Qua phân tích phần tro của nhiều loại cây để xác định thành phần và bằng kiểm tra thực nghiệm trồng cây trong dung dịch các muối vô cơ, người ta đã phát hiện thấy có 7 nguyên tố cần thiế
Trang 1ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Trang 2MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1: THÀNH PHẦN VÀ DINH DƯỠNG CỦA CÂY TRỒNG
1.1 Thành phần hoá học của cây trồng ……… … 2
1.2 Quá trình dinh dưỡng của cây trồng ……… ……… 4
1.2.1 Quá trình dinh dưỡng của cây trồng trong môi trường không khí 4
1.2.2 Quá trình dinh dưỡng của cây trồng trong môi trường đất … … 5
CHƯƠNG 2: THÀNH PHẦN VÀ CÁC TÍNH CHẤT NÔNG HOÁ CỦA ĐẤT 2.1 Thành phần hoá học của đất … ……… 7
2.1.1 Thành phần khí của đất ……… 7
2.1.2 Thành phần của dung dịch đất (phần lỏng của đất) ……… 8
2.1.3 Thành phần rắn của đất (thành phần cơ giới của đất) ……… 8
2.2 Các tính chất nông hoá của đất ……… 16
2.2.1 Tính chất hấp thu chất dinh dưỡng … ……… 16
2.2.2 Tính chua, tính kiềm và phản ứng của dung dịch đất ……… 19
2.2.3 Tính chất đệm của đất ……….……… 23
CHƯƠNG 3: CÁC PHƯƠNG PHÁP NÔNG HOÁ CẢI TẠO ĐẤT 3.1 Phương pháp cải tạo đất chua … ……… 27
3.2 Phương pháp cải tạo đất kiềm … ……… 32
3.3 Phương pháp cải tạo đất mặn … ………… …… …… 33
3.4 Phương pháp cải tạo đất phèn … ……… 35
CHƯƠNG 4: PHÂN BÓN 4.1 Vai trò và đặc điểm của phân bón……… …… 37
4.2 Phân đạm ……… ……… 38
4.2.1 Vai trò của nitơ đối với dinh dưỡng của cây trồng ……… 38
4.2.2 Các quá trình hoá học của nitơ trong đất … ……… 39
4.2.3 Các loại phân bón chứa nitơ ……… 42
4.3 Phân lân ……… 46
4.3.1 Vai trò của phôtpho đối với dinh dưỡng của cây trồng ….………… 46
4.3.2 Các quá trình hoá học của phôtpho trong đất ……… 47
4.3.3 Các loại phân bón chứa phôtpho… ……… 49
4.4 Phân kali ……… 54
4.4.1 Vai trò của kali đối với dinh dưỡng của cây trồng …… ………… 54
4.4.2 Các quá trình hoá học của kali trong đất ……… ……… 54
4.4.3 Các loại phân bón chứa kali……… ……… 55
4.5 Phân vi lượng và phân vi sinh ……… 56
4.5.1 Phân vi lượng ……… 56
Trang 34.5.2 Phân vi sinh ……… 59
CHƯƠNG 5: HOÁ HỌC BẢO VỆ THỰC VẬT 5.1 Giới thiệu chung về hoá chất bảo vệ thực vật ……… 61
5.1.1 Vai của hoá chất bảo vệ thực vật ……… … 61
5.1.2 Đặc điểm của hoá chất bảo vệ thực vật …… …… 61
5.1.3 Phân loại hoá chất bảo vệ thực vật 63
5.2 Một số hoá chất được sử dụng để bảo vệ thực vật ……….… 63
5.2.1 Thuốc trừ sâu 63
5.2.2 Chất hoá học trừ nấm bệnh 65
5.2.3 Thuốc trừ cỏ dại 66
5.3 Một số chất kích thích sinh trưởng ……….… 67
5.3.1 Auxin 67
5.3.2 Gibberellin 69
5.3.3 Cytokinin 70
-
Trang 4CHƯƠNG 1 – THÀNH PHẦN VÀ DINH DƯỠNG CÂY TRỒNG
1.1 Thành phần hoá học của cây trồng
Trong cây trồng có hai thành phần chính là nước và chất khô có chứa các hợp chất vô cơ và hữu cơ Tỉ lệ giữa lượng chất khô và nước trong cây phụ thuộc vào trạng thái sinh lý, điều kiện canh tác, thời tiết, giống loại … và ở các bộ phận khác nhau của một cây cũng có tỉ lệ nước và chất khô cũng khác nhau
Bảng 1.1 Hàm lượng tương đối (%) của nước và chất khô trong các cơ quan của một số cây trồng
Cây trồng Nước (%) Chất khô (%)
Hạt lúa 85 - 88 12 – 15 Hạt ngô 78 – 82 18 – 22 Hạt lạc (đậu phụng) 12 – 15 85 – 88 Quả cà chua 94 – 96 4 – 6 Bèo hoa dâu 94,5 5,5 Như vậy trong đa số các cơ quan dinh dưỡng của cây trồng có chứa 85 – 95% nước, còn chất khô chỉ có 5 -20% khối lượng Trong hạt, khi chín lượng nước bị giảm đi, còn lượng chất khô lại tăng lên đến 85 – 90% khối lượng chung
Do đó, đối với những cây trồng chính có năng suất tương đối cao, có thể thu được 20 – 60 tạ chất khô trên 1ha là sản phẩm hàng hoá Ngoài ra, còn một lượng lớn của thu hoạch là chất khô trong sản phẩm phụ như rễ, rơm rạ …
Cây trồng tích luỹ chất khô nhờ quá trình hút CO2 của môi trường không khí, hút nước và chất khoáng từ đất
* Thành phần nguyên tố
Trong chất khô có rất nhiều nguyên tố hoá học Khi nghiên cứu thành phần chất khô của nhiều cây trồng bằng phương pháp đốt, nói chung ta thu được các nguyên tố trong phần khí như: cacbon – 45%, oxi – 42%, hiđrô – 7%
Như vậy, chỉ riêng 3 nguyên tố này đã chiếm gần 94% khối lượng chung của chất khô mà cây trồng tích luỹ được nhờ quá trình hút CO2 và H2O Còn trong phần tro của chất khô có nhiều nguyên tố khác, nhưng chỉ chiếm khoảng 6% Trong nhiều trường hợp, sự tích luỹ chất khô và năng suất cây trồng lại chủ yếu phụ thuộc vào việc cung cấp cho đất những nguyên tố có trong phần tro để cây trồng sử dụng
Trang 5Qua phân tích phần tro của nhiều loại cây để xác định thành phần và bằng kiểm tra thực nghiệm trồng cây trong dung dịch các muối vô cơ, người ta đã phát hiện thấy có 7 nguyên tố cần thiết ngoài C, H, O, đó là N, P, K, Ca, Mg, S và Fe Hàm lượng các nguyên tố này trong tro tương đối cao, do đó người ta gọi chúng là
những nguyên tố đa lượng
Ngoài 7 nguyên tố đa lượng trên, thực vật còn cần những lượng rất nhỏ các nguyên tố Mn, B, Mo, Cu, Zn, Co, I, F với hàm lượng từ phần nghìn đến phần trăm
nghìn của chất khô Người ta gọi những nguyên tố này là nguyên tố vi lượng
Ngoài các nguyên tố đa lượng và vi lượng, gần đây, người ta mới phát hiện
thêm trong thực vật còn có những nguyên tố siêu vi lượng mà hàm lượng của chúng
rất nhỏ từ 10-12 đến 10-5 khối lượng chất khô Đó là những nguyên tố như Rb, Ce,
Se, Cd, Ag, Hg, … Nếu kể tất cả các nguyên tố đa lượng, vi lượng và siêu vi lượng thì trong cây có đến hơn một nửa số nguyên tố của bảng tuần hoàn Menđeleep Khi đốt thực vật, các nguyên tố Na, Mg, P, S, K, Fe, Ca, Mn và các nguyên tố
vi lượng khác có trong thành phần tro Do đó, người ta thường gọi chúng là các nguyên tố tro
Thành phần nitơ và các nguyên tố tro của thực vật rất khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc tính sinh lý của chúng, vào tuổi cây, điều kiện canh tác và cũng không đồng đều trong các bộ phận, các mô khác nhau Chẳng hạn, trong lá thường có các nguyên tố tro nhiều hơn trong thân, hạt …
Việc xác định thành phần tro của các bộ phận cây trồng cho thấy: trong tro của các loại hạt, lượng P2O5 có thể chiếm 40 – 50%, lượng K2O: 30 – 40% và MgO: 8 – 12% Như vậy trong các loại hạt, các oxit của 3 nguyên tố P, K, Mg chiếm đến khoảng 90% khối lượng chung của tro
Lượng P trong tro của rơm rạ nhỏ hơn 3 – 5 lần so với trong tro của hạt, nhưng hàm lượng Ca và Si lại lớn hơn so với tro của hạt rất nhiều
Trong tro các loại củ như khoai, sắn đặc biệt chứa nhiều K
Trong hạt, hàm lượng N cũng cao hơn trong rơm rạ Hàm lượng N trong củ thấp hơn nhiều, so với hàm lượng N trong thân lá, các loại cây có củ
Khi trồng cây ngoài đồng, cây trồng thường thiếu nitơ, phôtpho và kali Sự thiếu canxi, magie và lưu huỳnh thường ít thấy, còn dấu hiệu thiếu các nguyên tố vi lượng chỉ gặp ở một vài loại đất, khi trồng những loại cây nhất định
Người ta có thể dựa vào sự hấp thụ các nguyên tố dinh dưỡng từ đất để xác định nhu cầu của cây trồng đối với các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho việc tạo
ra thu hoạch Khi nghiên cứu nhu cầu của cây trồng, người ta phải tính đến toàn bộ khối lượng thu hoạch (hạt, rơm, rạ, rễ, thân lá …) và xác định hàm lượng các nguyên tố chính trong các bộ phận Sau đó phải tính tổng lượng các nguyên tố trong toàn bộ khối lượng thu hoạch
Trang 6Nhu cầu của cây trồng đối với các nguyên tố dinh dưỡng thường được tính bằng kg/ha
Như đã nêu ở trên, lượng N và các nguyên tố khoáng chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ so với hàm lượng chung của các nguyên tố trong thu hoạch cây trồng Phần chủ yếu của thu hoạch ngoài lượng nước ra, là các chất hữu cơ chiếm tới 80 – 90% khối lượng của chất khô thực vật Những chất hữu cơ quan trọng trong thành phần thu hoạch của các cây trồng phổ biến là đường, tinh bột, xenlulo, lipit, protit Song, sự hình thành và tích luỹ các chất hữu cơ trong thực vật chỉ có thể đảm bảo cho cây trồng 7 nguyên tố dinh dưỡng cần thiết
