Nền văn hóa Đại Việt thời Lý Trần và Lê Sơ, khái niệm về văn hóa, các loại hình văn hóa, bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý, bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Trần, đặc điểm, ý nghĩa của nền văn hóa Đại Việt thời Lý Trần và Lê Sơ
Trang 1SO SÁNH NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ
(Thế kỷ XI – XVI)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Trang 2MỤC LỤC
TRANG
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài 8
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 9
3 Mục đích nghiên cứu 10
4 Nhiệm vụ nghiên cứu 10
5 Đối tượng nghiên cứu 10
6 Phương pháp nghiên cứu 10
7 Phạm vi nghiên cứu 11
8 Ý nghĩa khoa học của đề tài 11
9 Cấu trúc của đề tài 11
NỘI DUNG CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN, LÊ SƠ 1.1 Khái quát chung về văn hóa 12
1.1.1 Khái niệm văn hóa
1.1.2 Các loại hình văn hóa
1.1.3 Vai trò của văn hóa
1.2 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần, Lê sơ 14
1.2.1 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần 14
1.2.1.1 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý
Trang 31.2.1.2 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Trần
1.2.2 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lê sơ 19
CHƯƠNG 2 - NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VĂN HÓA ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ 2.1 Khái quát nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ ?
2.1.1 Nền văn hóa thời Lý – Trần
2.1.1.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
2.1.1.2 Giáo dục
2.1.1.3 Văn học, nghệ thuật
2.1.1.4 Khoa học kỹ thuật
2.1.2 Nền văn hóa thời Lê sơ
2.1.2.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
2.1.2.2 Giáo dục
2.1.2.3 Văn học, nghệ thuật
2.1.2.4 Khoa học kỹ thuật
2.2 Những điểm tương đồng và khác biệt giữa văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ ?
2.2.1 Những điểm tương đồng ?
2.2.1.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
2.2.1.2 Giáo dục
2.2.1.3 Văn học, nghệ thuật
2.2.1.4 Khoa học kỹ thuật
2.2.2 Những điểm khác biệt ?
2.2.2.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
2.2.2.2 Giáo dục
2.2.2.3 Văn học, nghệ thuật
2.2.2.4 Khoa học kỹ thuật
Trang 4CHƯƠNG 3 - ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT THỜI
LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ
3.1 Đặc điểm ?
3.1.1 Nền văn hóa phát triển rực rỡ, phong phú, độc đáo
3.1.2 Nền văn hóa gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước
3.1.3 Nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc
3.2 Ý nghĩa ?
3.3 Vận dụng vào dạy học lịch sử lớp 4 ?
KẾT LUẬN
1 Kết luận
2 Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang 6MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Mọi thứ quý báu trên khắp cõi đời này, nếu chẳng may bị mất đi thì rốt cuộc,chúng ta vẫn có thể tìm lại được, duy chỉ có những giá trị văn hóa thì không Giờ đây,
sở dĩ tất cả chúng ta đều hoàn toàn có quyền hiên ngang ngẩng cao đầu để kiêu hãnh
mà cất tiếng hát rằng: “Ôi thiêng liêng, hai tiếng Việt Nam!”, ấy là nhờ các thế hệ nốinhau từ thuở khai thiên lập địa đến nay đã canh cánh nỗi lo xây dựng và bảo vệ nhữngthành tựu văn hóa độc đáo của mình Giữa mênh mông năm châu bốn biển, bản đồ ViệtNam thực sự có một màu sắc riêng và đó chính là niềm tự hào bất diệt của chúng ta,của mãi mãi muôn đời con cháu sau này
Từ xưa đến nay đã có nhiều người nghiên cứu văn hóa Việt Nam Từ thế kỷXIX về trước, số học giả viết những công trình liên quan trực tiếp đến văn hóa ViệtNam không quá 20 người Nhưng từ đầu thế kỷ XX đến nay, số học giả cả người Việtlẫn người nước ngoài viết về văn hóa Việt Nam khá nhiều Mỗi người lại tìm hiểu nềnvăn hóa theo một cách riêng của mình Đối với cá nhân tôi, tôi muốn có một cái nhìnkhái quát hơn về nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ – thời kỳ mà lịch sửthường gọi là thời kỳ đỉnh cao của nền văn hóa Đại Việt Thông qua việc tìm hiểu cáckhía cạnh của nền văn hóa, biết được sự phát triển văn hóa qua từng thời kỳ lịch sửgiúp tôi hiểu hơn về nền văn hóa Lý – Trần – Lê sơ nói riêng và văn hóa Việt Nam nóichung, đồng thời hiểu rõ hơn về bản sắc dân tộc mình
Việc tìm hiểu, nghiên cứu để so sánh nền văn hóa thời Lý – Trần và Lê sơ cónhững nét tương đồng và khác biệt như thế nào giúp cho người GV sẽ có một cái nhìnkhái quát hơn về tình hình văn hóa ở ba thời kỳ này Từ đó sẽ giúp ích nhiều cho việcgiảng dạy những bài học thuộc lĩnh vực văn hóa trong chương trình Lịch sử ở trườngTiểu học
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “So sánh nền văn hóa Đại Việt
thời Lý – Trần và Lê sơ (thế kỷ XI – XVI)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Trang 72 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Tác phẩm “Đại cương Lịch sử Việt Nam” tập I, do tác giả Trương Hữu
Quýnh (chủ biên), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, năm 1997 Cuốn sách này là cuốn
đầu tiên trong bộ sách “Đại cương lịch sử Việt Nam”, nói về lịch sử đất nước từ thời sơ
khai đến năm 1858, tập trung chủ yếu vào sự hình thành đất nước, các cuộc khángchiến chống quân xâm lược và sự phát triển đất nước qua các triều đại Trong đó, ởchương VIII và chương X, tác giả đã đề cập đến tình hình văn hóa – giáo dục dưới thời
Lý – Trần và Lê sơ trên các lĩnh vực như tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học, nghệthuật và khoa học kỹ thuật nhưng còn ở mức độ sơ lược, khái quát
2.2 Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập 2, của Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, do Trần Thị Vinh (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2013.Cuốn sách tập trung nghiên cứu về lịch sử đất nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV Đặcbiệt, cuốn sách dành hẳn chương VII và chương XI để đề cập đến vấn đề văn hóa – xãhội Đại Việt thời Lý – Trần
2.3 Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập 3, của Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, do Tạ Ngọc Liễn (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2013 Tiếpnối quá trình lịch sử của dân tộc, cuốn sách nói về giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷXVI Đặc biệt cuốn sách viết khá chi tiết và hệ thống về sự phát triển nền văn hóa ĐạiViệt thời Lê sơ qua chương VII
2.4 Tác phẩm “Lịch sử văn hóa Việt Nam” do Huỳnh Công Bá biên soạn,
NXB Thuận Hóa, Huế, năm 2008 Cuốn sách đi sâu vào tìm hiểu văn hóa ở các thời
kỳ, trong đó mỗi lĩnh vực của văn hóa được viết rất chi tiết và cụ thể Đặc biệt là vềnghệ thuật, tác giả đã cho chúng ta thấy một nền nghệ thuật đa dạng, phong phú vàphát triển rực rỡ
2.5 Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập I, do Phan Huy Lê (chủ biên), Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, năm 1983 Tác phẩm trình bày tương đối đầy đủ về quá trìnhlịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIV Về tình hình văn hóa, tác giả cũng
Trang 8đã khái quát một cách chung nhất những nét nổi bật, đặc sắc của văn hóa qua từng thời
kỳ, trong đó tập trung nhiều nội dung về thời Lý – Trần
2.6 Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập II, do Phan Huy Lê (chủ biên), Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, năm 1983 Tiếp nối sự tìm hiểu và nghiên cứu ở tập I, tập IIcủa bộ sách tiếp tục nói về lịch sử đất nước từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX.Trong giai đoạn lịch sử này, tác giả cũng đã chỉ rõ được những điểm đặc sắc, nhữngthành tựu nổi bật của nền văn hóa dưới thời Lê sơ để cho thấy thời kỳ này được coi làmột trong những thời kỳ phát triển đỉnh cao của văn hóa Việt Nam
Như vậy, viết về nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ đã có rất nhiềutác giả đề cập đến Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ khái quát chung chứ chưa đi sâu tìmhiểu và so sánh nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ Do vậy, việc nghiêncứu, tìm hiểu và so sánh nền văn hóa Đại Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI là việc làm
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc
3 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nền văn hóa thời Lý – Trần, Lê sơ dưới các khía cạnh:tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học nghệ thuật và khoa học kỹ thuật Đề tài chỉ rađược những nét tương đồng và khác biệt giữa nền văn hóa thời Lý – Trần với Lê sơ Từ
đó, có định hướng đúng đắn cho việc dạy môn Lịch sử một cách có hệ thống, theohướng tích hợp để việc dạy có hiệu quả
4 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về văn hóa và bối cảnh lịch sử thời Lý, Trần, Lê sơ
- Khái quát nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ, từ đó so sánh để tìm ranhững nét tương đồng và khác biệt giữa thời Lý – Trần và Lê sơ
- Rút ra được đặc điểm, ý nghĩa của nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ
và vận dụng trong dạy học chương trình Lịch sử lớp 4
Trang 95 Đối tượng nghiên cứu: Nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ
6 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tôi đã sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu đặc trưngcủa lịch sử là phương pháp lịch sử và phương pháp logic Bên cạnh đó, tôi còn sửdụng kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, điều tra, nghiên cứu, xử lý tàiliệu, so sánh, tổng hợp, thống kê
7 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt của nền văn hóa Đại
Việt thời Lý – Trần và Lê Sơ
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu nền văn hóa Đại Việt trong khoảng thời
gian từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI
8 Ý nghĩa khoa học
Chúng tôi thực hiện đề tài với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạyhọc môn Lịch sử ở Tiểu học, khơi gợi hứng thú dạy, học cho GV và HS, giúp các emhọc tốt hơn trong việc tìm hiểu văn hóa Đại Việt nói riêng và môn Lịch sử nói chung
9 Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của đề tàiđược bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về văn hóa và bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần, Lê sơ.
