1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Khởi phát chuyển dạ bằng bóng đôi Foley cải tiến trong trường hợp thai lưu từ 25 tuần có vết mổ sanh cũ

5 140 0

Đang tải... (xem toàn văn)

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khởi phát chuyển dạ bằng bóng đôi Foley cải tiến trong trường hợp thai lưu từ 25 tuần có vết mổ sanh cũ
Tác giả Huỳnh Nguyễn Khánh Trang, Trương Thị Bích Hà, Phạm Minh Khội Nguyên, Nguyễn Thị Anh Phương
Người hướng dẫn PGS TS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang
Trường học Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Chuyên ngành Sản Phụ Khoa
Thể loại Nghiên cứu
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 5
Dung lượng 264,03 KB

Nội dung

Từ năm 1991 đến nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu so sánh hiệu quả của thông bóng đôi so với các phương pháp khởi phát chuyển dạ (KPCD) khác, các kết quả cho thấy đây là một phương thức an toàn, hiệu quả. Bài viết trình bày việc xác định tỷ lệ KPCD đến sanh ngả âm đạo trên các trường hợp thai lưu từ 25 tuần có tiền sử mổ sinh trước đó.

Trang 1

KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG BÓNG ĐÔI FOLEY CẢI TIẾN

TRONG TRƯỜNG HỢP THAI LƯU TỪ 25 TUẦN CÓ VẾT MỔ SANH CŨ

Huỳnh Nguyễn Khánh Trang *, Trương Thị Bích Hà *, Phạm Minh Khội Nguyên**,

Nguyễn Thị Anh Phương**

TÓM TẮT

Background: Từ năm 1991 đến nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu so sánh hiệu quả của thông bóng

đôi so với các phương pháp khởi phát chuyển dạ (KPCD) khác, các kết quả cho thấy đây là một phương thức an

toàn, hiệu quả

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ KPCD đến sanh ngả âm đạo trên các trường hợp thai lưu từ 25 tuần có tiền sử mổ

sinh trước đó

Phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt ca đánh giá hiệu quả của KPCD bằng bóng đôi Foley cải tiến trong

28 trường hợp thai lưu từ 25 tuần có vết mổ cũ (VMC) từ 01/2017 đế 12/2018 tại Bệnh viện Hùng Vương

Kết quả: Tỷ lệ KPCD thành công là 28/28 (100%) với Bishop cổ tử cung khi rút hay bóng tự rớt trung bình 7,2 điểm Sanh

ngả âm đạo tự nhiên có 19/28 (67,9%); sanh ngả âm đạo có can thiệp thủ thuật 9/28 (32,1%) Thời gian trung bình từ khởi phát đến Bishop 7 điểm là 20,9 ± 2,3 giờ Thời gian trung bình từ KPCD đến sanh 31,7 ± 7,6 giờ

Kết luận: KPCD bằng bóng đôi Foley cải tiến là một phương pháp KPCD an toàn và hiệu quả có thể được

xem xét trong các trường hợp có vết mổ sanh cũ, đặc biệt trong các trường hợp thai lưu trong tam cá nguyệt 2,3

Từ khóa: tiền sử mổ sinh, khởi phát chuyển dạ, Foley bóng đôi cải tiến

ABSTRACT

MODIFIED DOUBLE BALLOON FOLEY CATHETER FOR LABOUR INDUCTION IN WOMEN HAVING STILLBIRTH FROM 25 WEEKS OF GESTATION AGE AND PREVIOUS CESAREAN SECTION

Huynh Nguyen Khanh Trang, Truong Thi Bich Ha, Pham Minh Khoi Nguyen, Nguyen Thi Anh Phuong

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol 23 - No 2- 2019: 127 - 131

Background: Since 1991, there have been numerous studies comparing the efficacy of double balloon

catheter in labor induction (IOL) versus other methods Results show that this method is a safe and effective

Objectives: To determine the prevalence of IOL on vaginal birth in stillbirth from 25 weeks with previous

caesarean section

Methods: A series case studies evaluating the efficacy of IOL in Modified double-balloon Foley catheter in 28

cases of stillbirth at least 25 weeks of gestation age with previous caesarean section, from 1/2017 to 12/2018 at Hung Vuong Hospital

