính chết ngày 20-1-1966, những ngày cuối năm Ất Tị;
Suốt 30 năm sinh hoạt văn nghệ, nhà thơ đã sáng tác nhiều thể loại như làm thơ, viết kịch, truyện thợ Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi cạ Ông đã xuất bản được 20 tác phẩm đủ loại:
- Lỡ Bước Sang Ngang (Thơ 1940)
- Tâm Hồn Tôi (Thơ 1940)
- Hương Cố Nhân (Thơ 1941)
- Một Nghìn Cửa Sổ (Thơ 1941)
- Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942)
- Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942)
- Mây Tần (Thơ 1942)
- Bóng Giai Nhân (Kịch Thơ 1942)
- Truyện Tỳ Bà (Truyện Thơ 1942)
- Ông Lão Mài Gươm (Thơ 1947)
- Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
- Trả Ta Về (Thơ 1955)
- Gửi Người Vợ Miền Nam (Thơ 1955)
- Trong Bóng Cờ Bay (Truyện Thơ 1957)
- Nước Giếng Thơi (Thơ 1957)
- Tiếng Trống Đêm Xuân (Truyện Thơ 1958)
- Tình Nghĩa Đôi Ta (Thơ 1960)
- Cô Son (Chèo cổ 1961)
- Đêm Sao Sáng (Thơ 1962)
- Người Lái Đò Sông Vỵ (Chèo 1964)
Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số thơ rời viết trong năm 1964, 1965 và 1966 chưa kịp xuất bản
Trang 8Nguyễn Công Trứ
Cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tư chất thông minh, tính người hào phóng Cụ xuất thân trong một gia đình khoa bảng Cụ thân sinh là Nguyễn Tần, đỗ Hương Cống đời nhà Lê
Buổi thiếu thời, dù sống trong cảnh hàn vi, cụ luôn cố công trau dồi kinh sử để mong thi đỗ ra làm quan giúp dân, giúp nước Sau nhiều lần thi hỏng, Cụ cuối cùng đậu Tú Tài năm 1813 và đậu Giải
Nguyên năm Gia Long thứ 18 (1819) và đến năm Minh Mệnh nguyên niên 1820, bắt đầu ra làm quan, bấy giờ Cụ đã 42 tuổi Cụ trải thờ ba triều: Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức
Từ chức hành tẩu Sử quán, thăng lên đến Binh bộ thượng thư lãnh chức Tổng đốc (bởi vậy tục thường gọi là Cụ Thượng Trứ) Nhưng hoạn lộ của Cụ lên voi xuống chó, chìm nổi nhiều phen: mấy lần bị giáng chức, một lần bị cách tuột; kết cục lúc về hưu (Tự Đức nguyên niên, 1848) chỉ còn lại hàm Thừa Thiên phủ doãn Bấy giờ
Cụ đã 71 tuổi Khi về hưu, lúc Cụ ở quê nhà , lúc Cụ ở chùa, lúc Cụ đến ở hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải là nơi Cụ đã có công khai thác, gác bỏ việc đời, ngao du sơn thủy, sinh hoạt trong cảnh an nhàn
Cụ mất ngày 7 tháng 12 năm 1858 tại chính quán, thọ 81 tuổi, được phong tước Dinh Bình Hầu
Cụ tuy làm quan văn, nhưng có tài thao lược, nên Cụ từng đi đánh giặc nhiều phen, giúp triều đình nhà Nguyễn đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa lớn (Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Phan Bá Vành ) Nhưng cái công nghiệp to nhất của Cụ lúc làm Doanh Điền Sứ, giúp dân khai khẩn đất hoang (1828)
ở vùng bãi biển tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình để lập ra hai huyện Tiền Hải (nay thuộc Thái Bình)
và Kim Sơn (vẫn thuộc Ninh Bình)
Cụ có biệt tài về văn nôm Văn Cụ làm đủ các lối, (chữ Hán (câu đối, sớ) cũng như chữ Nôm (thơ, hát nói, phú, câu đối, ca trù ), nhưng sở trường nhất là lối hát nói Văn Cụ lỗi lạc khác thường; không thiên về tình buồn như phần nhiều các thơ ca của ta; trái lại, Cụ thường khuyên người ta phải gắng gổ làm tròn phận sự, lập nên công nghiệp và lúc nào cũng nên vui vẻ, dầu gặp cảnh nghèo khó cũng vậy Lời văn lại hào hùng và ngạo nghễ, biểu lộ một bản lĩnh vững chắc, một chí khí mạnh mẽ,
và thái độ cầu tiến, vươn lên, thật rõ là khẩu khí của một người suốt đời hăng hái làm việc cho đời, tận tụy với chức vụ
Tham khảo từ:
+ Nguyễn Công Trứ, Con Người và Sự Nghiệp, Chu Trọng Huyến
+ Đại Nam Liệt Truyện, Quốc Sử Quán nhà Nguyễn
+ Thi Ca Cổ Điển, Bảo Vân