Chương 2: Những điểm tương đồng và khác biệt giữa văn hóa Đại Việt thời
Lý – Trần và Lê sơ.
Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa của nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ.
Trang 10NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC ĐẠI VIỆT
THỜI LÝ – TRẦN, LÊ SƠ 1.1 Khái quát chung về văn hóa
1.1.1 Khái niệm văn hóa
Văn hóa là gì? Câu hỏi đó đã được đặt ra từ lâu với tư duy của nhân loại; từ cáccách tiếp cận khác nhau đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa Nhưng chúng
ta có thể có cái nhìn chung nhất về văn hóa là: Văn hóa là sản phẩm của con người,
văn hóa được tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay)
và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội Nhờ có văn hóa mà conngười trở nên khác biệt so với các loài động vật khác Song, chính văn hóa lại tham giavào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội Văn hóa đượctruyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa Văn hóa được táitạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người Văn hóa
là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hìnhthức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất vàtinh thần mà do con người tạo ra
1.1.2 Các loại hình văn hóa
Văn hóa được chia thành hai loại là văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất Vănhóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phongtục, tập quán, giá trị, chuẩn mực, tạo nên một hệ thống Hệ thống đó bị chi phối bởitrình độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất Chính giá trị nàymang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó Còn về vănhóa vật chất thì ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn, thì nền văn hóacòn bao gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi
Trang 11chung là đồ tạo tác Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện giao thông,máy móc thiết bị đều là đồ tạo tác Văn hóa vật chất và phi vật chất có liên quan chặtchẽ với nhau Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật chất phản ánh nhữnggiá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng Ở các nước Hồi giáo, công trìnhkiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là thánh đường trong khi ở Mỹ, nó lại làtrung tâm thương mại Văn hóa vật chất còn phản ánh công nghệ hiểu theo khái niệm
xã hội học là sự áp dụng kiến thức văn hóa vào sinh hoạt trong môi trường tựnhiên Tháp Eiffel của Pháp phản ánh công nghệ cao hơn tháp truyền hình Hà Nội.Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất
1.1.3 Vai trò của văn hóa
Thứ nhất, văn hóa là cơ sở xã hội hóa các cá nhân Văn hóa được thể hiện là
những nhận thức của mỗi người để đảm bảo sự hòa đồng của các cá nhân vào xã hộichung và năng lực lao động của các cá nhân để đảm bảo đời sống của chính họ Conngười không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên cũng như con người không thực sự làngười nếu tách rời môi trường văn hóa
Thứ hai, văn hóa là cơ sở phát triển kinh tế Toàn bộ các yếu tố văn hóa (tài sản
hữu hình và tài sản vô hình) được biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là các cơ sở vật chấtdùng cho sản xuất kinh doanh và năng lực lao động của con người, là cơ sở cho quátrình phát triển kinh tế, xã hội Nền văn hóa phát triển cao đồng nghĩa với người laođộng có năng lực cao Do vậy xây dựng, phát triển nền văn hóa là nhiệm vụ của mỗiquốc gia
Thứ ba, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội Các giá trị văn hóa tạo nên nền tảng vữngchắc của xã hội, đó là nền tảng tinh thần Cái nền tảng đó tạo nên giá trị làm người, tạonên sức mạnh ghê gớm của dân tộc, giúp dân tộc vượt qua thách thức bạo tàn của thiênnhiên và giặc ngoại xâm
Trang 12Thứ tư, văn hóa với việc hoàn thiện con người và xã hội Văn hóa là cơ sở hình
thành nhân cách cá nhân Các cá nhân tiếp nhận nền văn hóa và trở thành con người xãhội Con người giờ đây ngày càng hiểu biết được đầy đủ quy luật vận động của tựnhiên, xã hội và bản thân Từ đó họ luôn làm chủ mình trong mọi tình huống
Thứ năm, văn hóa với vấn đề hội nhập quốc tế thì thông qua giao lưu văn hóa xã
hội quốc tế, các nền văn hóa chắt lọc được những tinh tú văn hóa của nhau và ứngdụng vào nền văn hóa của mình Hội nhập quốc tế là cơ hội tốt nhất cho nền văn hóagiao lưu và học hỏi lẫn nhau để đưa thế giới lên nền văn minh ngày càng cao hơn
1.2 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần, Lê sơ
Nước Đại Việt ta đã trải qua rất nhiều thời đại khác nhau với một nền văn hóa
vô cùng phong phú và đa dạng Tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến nền văn hóa của thời
Lý - Trần và Lê Sơ, mỗi thời đều có nét đặc sắc riêng và có những thành tựu nổi bật.Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về bối cảnh lịch sử của ba thời đại trên
1.2.1 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần
1.2.1.1 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý
* Về chính trị - xã hội :
Năm 1005 Lê Hoàn mất, tình hình chính trị của nhà Lê ngày càng thối nát Cáccon của Lê Hoàn huy động lực lượng trong các thái ấp của mình đánh lẫn nhau trong 8tháng để tranh nhau làm vua Năm 1006, Long Việt lên ngôi Hoàng đế được 3 ngày thì
bị Long Đỉnh giết chết cướp ngôi Long Đỉnh là một tên vua tàn bạo, sa đọa và đàn ápnhân dân rất dã man Cuối năm 1009, do bị bệnh, Long Đỉnh đã chết khi mới 24 tuổi.Nhân dân chán ghét nhà Lê Vì vậy, các sư tăng đứng đầu là sư Vạn Hạnh cùng triềuthần đã tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua Từ đó, Lý Công Uẩn bắttay vào việc xây dựng chính quyền mới Vương triều Lý được thành lập Năm 1010, LýCông Uẩn lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thuận Thiên Mùa thu năm 1010, Lý Công
Trang 13Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La (Hà Nội), đổi tên Đại La thành ThăngLong Việc nhà Lý dời đô về Thăng Long thể hiện sự trưởng thành ý thức dân tộc củagiai cấp thống trị thời bấy giờ Đầu năm 1011, nhà Lý đổi 10 đạo làm 24 lộ, đặt thêmmột số đạo và trại Dưới lộ có huyện, hương Một số châu trại đổi làm phủ, các vùng xagọi là châu Cuối năm 1054, Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt Sửa đắp lạithành Thăng Long, trong thành xây dựng nhiều cung điện của nhà vua Quan chế củanhà Lý có quy củ, chặt chẽ hơn các triều đại trước Bộ máy quan lại nhà Lý mang tínhđẳng cấp khá sâu sắc Đây là một nhà nước quân chủ quý tộc Năm 1097, nhà Lý chobiên soạn, sửa chữa các phép tắc chính trị quan lại thành một tập gọi là Hội điển Quychế tổ chức bộ máy nhà nước được xác lập một bước, thể hiện sự tiến bộ rõ rệt của giaicấp thống trị trong công cuộc quản lí đất nước Các quan lại cao cấp có nhiều công laođược phong thực phong, thực ấp.
* Về kinh tế :
Kinh tế nông nghiệp là cơ sở của nhà nước phong kiến và của cả xã hội phongkiến Nhà Lý ở giai đoạn đầu rất chú ý đẩy mạnh sự phát triển nông nghiệp bằng nhiềuchính sách, biện pháp tích cực Lý Công Uẩn ra lệnh cho những người phiêu tán về quêquán làm ăn Thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” để đảm bảo lực lượng lao động
Đê điều được nhà nước chú ý tu sửa Năm 1077, vua cho đắp đê sông Như Nguyệt.Năm 1103, trong và ngoài kinh thành đều được lệnh đắp đê ngăn nước lụt Năm 1108,vua cho đắp đê Cơ Xá (đê sông Hồng ở Phúc Xá, Hà Nội) Các địa phương gần sông
đều có đê phòng lụt Những chính sách tích cực của nhà nước có tác dụng rõ rệt, nhiều
năm được mùa lớn Cuộc sống của nhân dân ổn định, nhờ đó xã hội cũng được ổn định.Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có những bước phát triển lớn Nhà Lý mởrộng các xưởng thủ công do nhà nước quản lí gọi là cục bách tác, tập trung được nhiềuthợ lành nghề Trong nhân dân nhiều ngành nghề thủ công truyền thống được đẩymạnh như nghề nuôi tằm, dệt lụa, làm ra nhiều loại gấm, đoạn màu đẹp Nghề gốm làm
ra nhiều mặt hàng đẹp nổi tiếng, đặc biệt gốm tráng men với nhiều loại màu sắc khác
Trang 14nhau (da lươn, men màu xanh ngọc ) Ngành xây dựng, nghề đúc chuông tô tượng vàchạm khắc phát triển mạnh, chùa tháp mọc lên khắp nơi Chuông Quy Điền, tượngPhật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, lợp ngói sứ trắng) lànhững công trình nổi tiếng của Đại Việt thời Lý Các nghề làm vàng, bạc, làm giấy,
khắc bản in gỗ, nhuộm vải đều được mở rộng Thương nghiệp phát triển, chợ búa mọc
lên ở khắp nơi Thăng Long là trung tâm thương mại của Đại Việt bấy giờ Việc buônbán trao đổi với thương nhân nước ngoài mở rộng hơn trước Thuyền buôn các nướcXiêm, Giava… thường xuyên cập vào Biển Đông Vân Đồn (Quảng Ninh) là địa điểmtrao đổi chính giữa nhân dân ta với thương nhân nước ngoài
văn thơ của vua, quan Bài thơ bất hủ “Nam quốc Sơn hà” tương truyền của Lý Thường
Kiệt là một bằng chứng Sử học được nhà nước quan tâm, có một viên quan giòichuyên trách biên soạn lịch sử Đạo Phật được truyền bá rộng rãi, trong nước có nhiều
sư tăng, chùa chiền được xây dựng khắp các làng xã và kinh thành Lý Công Uẩn vừamới lên ngôi đã phát hai vạn quan tiền xây 8 ngôi chùa ở quê, hàng vạn quan tiền xâydựng chùa chiền ở kinh đô, cấp giấy phép cho hơn 1000 người ở Thăng Long làm sư.Chèo, múa rối nước, ca hát, nhảy múa rất phát triển Lễ hội kết hợp với các môn thểthao có tác dụng giáo dục tinh thần thượng võ như đua thuyền, đấu vật, đánh phết rấtđược nhân dân hưởng ứng Kiến trúc, điêu khắc đạt được nhiều thành tựu thể hiện khảnăng lao động sáng tạo của nhân dân Đại Việt bấy giờ, tiêu biểu như tháp Báo Thiên ởThăng Long cao 12 tầng trên 60m; tháp Chương Sơn, chuông chùa Trùng Quang (Tiên
Trang 15Sơn, Bắc Ninh) nặng gần 3 tấn, tượng phật A-di-đà ở chùa Phật Tích Nền nghệ thuậtphong phú, độc đáo thời Lý đánh dấu sự phát triển của nền văn minh Đại Việt.