Bảng 1.2 Hàm lượng % các loại hợp chất hữu cơ trong sản phẩm cây trồng
Cây trồng Đường Tinh bột Xenlulo Lipit Protit Các hợp chất
1.2 Quá trình dinh dưỡng của cây trồng
Tất cả thực vật bậc cao trong đó có cây trồng nông nghiệp đều đồng thời sống trong 2 môi trường: đất và lớp khí quyển gần mặt đất Nhờ lá xanh, cây trồng hút khí CO2 từ không khí và nhờ rễ, cây trồng hút nước, các ion vô cơ và một vài chất hữu cơ từ đất
1.2.1 Quá trình dinh dưỡng của cây trồng trong môi trường không khí
Trong chất khô của thực vật, trung bình có chứa 45% C và 42% O Nguồn cacbon và oxi đó do quá trình dinh dưỡng của cây xanh trong môi trường không khí
đã tổng hợp nên các chất hữu cơ cho thực vật
* Quá trình quang hợp: Nhờ có lá xanh, cơ quan quan trọng của thực vật, hút
khí cacbonic và hơi nước qua khí khổng ở phiến lá Dưới tác dụng của năng lượng ánh sáng mặt trời và clorophin (diệp lục), lá xanh tổng hợp nên các chất hữu cơ cho cây
Diện tích tổng số của lá cây thường vượt quá diện tích đất mà cây chiếm từ
20-70 lần, điều đó tạo nên những thuận lợi cho lá cây hấp thụ CO2 và năng lượng mặt
Trang 7trời Vai trò của lá xanh được K.A Timiriazep phát hiện: Nếu không có clorophin
của lá xanh, thực vật không thể thu được năng lượng mặt trời và do đó không tích luỹ được năng lượng dưới dạng thế năng của thu hoạch
Quá trình tổng hợp tiến hành ở lá xanh khi có chiếu sáng tạo nên gluxit, axit
hữu cơ, các aminoaxit và protit, được gọi là quá trình quang hợp
Quá trình quang hợp là quá trình biến đổi năng lượng của ánh sáng mặt trời thành hoá năng để tổng hợp nên các hợp chất hữu cơ mới
Có thể tóm tắt quá trình tổng hợp sinh khối (chất hữu cơ) theo phản ứng sau đây :
nCO2 + 2mH2O + xNPS CnH2mOpNPS + mO2 + mH2O
sinh khối
trong đó n, 2m là số lượng phân tử tham gia vào phản ứng ;
x ,p là số lượng chưa biết chính xác
Nếu khử CO2 đến hexozơ thì cần tiêu tốn 685 kcal và trong trường hợp này phản ứng quang hợp có dạng đơn giản :
6CO2 + 6H2O C6H12O6 + 6O2 (O 2 giải phóng ra là của nước)
Phản ứng quang hợp có 2 giai đoạn :
- Giai đoạn thứ nhất tiến hành dưới tác dụng của ánh sáng là giai đoạn quang phân li nước, giải phóng oxi và hình thành những hợp chất hữu cơ với sự tham gia của hiđro trong thành phần H2O
- Giai đoạn thứ hai xảy ra do các enzim thực hiện là giai đoạn tạo ra các hợp chất hữu cơ
Hàm lượng CO2 là yếu tố có ảnh hưởng đến quang hợp Thí nghiệm của Buossingault cho thấy: Ở điều kiện nhiệt độ không khí và ánh sáng mặt trời như nhau, môi trường có hàm lượng CO2 cao thì qúa trình quang hợp của lá cây tạo ra một lượng chất hữu cơ nhiều hơn so với môi trường không khí bình thường Trong không khí, hàm lượng CO2 có tính chất quyết định qúa trình dinh dưỡng của cây trồng , mặc dù nó chỉ chiếm một tỉ lệ rất thấp (0,03% thể tích không khí)
1.2.2 Quá trình dinh dưỡng của cây trồng trong môi trường đất
Trong quá trình dinh dưỡng, thực vật hút các muối vô cơ đơn giản từ đất vào
rễ Tại đây, các muối vô cơ đơn giản chuyển lên lá để tổng hợp nhiều chất hữu cơ tương đối phức tạp và chuyển các hợp chất này đến các cơ quan khác trong cây Ở
lá, các ion trực tiếp tham gia vào quá trình quang hợp, hoặc tạo nên các sản phẩm thực vật Nhiều ion vô cơ còn tham gia vào thành phần của các enzim, mà thiếu
diệp lục ánh sáng
ánh sáng diệp lục
Trang 8chúng nhiều quá trình biến đổi chất cần thiết cho tế bào sống của thực vật sẽ không thực hiện được
Đặc biệt là nhiều cây trồng không những chỉ đồng hoá được các ion có sẵn trong dung dịch đất mà còn tương tác một cách tích cực với tướng rắn của đất, để chuyển các nguyên tố dinh dưỡng trong thành phần của tướng rắn thành dạng tan Đồng thời, cũng diễn ra việc tách các cation, anion đã được keo đất hấp phụ ra dung dịch, cùng với các ion do sự phân huỷ các chất khoáng và mùn thành các chất
dễ tan
Nói chung, để có thể sinh trưởng và phát triển bình thường, tất cả thực vật bậc cao đều cần đến những nguyên tố dinh dưỡng như nhau Song tuỳ thuộc vào đặc tính sinh lý của các loại, các dạng thực vật khác nhau còn đòi hỏi một tỉ lệ các nguyên tố dinh dưỡng khác nhau Do đó, việc nghiên cứu dinh dưỡng thực vật để phục vụ cho trồng trọt đòi hỏi không chỉ chú ý đến cơ sở chung về dinh dưỡng của
hệ rễ mà còn phải quan tâm đến những đặc tính cụ thể của các quá trình này đối với các cây trồng, ở những điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng nhất định của việc trồng trọt
Trang 9CHƯƠNG 2 – THÀNH PHẦN VÀ CÁC TÍNH CHẤT
NÔNG HOÁ CỦA ĐẤT
2.1 Thành phần hoá học của đất
Đất gồm có phần rắn, phần lỏng (dung dịch đất) và phần khí Trong đất, ba phần này có quan hệ chặt chẽ với nhau
2.1.1 Thành phần khí của đất
Phần khí của đất thường có thành phần khác với không khí trong khí quyển Hàm lượng khí CO2 cao hơn và O2 thấp hơn Trong đất, thường xuyên diễn ra sự hút oxi và giải phóng khí CO2 do phân huỷ chất hữu cơ, hô hấp của vi sinh vật, rễ cây và một số phản ứng hoá học Trong khí quyển, CO2 chiếm 0,03%, còn trong đất, CO2 có thể có từ vài phần nghìn đến 1% (có khi chiếm 2 3% và hơn nữa)
Độ ẩm, thành phần cơ giới, cấu trúc và độ xốp của đất, đặc tính thực vật, nhiệt
độ, áp suất khí quyển v.v… có ảnh hưởng đến số lượng và thành phần khí trong đất
Hàm lượng CO2 trong thành phần khí của đất phụ thuộc vào cường độ trao đổi khí giữa đất và khí quyển CO2 tạo ra trong đất, một phần thoát ra khí quyển, một phần tan vào trong dung dịch đất Do sự khuếch tán CO2 từ đất làm tăng lượng CO2
trong lớp không khí gần mặt đất, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự đông hoá
CO2 của thực vật và dẫn tới khả năng tăng thu hoạch Sự hoà tan khí CO2 vào dung dịch đất tạo ra axit cacbonic Khi phân li, nó gây ra sự axit hoá phần lỏng của đất
CO2 + H2O H2CO3
H2CO3 H+ + HCO3- Hàm lượng CO2 trong phần khí và trong dung dịch đất có mối liên quan khá chặt chẽ: Khi nồng độ khí CO2 trong không khí tăng sẽ dẫn đến sự chuyển khí CO2
vào dung dịch mạnh hơn, do đó làm tăng nồng độ H+ trong dung dịch, và ngược lại, khi lượng khí CO2 trong không khí bị giảm thì CO2 từ dung dịch sẽ thoát ra ngoài không khí
Việc làm giàu CO2 trong dung dịch đất có tác dụng hoà tan các hợp chất khoáng trong đất (các phôtphat và canxi cacbonat …) dẫn tới việc chuyển các chất khoáng thành dạng dễ tiêu cho cây trồng Song, hàm lượng CO2 cao quá và thiếu oxi trong phần khí của đất (chẳng hạn, ở nơi ngập úng và độ thoáng khí của đất kém) thì lại có ảnh hưởng xấu đến phát triển của thực vật và vi sinh vật Trong điều kiện thiếu oxi, quá trình hô hấp và phát triển rễ bị hạn chế Ở điều kiện độ thoáng khí kém, nồng độ oxi trong phần khí của đất thấp, các quá trình khử yếm khí bắt đầu tiến hành mạnh trong đất Đất có độ thoáng tốt và sự trao đổi khí diễn ra mạnh
Trang 10giữa phần khí của đất với khí quyển, sẽ tạo ra nhiều CO2 cho lớp không khí gần mặt đất, đồng thời tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vi sinh vật đất và dinh dưỡng thực vật
2.1.2 Thành phần của dung dịch đất (phần lỏng của đất)
Dung dịch đất là phần hoạt động và linh động nhất của đất, trong đó có nhiều quá trình hoá học được thực hiện và từ đó thực vật trực tiếp đồng hoá các chất dinh dưỡng Trong dung dịch đất có thể có các anion HCO3-, OH-, Cl-, NO3-, SO42-,
H2PO4- v.v… và còn có các muối sắt, nhôm, các chất hữu cơ tan được trong nước Ngoài ra, trong dung dịch đất còn chứa các khí tan như O2, CO2, NH3 v.v…
Sự có mặt các muối trong dung dịch đất là do quá trình phong hoá các chất khoáng bị phân huỷ và sự biến đổi các hợp chất hữu cơ trong đất do vi sinh vật, do phân bón vô cơ và hữu cơ
Sự có mặt thường xuyên và đầy đủ các ion K+, Ca2+, Mg2+, NH4+, NO3-, SO42-,
H2PO4
trong dung dịch đất là điều đặc biệt quan trọng đối với dinh dưỡng thực vật Hàm lượng muối tan trong đất thường vào khoảng 0,05% Nếu hàm lượng muối tan cao hơn (0,2%) sẽ có tác dụng hại đối với cây trồng