Results: Success rate of IOL was 28/28 (100%), the average of cervical Bishop score when

withdrawing the catheter or falling by itselfl is 7.2 Natural vaginal birth 19/28 (67.9%); having vaginal operated 9/28 (32.1%) The mean time from beginning of IOL to Bishopat 7 was 7.9 ± 2.3 hours Mean time from IOL to birth was 31.7 ± 7.6 hours

Conclusion: Modified double-balloon Foley catheter is a safe and effective IOL method that can be

considered in cases of previous caesarean section, particularly in those with stillbirth during the second trimester or third trimester

*Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch **Bệnh viện Hùng Vương

Trang 2

Key words: previous caesarean section, induction of labor, modified double-baloon Foley catheter

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khởi phát chuyển dạ (KPCD) được định

nghĩa là một quá trình kích thích nhân tạo tử

cung để gây ra chuyển dạ KPCD có khuynh

hướng ngày càng gia tăng trên thế giới Tần suất

này tăng gấp đôi từ 9,5% lên 23,2% tại Hoa Kỳ từ

năm 1991-2011(11) KPCD được chỉ định khi lợi

ích (cho mẹ và/hoặc thai) lớn hơn so với nếu tiếp

tục thai kỳ Các chỉ định KPCD thường gặp: Ối

vỡ non, tăng huyết áp trong thai kỳ, thiểu ối, tim

thai thai không đảm bảo, thai quá ngày, bệnh lý

nội khoa của mẹ như tăng huyết áp mãn, đái

tháo đường(1)

Có nhiều phương pháp KPCD như các biện

pháp dùng thuốc (Prostaglandin, Oxytocin) hoặc

các biện pháp cơ học (đặt que nong, đặt túi nước,

bóng đơn Foley, bóng đôi của hãng COOK…)

Từ năm 1991 đến nay trên thế giới có rất nhiều

nghiên cứu đánh giá hiệu quả của thông bóng

đôi so với các phương pháp khởi phát chuyển dạ

(KPCD) khác, các kết quả cho thấy đây là một

phương thức an toàn, hiệu quả, ít gây cơn gò

cường tính như Prostaglandin E2 Tại Bệnh viện

Hùng Vương, từ năm 2015 chúng tôi đã nghiên

cứu bóng đôi Foley cải tiến KPCD trên thai

trưởng thành ghi nhận an toàn và hiệu quả, và

đã được Bộ y tế công nhận vào tháng 6/2016 (số

2462/QĐ-BYT)

Thai chết lưu là thai đã chết trong tử cung

trước khi được tống xuất ra ngoài, chiếm khoảng

15 – 20% trong thai kỳ, thường xảy ra trong tam

cá nguyệt 1 và 2 Tỷ lệ < 1% xảy ra vào tam cá

nguyệt 3 cua thai kỳ Chẩn đoán chủ yếu dựa

vào siêu âm Việc sử trí trong thực hành lâm

sàng thai lưu trong tử cung ở thai phụ có tiền sử

sinh mổ trước đây là một tình trạng khó khăn

đối với bác sĩ sản khoa Với sự miễn cưỡng hiện

tại của các bác sĩ sản khoa để thực hiện việc khởi

động và thực hiện quá trình sinh ngả âm đạo

trên thai phụ có tiền sử mổ sinh trước đó

(vaginal birth after cesarean vaginal birth after

cesarean - VBAC) Với tỷ lệ mổ sinh mổ tăng lên

hiện nay đạt 31,1% và tỷ lệ thai chết trong tử

cung xảy ra ở 0,6% số lần sinh, tình huống thai chết trong tử cung trên thai phụ có mổ sinh trước đây đang trở nên phổ biến hơn(10,11)

KPCD trên thai kỳ có vết mổ sanh cũ ghi nhận hơn 70% trên thế giới, nhưng tại Việt Nam hiện nay đa số các trường hợp có vết mổ cũ mổ sanh khi có thai đều kết thúc với mổ sanh trở lại Các biện pháp KPCD cơ học trên thai kỳ có VBAC ghi nhận khả năng thành công cao và ít nguy cơ cơ với vết mổ sanh cũ hơn Với câu hỏi: KPCD với bóng Foley đôi cải tiến trên các trường hợp thai lưu có tiền sử mổ sanh trước đó

có hiệu quả? Chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định tỷ lệ KPCD đến sanh ngả âm đạo trên các trường hợp thai lưu từ 25 tuần có tiền sử

mổ sinh trước đó

Khảo sát thời gian từ KPCD đến khi Bishop

cổ tử cung hơn 7 điểm, tỷ lệ cần dùng Oxytocin thêm, tính an toàn

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Báo cáo loạt ca lâm sàng

Dân số nghiên cứu

Các trường hợp thai lưu có vết mổ sanh cũ, tuổi thai từ 25 tuần tại khoa Sản Bệnh, Bệnh viện Hùng Vương, từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2018