Đại Việt trong thế kỉ XI và nửa đầu thế kỉ XII trên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội đã đạt được nhiều thành tựu, đánh dấu một bước phát triển của quốc gia, dân tộc
và của nền Văn minh Thăng Long Từ nửa sau thế kỉ XII, nhà Lý ngày càng suy sụp,tình hình đất nước ngày càng khó khăn, xã hội rối loạn Nhà nước không còn chăm lophát triển nông nghiệp như trước Lụt lội, hạn hán mất mùa xảy ra liên tiếp Nạn đóinăm 1181 dân chết gần một nửa Liên tiếp các nạn đói lớn xảy ra năm 1198 – 1199,đặc biệt nạn đói năm 1208, xác người chết đói nằm gối lên nhau Căm thù giai cấpthống trị và nhà nước phong kiến đã đẩy người dân đến chỗ đói khổ, tha phương cầuthực, nông dân, dân nghèo đã nổi dậy khởi nghĩa ở nhiều nơi Nhà nước trung ươngsuy yếu, các thế lực phong kiến nổi dậy tranh chấp nhau địa vị, quyền lợi dẫn đến cuộchỗn chiến giữa các phe phái Nhà Lý suy sụp buộc phải dựa vào thế lực của Trần TựKhánh để chống lại các thế lực chống đối, nổi loạn
1.2.1.2 Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Trần
Trang 16chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như ở thời Lý Chế độ quân chủ chuyên chếtrung ương tập quyền dần hoàn chỉnh, các bộ máy chính quyền được tổ chức chặt chẽ.Đứng đầu là vua, theo thể chế cha truyền con nối Giúp vua trị nước có hệ thống quanvăn võ gồm nhiều cấp bậc khác nhau Chính quyền địa phương được chia thành ba cấp:phủ - lộ - châu Để giữ gìn an ninh, trật tự cho đất nước, nhà Trần rất quan tâm và chú
ý xây dựng tổ chức quân đội khá quy củ bao gồm quân đội triều đình và quân địaphương
* Về kinh tế :
Để đẩy mạnh nông nghiệp phát triển, nhà nước chú trọng xây dựng khai hoang
để mở rộng diện tích cày cấy, giải quyết công ăn việc làm cho dân nghèo, dân lưuvong Năm 1266, nhà Trần cho phép vương hầu, quý tộc chiêu tập dân phiêu tán đikhai hoang lập trang trại Những năm mất mùa đói kém nhà nước đều có giảm thuế,phát tiền, giao cho dân nghèo để giữa họ lại ở làng xã Chính sách “ngụ binh ư nông”được tiếp tục thực hiện rộng rãi Nhà Trần còn quan tâm đến công tác trị thủy và côngviệc thủy lợi như xây dựng các công trình thủy nông, thành lập các cơ quan chuyêntrách như Hà đê sứ ở các lộ để chuyên trông coi việc đắp, sửa đê phòng lụt Nhờ đó,nạn đói, nạn lũ lụt, vỡ đê giảm nhiều Các vua Trần hằng năm cũng thân hành đi xemxét việc đắp đê điều Đại Việt thời Trần, nền kinh tế nông nghiệp khá phát triển, nhiềunăm được mùa lớn, cuộc sống của nhân dân ổn định Uông Đại Uyên người TrungQuốc thời Nguyên, sang sứ nước ta về đã ca ngợi “Nước Đại Việt đất rộng người đông,khí hậu thường nóng, ruộng đất phần nhiều phì nhiêu” Năm 1293, sứ nhà Nguyên là
Trần Phu sang Đại Việt đã có bài thơ “An Nam tức sự”: “Lúa mỗi năm chín 4 lần, tuy
vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt” Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng
có nhiều khởi sắc Các nghề thủ công truyền thống rất phát đạt, nhất là nghề nuôi tằm,dệt lụa, trồng bông dệt vải, nghề làm gốm, nghề đúc, nghề xây dựng Nhiều làng nghềthủ công ra đời Việc buôn bán trong nước và với người nước ngoài được đẩy mạnh.Bến Vị Hoàng (Nam Hà) vào thế kỉ XIV là một trung tâm thương mại thịnh vượng
Trang 17Vân Đồn cũng là một trung tâm buôn bán giữa nhân dân ta và thương nhân nước ngoàibấy giờ.
* Về văn hóa :
Tôn giáo tín ngưỡng chủ trương một chính sách khoan dung hòa hợp và chungsống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo Đó là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên.Các tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền đã được tự do phát triển Văn học nghệ thuật đời nhàTrần khá phát triển, đào tạo được nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Mạc ĐĩnhChi, Chu Văn An, các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,…Nghệ thuật điêu khắc thời kỳ này được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so vớithời Lý Về kiến trúc kế thừa truyền thống nhà Lý: chùa tháp được xây dựng và thiết kếcầu kì, các họa tiết trang trí đậm màu sắc Phật giáo Âm nhạc thì chịu ảnh hưởng của
là Đại Việt mở đầu triều đại nhà Lê, sử cũ thường gọi là Hậu Lê (Lê Sơ) để phân biệtvới Lê Hoàn ở thế kỷ X Trong khoảng hơn 70 năm (1428 – 1503) nhà Lê trải qua 5đời vua Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời nhà Lê ngày càng được củng cố
và đạt tới mức độ phát triển cao Đến thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), nó đạt tới
đỉnh cao thành một Nhà nước chính trị cực quyền Thời Lê sơ quân đội được chú trọng
Trang 18huấn luyện kĩ và phát triển rất mạnh Quân đội được chia thành: cấm binh và ngoạibinh Vua trực tiếp nắm quyền chỉ huy quân đội Ngoài ra, vua Lê Thánh Tông còn cho
biên soạn bộ “Luật Hồng Đức” thể hiện rõ nét ý thức giai cấp của nhà Lê trong các mối
quan hệ nhưng cũng phản ánh khá rõ nét tính dân tộc
* Về kinh tế :
Sau hơn 20 năm bị nhà Minh đô hộ, nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng nề Vua
Lê sau khi lên ngôi đã ban hành những chính sách kinh tế tích cực nhằm phục hồi pháttriển kinh tế Nền kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo Vua Lê đề ra chính sáchruộng đất cụ thể nhằm củng cố mối quan hệ kinh tế – xã hội trong nhà nước quân chủtập quyền đối với nhân dân Phân phối ruộng đất thành ruộng đất sở hữu Nhà nước vàruộng đất sở hữu tư nhân Trong đó thành phần ruộng đất sở hữu tư nhân có phần lấn
át Coi trọng chính sách trọng nông đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và pháttriển nhà nước Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng, đặt ra các chứcquan khuyến nông và hà đê Khi khẩn cấp, đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giámtrong việc hộ đê Các công trình thuỷ lợi, đào mương, đào kênh được xây dựng khiếngiao thông cũng phát triển theo làm kích thích sự phát triển của thủ công nghiệp vàthương nghiệp Ở Thăng Long – Đông Kinh, các thương nhân tập trung buôn bán đôngnhất Riêng buôn bán với nước ngoài, nhà nước kiểm soát nghiêm ngặt ở các cửa khẩunhư: Vân Đồn, Hội Thống (Hội An)… cấm dân chúng tùy tiện trao đổi mua bán với
người ngoại quốc, thi hành chính sách : “bế quan toả cảng” Nhờ những chính sách đó
mà kinh tế của đất nước ta dần được cải thiện và đi đến ổn định
* Về văn hóa :
Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, nhà Lê đẩy mạnh phát triển giáo dục, đàotạo nhân tài Thái Tổ hoàng đế cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Đông Kinh, mở trườnghọc ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi Đa số dânđều có thể đi học đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát Thời Lê sơ tổ chứcđược 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20 trạng nguyên Học chế thời Lê mở rộng
Trang 19hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhàTrần Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc
Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinhdanh mới Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những
cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặcbiệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà LêThánh Tông là Tao Đàn chủ soái Việc thi cử và học tập diễn ra thường xuyên và rấtnhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị tríđộc tôn, Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở cáclàng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triềuđình và giới nho học Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này Mặt khác do trước đó chịu
sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực
rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ Văn học chữ Hán tiếp tục phát triển vàchiếm ưu thế, ra đời hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng Văn thơ chữ Hán có những tác