Năm 1833, sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, Nguyễn Đình Huy đưa Nguyễn Đình Chiểu về gửi một người bạn ở Huế để ăn học Khoảng
1840, Nguyễn Đình Chiểu trở về Nam và đến 1843 thi đỗ tú tàị Năm
1846, ông lại ra Huế để chuẩn bị thi tiếp Nhưng năm 1849, sắp thi thì được tin mẹ mất Ông bỏ thi để về Nam chịu tang mẹ Dọc đường vất
Trang 9vả, lại thương mẹ khóc nhiều, ông bị đau nặng và mù cả hai mắt Sau đó ông vừa dạy học, vừa bốc thuốc, vừa làm thơ, sống giữa tình thương và lòng hâm mộ của bà con, cô bác Hồi ông mới đậu tú tài, có nhà phú hộ hứa gả con gái chọ Nay ông bị mù lòa, gia đình kia bội ước Về sau, có người học trò cảm nghĩa thầy đã gả em gái chọ
Năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu bị mù, không trực tiếp cầm gươm giết giặc được Nhưng ông vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Đốc binh Là bàn mưu định kế Giặc đánh vào quê ông, ông lui về quê vợ Pháp cướp ba tỉnh miền Đông, ông lánh về ở Ba Trị Giặc chiếm hết cả Lục tỉnh, ông sức yếu lại bệnh tật, đành ở lại trong đấy giặc chiếm
Biết ông là người có uy tín lớn, Pháp tìm mọi cách mua chuộc Nhưng ông vẫn nêu cao khí tiết, không chịu khuất phục
Năm 1888, ông từ trần Cánh đồng Ba Tri rợp khăn tang khóc thương Đồ Chiểụ
Trong một Đồ Chiểu có 3 con người đáng quý: một nhà giáo mẫu mực, đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ, một thầy lang lấy việc chăm lo sức khỏe cỷa nhân dân làm y đức, một nhà văn coi trọng chức năng giáo huấn của văn học trên cơ sở sáng tạo nghệ thuật và là ngọn cờ tiêu biểu cho bền văn học yêu nước chống Pháp
SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG:
1.Nguyễn Đình Chiểu đã để lại nhiều tác phẩm văn học quý báụ Có ba tác phẩm dài: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp Có một số bài văn tế nổi tiếng như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn Tế Trương Định, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh và nhiều bài thơ Đường luật Văn chương của Đồ Chiểu không có loại thuần túy giải sầụ Văn chương của ông nhằm mục đích chiến đấu, bảo vệ đạo đức của nhân dân và quyền lợi của Tổ quốc:
Học theo ngòi bút chí công,
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thụ
Hay:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đêm mấy thằng gian bút chẳng tà
Đồ Chiểu còn viết:
Văn chương ai chẳng muốn nghe,
Phun châu nhả ngọc báu khoe tinh thần
nghĩa là văn chương vừa phải có ý đẹp, vừa phải có lời haỵ
2.Tác phẩm Lục Vân Tiên viết trước khi Pháp xâm lược, xứng đáng là khúc ca chiến thắng của những người kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấụ Người đọc xưa nay yêu thích Lục Vân Tiên vì chàng là người con rất mực hiếu thảo, người thanh niên có lý tưởng cao cả sẵn sàng quên hết mọi lợi ích riêng
tư, dũng cảm đánh cướp Phong Lai cứu dân, đánh gai(.c Ô Qua bảo vệ đất nước; yêu quý Kiều
Nghuyệt Nga vì nàng có tấm lòng chung thủy son sắt; yêu quý Hớn Minh vì Hớn Minh bất chấp quyền uy, trừng trị thẳng tay hạng người ỷ thế làm càng; yêu quý ông Quán vì ông Quán biết yêu ghét rạch ròi theo lợi ích của nhân dân:
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần"
Trang 10phơi bày tất cả thảm họa của đất nước:
Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với súng song tâm;
Mấy nơi tổng lí xã thôn, đều mắc hại cùng cờ ba sắc
(Văn tế nghĩa dĩ trận vong Lục tỉnh)
tố cáo tội ác của giặc ngoại xâm:
Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treọ Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật
Kể mười mấy năm trời khốn khổ, bị khảo, bị tù, bị đày, bị ghết, trẻ già nghe nào xiết đếm tên; Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông, hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt
(Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)
nguyền rủa bọn người: " theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; ở lính mã tà, chiu rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ." (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
nhiệt liệt biểu dương những bậc anh hùng hi sinh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc:
Làm người trung nghĩa đáng bia son,
Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn
Cơm áo đền bồi ơn đất nước,
Râu mày giữ vẹn phận tôi con
Tinh thần hai chữ phau sương tuyết,
Khí phách ngàn thu rỡ núi non
(Thơ điếu Phan Tòng)
đặc biệt ca ngợi những người nông dân vốn "cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó", nhưng khi có giặc thì đã xông lên:
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
và kêu gọi quyết tâm đánh giặc đến cùng:
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kiạ
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Sau ngày Nam Kỳ mất trọn, phải sống trong vòng vây của giặc, ngọn bút của Đồ Chiểu vẫn sáng ngời chủ nghĩa yêu nước Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, nổi lên hình ảnh đẹp đẽ của Nhân Sư
" chẳng kh+'ng sĩ Liêu, xông hai con mắt bỏ liều cho đui", bởi:
Thà cho trước mắt mù mù,
Chẳng thà ngồi thấu kẻ thù quân thân
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Trong những ngày cuối đời, hoàn cảnh đất nước, quê hương càng gặp nhiều đau thương, Đồ Chiểu buồn và thơ Đồ Chiểu ít nhiều cũng buồn theọ Nhưng trong nỗi buồn này đã ánh lên những hy vọng lớn:
Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông
ăn cũng thấy ngon miệng Nó là trái sầu riêng của Nam Bộ, với một số người không dễ gì quen, nhưng chính là "bậc vương giả" trong thế giới trái cây ở đâỵ Ngôn ngũ và hình tượng nhân vật của
Đồ Chiểu có sắc thái miền Nam độc đáọ Những nhân vật tích cực ở đây trọng nghĩa khinh tài, cương trực, dứt khoát đến như nóng nảy, nhưng lại rất sâu nặng ân tình Nguyễn Đình Chiểu làm thơ văn
để giáo huấn đạo đức, mà có sự rung động cực độ của cảm xúc Do đó, ở thơ văn Đồ Chiểu, cái chất trữ tình - đạo đức đã trở thành một nét phong cách hiếm có Nhất là đến phần thơ văn yêu nước, chất trữ tình - đạo đức gắn với chất trữ tình - yêu nước, kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực nóng hổi, tạo ra một sức mạnh nghệ thuật bề thế, vững vàng
Trang 11Trong thơ văn Đồ Chiểu, không phải không có ít nhiều hạn chế Nhưng với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật như trên, thơ văn Đồ Chiểu xứng đáng là "ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc", là ngọn cờ tiêu biểu của thơ văn chống thực dân Pháp thời kỳ nửa sau thế kỉ XIX Ngày nay, đọc thơ văn Đồ Chiểu, không chỉ thấy tâm huyết và tài nghệ của nhà thơ mà còn thấy lại cả một thời đại lịch
sử, thấy lại cả dân tộc ta trong một thời kỳ đau thương nhưng vĩ đạị Thơ văn của Đồ Chiểu mãi mãi vẫn là món ăn tinh thần quý báu của người Việt Nam
Nguyễn Du
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (ngày 3 tháng
1 năm 1766) Quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng ông ra đời ở Thăng Long, trong một gia đình đại qúy tộc, nhiều đời làm quan và có nhiều người sáng tác văn học
Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng giữ chức Tể tướng triều Lệ Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm Bà xuất thân trong một gia đình bình thường, giỏi việc hát xướng và trẻ hơn chồng 32 tuổị