Tiêu chuẩn chọn vào

Sản phụ có một thai đã được chẩn đoán là thai lưu hoặc thai dị tật Tuổi thai ≥ 25 tuần (tính theo siêu âm trong 3 tháng đầu) Có vết mổ sanh với phương pháp mổ lần trước là mổ ngang đoạn dưới tử cung Bishop trước KPCD < 4 điểm Không có nhau tiền đạo trung tâm Đồng

ý tham gia nghiên cứu sau khi được tư vấn và giải thích mục đích của nghiên cứu

Tiêu chuẩn loại trừ

Vết mổ sanh cũ ≥ 2 lần Có bệnh lý nội khoa hoặc ngoại khoa chống chỉ định sanh ngả âm

Trang 3

đạo Con to > 4000 gr Nghi ngờ bất xứng

thai-chậu Không đồng ý tham gia nghiên cứu

Tiêu chuẩn đánh giá kết quả KPCD

Thành công

Nếu Bishop ≥ 7 điểm trong vòng 24 giờ sau

đặt bóng đôi Foley cải tiến, rút bóng hay thời

điểm tự rớt bóng

Thất bại

Nếu sau khi đặt ống thông bóng Foley cải

tiến 24 giờ mà Bishop < 7 điểm xem như KPCD

thất bại Có tác dụng ngoại ý hoặc biến chứng

trầm trọng (nhau bong non, rối loạn cơn gò tử

cung không điều chỉnh được bằng thuốc giảm

co, vỡ tử cung, ra huyết âm đạo lượng nhiều)

Những trường hợp này nếu xảy ra chưa đến thời

gian đánh giá hiệu quả xem như KPCD thất bại

Phương tiện

Bóng đôi Foley cải tiến

Hệ thống gồm thông bóng Foley 20F và 30F

lồng vào nhau Kỹ thuật khởi phát chuyển dạ bằng bóng đôi Foley cải tiến đã được Bộ y tế Việt Nam công nhận năm 2016 KPCD bằng thông bóng đôi cải tiến từ thông Foley 20F và 30F, bơm 60ml nước cất vào mỗi bóng, bóng trong sát lỗ trong CTC, bóng ngoài sát lỗ ngoài CTC

KẾT QUẢ

Bảng 1 Đặc điểm dân số nghiên cứu (n= 28)

(%)

Chỉ định KPCD Thai lưu, TSG Thai lưu, ĐTĐ thai kỳ Thai lưu, chậm tăng trưởng Thai lưu, đa dị tật nặng

5 (17,9)

7 (25,0)

9 (32,1)

7 (25,0)

TQ (giây) TCK (giây) Fibrinogen/máu (g/L)

12 ± 1,0

28 ± 2,6 2,8 ± 0,7 Chiều dài kênh CTC (mm) 30,8 ± 8,6

Bảng 2 Các yếu tố liên quan đến hiệu quả KPCD

Dùng Laminaire chuẩn bị cổ tử cung Điểm số Bishop sau khi rút/rớt bóng (điểm) 8,8 ± 1,4

15 (53,6) Thay đổi Bishop (điểm)

Thời gian KPCD đến Bishop≥7 điểm (giờ)

Thời gian từ KPCD đến sinh (giờ) Dùng Oxytocin sau khi rút/rớt bóng Dùng Oxytocin chỉnh gò tử cung (giờ)