phẩm nổi tiếng như: “Quân trung từ mệnh tập”,“Bình Ngô đại cáo”,“Quỳnh uyển cửu ca” Văn học chữ Nôm bước đầu có sự khởi sắc nhưng cũng giữ một vị trí quan trọng Văn thơ chữ Nôm có: “Quốc âm thi tập”,“Hồng Đức quốc âm thi tập”,“Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”…Về sử học có tác phẩm: “Đại Việt sử kí” (10 quyển) của Phan Phu Tiên, “Đại Việt sử kí toàn thư” (15 quyển) của Ngô Sĩ Liên, “Lam Sơn thực lục ” của Nguyễn Trãi, …Về địa lí học có: “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “An Nam hình thắng đồ” của Đàm Văn Lễ viết về địa lí Đại Việt…Về y học có công trình “Bản thảo thực vật toản yếu” của Phan Phu Tiên và “Bảo anh lương phương” của Nguyễn Trực dạy cách giữ gìn sức khoẻ cho trẻ em Về toán học có các tác phẩm “Đại thành toán pháp” của Lương Thế Vinh, “Lập thành toán pháp” của Vũ Hữu Nghệ thuật sân
khấu như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất làchèo tuồng Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông Nghệ thuật kiếntrúc và điêu khắc thời Lê Sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm cung
Trang 20điện tại Lam Kinh, những đồ vật còn xót lại cho thấy tay nghề tinh xảo, tư duy quy môlớn của nghệ nhân đương thời Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở ThanhHóa như nền cột bậc thềm một số con vật bằng đá
Triều Lê sơ đã có một vị thế quan trọng và được đánh giá cao trong lịch sử dântộc, trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước Có thể nói, trên diễn trình lịch sử văn hóaViệt Nam, thế kỷ XV là thời kì phát triển rực rỡ, nói cách khác, đây là một thời kì phụchưng của văn hóa Đại Việt
Trang 21TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Với tư cách là các triều đại phát rực rỡ nhất trong quá trình lịch sử đất nước, đặtnền móng cho những bước đi vững chãi của Đại Việt ở các thế kỷ tiếp theo, thời Lý –Trần – Lê sơ đã đánh dấu những chuyển biến về các mặt chính trị - kinh tế - xã hội vàvăn hóa
Nếu như trước đây ở thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, bộ máy quan lại chủ yếu đượctuyển chọn qua hình thức tiến cử thì sang thời Lý – Trần – Lê sơ để giúp vua điều hànhđất nước tốt hơn thì bộ máy quan lại hầu như đều được tuyển lựa qua các khoa thituyển chọn nhân tài Bộ máy quan lại ấy chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự pháttriển hưng thịnh của Đại Việt thời Lý – Trần – Lê sơ
Giáo dục khoa cử phát triển, làm chất lượng trí tuệ của bộ máy quan lại nângcao hơn, đất nước có nhiều nhân tài có thể cùng vua bàn bạc, hội ý để đưa ra nhữngthuyết sách có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh tế của đất nước, làm cho Đại Việt trởthành một quốc gia hùng mạnh về kinh tế, có đủ tiềm lực để phát triển trong nước cũngnhư đủ sức mạnh để chiến thắng các thế lực ngoại xâm từ bên ngoài
Sự phát triển của giáo dục thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động văn hóanghệ thuật: hàng loạt các tác phẩm văn thơ ra đời phục vụ cho nhu cầu giải trí của vua
và quý tộc cũng như mọi tầng lớp nhân dân, các công trình kiến trúc, các tác phẩmnghệ thuật giàu tính thẩm mỹ và sáng tạo cũng xuất hiện trong thời kỳ này Các hoạtđộng nghiên cứu tìm tòi được đẩy mạnh và cho ra đời những công trình, những phátminh khoa học phục vụ cho cuộc sống hằng ngày, đồng thời làm phong phú hơn nữacác loại hình văn hóa dân gian: các lễ hội, chèo, tuồng, múa rối,…
Như vậy, có thể thấy rằng những chính sách xây dựng và phát triển đất nướcđúng đắn của vua quan thời Lý – Trần – Lê sơ đã có tác dụng to lớn trong việc thúcđẩy tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội của Đại Việt đi lên, góp phần đưa Đại Việt trởthành một quốc gia hùng cường về chính trị, lớn mạnh về kinh tế với một xã hội ổnđịnh và một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Trang 22CHƯƠNG 2 NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VĂN HÓA ĐẠI VIỆT
THỜI LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ 2.1 Khái quát nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ
2.1.1 Nền văn hóa thời Lý - Trần
2.1.1.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
Một trong những nét đặc sắc của nền văn hóa Đại Việt có lẽ là các tín ngưỡng
và các tôn giáo lớn như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo Theo từng giai đoạn phát triểncủa lịch sử đất nước thì tôn giáo tín ngưỡng đều có những sự phát triển và ảnh hưởngriêng
Cùng với sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc về các mặt, nền văn hóa dưới thời
Lý – Trần đã đạt đến trình độ phát triển rực rỡ, thể hiện một cách sâu sắc ở cuộc sống
và tâm hồn của dân tộc Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh
mẽ, là một trong những yếu tố quan trọng trong xã hội Đại Việt lúc bấy giờ, đóng vaitrò thiết yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước Phật giáo đã được truyền bárộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân, được vua, quan lẫn dân chúng tôn sùng và đã cóảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lĩnh vực của văn hóa.Nhiều nhà vua đã từng đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, TrầnThái Tông,…Đặc biệt, vua Lý Thánh Tông còn là người sáng lập ra phái Thảo Đường
là dòng Thiền tông thuộc thiền phái thứ ba ở Việt Nam Sau đó, vua Trần Thái Tông làngười có vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự phát triển cực thịnh củaPhật giáo và trở thành “bó đuốc” của dòng Thiền Việt Nam Chỉ có dưới thời nhà Trầnmới có nhiều nhà vua ham thích nghiên cứu Phật học và để lại nhiều thơ phú và tácphẩm về đạo Thiền nổi tiếng Các vua thời Lý – Trần do sớm mang nặng tư tưởng sùngPhật nên đã cho xây dựng rất nhiều chùa chiền, cấp độ điệu cho hàng nghìn người làm
sư, phát hàng nghìn lạng vàng, bạc thuê thợ đúc chuông lớn đặt ở các chùa, làm lễ tạ
ơn khi chiến thắng quân xâm lược Trong xã hội, các tầng lớp nhân dân nếu có điều
Trang 23kiện đều mong muốn được cúng tiền ruộng đất, tiền của để xây dựng, trùng tu chùa,xây tháp, đúc chuông, dựng bia Một số văn bia không chỉ ca ngợi cảnh trí của chùanữa mà còn ca ngợi đạo Phật trong xã hội Tuy nhiên cho đến nay, những chùa tháphầu hết đã bị đổ nát hoặc được trùng tu lại qua nhiều lần, chỉ còn lại một số di tích tiêubiểu như chùa Một Cột (Hà Nội), chùa Dạm ở Quế Võ, chùa Phật Tích (Vạn Phúc),chùa Bà Tấm (Gia Lâm),…
Nhà Lý – Trần rất tôn sùng đạo Phật nhưng cũng coi trọng Nho giáo Ở thời nhà
Lý, dần dần thì ý thức hệ Nho giáo lúc này đã bắt đầu thâm nhập vào thiết chế chính trịcủa Nhà nước, tầng lớp cao tăng không còn đóng vai trò quan trọng trong bộ máychính quyền nhà nước nữa, nhà nước quân chủ tập quyền thời Lý được phát triển vữngmạnh trên cơ sở mở mang Nho học Năm 1070, nhà Lý đã cho dựng Văn Miếu làm nơithờ Khổng Tử - vị Tiên hiền của đạo Nho và những học trò của ông; mở các kỳ thi theo
tư tưởng Nho giáo Sáu năm sau, nhà Lý còn lập Quốc Tử Giám làm nơi học tập và đàotạo Nho sĩ Cùng với xây các chùa tháp, dựng Văn Miếu, mở khoa thi, nhà Lý cũng xâymột số các đạo quán như quán Khai Nguyên (1101), Ngũ Nhạc (1133),…Năm 1195,
nhà Lý mở khoa thi Tam giáo biểu thị chủ trương “Tam giáo đồng nguyên”, trân trọng
và dung hòa Nho – Phật – Đạo Đó chính là những viên gạch đầu tiên đặt cơ sở vữngchắc cho sự tiến triển của Nho học vào những thế kỷ sau Nho sĩ là tầng lớp trí thứcmới của giai cấp phong kiến ra đời do nhu cầu của sự truyền bá Nho giáo ở Việt Nam.Tuy nhiên ở thời Lý thì số trí thức Nho học còn ít, nhưng một số người như Lê VănThịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Phái,…đã được giao những chức vụ cao cấp trongtriều hay vào hầu vua học Có thể thấy từ thời Lý, Nho giáo đã bắt đầu có địa vị trong
xã hội Tuy nhiên, phải sang đến thời Trần thì Nho giáo mới chiếm vị trí quan trọnghơn
Bên cạnh sự phát triển của Phật giáo, Nho giáo, còn có Đạo giáo Các nhà nước
Lý - Trần đều tổ chức thi Tam giáo để chọn người có kiến văn rộng về cả ba hệ tưtưởng Phật, Nho, Đạo nhằm đứng ra giúp vua trị nước Trong triều đình, bên cạnh hệ
Trang 24thống Tăng quan có cả hệ thống Đạo quan Đạo giáo đã từng bước thâm nhập sâu vàotrong nhân dân và giới trí thức, đã có sự đan xen tư tưởng với Phật giáo và Nho giáo.Còn trong nhân dân, Đạo giáo đã lan tràn mạnh mẽ với những tiên thánh cho xăm, phátthuốc, cầu đảo, bùa phép, trừ yểm, đồng bóng Đó là những hiện tượng bình thườngtrong đời sống nhân dân lao động dưới chế độ phong kiến khi khoa học kỹ thuật chưa