Thành phần và nồng độ của muối tan có thể bị thay đổi do ảnh hưởng của nhiều yếu tố Lượng muối trong dung dịch đất tăng lên khi bón phân, khi giảm độ
ẩm của đất hoặc khi tăng cường hoạt động của vi sinh vật và quá trình vô cơ hoá hợp chất hữu cơ Ngược lại, sự hút chất dinh dưỡng của thực vật, sự rửa trôi các chất tan, hoặc sự chuyển hoá chúng thành các dạng không tan, sẽ dẫn đến tình trạng giảm nồng độ dung dịch đất Thành phần và nồng độ muối tan trong dung dịch đất cũng phụ thuộc vào tương tác giữa dung dịch đất với phần rắn của đất và các phản ứng trao đổi giữa dung dịch đất và keo đất
2.1.3 Thành phần rắn của đất (thành phần cơ giới của đất)
Phần rắn của đất là nguồn dự trữ chính các chất dinh dưỡng cho cây trồng Nó gồm phần khoáng mà ở đa số loại đất chiếm đến 90 – 99% khối lượng của phần rắn
và phần chất hữu cơ chỉ chiếm vài phần trăm khối lượng phần rắn, nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với độ phì nhiêu của đất
Bảng 2.1 Thành phần (nguyên tố) hoá học trung bình của phần rắn (%)
Nguyên tố % Nguyên tố % Nguyên tố % Oxi 49,0 Rubiđi 6.10-3 Nitơ 0,1 Silic 33,0 Kẽm 5.10-3 Đồng 2.10-3Nhôm 7,1 Xezi 5.10-3 Bo 1.10-3
Trang 11Sắt 3,7 Niken 4.10-3 Chì 1.10-3Cacbon 2,0 Liti 3.10-3 Gali 1.10-3Canxi 1,3 Kali 1,3 Thiếc 1.10-3Flo 0,02 Natri 0,6 Coban 8.10-4Crôm 0,02 Magie 0,6 Thori 6.10-4Clo 0,01 Hiđro 0,5 Asen 5.10-4Vanađi 0,01 Titan 0,46 Iôt 5.10-4Phôtpho 0,08 Mangan 0,08 Lưu huỳnh 0,08 Bari 0,05 Stronti 0,03 Palađi 5.10-4Molipđen 3.10-4 Urani 5.10-4 Berili (10-4) Selen 1.10-6 Cađimi 5.10-3 Thuỷ ngân (10-5) Rađi 8.10-11
Tất cả các nguyên tố trên, trừ nitơ, đều chứa trong phần khoáng cúa đất và tồn tại trong các hợp chất khoáng khác nhau
Các nguyên tố C, H, O, P và S có trong phần khoáng và cả trong thành phần chất hữu cơ Riêng N thì hầu như hoàn toàn chứa trong thành phần chất hữu cơ của đất
* Phần khoáng của đất:
Phần khoáng của đất là sản phẩm phong hoá lâu dài của đá mẹ
Nó có thành phần cơ giới, thành phần khoáng và hoá học phức tạp Nó gồm các hạt khoáng khác nhau, có kích thước từ phần triệu milimet đến 1mm và hơn nữa Người ta phân loại các khoáng chứa trong đất theo nguồn gốc: khoáng sơ cấp
và thứ cấp
Các khoáng sơ cấp: thạch anh, fenspat, mica … có trong đất, hình thành từ đá
mẹ do phong hoá Trong đất, các khoáng này chủ yếu tồn tại dưới dạng hạt cát (từ 0,05 – 1mm) và bụi (0,001 – 0,05mm) và có một lượng nhỏ ở dạng hạt bùn (<0,001mm) và keo (< 0,25micron) Các khoáng sơ cấp khi bị phân huỷ, dưới ảnh hưởng của các quá trình hoá học (hiđrat hoá, thuỷ phân, oxi hoá) và hoạt động của các vi sinh vật khác nhau trong đất, tạo nên sesquioxit, các muối silicat khác nhau
Trang 12và những khoáng thứ cấp mà người ta gọi là các khoáng sét như kaolinit, mongmorilonit … Các khoáng thứ cấp có trong đất chủ yếu dưới dạng bùn và hạt keo
Hình 2.1 Sơ đồ cấu tạo kaolinit (Al 4 Si 4 O 10 (OH) 6 )
Hình 2.2 Sơ đồ cấu tạo mongmorilonit (Al 4 Si 8 O 20 (OH) 4 )
Về thành phần hoá học, các khoáng được chia thành các hợp chất silicat và aluminôsilicat:
- Các silicat: trong số các silicat trong đất, khoáng thạch anh (SiO2) là phổ biến nhất Người ta thường gặp thạch anh dưới dạng các hạt cát, bụi, một phần nhỏ ở dạng bùn và hạt keo Hầu như trong tất cả các loại đất, thạch anh chiếm trên 60%, còn trong đất cát có khoảng 90% và hơn nữa Thạch anh rất bền, về mặt hoá học thì khá trơ và ở điều kiện thường không tham gia vào các phản ứng hoá học trong đất Còn các silicat khác, công thức cấu tạo có nhiều dạng khác nhau
Trang 13Hình 2.3 Những hình dạng của các nhóm silicat khác nhau (các silicat tự nhiên)
- Các hợp chất của sắt thường ở dạng muối hiđro:
Muối kiềm Fe3(OH)6PO4, Fe2(OH)3PO4, Fe3(OH)3(PO4)2
Muối trung tính: FePO4
Muối axit: FeH3(PO4)2, FeH6(PO4)3
- Các hợp chất của Ca, Na, K và Mg thường ở dạng muối nitrat, sunfat, clorua, photphat
Các hợp chất của photpho thường ở dạng floapatit Ca5(PO4)3F
Trong hiđroxiapatit, F được thay thế bằng OH: Ca5(PO4)3OH
Trong cloapatit, F được thay thế bằng Cl: Ca5(PO4)3Cl
- Lưu huỳnh có khoảng 0,85% trong đất và ở dạng các hợp chất: H2S, SO2, FeS2, ZnS, PbS, CaSO4 v.v…
- Hợp chất của nguyên tố vi lượng: MnSiO3 (Silicat rodenit), Mn3Al2Si3O12
(Alumino silicat), MnO, Mn3O4 v.v…
Các hợp chất của Co, Mn, Cu, Zn cũng thường ở các dạng muối
Sự hình thành các chất trên là do quá trình phong hoá đá mẹ, do tác dụng của
vi sinh vật và axit hữu cơ
* Các chất hữu cơ trong đất:
Chất hữu cơ trong đất tuy ít (0,5 – 10%) nhưng là thành phần quan trọng, đặc trưng cho đất trồng trọt Trong số các hợp chất hữu cơ đó, mùn là loại chất có vai trò đặc biệt đối với dinh dưỡng của cây trồng
Có thể phân chia các hợp chất hữu cơ của đất thành 2 nhóm sau:
Trang 141 Các chất hữu cơ chưa mùn hoá có nguồn gốc động thực vật: Các hợp chất
này chủ yếu vẫn là các chất hữu cơ trong xác động thực vật chưa được phân huỷ hoặc bán phân huỷ
Hàng năm trong lớp đất trồng trọt có khoảng 5 – 8 tấn xác thực vật trên mỗi
ha, chiếm 7 – 8% lượng chất hữu cơ của lớp đất này Khối lượng vi sinh vật (ở lớp đất 0 – 20cm) từ 0,7 – 2,4 tấn/ha Những hợp chất hữu cơ trong xác động thực vật gồm những chất hoá học khác nhau và những sản phẩm trung gian của sự phân huỷ các chất đó như gluxit (xenlulo, hemixenlulo, tinh bột …), các axit hữu cơ, protit và các chất hữu cơ chứa nitơ khác (các aminoaxit, amit …), chất béo, nhựa, andehit, các axit poliuric và các dẫn xuất của chúng, các poliphenol, tanin, lignin …
Phần chất hữu cơ chưa mùn hoá thường chiếm 10 – 15% khối lượng chất hữu
cơ của đất Song những hợp chất này có vai trò đối với sự sống của thực vật, vi sinh vật trong đất và độ phì nhiêu của nó
Các hợp chất hữu cơ chưa mùn hoá có thể bị phân huỷ trong đất thành chất vô
cơ dễ được cây trồng đồng hoá Các nguyên tố dinh dưỡng trong thành phần của chúng là nitơ, photpho, lưu huỳnh và các nguyên tố khác Tuy nhiên, không phải tất
cả các chất hữu cơ trong xác động thực vật đều được khoáng hoá hoàn toàn
2 Nhóm các hợp chất hữu cơ có bản chất đặc biệt được gọi là các chất mùn:
Trong đất, ngoài sự phân huỷ các chất chưa mùn hoá như trên còn có các quá trình tổng hợp
Các hợp chất hữu cơ mới khá phức tạp, từ những sản phẩm phân huỷ của các chất chưa mùn hoá hình thành các chất mùn Các vi sinh vật đất thường có vai trò xúc tiến cho các quá trình mùn hoá này
Dưới ảnh hưởng của chúng, xác động thực vật ban đầu bị phân huỷ thành các chất hoá học đơn giản hơn Trong số này, có những hợp chất loại thơm poliphenol, các quinon tạo ra khi phân huỷ các chất tanin và lignin, đồng thời với các sản phẩm phân huỷ protit của nguyên sinh động vật (polipeptit và aminoaxit) là những thành phần chất mùn
Các chất mùn là những hợp chất chứa nitơ có phân tử lượng cao và tính axit Phần lớn các chất này tồn tại dưới dạng liên kết với chất vô cơ của đất
Có thể chia các chất mùn làm 3 nhóm chính: các axit humic, axit funvic và các humin
Axit humic là nhóm các chất được chiết ra khỏi đất bằng kiềm (hoặc bằng các
dung môi khác), ở dạng dung dịch màu sẫm (các humat Na+, NH4
+
hoọc K+) và được kết tuả dưới dạng vô định hình bằng các axit
Nhóm các axit humic được chiết ra từ các loại đất khác nhau có thành phần nguyên tố: C: 50 – 62%; H: 2,8 – 6%; O: 31 – 40%; N: 2 – 6%
Trang 15Sự dao động về thành phần nguyên tố của các axit humic ở các loại đất khác nhau là do thành phần các chất trong nhóm này hoàn toàn không đồng nhất Ngoài
C, H, O, N, khi phân tích nhóm các axit humic, người ta còn thấy trong tro có những nguyên tố: P, S, Si, Fe, Al chiếm 1 – 10% về khối lượng Những nguyên tố này kết hợp với axit humic thường do các phản ứng thứ cấp