Từ lúc ra đời cho đến năm 10 tuổi, Nguyễn Du sống hết sức sung túc Đến năm 10 tuổi, cha mất; hai năm sau mẹ mất Bốn anh em cùng mẹ với Nguyễn Du chưa ai đến tuổi trưởng thành, phải đến sống nhờ ở nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, lớn hơn Nguyễn Du 32 tuổi, bấy giờ đang làm quan to trong triềụ Nhưng nhà Nguyễn Khản cũng không yên, Nguyễn Khãn bị kiêu binh, ghét nên khi ông được chúa Trịnh cử làm Tham tụng thì họ kéo đến phá tan nhà của ông và toan giết chết ông Nguyễn Khãn bỏ chạy lên Sơn Tây rồi chạy về Hà Tĩnh Thời gian này Nguyễn Du còn nhỏ tuổi vẫn tiếp tục đi học Năm 1783, 18 tuổi Nguyễn Du đi thi hương đậu tam trườ`ng, sau đó không rõ vì lẽ gì không thấy ông học lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyễn, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ trần
Khoảng 30 năm cuối thế kỷ XVIII đất nước ta hết sức rối ren, triều đình Lê - Trịnh có nguy cơ sụp
đổ, nên Lê Chiêu Thống cử người sang cầu cứu nhà Thanh Nhà Thanh nhân cơ hội ấy đem quân sang xâm chiếm nước tạ Năm 1789, Nguyễn Huệ trong Nam kéo quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh
Lê Chiêu Thống cùng một số quan lại triều đình bỏ nước chạy theo quân xâm lược sang Trung Quốc
Ba anh em cùng mẹ với Nguyễn Du chạy theo Lê Chiêu Thống không kịp Nguyễn Du bỏ về quê vợ ở Thái Bình, ông vẫn nơm nớp lo sợ bị nhà Tây Sơn trả thù, nên sống trốn tránh Sau đó ông bỏ về Tiên Điền sống một thời gian dài cho đến năm 1802, Gia Long lật đổ nhà Tây Sơn Suốt thời gian ở Thái Bình cũng như khi về Hà Tĩnh, Nguyễn Du sống long đong, vất vả Nhiều lần ông phải ăn ở nhờ nhà người khác, có lúc ốm không có thuốc uống Tập thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập (Thanh Hiên là hiệu của Nguyễn Du) được Nguyễn Du viết chủ yếu trong những năm tháng nàỵ
Tháng 8 năm 1802, Gia Long có chiếu bổ nhiệm Nguyễn Du làm Tri huyện Phù Dung rồi thăng Tri phủ Thường Tín Nguyễn Du không muốn ra làm quan, nhưng nhiều lần triều đình mời gọi, bất đắc dĩ phải rạ Sau khi làm Tri phủ Thường Tín, ông được cử lên cửa Nam Quan tiếp sứ thần Trung Quốc, lúc
về được điều vào Phú Xuân, sau đó được cử làm Cai bạ tỉnh Quảng Bình Đây là giai đoạn ông viết tập thơ Nam trung tạp ngâm (Nam trung là chỉ miền Nam) Truyện Kiều của ông cũng có thể được viết trong thời gian nàỵ
Năm 1813, Nguyễn Du được thăng chức Học sĩ điện Cần chánh và được cử làm Chánh sứ, cầm đầu một phái đoàn của ta đi Trung Quốc Trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã viết tập Bắc hành tạp lục (bác hành là đi lên phía bắc, nói chuyện đi sứ Trung Quốc) Đây là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất của ông Sau khi về nước, Nguyễn Du được thăng làm Tham tri bộ Lễ Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, định cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa, nhưng chưa kịp đi thì ông mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18/9/1820) trong một trận dịch rất lớn Những năm làm quan cho triều Nguyễn, Nguyễn Du thường ốm đau, bệnh tật; cuộc sống có nhiều khó khăn Giai đoạn cuối đời hình như ông ít sáng tác Ngoài bài Văn chiêu hồn (còn có tên Văn tế thập loại chúng sinh)
là một bài thơ dài chữ Nôm viết bằng thể song thất lục bát, không thấy ông có tác phẩm nào để lạị Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Có thể nói toàn bộ tác phẩm của ông, chữ Hán cũng như chữ Nôm, chan chứa một tình yêu thương bao la đối với con người, đặc biệt là người phụ nữ Không phải chỉ trong Truyện Kiều, mà trong Thơ chữ Hán và trong Văn chiêu hồn của ông, tình thương ấy cũng tràn ngập Trong thơ chữ Hán của ông, những bài vào loại hay nhất là những bài ông viết về những con người bất hạnh như Thái Bình mại ca giả (Người hát rong ở thành Thái Bình) viết về một