7,9 ± 1,6 20,9 ± 2,3 31,7 ± 7,6 10,2 ± 2,6

25 (89,3) Sinh ngả âm đạo tự nhiên

Sinh ngả âm đạo có thủ thuật

16 (57,1) Cân nặng thai nhi sau sanh (gram) 2785 ± 1021

Máu mất sau sanh (gram) 259 ± 108 Thời gian nằm viện (ngày) 5 ± 3

BÀN LUẬN

Thai chết trong tử cung là một chấn thương

nặng nề về tâm lý cho người phụ nữ và gia đình

sản phụ Những rối loạn tâm lý có thể nặng nề

hơn trong trường hợp bị kéo dài khoảng thời

gian từ lúc chẩn đoán thai lưu đến khi KPCD

(trên 24 giờ), hoặc sự chờ đợi thấy thai nhi càng

lâu, hoặc không nhớ được trong thai kỳ có yếu

tố nào khiến thai chết(14) Do đó, việc chấm dứt

thai kỳ càng sớm cho các trường hợp thai lưu là

hết sức cần thiết để làm giảm nhẹ tổn thương

tinh thần này cho sản phụ, cũng như giảm bớt

các nguy cơ biến chứng khác do thai lưu gây nên như rối loạn chức năng đông máu, nhiễm trùng Tuy nhiên, việc chọn lựa biện pháp CDTK trên các trường hợp thai lưu có VMC là điều hết sức cân nhắc vì còn phải xem xét đến khả năng có thai lại và khả năng sanh trong tương lai của người phụ nữ(11)

Một số sản phụ với thai kỳ có vết mổ sanh cũ nhưng phải có chỉ định chấm dứt thai kỳ cở tam

cá nguyệt hai Mặc dù các nghiên cứu được công

bố với cỡ mẫu nhỏ, kết quả cũng cho thấy rằng, những sản phụ được khởi phát chuyển dạ bằng

Trang 4

prostagladin (bao gồm misoprostol) có kết cục

giống với các sản phụ không có sẹo mổ cũ (như

thời gian vào chuyển dạ, khởi phát chuyển dạ

thất bại, và tỉ lệ các biến chứng)(4,6-8,Error!

Reference source not found.,13).Hơn nữa, nhiều

nghiên cứu về chủ đề này cho thấy rằng tần suất

vỡ tử cung trong các nghiên cứu này nhỏ hơn

1%(2,8,9) Đối với những sản phụ này, nong và

gắp thai cũng như khởi phát chuyển dạ với

prostaglandin chuẩn bị cổ tử cung thuận lợi có

thể là một lựa chọn hợp lý(3,16)

Trong loạt ca trên đây của chúng tôi cho thấy

vấn đề chuẩn bị tạo thuận lợi cho cuộc chuyển

dạ sanh ngả âm đạo bắng phương pháp cơ học

với Laminaire rồi bóng đôi Foley cải tiến cũng

đã cho thấy hiệu quả rất khả quan trong việc

khởi phát chuyển dạ ở các thai kỳ trong tam cá

nguyệt 2 và có vết mổ sanh cũ Sau khi rút bóng

hay bóng Foley tự rớt, cổ tử cung thường đủ

điều kiện để sanh tự nhiên hay can thiệp thủ

thuật Ưu điểm lớn nhất có lẽ là do không gây

nên nhiều cơn co và tạo áp lực trong buồng tử

cung Đây có thể là một phương pháp giúp thay

thế cho prostagladin trong khởi phát chuyển dạ

khi phương pháp này có những khuyết điểm

như: thay đổi liều lượng tuỳ tuổi thai, kinh

nghiệm, khám âm đạo nhiều lần trong quá trình

đặt thuốc

Đối với những sản phụ với thai phụ tuổi thai

sau 28 tuần với tình trạng thai lưu và vết mổ

sanh cũ, làm chín muồi CTC với thông Foley có

tỷ lệ vỡ tử cung tương tự với chuyển dạ tự

nhiên(5,15) và đây có thể là một trợ thủ đắc lực

cho những bệnh nhân với CTC không thuận lợi

Bởi vì nguy cơ về phía thai trong các trường hợp

này không còn nữa, thử thách sanh ngả âm đạo

nên được khuyến khích sau khi đã có sự đánh

giá, tiên lượng bởi các bác sĩ sản khoa và các bác

sĩ hỗ trợ, cũng như tư vấn cho người nhà

Trong khảo sát của chúng tôi, khởi phát

chuyển dạ bằng thông Foley cải tiến cũng đã

cho thấy tính hiệu quả, an toàn đối với những

thai lớn sau 28 tuần Tuy nhiên nghiên cứu đòi

hỏi cỡ mẫu nhiều hơn để cho ra các kết luận

thuyết phục Đồng thời cần có thêm các nghiên cứu so sánh trực tiếp giữa hai phuơng pháp bóng đôi Foley cải tiến và các phương pháp khác trong khởi phát chuyển dạ trên các trường hợp tương tự