Cấu tạo phân tử của các axit humic, hiện nay vẫn còn là vấn đề chưa được hoàn toàn giải thích rõ ràng Theo các giả thuyết hiện tại, các axit humic là những hợp chất phức tạp có phân tử lượng cao, có bản chất thơm Đơn vị cấu tạo cơ bản của chúng là mạch cacbon vòng có các mạch nhánh cacbon dài mang những nhóm chức khác nhau (hiđroxyl, phenol, metoxyl …)
Trong thành phần phân tử của các axit humic có những vòng thơm, dị vòng 5,6 cạnh, có nitơ và không có nitơ Chúng liên kết với nhau bằng các cầu – NH –, – CH2 – … Có những tài liệu cho biết trong axit humic có những gốc gluxit (hexozơ, pentozơ …) và các hợp chất hữu cơ chứa nitơ (các aminoaxit khác nhau) Trong thành phần phân tử của nó có các nhóm chức: 3 – 6 nhóm hiđroxyl phenol (OH), 3 – 4 nhóm cacboxyl (COOH) và các nhóm metoxyl (OCH3), cacbonyl (– C –), chúng tạo nên tính chất của axit humic và đặc tính tương tác của
O
chúng với đất Các nhóm hiđroxyl phenol và cacboxyl trong axit humic tạo khả năng cho nó tham gia vào các quá trình trao đổi hấp phụ cation và quyết định tính axit của axit này Còn ion hiđro trong nhóm cacboxyl cho khả năng thế các cation khác nhau để tạo muối humat:
RCOOH + NaHCO3 RCOONa + H2O + CO2 2RCOOH + CaCO3 (RCOO)2Ca + H2O + CO2 Sepfe và Unrich (1960) đã trình bày nguyên tắc cấu tạo axit humic như sau: Các axit humic được tạo thành từ các đơn vị cấu tạo là các cầu nối và nhóm chức loại izo hoặc hetero Nhân của axit humic là những vòng 5 hoặc 6 cạnh, ví dụ:
NH N N
Indol Piriđin Quinolin
Trang 16Các nhân liên kết với nhau bằng các cầu nối, chỉ gồm nguyên tử (–O–; –N=) hoặc nhóm nguyên tử (–NH–; –CH2–), các nhóm định chức thường là nhóm cacboxyl (COOH), hiđroxyl (OH), phenol metoxyl (OCH3) và cacbonyl Sự có mặt nhóm cacboxyl là cơ sở để sắp xếp các axit humic vào loại axit Dung dịch huyền phù của axit humic thường có pH 3
Muối của axit humic với cation hoá trị 1 (Na+, K+, NH4
+
) là những humat tan được trong nước, còn những axit humic tự do và các muối của chúng với các cation hoá trị 2, 3 thì không tan và có trạng thái gen Trong đất, các axit humic liên kết với
Ca2+, Mg2+, nên không có khả năng di chuyển theo phẫu diện đất mà được tích luỹ
ở những nơi hình thành ra chúng và ở lớp đất mặt, do đó có chứa nhiều các muối này
Axit humic là phần mùn có giá trị nhất: có khả năng hấp phụ lớn đối với các cation và có vai trò quan trọng trong việc hình thành cấu tượng đất thích hợp cho trồng trọt; các axit humic còn có ý nghĩa lớn là nguồn các chất dinh dưỡng dự trữ, trước hết là nitơ
Các axit funvic là những chất mùn có màu vàng hoặc đỏ nhạt trong dung dịch
sau khi axit hoá nước chiết đất bằng kiềm
Cũng như axit humic, theo cấu tạo, axit funvic là nhóm các hợp chất có phân
tử lượng cao Thành phần nguyên tố của các axit funvic khác axit humic là hàm lượng C và N nhỏ hơn và hàm lượng O và H lại cao hơn: C: 44 – 49%; H: 3,5–5%; O: 44 – 49%; N: 2 – 4%
Những nguyên tố tro trong axit funvic chiếm từ 7 – 10% Khi hoà tan trong nước, nó là một axit hữu cơ tương đối mạnh
Các humin là những phức của axit humic và funvic, liên kết bền với nhau và
với phần khoáng của đất Điều này giải thích tính bền của cao của các humin với tác dụng của axit và kiềm Lượng nitơ trong các humin là 20 – 30% nitơ tổng số của đất và liên kết khá bền, nên các vi sinh vật đất khó phân huỷ được chúng
Sự tạo thành mùn của đất: Mùn được hình thành là do kết quả của sự chuyển
hoá các hợp chất hữu cơ, dưới tác động của enzim và vi sinh vật đất
Nguyên liệu cơ bản để tạo thành mùn là xác thực vật ở trong đất hay ở lớp đất mặt Dưới ảnh hưởng của hoạt động vi sinh vật đất, sự biến đổi của các nguyên liệu thực vật này theo nhiều quá trình khác nhau:
- Quá trình khoáng hoá: quá trình này tạo nên những chất đơn giản như CO2,
H2O, NH3, những muối đơn giản
- Quá trình tổng hợp: Đó là quá trình tạo nên axit mùn phức tạp, từ những chất hữu cơ và vô cơ đơn giản
Ví dụ:
Trang 17 Vai trò của mùn đối với độ phì nhiêu của đất: Từ thành phần và cấu tạo của
mùn, khi phân huỷ, nó cung cấp nitơ cho thực vật, nên mùn là nguồn dự trữ chất
dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng
Nhờ có các nhóm hoạt động trong phân tử, mùn có khả năng hấp phụ và trao
đổi cation, tạo nên những muối mới làm thay đổi thành phần và cấu tượng của đất
Do sự thay đổi cấu tượng, đất nặng trở thành tơi xốp, đất rời rạc được liên hợp lại
với nhau nên thay đổi được chế độ không khí, nhiệt độ và nước trong đất, tạo nên
những điều kiện thích hợp cho sinh trưởng và phát triển thực vật
Các axit mùn, với một lượng nhỏ, khi tạo thành các dạng keo hoà tan có tác
dụng xúc tiến cho sự phát triển rễ, làm cho cây có khả năng sử dụng được nhiều
chất dinh dưỡng có trong đất Do đó, hàm lượng mùn trong đất là một trong những
tiêu chuẩn hàng đầu trong việc đánh giá độ phì nhiêu của đất
* Hàm lượng chất dinh dưỡng và khả năng cung cấp chất dinh dưỡng của
đất
Có thể phân biệt các loại đất khác nhau dựa vào thành phần khoáng, thành
phần và khối lượng chất hữu cơ Do đó, khối lượng các nguyên tố dinh dưỡng của
thực vật trong các loại đất khác nhau, cũng không giống nhau
Nếu xác định lượng N, P2O5 và K2O tổng số ở lớp đất trồng trọt thuộc các loại
đất khác nhau, ta sẽ thấy khối lượng các nguyên tố dinh dưỡng dự trữ trong đất rất
lớn
Bảng 2.1 Tỉ lệ và khối lượng các nguyên tố dinh dưỡng dự trữ trong đất
Nguyên tố dinh dưỡng Tỉ lệ (%) Khối lượng (kg/ha)
N 0,02 0,20 600 6.000
P2O5 0,02 0,30 600 9.000
K2O 0,50 3,00 15.000 90.000
Trang 18Lượng nitơ tổng số trong đất phụ thuộc vào lượng mùn; lượng photpho cũng lớn nếu như đất giàu chất hữu cơ, còn lượng kali thì phụ thuộc vào thành phần cơ giới của đất
Trong nhiều loại đất, lượng tổng số N, P và K dự trữ rất lớn, gấp 10 100 lần lượng các nguyên tố dinh dưỡng này trong thu hoạch của cây trồng Thế nhưng phần lớn khối lượng các chất dinh dưỡng trên tồn tại trong đất dưới dạng các hợp chất mà cây trồng không đồng hoá hoặc khó hấp thu được Chẳng hạn, nitơ chủ yếu tồn tại các chất hữu cơ phức tạp (chất mùn, protit …), phần lớn photpho ở dạng các hợp chất vô cơ và hữu cơ khó tan, còn phần chủ yếu của kali ở trong các khoáng aluminosilicat không tan
Do đó, lượng tổng số các nguyên tố dinh dưỡng trong đất chỉ đặc trưng cho độ phì nhiêu tiềm tàng của đất mà thôi Để xác định độ phì nhiêu hiệu dụng tức là khả năng cung cấp chất dinh dưỡng thực tế của đất cho thu hoạch cao của cây trồng, phải là lượng chất dinh dưỡng ở dạng dễ tiêu đối với thực vật
Cây trồng chỉ có thể đồng hoá các chất dinh dưỡng dưới dạng các hợp chất tan được trong nước và môi trường axit yếu hoặc các ion ở trạng thái hấp phụ trao đổi Quá trình biến đổi các hợp chất không tan và khó tan thành dạng đồng hoá được thường diễn ra trong đất, dưới ảnh hưởng của vi sinh vật đất và các quá trình hoá học, hoá lý
Việc huy động các nguyên tố dinh dưỡng (quá trình biến đổi các chất khó tan thành dạng dễ tiêu) trong các loại đất khác nhau, thường diễn ra không đồng đều
mà phụ thuộc vào tính chất các hợp chất, điều kiện khí hậu, tính chất đất và mức độ canh tác Cho nên, mặc dù lượng chất dinh dưỡng dự trữ trong đất khá lớn, cây trồng vẫn không có đủ chất dinh dưỡng dễ tiêu để cho khối lượng thu hoạch cao
Do đó, để tăng độ phì nhiêu thực tế cho đất và tăng thu hoạch cây trồng, việc bón phân vô cơ và hữu cơ là vấn đề có ý nghĩa to lớn
Lượng chất dinh dưỡng dễ tiêu phụ thuộc vào loại đất, mức độ canh tác, chế
độ phân bón … nên hàm lượng các chất dinh dưỡng đó thường khác nhau không chỉ ở các cơ sở nông nghiệp khác nhau mà ngay cả ở mỗi cánh đồng trong cùng một cơ sở nông nghiệp Vì vậy, việc phân tích nông hoá đất để xác định lượng N, P
và K dễ tiêu đồng thời với việc tiến hành những thí nghiệm đồng ruộng là công việc có ý nghĩa quan trọng, đối với việc sử dụng phân bón hợp lý
Tóm lại, đất trồng trọt là một hệ đa tướng gồm khí, lỏng và rắn, có quan hệ mật thiết với nhau và là môi trường dinh dưỡng của cây
2.2 Các tính chất nông hoá của đất