Trang 12ông già mù đi hát rong để kiếm ăn; Hà Nam đạo trung khốc thử (Nắng dữ trên đường đi ở Hà Nam) viết về một ông già khác kéo xe giữa một buổi trưa trời nắng gắt; Sở kiến hành (Bài hành về những điều trông thấy) viết về bốn mẹ con một người đi ăn xin sắp chết đói; Trở binh hành (Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường) viết về những người nông dân chết đói ở Hà Nam Đặc biệt những bài Long Thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn ở Long Thành), Điếu La Thành ca giả (Viếng người
ca nữ đất La Thành), Độc Tiểu Thanh kí (Đọc tập Tiểu Thanh kí) ông viết về những người phụ nữ bất hạnh hết sức xúc động trong Văn chiêu hồn, những câu thơ hay nhất của ông cũng là những câu viết về cô gái làm nghề mại dâm, về người buôn thúng bán gánh, về trẻ em, về người đi ăn xin Nguyễn Du tha thiết mong cho con người được sống hạnh phúc, được tôn trọng, và ông cực lực tố cáo tất cả những gì là bất công, ngang trái chà đạp con ngườị Về phương diện nghệ thuật, với
Truyện Kiều, Nguyễn Du xứng đáng là một bậc thầy của ngôn ngữ văn học dân tộc Nguyễn Du đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc và cùng với nó ông đã nâng thể loại truyện thơ lục bát lên một đỉnh cao chói lọị Năm 1965, Hội đồng hòa bình thế giới quyết định kỷ niệm 200 năm năm sinh của nhà thơ trên toàn thế giớị Đó là một biểu hiện sự xác nhận công lao đóng góp của nhà thơ cho dân tộc và nhân loại
Nguyễn Gia Thiều
Nguyễn Gia Thiều sinh năm 1741, không rõ ngày tháng nào, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại qúy tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình
Ông thân sinh của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước hầụ
Mẹ Nguyễn Gia Thiều là quận chúa Quỳnh Liên, con gái An Đô vương Trịnh Cương Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là con cô cậu với chúa Trịnh Sâm
Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm lên sáụ Nguyễn Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúạ Ông nổi tiếng là người thông minh, học rộng, văn võ kiêm toàn Ông lại còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán Ông là tác giả các bản "Sơn trung âm" và "Sở từ điệu" Về hội họa, ông có bức tranh lớn "Tống sơn đồ", dâng vua xem được khen thưởng Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích Các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn một cái nào, nhưng trong sáng tác văn học thì những tri thức về nghệ thuật của ông được phản ánh một cách khá rõ
Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng Năm 1759, mười tám tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội; sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa, và vì có quân công ông được phong tước hầu - Ôn Như hầụ Các em ông cũng lần lược được phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ bá; Nguyễn Gia Xuyên
Năm 1786, Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên miền núi xứ Hưng Hóạ Năm 1789, Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh, lập ra triều đại mớị Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chốị Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy, hằng ngày uống rượu tiêu sầu, giả ngây giả dại và đến ngày 9 tháng 5 Mậu ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798 thì mất, thọ
57 tuổị
Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ Hán là "Ôn Như thi tập" có đến nghìn bài, hiện không tìm thấỵ Phần viết bằng chữ Nôm ngoài "Cung oán ngâm khúc" là tác phẩm nổi tiếng nhất, Nguyễn Gia Thiều còn có "Tây hồ thi tập" và "Tứ trai thi tập", hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập "Tạp ký" của Lý Văn Phức
"Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc bản dịch