HẠN CHẾ

Do là báo cáo loạt ca nên các kết quả thu được giúp cho viện thực hiện những nghiên cứu thiết kế mạnh hơn trong tương lai Bên cạnh đó, dân số nghiên cứu là những đối tượng hết sức đặc biệt nên việc thu thập về số lượng và thời gian là một thách thức

KẾT LUẬN

Qua 28 trường hợp trong 2 năm tại Bệnh viện Hùng Vương, với phương pháp dùng bóng Foley đôi cải tiến khởi phát chuyển dạ, chúng tôi ghi nhận:

Tỷ lệ KPCD thành công là 28/28 (100%) với Bishop cổ tử cung khi rút hay bóng tự rớt trung bình 7,2 điểm

Sanh ngả âm đạo tự nhiên có 19/28 (67,9%); sanh ngả âm đạo có can thiệp thủ thuật 9/28 (32,1%)

Thời gian trung bình từ khởi phát đến Bishop 7 điểm là 20,9 ± 2,3 giờ Thời gian trung bình từ KPCD đến sanh 31,7 ± 7,6 giờ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 ACOG (2010) “Vaginal birth after previous cesarean delivery”

Obstet Gynecol, 116(2 Pt 1):pp 450-63

2 Berghahn L, Christensen D, Droste S (2001) “Uterine rupture during second-trimester abortion associated with misoprostol”

Obstet Gynecol, 98(5 Pt 2):p.976-7

3 Berghella V, Airoldi J, O'Neill AM et al (2009) “Misoprostol for second trimester pregnancy termination in women with prior

:pp.1151-7

4 Bhattacharjee N, Ganguly RP, Saha SP (2007) “Misoprostol for

termination of mid-trimester post-Caesarean pregnancy” Aust

N Z J Obstet Gynaecol, 47(1):pp.23-5

5 Boyle A, Preslar JP, Hogue CJ et al (2017) “Route of Delivery in Women With Stillbirth: Results From the Stillbirth Collaborative

Research Network” Obstet Gynecol, 129(4): pp.693-698

6 Daponte A, Nzewenga G, Dimopoulos KD et al (2006) “The use

of vaginal misoprostol for second-trimester pregnancy termination in women with previous single cesarean section”

Contraception, 74(4):pp.324-7

7 Daskalakis GJ, Mesogitis SA, Papantoniou NE et al (2005)

“Misoprostol for second trimester pregnancy termination in

women with prior caesarean section” BJOG, 112(1):pp.97-9

Trang 5

8 Debby A, Golan A, Sagiv R et al (2003) “Midtrimester abortion

in patients with a previous uterine scar” Eur J Obstet Gynecol

Reprod Biol, 109(2):pp.177-80

9 Goyal V (2009) “Uterine rupture in second-trimester

misoprostol-induced abortion after cesarean delivery: a

systematic review” Obstet Gynecol, 113(5):pp.1117-23

10 Hamilton BE, Martin JA, Ventura SJ (2007) “Birth: preliminary

data for 2006” Natl Vital Stat Rep, 56(7):1–18

11 MacDorman MF, Munson Ml, Kirmeyer S (2007) “Fetal and

perinatal mortality, United States, 2004” Natl Vital Stat Rep,

56(3):1–20

gemeprost and second-trimester pregnancy termination in the

scarred uterus” Int J Gynaecol Obstet, 97(1):pp.35-9

13 Martin JA, Hamilton BE, Ventura SJ et al (2013) “Births: final

data for 2011” Natl Vital Stat Rep, 62(1):pp.1-69, 72

14 Radestad I, Nordin C, Steineck G et al (1996) “Stillbirth is no

longer managed as a nonevent: a nationwide study in Sweden"

Birth, 1996 23(4):p 209-15

15 Ramirez MM, Gilbert S, Landon MB et al (2010) “Mode of delivery in women with antepartum fetal death and prior

cesarean delivery” Am J Perinatol, 27(10):pp.825-30

16 Schneider D, Bukovsky I, Caspi E (1994) “Safety of midtrimester pregnancy termination by laminaria and

evacuation in patients with previous cesarean section” Am J

Obstet Gynecol, 171(2):pp.554-7

Ngày đăng: 16/01/2020, 00:13

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến hiệu quả KPCD - Khởi phát chuyển dạ bằng bóng đôi Foley cải tiến trong trường hợp thai lưu từ 25 tuần có vết mổ sanh cũ
Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến hiệu quả KPCD (Trang 3)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w