2.2.1 Tính chất hấp thu chất dinh dưỡng
Khả năng hấp thu chất dinh dưỡng của đất là khả năng hút các ion, các phân tử của các chất khác nhau từ dung dịch đất và giữ chúng lại Nhờ có tính chất đó, đất
Trang 19giữ được chất dinh dưỡng cho cây trồng, hạn chế sự rửa trôi và khi cần, cây trồng
có thể trao đổi chất dinh dưỡng với đất Mặt khác, cũng nhờ đó, cây có khả năng điều tiết được nồng độ các ion thích hợp cho cây
Quá trình hấp thu chất dinh dưỡng của đất được chia thành 5 dạng: hấp thu sinh học, cơ học, lý học, hoá học và hấp phụ hoá lý
* Hấp thu cơ học:
Trong đất có những khe hở do các hạt đất sắp xếp không khít nhau, hoặc có những mao quản Khi các chất di chuyển chúng bị khe hở giữ lại Nhờ đó, đất thu hút được nhiều chất dinh dưỡng và sinh vật có ích, không để cho nước cuốn trôi đi
* Hấp thu lý học:
Dạng hấp thu này xảy ra trên bề mặt những hạt đất nhỏ (keo đất) Do năng lượng mặt ngoài của keo đất khá lớn làm cho đất có khả năng giữ lại trên bề mặt hạt keo những phân tử của nhiều chất khác nhau trong đất Sự hấp thu này phụ thuộc vào diện tích bề mặt hạt keo Diện tích bề mặt hạt keo càng lớn, sự hấp thu lí học càng mạnh Phân tử các chất tan trong dung dịch đất bị keo đất hấp thu mạnh hơn các phân tử nước Do đó, nồng độ dung dịch ở xung quanh hạt keo thường cao hơn so với những điểm xa keo đất Trường hợp này xảy ra sự hấp thu phân tử dương, còn gọi là hấp thu lí học dương Đó là cơ chế của sự hấp thu các chất hữu
cơ như rượu, axit hữu cơ, bazơ hữu cơ và các chất cao phân tử Theo K.K.Geđroit trong số các hợp chất vô cơ phức tạp trong đất, chỉ có các bazơ mới có thể hấp thu dương Những chất vô cơ tan trong nước, trái lại có hiện tượng hấp thu âm Hiện tượng hấp thu âm thường xảy ra khi có đất tiếp xúc với những dung dịch clorua, nitrat Nhờ có hiện tượng hấp thu lí học âm mà các clorua và nitrat dễ di chuyển trong đất Khi độ ẩm trong đất tăng thì các clorua và nitrat dễ di chuyển xuống lớp đất dưới Vì vậy, khi bón phân nitrat hay đạm clorua thì Cl- , NO3- dễ bị rửa trôi và
Trang 20không có khả năng tích luỹ lại trong đất, do đó hiệu lực của phân clorua, nitrat bị giảm sút, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng
Ca(H2PO4)2 + Ca(HCO3)2 = 2CaHPO4 + 2H2CO3
Ca(H2PO4)2 + 2Ca(HCO3)2 = 2Ca3(PO4)2 + 4H2CO3
Ở đất chua và đất đỏ có nhiều nhôm, sắt thì sự hấp thu hoá học của axit H3PO4
chủ yếu sẽ diễn ra theo hướng tạo thành sắt, nhôm photphat ít tan:
Fe(OH)3 + H3PO4 = FePO4 + 3H2O Al(OH)3 + H3PO4 = AlPO4 + 3H2O
Do đó, môi trường đất có ảnh hưởng rõ rệt đến sự hấp thu hoá học Sự hấp thu này chỉ có lợi trong trường hợp đất có nhiều sắt, nhôm di động Nhờ đó, cây không
bị ngộ độc do hàm lượng cao của các ion này
Nhưng ở trường hợp trên, lân dễ tan chuyển thành dạng kết tủa, cây trồng sẽ thiếu lân Hiệu suất của phân lân trong trường hợp này bị giảm sút
Sự hấp thu hoá học và lí học đều làm thay đổi trạng thái, nồng độ muối trong dung dịch đất
*Hấp phụ hoá lý (hấp phụ trao đổi):
Sự tiếp xúc giữa phần rắn với dung dịch đất không những xảy ra hấp thu hoá học, hấp thu phân tử mà còn phổ biến diễn ra sự hấp phụ hoá lí có tầm quan trọng đặt biệt Quá trình hấp phụ này thường được thể hiện rõ rệt nhất khi phần rắn hấp phụ trao đổi các ion Đó là khả năng của các hạt đất nhỏ ( 0,0002 mm) phân tán, mang điện tích âm (được gọi là hạt keo có thành phần là chất vô cơ hoặc hữu cơ phức tạp) hút và giữ các cation trên bề mặt hạt keo, đồng thời có kèm theo sự tách một đương lượng các cation khác (Ca2+, Mg2+ …) từ bề mặt keo đất ra dung dịch Chẳng hạn, khi xử lý đất đã bão hoà ion canxi bằng dung dịch kali clorua, các cation K+ từ dung dịch bị hấp phụ lên bề mặt keo đất và đồng thời từ bề mặt keo đất, một đương lượng Ca2+ được chuyển ra dung dịch Nếu ký hiệu keo âm là [KĐn-], phản ứng trao đổi cation giữa keo đất với ion trong dung dịch, có thể viết: [KĐn-]Ca2+ + 2KCl [KĐn-]
K
K + CaCl2
Trang 21Trong trường hợp này diễn ra sự trao đổi cation nên người ta gọi dạng hấp phụ này là hấp phụ trao đổi cation
Hấp phụ trao đổi cation là quá trình chủ yếu trong các phản ứng diễn ra trong đất Nó có ảnh hưởng lớn đến tính chất lí học, hoá lí của đất như: cấu tượng và khả năng đệm của đất Do đó, nó có ý nghĩa đặc biệt đối với việc bón phân vào đất Biến đổi hoá học của nhiều loại phân bón, nhất là phân kali và phân đạm dễ tan, phần lớn bị chi phối bởi quá trình hấp phụ trao đổi
Mỗi loại đất ở trạng thái tự nhiên thường có chứa một lượng nhất định các cation hấp phụ trao đổi như: Ca2+, Mg2+, H+, Na+, K+, NH4
+
, Al3+ … Phần lớn các loại đất có chứa nhiều Ca2+, Mg2+ Một vài loại đất ở trạng thái hấp phụ có chứa một lượng lớn H+ và thường có ít Na+, K+, NH4+
Khi bón một muối tan vào đất (ví dụ: NH4NO3, (NH4)2SO4, NH4Cl, NaNO3, KCl, K2SO4) các cation của muối trong dung dịch bị hấp phụ bởi các hạt đất có độ phân tán cao, đồng thời có một đương lượng cation đã bị đất hấp phụ từ trước được tách ra và đi vào dung dịch:
[KĐn-]Ca2+ + (NH4)2SO4 [KĐn-]
4 4
NH
NH + CaSO4 [KĐn-]Ca2+ + 2NaNO3 [KĐn-]
Na
Na + Ca(NO3)2 [KĐn-]H+ + KCl [KĐn-]K+ + HCl
Trong quá trình hấp phụ trao đổi cation, các hạt đất có độ phân tán cao (keo khoáng hoặc keo hữu cơ) có vai trò chủ yếu
2.2.2 Tính chua, tính kiềm và phản ứng của dung dịch đất
Phản ứng của dung dịch đất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thực vật
và vi sinh vật đất, đến tốc độ và chiều hướng của các quá trình sinh hoá, hoá học trong đất Sự đồng hoá các chất dinh dưỡng của thực vật, hoạt động của vi sinh vật đất, sự khoáng hoá của các chất hữu cơ, quá trình phân huỷ các chất khoáng và sự hoà tan các hợp chất khó tan, việc kết tụ và phân tán keo và những quá trình hoá lí khác, phần lớn phụ thuộc vào phản ứng của đất Nó cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu suất phân bón trong đất Mặt khác, phân bón có thể làm thay đổi phản ứng của dung dịch đất như axit hoá hoặc kiềm hoá dung dịch đất
Phản ứng của dung dịch đất phụ thuộc vào tỉ số ion H+ và OH- Nồng độ ion
H+ trong dung dịch được biểu thị bằng chỉ số pH (pH = -log[H+])
Bảng 2.2 Các loại phản ứng dung dịch đất (phân loại dựa vào nồng độ ion H +
- giá trị pH)
Trang 22Phản ứng pH Nồng độ ion H + (g/l)
Chua mạnh 3 – 4 10-3 – 10-4 Chua 4 – 5 10-4 – 10-5
Ít chua 5 – 6 10-5 – 10-6Trung tính 7 10-7 Kiềm yếu 7 – 8 10-7 – 10-8Kiềm 8 – 9 10-8 – 10-9Kiềm mạnh 9 - 11 10-9 – 10-11Trong điều kiện tự nhiên, phản ứng dung dịch đất thường không vượt quá giới hạn pH = 4 ÷ 8
Phần lớn đất trồng cây lương thực, rau, hoa quả và cây công nghiệp ở nước ta
là đất chua không thuận lợi cho sự phát triển thực vật và vi sinh vật có ích trong đất
Do đó, việc làm sáng tỏ bản chất độ chua của đất và nghiên cứu phương pháp khử chua là những vấn đề có ý nghĩa khá quan trọng
* Độ chua và nguyên nhân gây ra độ chua:
Đất chua là đất có chứa nhiều H+ không những hiện tại có trong dung dịch đất
mà chủ yếu là trên bề mặt keo đất ở trạng thái hấp phụ có nhiều H+ và Al3+
Dựa vào trạng thái tồn tại của H+ trong đất, người ta chia độ chua của đất thành 2 loại: độ chua hiện tại và độ chua tiềm tàng
- Độ chua hiện tại: là độ chua của dung dịch đất, gây nên do nồng độ của ion
H+ cao hơn so với ion OH-
Độ chua hiện tại có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thực vật và vi sinh vật đất
Nguyên nhân gây ra độ chua hiện tại là do trong đất thường xuyên có sự hình thành khí CO2 Khí CO2 hoà tan vào dung dịch đất tạo ra H2CO3, phân ly thành ioh
H+ và HCO3- Nồng độ CO2 trong phần khí của đất càng cao, hoà tan vào dung dịch đất càng nhiều, dung dịch càng bị axit hoá Song một phần axit cacbonic được tạo
ra bị trung hoà bởi bazơ hấp phụ (Ca2+, Mg2+, Na+) và canxi, magie cacbonat trong đất:
CaCO3 + H2CO3 = Ca(HCO3)2
Trang 23KĐ ]Ca2+ + 2H2CO3 = KĐ
H
H + Ca(HCO3)2 Ngoài ra, dung dịch còn bị axit hoá bởi các axit hữu cơ tan và cả muối nhôm thuỷ phân tạo thành axit và bazơ yếu