có điều kiện để phát triển Thần - Phật dường như đi vào đời sống tâm linh của nhândân khá sâu đậm Đôi khi đạo Phật và Đạo giáo xen lẫn vào nhau Thần - Phật là khôngphân biệt Nhân dân không chỉ phần lớn theo đạo Phật mà còn tin vào những linh ứng,cầu gì được nấy của Thần - Phật Nhìn chung, dưới thời Lý - Trần, Phật giáo, Đạo giáo
và Nho giáo đều đồng thời phát triển và có mặt thâm nhập lẫn nhau trong tinh thần
"Tam giáo đồng nguyên"
Cùng với sự phát triển của đất nước, qua các triều đại lịch sử, Phật giáo, Nhogiáo, Đạo giáo luôn song hành tồn tại, có phần nào đó pha trộn với nhau, kết hợp vớinhững tín ngưỡng dân gian của người Việt tạo nên một nền văn hóa dân tộc độc đáo.Nhà Lý đưa thần Trống Đồng (Đồng Cổ), biểu tượng của văn hóa Đông Sơn, của nềnvăn minh thời dựng nước, về kinh thành và lập miếu Đồng Cổ năm 1028, hằng năm cửhành Hội thề trang nghiêm Năm 1160, nhà Lý dựng đền Hai Bà Trưng ở phường BốCái (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) để suy tôn các anh hùng dân tộc Tinh thần yêu nước,
ý thức quốc gia – dân tộc luôn luôn chi phối đời sống xã hội và các hoạt động củavương triều Đời sống tinh thần thời Lý vừa kế thừa và thấm đượm tinh thần yêu nước,vừa dung hợp các tôn giáo ngoại nhập với các tín ngưỡng dân gian trong một khônggian tư tưởng, văn hóa dân tộc mang tính hòa đồng Lễ hội là sinh hoạt văn hóa mangtính cộng đồng và tâm linh của các tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Ngoài tếtNguyên đán và các lễ vào tiết Thanh minh, Hàn thực, Trung nguyên… còn nhiều lễ hộicủa các đền chùa, các thôn làng Ở các thế kỉ X – XIV, những tín ngưỡng cổ truyền vẫnđược phổ biến Bên cạnh các tục thờ tích cực ngày càng được mở rộng như tục thờ tổ
Trang 25tiên, thờ những anh hùng dân tộc, những người có công với làng, với nước,… các tụcthờ nguyên thủy “vạn vật hữu linh” vẫn còn nhiều
Trang 26mở một hệ thống trường học ở các phủ châu từ nhỏ đến lớn Buổi đầu thời Trần, giáodục Nho học chưa phải là nội dung duy nhất, qua các kỳ thi tam giáo đã chứng tỏ rằng,giáo dục chú trọng cả Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo Năm 1232, nhà Trần tổ chứckhoa thi tiến sĩ đầu tiên Sau đó đặt danh hiệu Tam khôi cho người đỗ xuất sắc nhất:Trạng Nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa Năm 1396, nhà nước quy định lại nội dung thigồm 4 trường: thi kinh nghĩa, thi thơ phú, thi chế, chiếu, biểu và thơ văn sách Đồngthời quy định năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội, đỗ thi Hội sẽ được vào điệnđình hoặc kinh thành Thăng Long hay phủ Thiên Trường làm đề thi do vua đề ra.Ngoài thi văn học, nhà Trần còn tổ chức các khoa thi võ, nhưng bằng cấp chưa đượcquy định rõ ràng như ở các triều đại về sau Bên cạnh đó, nhà Trần cũng tổ chức thi lạiviên, chọn những người viết chữ đẹp, thông hiểu về pháp luật để làm văn lại tại các cơquan Cho đến cuối thế kỷ XIV, giáo dục phát triển mạnh mẽ, số nhân tài ra đời ngàycàng nhiều.
đó có văn học Ra đời trong khí thế hào hùng chống ngoại xâm, nền văn học thời Lý –Trần đã chứa đựng một tinh thần độc lập dân tộc mạnh mẽ và một ý thức tự hào dântộc sâu sắc Hàng loạt các sáng tác dạt dào lòng yêu nước và khí thế vươn lên của mộtdân tộc anh hùng đã ra đời Tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của văn học chữ Hán
thời này là bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, ra đời trong cuộc kháng
Trang 27chiến chống Tống, phản ánh cao độ ý chí và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc củanhân dân ta hồi nửa sau thế kỷ XI Sang thời Trần, từ trong cuộc kháng chiến chống
Mông – Nguyên đã ra đời bài “Hịch tướng sĩ” của vị anh hùng dân tộc Trần Quốc
Tuấn, một tác phẩm chứa chan tình cảm yêu nước và lòng nhân ái bao dung, thấm đẫm
hào khí “Đông A” ở thời Trần “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu cũng sôi
nổi và dạt dào ý thức dân tộc Tình yêu quê hương đất nước tha thiết, niềm kiêu hãnhvới lịch sử oai hùng của dân tộc cũng đã rạo rực trong thơ văn của Trần Nhân Tông,Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh,…
Bên cạnh niềm tự hào của những con người giàu tinh thần bất khuất, còn có cảmột tư trào làm thơ văn ca ngợi thiên nhiên, đất nước, ca ngợi khung cảnh thái bình
Mở đầu là “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn, đây là một áng văn vừa mang tinh thần
chính luận, vừa mang tính chất trữ tình xuất sắc, ca ngợi về vẻ đẹp của thiên nhiên ViệtNam và niềm tự hào về non sông đất nước ta Cùng trong tư trào này còn có rất nhiềuáng thơ văn đặc sắc nữa
Một thành tựu quan trọng nữa của nền văn học thời Trần là chữ Nôm đã được sử
dụng phổ biến và bắt đầu vận dụng trong sáng tác văn học Bài “Văn tế cá sấu” của
Nguyễn Thuyên được xem là tác phẩm văn học Nôm ra đời đầu tiên ở Việt Nam.Ngoài ra, Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông, Hồ Quý Ly cũng là những người đã làm thơ
phú bằng chữ Nôm Vua Trần Nhân Tông đã để lại ba bài thơ Nôm đặc sắc là: “Cư trần lạc đạo phú”, “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” và “Vịnh Hoa Yên tự phú” Một
số bản nhạc cũng đã được sáng tác bằng lời Nôm Sự ra đời của văn Nôm đã thể hiệnmột cố gắng lớn của dân tộc nhằm nâng cao địa vị của tiếng Việt và phát triển nền vănhóa dân tộc Đó là một biểu hiện mới của tinh thần dân tộc, của ý thức độc lập trên lĩnhvực văn hóa
Trên lĩnh vực văn học dân gian, dưới thời Trần, kho tàng thần thoại và nhữngtruyện cổ dân gian phong phú, cùng với những sự tích phi thường của các anh hùng
Trang 28dựng nước và giữ nước, cũng đã bước đầu được sưu tầm và tập hợp lại trong “Việt điện
u linh tập” của Lý Tế Xuyên và “Lĩnh Nam chích quái” của Trần Thế Pháp.
* Nghệ thuật :
Với ý thức dân tộc sâu sắc, nhân dân Đại Việt không chỉ xây dựng cho mìnhmột nền văn học phong phú mà còn cả một nền nghệ thuật đặc sắc Nói đến nghệ thuậtthời Lý không thể không kể đến nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc độc đáo với nhiềucông trình đồ sộ như lâu đài, cung điện, thành quách và chùa tháp Kinh thành ThăngLong ở thời Lý là một công trình xây dựng thành lũy lớn nhất trong các triều đại phongkiến ở Việt Nam, sau đó nhà Trần đã tiếp thu toàn bộ kinh đô của nhà Lý và xây dựng
bổ sung thêm nhiều công trình mới theo yêu cầu của triều đại, cho mở rộng thêm, dựngrào trại, củng cố việc phòng thủ chung cho cả kinh thành Loại hình kiến trúc phổ biến,tiêu biểu và lớn, không chỉ có ở kinh thành mà còn có ở nhiều nơi, đó là loại hình kiếntrúc về chùa tháp, vì thời Lý là thời kỳ hưng thịnh nhất của đạo Phật và cũng là thời kỳxây dựng nhiều nhất các công trình về Phật giáo Nhìn chung kiến trúc ở thời Lý cókiểu dáng độc đáo và tính cách chắc chắn Chúng thường được bố trí hài hòa với khungcảnh thiên nhiên Sang thời Trần, kiến trúc của Đại Việt vẫn tiếp tục phát triển theo haihướng kiến trúc chính thống và kiến trúc dân gian, đồng thời còn là biểu hiện của sựphục hưng văn hóa Việt Nam sau hơn nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Cùng với nền nghệ thuật kiến trúc độc đáo, nghệ thuật điêu khắc cũng có nhữngbước tiến đáng kể Điêu khắc tinh tế với những bức phù điêu trang trí những mô típ hoavăn hoa cúc nhiều cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là con rồng mình trơn nằm gọntrong chiếc lá đề Điêu khắc trên các cánh cửa gỗ ở các chùa thời Trần phong phú vàtinh tế hơn Bên cạnh đó thì nghệ thuật tạo dáng và trang trí trên đồ gốm sứ từ các đồgia dụng vào thời Lý cũng khá là phong phú Những di vật tìm được gồm nhiều loại vàthường được điểm hoa văn trang trí hình hoa sen, hoa cúc, rồng cách điệu Nghệ thuật
Trang 29trang trí trên những đồ dùng bằng gốm sứ này khá đẹp, mang tính thanh thoát về hìnhdáng nhưng lại rất tinh tế, tỷ mỉ về đường nét hoa văn.