Vậy, độ chua hiện tại là độ chua của dung dịch đất tạo nên bởi axit cacbonic, các axit hữu cơ tan trong nước và các muối axit thuỷ phân Độ chua hiện tại được xác định bằng cách đo pH nước chiết của đất
- Độ chua tiềm tàng: được phân thành độ chua trao đổi và độ chua thuỷ phân
Độ chua trao đổi: Ngoài độ chua hiện tại, đất còn có độ chua tiềm tàng tạo nên
sự có mặt của ion H+ hoặc ion Al3+ ở trạng thái hấp phụ Một số ion H+ ở trạng thái hấp phụ có thể tách ra từ dung dịch do trao đổi với các cation của muối trung tính Chẳng hạn, khi xử lí đất bằng dung dịch KCl, cation K+ bị hấp phụ bởi đất và ion
H+ từ trạng thái hấp phụ chuyển ra dung dịch:
KĐ ]H+ + KCl = KĐ ]K+ + HCl
Các ion H+ được tách ra làm cho dung dịch đất bị axit hoá Ngoài ion H+ ở trạng thái hấp phụ, ở các loại đất chua còn có Al3+ hấp phụ cũng có thể chuyển ra dung dịch, khi đất tương tác với các muối trung tính
Do đó độ chua có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khi bón một lượng lớn phân vô
cơ tan vào đất Lúc này, độ chua tiềm tàng chuyển thành độ chua hiện tại và trực tiếp ảnh hưởng âm đến sự phát triển của cây trồng và vi sinh vật có mẫn cảm với độ chua Đặc biệt Al3+ chuyển vào dung dịch sẽ gây độc cho nhiều loại cây trồng Do
đó việc bón vôi vào đất chua cần thiết không chỉ để đảm bảo trung hoà độ chua hiện tại mà còn cả độ chua trao đổi
Người ta xác định độ chua trao đổi bằng cách xử lí lượng cân đất bằng dung dịch KCl 1N Sau đó đo giá trị pH của nước chiết bằng phương pháp so màu hoặc chuẩn độ nước chiết bằng kiềm và biểu diễn giá trị độ chua trao đổi (pHKCl) bằng số mđlg/100g đất Trong giá trị của độ chua trao đổi bao gồm cả độ chua hiện tại Do
đó, độ chua trao đổi của đất thường lớn hơn độ chua hiện tại
Trang 24Độ chua thuỷ phân: Khi xử lý đất bằng dung dịch muối trung tính thì không
thể tách được toàn bộ ion H+ ở trạng thái hấp phụ ra dung dịch, nên độ chua trao đổi chưa thể hiện được toàn bộ độ chua tiềm tàng Các ion H+ ở trạng thái hấp phụ
có thể tách hoàn toàn hơn, khi xử lý đất bằng dung dịch muối kiềm thuỷ phân, (chẳng hạn, natri axetat CH3COONa 1N) Trong nước, muối này bị thuỷ phân tạo
ra axit axetic phân li yếu và bazơ mạnh, do đó dung dịch trở nên kiềm (pH 8,5)
CH3COONa + H2O CH3COOH + Na+ + OH-
Phản ứng kiềm của dung dịch muối này chính là nguyên nhân chủ yếu để tách ion
H+ hoàn toàn hơn khỏi trạng thái hấp phụ trên bề mặt keo đất
Khi dung dịch CH3COONa tương tác với keo đất, các ion H+ từ bề mặt keo đất trao đổi với Na+ Các ion H+ đi ra dung dịch và liên kết với ion OH- để tạo H2O [KĐ]H+ + CH3COOH + Na+ + OH- [KĐ]Na+ + CH3COOH + H2O
Đất hấp phụ ion Na+ càng nhiều và ion OH- trong dung dịch được liên kết với ion H+ càng nhiều thì cân bằng của phản ứng thuỷ phân CH3COONa càng chuyển dịch sang phải Do vậy, axit axetic được tạo ra càng lớn
Có thể xác định lượng axit axetic trong dung dịch bằng chuẩn độ với kiềm
Dạng độ chua này được thể hiện nhờ các muối kiềm thuỷ phân, nên được gọi là độ
chua thuỷ phân
Dưới tác dụng của muối trung tính (khi xác định độ chua trao đổi) chỉ có một phần ion H+ trên bề mặt keo đất được tách ra Các ion H+ còn lại trên bề mặt keo đất không tham gia vào phản ứng trao đổi này Còn dưới ảnh hưởng dung dịch kiềm của CH3COONa (khi xác định độ chua thuỷ phân), các ion H+ ở phức hệ hấp phụ (keo đất) được tách ra hoàn toàn hơn Vì thế, độ chua nhận được khi xử lý đất bằng dung dịch CH3COONa lớn hơn độ chua trao đổi
Độ chua thuỷ phân được biểu thị bằng số mđlg trong 100g đất
Tuy nhiên, đôi khi kết quả xác định độ chua thuỷ phân nhỏ hơn độ chua trao đổi Có thể giải thích là do một vài loại đất có nhiều keo dương (đất đỏ) có khả năng hấp phụ các anion của axit axetic và trao đổi bằng ion OH- của keo dương, vì vậy mà độ chua của nước chiết giảm đi Trong trường hợp này, sử dụng phương pháp thường dùng để xác định độ chua thuỷ phân là không thuận lợi
Nói chung, độ chua thuỷ phân có giá trị gần đúng với độ chua tiềm tàng của đất, nên nó là một cơ sở quan trọng cho việc giải quyết nhiều vấn đề thực tế sử dụng phân bón
* Độ kiềm của đất:
Ngoài đất chua, còn có những loại đất có giá trị pH cao (pH>7): đất kiềm Phản ứng của loại đất này cũng không thuận lợi cho sự phát triển của thực vật và
Trang 25vi sinh vật đất Những đất có chứa nhiều Na+ ở trạng thái hấp phụ (KĐ]Na+) thuộc vào loại đất kiềm
Sự có mặt của nhiều ion Na+ trong số các cation trao đổi có liên quan với tính mặn của đất do các muối natri (ví dụ: NaCl, Na2SO4, Na2CO3)
Trong dung dịch các đất kiềm thường có chứa Na2CO3, NaHCO3, do đó pH>8, nên phản ứng của loại đất này không thuận lợi cho đa số cây trồng
Sự hình thành Na2CO3 trong dung dịch đất có thể giải thích bằng phản ứng trao đổi giữa Na+ với dung dịch axit cacbonic trong đất:
- Đất solonet có hàm lượng Na+ trao đổi > 20%
- Đất thuộc loại solonet… 10- 20%
- Đất thuộc loại solonet yếu 5- 10%
- Đất không thuộc loại solonet… < 5%
Đất có chứa một lượng lớn ion Na+ trao đổi (trên 5% so với dung lượng hấp phụ) thường gây ra những ảnh hưởng xấu đến các tính chất lí học, làm giảm năng suất cây trông và gây khó khăn cho việc cày bừa, làm đất
2.2.3 Tính chất đệm của đất
Phản ứng của dung dịch đất hay nói một cách khác là độ chua kiềm không phải là một đại lượng không đổi Trong đất còn có quá trình lí, hoá học và sinh học tạo ra axit hoặc bazơ và dẫn đến thay đổi phản ứng của dung dịch đất Sự giải phóng axit cacbonic trong quá trình hô hấp của rễ, sự tạo thành axit nitric do quá trình nitrat hoá và những sản phẩm khác của axit trong quá trình sinh sống của vi sinh vật gây ra sự axit hoá dung dịch đất Phản ứng của dung dịch đất cũng bị thay đổi dưới ảnh hưởng của việc sử dụng phân bón Chẳng hạn, khi bón những phân sinh lí chua (NH4Cl, (NH4)2SO4 vv…) dung dịch đất bị axit hoá, còn khi sử dụng phân sinh lí kiềm (NaNO3, Ca(NO3)2) lại diễn ra sự trung hoà độ chua hoặc kiềm hoá dung dịch đất Khi bón có hệ thống các phân sinh lí chua hoặc sinh lí kiềm, phản ứng của dung dịch đất có thể bị thay đổi đáng kể và có ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng và vi sinh vật đất
Song, sự thay đổi phản ứng của môi trường đất dưới tác dụng của những yếu
tố trên, ở các loại đất khác nhau lại diễn ra không hoàn toàn như nhau
Trang 26Đối với các loại đất này thì ít thay đổi, đối với các loại đất khác lại biến đổi nhiều hơn Khả năng của đất chống lại sự thay đổi phản ứng của dung dịch đất về phía axit hoặc kiềm được gọi là khả năng đệm của đất
Nói chung, khả năng đệm của đất phụ thuộc vào tính đệm của phần rắn và phần lỏng của đất
Tính đệm của dung dịch đất là do các axit yếu (H2CO3, axit hữu cơ tan) và muối của chúng Axit yếu (chẳng hạn H2CO3) phân li không hoàn toàn, do đó trong dung dịch phần lớn axit yếu còn ở dạng phân tử ít phân li và chỉ có một lượng nhỏ được phân li
H2CO3 H+ + HCO3
-
Nếu trong dung dịch đất có chứa axit cacbonic, khi có kiềm xuất hiện thì ion
OH- sẽ liên kết với ion H+ tạo ra các phân tử điện li yếu, cân bằng được chuyển dịch và các phân tử axit yếu phân li thêm Các ion H+ tạo ra sẽ liên kết với ion OH-của kiềm và pH của dung dịch sẽ bị thay đổi Do đó, axit yếu của dung dịch đất có khả năng chống lại sự kiềm hoá dung dịch Chẳng hạn, khi bón phân sinh lí kiềm canxi nitrat trong đất, sẽ có Ca(OH)2 tạo thành Tác dụng với axit cacbonic cho canxi cacbonat không tan và sẽ hạn chế phản ứng kiềm hoá dung dịch:
Ca(OH)2 + H2CO3 = CaCO3 + 2H2O
Dung dịch đất, có hỗn hợp axit yếu và muối của nó (chẳng hạn H2CO3 và Ca(HCO3)2 sẽ đệm, hay nói một cách khác là sẽ có khả năng chống lại axit hoá Muối của axit yếu phân li gần hoàn toàn Ca(HCO3)2 = Ca2+ + 2HCO3
-) Vì sự phân li của axit yếu, ví dụ H2CO3, không hoàn toàn, nên theo định luật tác dụng khối lượng , ta có:
HCO H
3 2 3
.
HCO
CO H K H
Theo hệ thức trên, sự phân li của axit H2CO3 phụ thuộc vào lượng trong dung dịch Sự phân li sẽ giảm khi nồng độ anion HCO3- tăng Khi dung dịch có chứa đồng thời H2CO3 và Ca(HCO3)2, nồng độ anion HCO3- chủ yếu phụ thuộc vào lượng Ca(HCO3)2 Do đó, sự có mặt các muối này trong dung dịch sẽ tạo nên một lượng lớn anion HCO3
-, cản trở sự phân li của axit -, một phần các ion H+ từ trạng thái phân li sẽ chuyển về trạng thái không phân li và nồng độ H+ trong dung dịch càng giảm, khi nồng độ muối càng cao Nếu trong dung dịch đất chứa H2CO3 và Ca(HCO3)2 lại xuất hiện axit nitric (do quá trình nitrat hoá) axit nitric sẽ tác dụng với Ca(HCO3)2 tạo ra axit yếu ít phân li (H2CO3), có nghĩa là các ion H+ liên kết với các anion HCO3- chuyển thành trạng thái không phân li Như vậy, trong dung dịch tạo nên muối trung tính và axit yếu, vì vậy pH của dung dịch ít bị thay đổi do dung dịch có tác dụng đệm đối với sự axit hoá của axit nitrric
Trang 27axit hữu cơ phân li yếu
2RCOOH + Ca(OH)2 (RCOO)2Ca + 2H2O
Khả năng đệm của đất không chỉ phụ thuộc vào thành phần của dung dịch đất
mà còn phụ thuộc vào tính chất phần rắn của đất Vai trò đệm của dung dịch đất, trong khả năng đệm nói chung của đất thường rất nhỏ Phần rắn, chủ yếu là phần keo của nó, là yếu tố đệm mạnh nhất trong đất
Do đó, khả năng đệm của đất chủ yếu phụ thuộc vào thành phần các cation trao đổi ở phức hệ hấp phụ của đất Dung lượng hấp phụ của đất càng lớn, khả năng đệm của nó càng cao Các ion bazơ hấp phụ (Ca2+, Mg2+ …) có tác dụng đệm đối với sự axit hoá Nếu đất đã bão hoà bazơ, khi có axit xuất hiện (ví dụ, bón phân amoni sunfat thì xuất hiện H2SO4) thì những ion H+ của axit sẽ trao đổi với các cation của phức hệ hấp phụ (H+ chuyển vào trạng thái hấp phụ) dung dịch có muối trung tính, và phản ứng của dung dịch đất ít bị thay đổi
Ca2+ H+
KĐ Ca2+ + 2H+ + SO42- KĐ H+ + CaSO4
Mg2+ Ca2+
Mg2+
Độ bão hoà bazơ và dung lượng hấp phụ càng lớn, đất càng có khả năng chống
sự axit hoá Các cacbonat (CaCO3 và MgCO3) cũng làm yếu sự axit hoá dung dịch đất vì chúng trung hoà axit và tạo ra bicacbonat:
2CaCO3 + H2SO4 = CaSO4 + Ca(HCO3)2
Vì vậy, đất được bão hoà bazơ có khả năng đệm rất cao đối với axit
Còn đất không bão hoà bazơ có chứa nhiều Al3+ và H+ ở trạng thái hấp phụ, có khả năng đệm cao đối với sự kiềm hoá Khi bón vôi vào đất này, các cation của nó được hấp phụ và trao đổi với các ion H+:
Trang 28Khả năng của đất chống lại sự thay đổi phản ứng của dung dịch đất có ý nghĩa lớn khi bón phân vô cơ
Đất có khả năng đệm thấp (đất cát và đất cát pha) khi bón nhiều phân sinh lí chua có thể có sự thay đổi mạnh phản ứng về phía axit và ảnh hưởng bất lợi đến sự phất triển thực vật và vi sinh vật đất
Đất có thành phần cơ giới nặng và giàu mùn, có dung lượng hấp phụ cao và do
đó có tác dụng đệm lớn, phản ứng dung dịch ít thay đổi, ngay cả khi bón có hệ thống các phân khoáng chua hoặc kiềm
Đất có độ bão hoà bazơ cao sẽ có khả năng đệm tốt với sự axit hoá, còn đất có
độ bão hoà bazơ thấp sẽ có khả năng chống sự kiềm hoá dung dịch
Việc bón phân hữu cơ kết hợp với vôi có hệ thống sẽ nâng cao dung lượng hấp phụ và độ bão hoà bazơ, do đó cũng làm tăng khả năng đệm của đất
Trang 29CHƯƠNG 3 – CÁC PHƯƠNG PHÁP NÔNG HOÁ
CẢI TẠO ĐẤT
3.1 Phương pháp cải tạo đất chua
Ở nước ta, đất chua chiếm một diện tích khá lớn Loại đất này thường chứa nhiều ion H+, Al3+ và chỉ có một lượng nhỏ cation Ca2+, Mg2+ ở trạng thái hấp phụ Một lượng lớn ion H+, Al3+ ở phức hệ hấp phụ sẽ làm cho tính chất sinh học, lí học và hoá lí của đất trở nên giảm sút
Để cải tạo đất chua, cần phải kết hợp phương pháp hoá học với các biện pháp
kỹ thuật nông nghiệp, được gọi là phương pháp nông hoá
Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, thành phần các cation hấp phụ có ảnh hưởng
rõ rệt đến tính chất đất và sự phát triển của thực vật Trong số các cation hấp phụ, canxi có vai trò đặc biệt quan trọng Nhiều tính chất nông hóa của đất, sinh trưởng
và phát triển của cây trồng phần lớn phụ thuộc vào độ bão hòa canxi phức hệ hấp phụ của đất Các phương pháp hóa học cải tạo đất chua đều dựa trên cơ sở thay đổi thành phần cation hấp phụ ở các loại đất này, chủ yếu bằng cách đưa canxi vào phức hệ hấp phụ đất Do vậy, bón vôi là biện pháp cơ bản để trung hòa độ chua và nâng cao độ phì nhiêu cho đất
3.1.1 Quan hệ của cây trồng và vi sinh vật với phản ứng của đất Ảnh hưởng
độ chua của đất đến cây trồng
Đa số cây trồng và vi sinh vật đất phát triển tốt ở phản ứng trung tính hoặc ít chua (pH = 6 → 7) Phản ứng kiềm hoặc chua quá sẽ gây ảnh hưởng âm đến sự phát triển của chúng Các cây trồng khác nhau đòi hỏi phản ứng môi trường có khoảng pH nhất định để sinh trưởng và phát triển thuận lợi
Bảng 3.1 Khoảng pH thích hợp của một số loại cây trồng
Cây trồng Khoảng pH thích hợp Cây trồng Khoảng pH thích hợp
Trang 30Độ chua cao của dung dịch đất trước hết làm giảm sự phát triển của rễ và hạn chế khả năng hút chất dinh dưỡng của nó, do gây ra tác dụng âm đến trạng thái hóa
lí của màng nguyên sinh tế bào rễ Do đó, thực vật sử dụng được ít chất dinh dưỡng của đất và phân bón Phản ứng dung dịch đất ảnh hưởng đến sự hút các cation, anion của thực vật Ở phản ứng kiềm, sự đồng hóa các anion của thực vật bị giảm sút, còn ở phản ứng chua thì ngược lại, khả năng của thực vật hấp phụ các cation
Ca2+, Mg2+, NH4+, K+, … cũng bị cản trở
Phản ứng của dung dịch đất cũng ảnh hưởng đến sự trao đổi gluxit, protit trong thực vật: ở phản ứng chua, quá trình tổng hợp protit bị yếu đi, tổng số hàm lượng protit và nitơ trong thực vật cũng bị giảm, còn lượng nitơ phi protit lại tăng lên, quá trình chuyển hóa các monosaccarit thành các hợp chất hữu cơ phức tạp cần thiết cũng trở nên khó khăn
Độ chua của đất còn gây nên những ảnh hưởng xấu đến đất: ion H+ sau khi tách Ca2+ từ mùn đất làm cho độ phân tán keo mùn tăng lên và dễ bị rửa trôi Sự bão hòa các hạt keo khoáng bằng ion H+ dần dần gây ra sự phá hủy keo Do đó, độ chua cao có ảnh hưởng xấu đến tính chất hóa học, hóa lí và cấu trúc của đất
Các vi sinh vật đất cũng có mối liên quan với độ chua của đất Thông thường,
vi sinh vật có ích (như vi sinh vật nitrat hóa, cố định nitơ) đòi hỏi khoảng pH thích hợp là 6,5 – 7,8 nếu pH < 4 – 4,5, nhiều vi sinh vật có ích hoàn toàn không phát triển được Do đó, ở đất chua, việc cố định nitơ của không khí bị giảm sút rõ rệt, sự khoáng hóa hợp chất hữu cơ bị chậm lại, quá trình nitrat hóa bị cản trở, nên thực vật thiếu điều kiện cần thiết cho quá trình dinh dưỡng nitơ
3.1.2 Tác dụng của vôi với đất
CaCO3 trong đá vôi thực tế không tan trong nước nguyên chất, nhưng trong nước có chứa axit cacbonic thì tính tan của nó tăng lên rõ rệt (tăng khoảng 60 lần) Khi bón CaCO3 vào đất, dưới ảnh hưởng của axit cacbonic có trong dung dịch đất, CaCO3 hoặc MgCO3 biến đổi dần thành dạng bicacbonat
CaCO3 + H2O + CO2 Ca(HCO3)2
Ca(HCO3)2 là muối kiềm thủy phân:
Ca(HCO3) + 2H2O = Ca(OH)2 + 2H2O + 2CO2
Trang 31Đá vôi cũng tương tác với axit humic, các axit hữu cơ khác trong đất chua và axit nitric do quá trình nitrat hóa tạo ra, trung hòa các axit đó:
2RCOOH + CaCO3 → (RCOO)2Ca + H2O + CO2
2HNO3 + CaCO3 → Ca(NO3)2 + H2O + CO2
Khi bón đủ lượng đá vôi có thể khử được độ chua hiện tại, độ chua trao đổi và
độ chua thủy phân cũng giảm đi đáng kể, đồng thời hàm lượng Ca2+ trong dung dịch đất và độ bão hòa bazơ của đất cũng được tăng lên
Ngoài đá vôi, người ta còn dùng Ca(OH)2 để khử chua Khi dùng đá vôi hay đolomit cần phải nghiền nhỏ (< 0,25mm) Theo khả năng trung hòa độ chua thì 1 tấn Ca(OH)2 bằng 1,35 tấn CaCO3
Tuy nhiên, khi sử dụng Ca(OH)2 cần đảm bảo kỹ thuật bón trước khi gieo trồng để khỏi ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển bình thường của cây trồng
3.1.3 Xác định nhu cầu bón vôi
Độ chua của đất càng cao càng cần bón vôi với lượng thích hợp Đối với đất ít chua, biện pháp bón vôi không có hiệu quả rõ rệt
Có thể xác định gần đúng nhu cầu bón vôi dựa vào các dấu hiệu bề ngoài của đất hoặc theo tình trạng của cây trồng và sự phát triển của các loài cỏ dại
Để xác định nhu cầu bón vôi cho cây trồng, cần phải phân tích nông hóa đất trồng, xác định giá trị độ chua trao đổi và độ bão hòa bazơ của đất
Bảng 3.2 Mức độ về nhu cầu bón vôi tùy thuộc vào độ chua trao đổi của đất
có hàm lượng mùn trung bình (2–3%)
pH Nhu cầu bón vôi
≤ 4,5 Rất cần bón vôi 4,6 – 5,0 Cần bón vôi 5,1 – 5,5 Ít cần bón vôi
> 5,5 Đất không cần bón vôi Tuy nhiên phản ứng của dung dịch đất không chỉ phụ thuộc vào độ chua mà còn phụ thuộc vào độ bão hòa bazơ của đất Do đó, mức độ chua của đất là một căn
cứ quan trọng chứ không phải là một chỉ số duy nhất đặc trưng cho nhu cầu bón vôi của đất
Khi xác định nhu cầu bón vôi, cần phải tính đến cả hàm lượng các hợp chất di động của nhôm, mangan, độ bão hòa bazơ của đất và thành phần cơ giới của nó
Trang 32Bảng 3.3 Nhu cầu bón vôi tùy thuộc vào độ bão hòa bazơ
Độ bão hòa bazơ Nhu cầu bón vôi
< 50% Rất cần bón vôi (nhu cầu cao)
50 – 70% Cần bón vôi (nhu cầu trung bình)
> 70% Ít cần (nhu cầu thấp)
> 80% Không cần bón vôi
Ở các giá trị pH bằng nhau, đất nào có độ bão hòa bazơ lớn hơn thì ít cần bón vôi hơn Loại đất có thành phần cơ giới nặng cần được bón vôi nhiều hơn đất cơ giới nhẹ
Nhu cầu bón vôi có thể được xác định khá chính xác bằng cách đồng thời tính đến giá trị pHKCl, độ bão hòa bazơ và thành phần cơ giới của đất
Bảng 3.4 Nhu cầu bón vôi dựa vào tính chất đất
Nhu cầu bón vôi Rất cần Cần Ít cần Không cần Đất
<4,0 <45 4,0–4,5 45–55 4,5–5,0 65–75 >5,0 >75
<5,0 <30 5,0–5,5 30–45 5,5–6,0 45–55 >6,0 >55
<4,5 <35 4,5–5,0 35–50 5,0–5,5 50–60 >5,5 >60 Đất cát và pha cát
<4,0 <40 4,0–4,5 40–55 4,5–5,0 55–60 >5,0 >65 Than bùn và than <3,5 <35 3,5–4,2 35–55 4,2–4,8 55–65 >4,8 >65
Trang 33Do ảnh hưởng của các quá trình tiến hành trong đất và của phân bón nên phản ứng của đất sẽ bị thay đổi, vì vậy theo chu kỳ (sau 4 – 5 năm) việc phân tích nông hóa phải được tiến hành lại để lập lại sơ đồ độ chua cho chính xác hơn
3.1.4 Lượng vôi cần bón
Lượng vôi cần thiết để làm giảm độ chua cao của lớp đất trồng trọt cho đến phản ứng ít chua (pH nước chiết bằng nước: 6,2 – 6,5; pH nước chiết bằng muối: 5,6 – 5,8), thuận lợi cho đa số cây trồng và vi sinh vật có ích, được gọi là lượng vôi đầy đủ hoặc tiêu chuẩn Lượng vôi này phụ thuộc vào các độ chua của đất Có thể xác định lượng vôi đầy đủ một cách chính xác hơn bằng cách dựa vào độ chua thủy phân Có thể tính lượng vôi (ra tấn CaCO3 đối với 1ha) như sau:
Lượng CaCO3 = H 1,5
Trong đó, H là giá trị độ chua thủy phân (mđlg/100g đất)
Qua nghiên cứu cho thấy,để đạt được phản ứng của đất đến phản ứng ít chua chỉ cần khử 2/3 giá trị độ chua thủy phân Do đó, trong nhiều trường hợp chỉ cần bón 2/3 lượng vôi tính theo độ chua thủy phân tiêu chuẩn
Nếu sử dụng phân vôi không phải là CaCO3 mà là MgCO3 hoặc CaO, Ca(OH)2
thì khi tính lượng vôi phải nhân với hệ số sau: 0,84 đối với MgCO3; 0,74 đối với Ca(OH)2; 0,56 đối với CaO
Khi sử dụng các nguyên liệu vôi, trong đó có tạp chất, cần phải hiệu chỉnh theo công thức sau: Lượng CaCO3 100
% CaCO3 trong nguyên liệu
Ví dụ: lượng CaCO3 tìm được theo độ chua của đất bằng 4 tấn CaCO3, nếu dùng đá vôi chứa 80% CaCO3 thì lượng đá vôi cần lấy là: 5
80
100 4
Lượng CaCO 3 (tấn/1ha)
Cát pha và á sét nhẹ 4,0 3,5 3,0 2,5 2,0 2,0
Á sét trung bình và nhẹ 6,0 5,5 5,0 4,5 4,0 3,5
Trang 34(Lượng vôi trong bảng trên xấp xỉ bằng 75% độ chua thủy phân của đất.)