Sau hơn một thế kỷ giành được độc lập, đời sống văn hóa của dân tộc có điềukiện phục hồi và phát triển Nếu ở thời Lý, nghệ thuật Đại Việt có tiếp thu một vài ảnhhưởng của nghệ thuật Champa, thì sang triều Trần, nó đã tiếp thu thêm một số ảnhhưởng của nghệ thuật sân khấu phương Bắc Nhân dân Đại Việt lúc bấy giờ rất yêuthích ca hát, nhảy múa, thể dục thể thao Hát ả đào đã xuất hiện và trở nên phổ biến.Trên các phù điêu ở thời Lý còn thấy cảnh những vũ nữ múa dâng hoa hay nhạc côngvừa múa vừa sử dụng các nhạc cụ như đánh trống, thổi sáo, gảy đàn, gảy nhị… Nhảymúa thường được tổ chức ở cung đình cũng như trong nhân dân Ngoài ra, nghệ thuậtchèo, tuồng rất phát triển Chèo hát là sinh hoạt được các quý tộc ham thích Múa rốicũng là một ngành nghệ thuật đặc sắc Cùng với âm nhạc, sân khấu, các ngày lễ hộitrong nhân dân còn có nhiều trò vui chơi, đua tài như leo dây, vật, đua thuyền, némcòn, đánh cầu… Tóm lại, sự phát triển của văn học nghệ thuật phong phú, đa dạng đãtạo nên một bộ phận quan trọng của nền văn minh Đại Việt đương thời
2.1.1.4 Khoa học kỹ thuật
Những thành tựu của khoa học kỹ thuật cũng là một điểm đáng chú ý ở thời Lý– Trần Sự phát triển của nhà nước phong kiến dân tộc, cùng với những chiến thắngchống ngoại xâm to lớn đã đề ra yêu cầu xây dựng các bộ sử chính thống của đất nước
Một số bộ sử được biên soạn như “Đại Việt sử ký”, “Lam Sơn thực lục”, “Đại Việt sử
ký toàn thư” Bên cạnh đó công việc ghi chép các hiện tượng thiên văn, khí tượng, địa
lý, thủy văn cũng được nhà nước đặt ra, tiêu biểu là các tác phẩm như “Dư địa chí”,
“An Nam hình thắng đồ” Đỉnh cao của sự phát triển khoa học thời Lý – Trần là về quân sự Trần Quốc Tuấn với tác phẩm “Binh gia điệu lý yếu lược” đã đúc kết những
kinh nghiệm chiến tranh qua các thời đại để làm tài liệu huấn luyện cho các tướng sĩ.Thiên văn cũng được quan tâm, lịch sử đã từng nói đến những cột đồng hồ ở cung vua
Trang 30và những “Lung linh nghi” để khảo nghiệm thời tiết Tư đồ Trần Nguyên Đán cũng là một nhà thiên văn học Về y dược học, Tuệ Tĩnh viết tác phẩm “Nam dược thần hiệu”
và “Hồng nghĩa giác tư y thư”, trong đó ông đã nghiên cứu và tổng kết việc chữa bệnh
bằng thuốc Nam trong nhân dân
2.1.2 Nền văn hóa thời Lê sơ
2.1.2.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
Còn dưới triều Lê ở thế kỷ XV, những giáo lý của Phật giáo không mấy hiệu lựctrong việc giải quyết những vấn đề về đường lối chính trị nên đã dần dần mất vai tròthống trị xã hội để rồi nhường vị trí cho Nho giáo Tuy vậy, mặc dù phạm vi ảnh hưởngcủa Phật giáo đối với vua, quan tuy bị hạn chế và thu hẹp nhiều, song về đời sống tâmlinh, tôn giáo thì vua, quan vẫn hướng theo đạo Phật, vẫn tìm đến cửa chùa niệm cầu,mong muốn được Phật độ trì với tất cả lòng thành kính
Cuối thời Trần, cuộc xung đột giữa Nho giáo và Phật giáo bắt đầu diễn ra.Những nhà Nho nổi tiếng thời đó đều lên tiếng phê phán và bài xích Phật giáo Họ phêphán vua quan, những người chịu trách nhiệm đối với xã hội, đã quá tôn sùng Phậtgiáo, nên xuất tiền của xây dựng chùa chiền, tô tượng Phật, làm thiệt hại đến công quỹcủa quốc gia, gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân Nên bước sang thế kỷ XIV,
ưu thế của Phật giáo ngày một giảm sút, để rồi nhường chỗ cho Nho giáo Trong xãhội, tầng lớp nho sĩ ngày một đông và họ tìm cách đẩy lùi thế lực của tầng lớp tăng lữtrên lĩnh vực chính trị cũng như tư tưởng Quan lại xuất thân từ nho sĩ ngày một chiếm
ưu thế trong bộ máy chính quyền và họ nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triềuđình Lực lượng sáng tác văn học đã chuyển dần sang tay tầng lớp nho sĩ Nho giáo quyđịnh chặt chẽ chế độ tôn ty trật tự của xã hội phong kiến, từ gia tộc cho đến quốc gia
Có thể thấy, trong thực tế, đạo Nho đã bước đầu phát triển, thâm nhập trong đời sốngchính trị tư tưởng nhưng chưa thực sự phổ biến và ăn sâu trong nhân dân và xã hội nhưđạo Phật Ngay ở triều đình, khi mà đường lối trị nước cũng như tuyển chọn quan lại
Trang 31đều lấy Nho giáo làm thước đo nhưng trong hệ tư tưởng và biểu hiện cuộc sống xã hộithì nhà Trần lại không hoàn toàn tuân theo tam cương ngũ thường Hoặc như, nếu theođạo Nho thì ngôi vua phải truyền cho con trưởng nhưng nhà Trần chọn người nối ngôilại không nhất thiết là con trưởng mà chọn người tài giỏi có đủ đức tài xứng đáng vớingôi báu Đến cuối thế kỷ XIV, cùng với sự sụp đổ của triều Trần, Phật giáo mất hếtvai trò chính trị và Nho giáo trở thành độc tôn Tuy nhiên, trong cuộc sống của nhândân thì đạo Phật cũng vẫn được tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Mãi cho đến thời Lê sơ – thời kỳ phục hưng và thịnh đạt của nền văn hóa dântộc, hệ tư tưởng Nho giáo mới tiến lên chiếm địa vị chi phối trong xã hội, chế độ giáodục và thi cử được mở rộng và một nền văn học nghệ thuật với nhiều đặc sắc được pháttriển Các vua Lê từ Lê Thái Tổ trở đi rất sùng đạo Nho, dùng đường lối này làm tưtưởng chính thống để cai trị quốc gia Để tỏ sự tôn sùng Nho học, năm 1435, Lê TháiTông sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng chọn ngày làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn Miếu.Khoa thi tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1442) được xem là mốc quan trọng xác lập vị trí độctôn của Nho học ở Việt Nam Sang thời Lê Thánh Tông, Nho giáo đạt tới đỉnh caothịnh vượng Dù vẫn để tâm tới Phật giáo và Đạo giáo nhưng tư tưởng chủ đạo của LêThánh Tông là Nho giáo Lê Thánh Tông đưa Nho giáo lên vị trí hàng đầu trong đờisống văn hóa tinh thần của thời đại Trong giáo dục và thi cử, Nho giáo chiếm nội dungchủ yếu Để tôn vinh Nho học, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ, những người đỗ từnăm 1442 tại nhà Thái học Nho giáo thời Hậu Lê áp dụng theo kiểu nhà Tống, còn gọi
là Tống Nho Năm 1467, vua Lê Thánh Tông đặt ra chức Ngũ Kinh bác sĩ, tức là chọnngười giỏi giao cho nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu về Ngũ Kinh để giảng cho họctrò, truyền bá Nho giáo trong xã hội Bản thân Thánh Tông cũng có học vấn khá cao vềNho học, ông thường cùng các quan lại bàn về Nho giáo trong lúc rỗi rãi Ông đề cao
“tam cương”: quân thần, phụ tử, phu phụ (vua tôi, cha con, vợ chồng) và chữ “hiếu”, ítbàn về phạm trù “nhân nghĩa”
Trang 32Đạo giáo ở triều Lê thế kỷ XV cũng giống như đạo Phật, mặc dù bị triều đìnhhạn chế khá chặt chẽ song nó vẫn tồn tại, phổ biến sâu rộng trong đời sống tư tưởng xãhội Cuộc xét duyệt, kiểm tra đạo đức, học vấn của giới đạo sĩ và cuộc thi để cấp giấychứng nhận hành nghề cho đạo sĩ diễn ra năm 1429 cũng như sắc lệnh không cho phépcác địa phương trong nước tự tiện làm thêm đạo quán mới ban bố năm 1461 là nhữngbiện pháp nhằm thu hẹp phạm vi hoạt động của Đạo giáo Tuy nhiên, trên thực tế, sốđạo sĩ và đạo quán vẫn đông và nhiều Ở thời kỳ này từng có các đạo quán có quy môkiến trúc lớn và là trung tâm sầm uất của Đạo giáo Ví dụ như Linh Tiên quán ở huyệnĐan Phượng, Hà Nội Đạo giáo ở triều Lê chủ yếu là Đạo giáo Thần Tiên và Đạo giáoPhù Thủy Trong quá trình tồn tại và phát triển, Đạo giáo nói chung thường song hànhvới Phật giáo và nó thường mượn hình thức lễ nghi của Phật giáo để thâm nhập lòngngười Thế kỷ XV, triều vua nào cũng có những sắc lệnh hạn chế các hoạt động củaĐạo giáo song trên thực tế, ngay trong triều đình, tư tưởng Đạo giáo vẫn tồn tại và chiphối các lễ nghi cung đình.
Trong đó, đến thời nhà Lê sơ, do thờ thần linh là tín ngưỡng từ lâu đời củangười Việt nên ngay khi giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi đãquan tâm tới việc sai các quan đi tế lễ thần ở các núi, sông, miếu xã các nơi trong nước
và các lăng tẩm các vua đời trước Ông tuyên bố: “Ta là chúa tể của bách thần” Thựcchất việc đẩy mạnh phong thần chính là muốn mượn uy danh thần linh để bảo vệvương quyền và bảo vệ đất nước Năm 1437, Lê Thái Tông tiến hành gia phong chocác thần linh trong nước và tổ chức tế lễ long trọng Sang thời Lê Nhân Tông, triềuđình đã cho lập các đàn thờ Thành hoàng tại kinh thành Thăng Long, thờ thần Gió,thần Mây, thần Mưa, thần Sấm để bảo vệ kinh thành
Tóm lại, các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian đều phát triển trên nền tảng củachủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc cao Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộcthấm đượm trong văn học đương thời và giữ vai trò chi phối đời sống tư tưởng của xãhội Điển hình như triều Lê cho xây dựng chế độ quân chủ tập quyền theo mô hình Nho
Trang 33giáo, nâng Nho giáo lên vị trí thống trị nhưng trên tinh thần độc lập dân tộc, vận dụngnguyên lý Nho giáo theo yêu cầu xây dựng một quốc gia độc lập, thịnh vượng.
2.1.2.2 Giáo dục
Do yêu cầu phát triển của bộ máy phong kiến quan liêu, nhà Lê đã phát triển và
mở rộng chế độ giáo dục thi cử nhằm đào tạo một đội ngũ trí thức Nho học đáp ứngyêu cầu phát triển bộ máy quan lại của chế độ quân chủ tập quyền Để đào tạo thêmnhân tài, Lê Lợi lệnh cho trong nước phải xây dựng các trường học, mở mang nền giáodục rộng khắp đất nước Trường học thời Lê sơ bao gồm hệ thống trường công vàtrường tư Ở kinh đô có Quốc tử giám và nhà Thái học Thầy dạy ở Quốc tử giám gọichung là giáo quan - các quan văn có học vấn uyên bác và có tài văn học nổi tiếng.Quốc tử giám dưới triều Lê Thánh Tông được mở rộng với quy mô lớn Văn Miếuđược xây dựng lại Phía sau Văn miếu là nhà Thái học với Minh luận đường và cácgiảng đường là nơi giảng dạy cho học trò Ngoài ra còn có Bí thư khố là kho tàng trữsách vở và khu tập thể cho giám sinh lưu trú Đây là quy mô một trường học lớn nhấttrong lịch sử phong kiến Việt Nam Ở các trường lộ, phủ còn có các nhà học do nhữngnhà Nho ở địa phương giảng dạy Học trò các trường lộ, phủ muốn được vào học ởQuốc tử giám phải trải qua các kỳ thi sát hạch Dưới triều Lê, cách tuyển dụng quanchức vào bộ máy chính quyền các cấp được đặc biệt đề cao là thông qua việc thi cử.Thời Lê sơ (1428 – 1527) đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20trạng nguyên Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) tổ chức được 12 khoa thitiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên Trong giáo dục, để tôn vinh Nho học, vua LêThánh Tông cho khắc tên và dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Ngoài ra,năm 1467, ông còn đặt ra chức Ngũ kinh bác sĩ, tức là chọn người giỏi giao cho nhiệm
vụ nghiên cứu chuyên sâu về Ngũ kinh để giảng cho học trò, truyền bá Nho giáo trong
xã hội
Trang 342.1.2.3 Văn học, nghệ thuật
* Văn học :
Nền văn học viết của dân tộc ở triều Lê thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI bao gồm văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm Tuy văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế nhưng chữ Nôm bước đầu có sự khởi sắc và đã có một vị trí đáng kể trên văn đàn
Về thể loại văn học, bên cạnh các thể thơ, phú, chiếu, biểu, văn bia, truyện ký…Thế kỷ XV còn xuất hiện một thể văn xuôi mới như tín, chính luận và cáo… Lực lượngsáng tác thơ văn ở giai đoạn này khá hùng hậu và thành tựu sáng tác cũng rất lớn, để lạimột dấu ấn hết sức đậm nét và riêng biệt trong lịch sử văn học Việt Nam thời phongkiến
Nội dung văn học triều Lê thế kỷ XV khá phong phú, phản ánh được nhiều mặtcủa đời sống chính trị, tư tưởng, tinh thần, xã hội đương thời, trong đó nổi bật nhất vàquan trọng nhất là nội dung nói về lòng yêu nước, quyết tâm của quân dân ta đánh đuổiquân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc, là ca tụngnhững trận đánh oai hùng của nghĩa quân Lam Sơn Tiêu biểu cho tinh thần yêu nước
và ý chí tự hào dân tộc phải kể đến những bài văn trong “Quân trung từ mệnh tập” và nhất là bài “Bình Ngô đại cáo” – một “thiên cổ hùng văn” do Nguyễn Trãi viết Đó
được xem như những tác phẩm tuyệt tác, nổi bật nhất và cũng là một đỉnh cao của vănhọc nước nhà
Sang nửa sau thế kỷ XV, dưới triều Lê Thánh Tông, văn học Việt Nam có mộtbước phát triển mới với một diện mạo mới rất rõ, phản ánh đời sống xã hội ổn định,thịnh trị của chủ nghĩa phong kiến đang vươn lên mạnh mẽ Trong giai đoạn này, lựclượng sáng tác văn chương đông đảo, sôi nổi và quy tụ xung quanh Hội Tao Đàn dovua Lê Thánh Tông lập ra và đích thân làm Tao Đàn chủ soái Sự nghiệp sáng tác vănhọc của Lê Thánh Tông rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều thể loại khác nhau, vừaviết bằng chữ Hán, vừa viết bằng chữ Nôm Các tác phẩm đặc sắc của ông như tập
“Quỳnh uyển cửu ca”, bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”.
Trang 35Về nghệ thuật sân khấu, trong nhân dân, các điệu múa thời xưa vẫn tiếp tục pháttriển, nghệ thuật tuồng, chèo ngày càng phổ biến, thường được tổ chức vào các ngàyhội, lễ, vui đầu năm…
Có thể thấy rằng nền nghệ thuật dưới thời Lê sơ tuy có những thay đổi nhưngcũng không phát triển rực rỡ, sôi nổi như dưới thời Lý – Trần Do những tư tưởng Nhogiáo của giai cấp thống trị nên đã làm hạn chế đi rất nhiều sự phát triển của nền nghệthuật trong nhân dân
2.1.2.4 Khoa học kỹ thuật
Đến thời Lê sơ, các môn thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật cũng có những bước
phát triển đáng chú ý Vua Lê Thánh Tông cho biên soạn bộ “Thiên Nam dư hạ” gồm
100 quyển, ghi toàn bộ các thiết chế chính trị, kinh tế, xã hội của nhà nước đương thời
Về y học, vấn đề giữ vệ sinh ăn uống và vấn đề khám nghiệm pháp y đặt ra khá nghiêm
ngặt, được đưa vào bộ Hình luật của vương triều Thời kỳ này có hai tên tuổi nổi tiếng giỏi về y học, có tác phẩm y học để lại là Phan Phu Tiên với “Bản thảo thực vật toản yếu” nói về phương pháp phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe và Nguyễn Trực với “Bảo anh lương phương” nghiên cứu phương pháp chữa trị các bệnh của trẻ em Về toán học thì
có “Đại thành toán pháp” của Lương Thế Vinh, “Lập thành toán pháp” của Vũ Hữu.
Môn Toán được triều đình khá là coi trọng vì trên thực tế, công việc xây dựng các công
Trang 36trình kiến trúc luôn luôn đòi hỏi phải tính toán, phải sử dụng toán học Đến thời này,công việc làm lịch pháp, quan sát thiên văn, theo dõi khí hậu, khí tượng thủy văn, đượcđặt chung trong một cơ quan đặt tên là Thái sử viện.