3.2 Phương pháp cải tạo đất kiềm (đất solonet và đất thuộc loại solonet)
Đối với loại đất kiềm, thông thường người ta thường bón thạch cao
Phản ứng giữa đất kiềm với thạch cao:
Để trung hòa lượng kiềm, người ta phải bón vào đất một lượng thạch cao đủ
để thay thế lượng dư Na+ hấp phụ bằng Ca2+
Có thể xác định lượng thạch cao cần bón tùy thuộc vào hàm lượng Na+ hấp thụ theo công thức sau:
Trong đó: 0,086 là 1mđlg CaSO4.2H2O (gam)
H là độ sâu của lớp đất cải tạo (cm)
d là khối lượng riêng của lớp đất cải tạo
Na là tổng lượng Na+ trao đổi (mđlg/100g đất)
T là dung lượng hấp phụ trao đổi của lớp đất cần cải tạo (mđlg/100g đất)
Các nguyên liệu thạch cao (thạch cao thô ngậm nước, phôtpho thạch cao) dùng
để bón cho đất chứa lượng CaSO4 khác nhau, do đó để cung cấp lượng CaSO4 cần thiết phải dùng những lượng nguyên liệu khác nhau, tính theo hàm lượng CaSO4
trong đó, được xác định theo công thức sau:
Lượng CaSO4 2H2O (tấn/ha) = 0,086 (Na – 0,05T) H.d
Trang 35Lượng CaSO4.2H2O 100
CaSO4.2H2O trong nguyên liệu thạch cao sử dụng
3.3 Phương pháp cải tạo đất mặn
3.3.1 Nguồn gốc sự hình thành đất mặn
Đất mặn là loại đất chứa nhiều muối tan (1 – 1,5% hoặc cao hơn), nhất là ở lớp đất mặt Những loại muối tan trong đất mặn thường là: NaCl, Na2SO4, NaHCO3, CaCl2, CaSO4, MgCl2 … Nguồn gốc của các muối này có thể khác nhau: từ lục địa,
từ biển hoặc từ sinh vật … Nói chung, nguồn gốc ban đầu của chúng xuất phát từ thành phần khoáng của nham thạch núi lửa Nhờ quá trình phong hoá, các khoáng
đó bị phân huỷ thành muối tan, di chuyển, tập trung ở những vùng có địa hình trũng, không thoát nước
Ở các miền nhiệt đới mưa nhiều như nước ta, do sự phong hoá thổ nhưỡng xảy
ra mãnh liệt, nên các loại muối, kể cả những loại muối khó tan như CaCO3, CaSO4
… cũng bị hoà tan và có điều kiện tích luỹ sẽ hình thành nên đất mặn Ở miền nhiệt đới có đất mặn có nguồn gốc biển thì thành phần muối tương tự như thành phần muối có trong nước biển
Ở các vùng khô hạn, các muối khó tan thường ở lại trong đất, chỉ có những muối dễ tan mới bị hoà tan, nhưng vì khô hạn nên dung dịch muối không di chuyển
ra mà tích luỹ ở nơi trũng, dưới dạng nước ngầm Ở những vùng này vì khô hạn và mực nước ngầm nông, muối được di chuyển và tập trung lên lớp đất mặt, do sự bốc hơi và thoát hơi nước, nên có nơi muối được tập trung lên mặt đất thành lớp muối trắng
Như vậy, sự hình thành đất mặn là do kết quả tác động của nhiều yếu tố: mẫu thổ chứa nhiều muối tan, địa hình trũng không thoát nước, mực nước ngầm chứa muối gần mặt đất, khí hậu khô hạn …
3.3.2 Các loại đất mặn
Căn cứ vào quá trình phát sinh, tính chất vật lí, hoá học và sinh học, người ta chia đất mặn thành 3 loại chính: đất solonsac, solonet và đất solot (Kopda, 1950)
* Đất solonsac: Loại đất này hình thành do quá trình tích luỹ muối có hàm
lượng muối cao (1 – 1,5%) có khi tạo nên lớp muối trắng trên mặt đất Vì vậy, người ta còn gọi loại đất này là đất kiềm trắng Đất solonsac thường có phản ứng trung tính hoặc kiềm yếu Đất solonsac điển hình rất mặn, cây trồng không thể sinh trưởng và phát triển được
* Đất solonet: Loại đất này được hình thành từ đất solonsac do quá trình thoát
mặn, có nghĩa là đất solonsac được rửa mặn một cách tự nhiên hoặc nhân tạo Đất này thường có phản ứng kiềm hoặc rất kiềm (pH = 8 – 12)
Trang 36* Đất solot: loại đất này được hình thành do đất solonet bị rửa mặn mãnh liệt
Trong quá trình này, ion Na+ ở keo đất bị thay thế bởi H+ Do đó, đất solot thường
Ở nước ta, đất mặn có phản ứng trung tính, kiềm yếu, có khi hơi chua Ở vùng khô hạn, đa số đất mặn có phản ứng kiềm hoặc rất kiềm, có khi pH đất tới 11 – 12
Ở độ pH này, không loại cây trồng nào có thể sinh trưởng được
Ảnh hưởgn xấu của đất mặn đối với cây trồng, tước hết là do áp suất thẩm thấu cao của dung dịch đất Áp suất này thay đổi tỉ lệ thuận với nồng độ muối tan Khi áp suất của dung dịch đất từ 10 – 12at, cây bị chết Ngoài ra, cây còn bị tác dụng độc do nồng độ cao của các ion Các ion thường thấy trong đất mặn và kiềm mặn là Cl-, SO4
2-, HCO3
-, Na+, Mg2+ …
3.3.4 Biện pháp nông hoá cải tạo đất mặn
Đất mặn có độ phì nhiêu tiềm tàng khá cao, nhưng do chứa nhiều muối tan, nên phần lớn không trồng trọt được hoặc trồng trọt không có năng suất cao Vì vậy, đất mặn được coi là nguồn tài nguyên tiềm tàng cần được cải tạo
Có thể dùng nhiều biện pháp cải tạo khác nhau như rửa mặn (biện pháp thuỷ lợi), trồng các loại cây có khả năng chống chịu mặn (biện pháp sinh học) hoặc biện pháp nông hoá …
Cơ sở của biện pháp nông hoá cải tạo đất mặn là xuất phát từ bản chất của đất mặn có chứa nhiều ion Na+ không những trong dung dịch đất dưới dạng muối tan như NaCl, NaHCO3, Na2SO4 … (đất solonsac) mà còn tiềm tàng trên bề mặt của phức hệ hấp phụ có thể trao đổi (đất solonet) Hàm lượng ion Na+ cao gây nên nhiều ảnh hưởng xấu đến tính chất vật lý, hoá học và sinh học, do đó ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trồng, cần được cải tạo bằng cách loại trừ và thay thế ion
Na+ bằng Ca2+
* Cải tạo độ kiềm của đất, thay thế Na + bằng Ca 2+ :
Để cải tạo đất kiềm mặn, người ta thường bón các hợp chất của canxi, có phản ứng kiềm như thạch cao, phôtpho thạch cao Phản ứng ở đất kiềm mặn khi bón thạch cao cũng diễn ra tương tự như ở đất kiềm
Trang 37Nếu đất kiềm mặn giàu CaCO3 cần phải bón vào đất những chất tạo ra H+, để chuyển Ca2+ ở dạng không tan thành dạng tan có thể trao đổi với Na+ Ví dụ, có thể bón lưu huỳnh, pirit, nhôm sunfat, sắt sunfat
Phản ứng giữa lưu huỳnh hoặc pirit với đất có vi sinh vật như sau:
2S + 3O2 2SO3
SO3 + H2O H2SO4
Với pirit: 2FeS2 + 7O2 + 2H2O 2FeSO4 + 2H2SO4
Axit H2SO4 được hình thành trong đất mặn kiềm (giàu CaCO3) sẽ phản ứng với CaCO3:
H2SO4 + CaCO3 = CaSO4 + CO2 + H2O
Na+
KĐ + CaSO4 KĐ ]Ca2+ + Na2SO4
Na+
Nhôm sunfat, sắt sunfat cũng là nguyên liệu cải tạo đất mặn kiềm:
Al2(SO4)3 + 6CaCO3 + 6H2O = 3CaSO4 + 3Ca(HCO3)2 + 2Al(OH)3
Al3+, Fe3+ là những cation có hoá trị cao, có khả năng làm keo đất kết tụ, tránh được hiện tượng rửa trôi chất dinh dưỡng và làm cho đất có kết cấu thích hợp Đối với đất solot và đất solonet bị solot hoá, người ta có thể dùng các hợp chất canxi khó tan như CaCO3, CaO:
Biện pháp hoá học cải tạo đất mặn không chỉ làm thay đổi tính chất hoá học
mà còn làm thay đổi cả tính chất lí học của đất và tạo điều kiện cho việc áp dụng các biện pháp khác một cách có hiệu quả hơn
3.4 Phương pháp cải tạo đất phèn
3.4.1 Sự hình thành đất phèn
Đất phèn là loại đất đặc biệt của vùng đầm lầy ven biển nhiệt đới Đất này còn được gọi là đất chua mặn, đất chua sunfat Ở loại đất này, sau khi cày bừa, nước