2.2 Những điểm tương đồng và khác biệt giữa nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ
2.2.1 Những điểm tương đồng
2.2.1.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
Mặc dù ở thời Lê sơ, phạm vi ảnh hưởng của Phật giáo còn hạn chế song cũngnhư dưới thời Lý – Trần thì Phật giáo vẫn luôn tồn tại trong đời sống của quần chúngnhân dân, vẫn đóng vai trò chính yếu dẫn dắt đức tin cho mọi người Bên cạnh nhữngbước phát triển về Phật giáo thì dần dần Nho giáo cũng từng bước có ưu thế hơn trong
xã hội và thâm nhập vào thiết chế chính trị của nhà nước Trong giáo dục thi cử cũngvậy, nhà Lý còn cho xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám – nơi thờ Khổng Tử và tiếptục được nhà Trần và Lê sơ mở rộng và phát triển ở các thời kỳ sau Các kỳ thi theo tưtưởng Nho giáo được mở ra Ngoài Phật giáo, Nho giáo thì Đạo giáo cũng có ảnhhưởng riêng đối với sự phát triển của đất nước Luôn song hành với các tôn giáo còn cócác tín ngưỡng dân gian như thờ thần linh, thờ tổ tiên, thờ các anh hùng dân tộc và sinhhoạt văn hóa lễ hội ở các đền chùa, các thôn làng
2.2.1.2 Giáo dục
Nền giáo dục từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI được coi là một nền giáo dục pháttriển với nhiều thành công rực rỡ nhất Điều đó cho thấy rằng các nhà Lý – Trần – Lêrất chú ý tới việc đẩy mạnh học tập, thi cử, tuyển chọn những người có năng lực bổsung vào bộ máy hành chính quốc gia thông qua các kỳ thi Hệ thống trường học cũngđược phân chia rõ ràng thành trường công (ở kinh thành) và trường tư (ở các lộ, phủ).Qua thời gian thì trường học ngày càng được mở rộng và tổ chức có quy củ hơn
Trang 372.2.1.3 Văn học, nghệ thuật
* Văn học :
Từ thời Lý – Trần đến thời Lê sơ, nền văn học chữ Hán cũng như chữ Nôm đãphát triển vô cùng rực rỡ Hầu hết các tác phẩm văn học đều có tư tưởng và cảm hứngchủ đạo là nói về lòng yêu nước, lòng tự hào và ý chí tự cường dân tộc Thời kỳ nàycũng để lại cho nền văn học Việt Nam nhiều tác giả cũng như tác phẩm vô cùng đặcsắc
* Nghệ thuật :
Nền nghệ thuật dưới thời Lý – Trần và Lê sơ đều có những bước phát triển nổibật Trong giai đoạn này thì kiến trúc điêu khắc, nghệ thuật trang trí, nghệ thuật chèo,tuồng đều được nhà nước quan tâm và phát triển Có thể thấy được sự hoàn thiện dầndần của từng lĩnh vực nghệ thuật đó
2.2.2.1 Tôn giáo, tín ngưỡng
Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo được tôn sùng, truyền bá rộng rãi khắp mọi tầnglớp nhân dân, vua quan và có sự ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của văn hóa Đặcbiệt và thể hiện rõ nhất tư tưởng Phật giáo đó là kiến trúc chùa tháp Tuy nhiên cho đếnthời Lê sơ do ảnh hưởng của chiến tranh mà các công trình này đã bị tàn phá nhiều, chỉcòn lại một số di tích tiểu biểu như chùa Một Cột (Hà Nội), chùa Phật Tích (Bắc Ninh).Dưới thời Lê sơ, sự phát triển của Nho giáo ngày càng lớn và dần chiếm vị trí độc tôn
Trang 38Trong giáo dục thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí hàng đầu Chế độ học tập và thi cửcũng được tổ chức quy củ, chặt chẽ Ở thời Lý - Trần, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáođều đồng thời phát triển và có mặt thâm nhập lẫn nhau trong tinh thần "Tam giáo đồngnguyên" Còn đến thời Lê sơ thì bị triều đình hạn chế khá nghiêm ngặt nhưng vẫn tồntại và phát triền trong đời sống của nhân dân giống như đạo Phật
tổ chức chúc mừng, nhà vua ban thưởng áo mũ, mở tiệc, làm lễ xướng danh ở cửa nhàThái học Tất cả những vị Tiến sĩ này đều được triều đình trọng dụng, trao cho quantước Cùng với sự phát triển của nền giáo dục, chế độ thi cử cũng được tổ chức thườngxuyên và quy định thành thể lệ chu đáo hơn Về nội dung học tập thì nếu như ở thời Lý– Trần do quan niệm “Tam giáo đồng nguyên” nên nhà nước quan tâm đều Phật giáo,Đạo giáo và Nho giáo như nhau thì đến thời Lê sơ, Nho giáo chiếm nội dung chủ yếu
So với nền giáo dục thi cử ở thời Lý – Trần thì ở thời Lê sơ, các vua chú trọngđẩy mạnh phát triển giáo dục, từ việc cho xây dựng và mở rộng các trường học cho đến
tổ chức các kỳ thi tuyển chọn nhân tài đều được nhà nước hết sức quan tâm Chế độgiáo dục thi cử ấy đã đào tạo ra hàng loạt người bổ sung vào bộ máy quan lại phong
Trang 39kiến đang phát triển mạnh mẽ lúc bấy giờ và đồng thời cũng sản sinh ra nhiều nhà văn,nhà thơ, nhà sử học lỗi lạc, những nhà văn hóa lớn của dân tộc.
2.2.2.3 Văn học, nghệ thuật
* Văn học :
Bên cạnh thơ văn chữ Hán ít nhiều nối tiếp tinh thần dân tộc của thời Lý – Trần,văn học chữ Nôm đã dần dần giữ một vị trí quan trọng, không chỉ các nho sĩ, quan lạisáng tác thơ Nôm mà nhà vua cũng xem chữ Nôm là một phương tiện quan trọng thểhiện tư tưởng và tình cảm của mình Ở thời Lê sơ còn xuất hiện một số thể văn xuôimới như tín, chính luận và cáo Đặc biệt, đến thời Lê sơ thì lực lượng sáng tác trở nênđông đảo hơn, điều đó cho thấy người dân càng ngày càng coi trọng các giá trị truyềnthống của dân tộc, thể hiện qua những tác phẩm văn học đặc sắc
* Nghệ thuật :
Thứ nhất, ở thời Lý, do mang nặng tư tưởng Phật giáo nên có một loại hình kiến
trúc rất phổ biến chính là kiến trúc về chùa tháp thể hiện ở việc vua cho xây dựng nhiềuchùa chiền ở khắp nơi trong đất nước Song qua thời gian chiến tranh thì đến thời Lê sơcác công trình này đã bị tàn phá rất nhiều Mặt khác, do ở thời Lê sơ, Nho giáo chiếm
vị trí độc tôn nên nghệ thuật kiến trúc cũng bị hạn chế nhiều
Thứ hai, nếu như hình tượng rồng trong nghệ thuật điêu khắc thời Lý có mình
trơn nhẵn nhụi, đầu Rồng với cổ ngước cao, mắt to tròn và hơi lồi, dưới mang tai có dảibờm nhiều tua kết vào nhau nhìn trông rất cao quý và quyền uy thì rồng ở thời Lê sơthì khỏe mạnh, đầu to, có sừng, râu và lông gáy tua tủa, trông hiên ngang và kiêu hãnh
Thứ ba, nghệ thuật trang trí dưới thời Lý rất đơn giản và thường lấy cảm hứng
từ thiên nhiên như vẽ các loại hoa (hoa cúc, hoa sen), lá cây Nhưng đến thời Lê sơ thìlối trang trí dường như được cách điệu hóa, các họa tiết được thiết kế chi tiết hơn
Trang 40Thứ tư, nghệ thuật dân gian ở thời Lý – Trần như các lễ hội với các trò chơi dân
gian vẫn luôn diễn ra sôi nổi, náo nhiệt thì đến thời Lê sơ do sự độc tôn tư tưởng củaNho giáo nên văn hóa đã giảm bớt đi tính dân gian vốn có
Thứ năm, ở thời Lý – Trần, nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc rất được ưa
chuộng và phát triển Nó thường được dùng để góp vui cho các buổi chầu, những ngày
lễ và các dịp tiếp đãi sư thần Song đến thời Lê sơ thì do giai cấp thống trị xem thườngnghề hát xướng, cho họ thuộc loại “xướng ca vô loài”, khuyên răn mọi người khôngnên tập nghề hát xướng, hại đến phong tục Do đó mà âm nhạc, ca múa không có điềukiện để đúc kết và phát triển ở thời kỳ này
2.2.2.4 Khoa học kỹ thuật
Càng ngày thì khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến lớn và nhận được sựquan tâm của nhà nước Điển hình như về toán học, nếu dưới thời Lý – Trần, toán họcmới chỉ được đưa vào trong chương trình thi cử, chưa có nhiều thành tựu nổi bật thìđến thời Lê sơ nó đã được nhà nước và nhân dân coi trọng, đồng thời xuất hiện các nhàtoán học tài ba, xuất sắc Nền y học dân tộc cũng phát triển mạnh hơn, không chỉ lànhững bài thuốc chưa dân gian được lưu truyền nữa mà giờ đi sâu nghiên cứu về cácvấn đề tồn tại ngay trong cuộc sống hằng ngày như vệ sinh phòng bệnh, vấn đề ăn uốngmột cách hợp lý, khoa học và vấn đề chăm sóc, khám chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe chotrẻ nhỏ Ngoài ra, việc quan sát thiên văn, theo dõi thời tiết và làm lịch dưới thời Lê sơcũng được tổ chức có hệ thống và quy củ Qua những điều trên chúng ta có thể dễ dàngnhận thấy rằng khoa học kỹ thuật thực sự đã có những bước phát triển rực rỡ