Vụ kiện tôm nước ấm DS404 năm 2009 Hiệp hội nhà chế biến xuất thủy sản Việt Nam đề xuất với phủ việc sử dụng chế giải tranh chấp WTO để buộcHoa Kỳchấm dứt biện pháp chống bán phá giá gây bất lợi cho nhà xuất Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích đáng doanh nghiệp nước Vụ kiện tôm nước ấm DS404 vụ kiện thắng lợi pháp lý Việt Nam WTO với tư cách nguyên đơn Vụ kiện để lại nhiều học kinh nghiệm cho doanh nghiệp xuất quan nước có liên quan việc giải tranh chấp thương mại quốc tế Chính vậy, nhóm chọn chủ đề “Vụ kiện Tôm nước ấm DS404” làm đề tài nghiên cứu
Trang 1MỤC LỤC
Sau Đổi Mới, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ thông qua cơ chế mở cửa thị trường, tạo điều kiện cho hàng loạt các doanh nghiệp xuất khẩu được thành lập và thu được nhiều lợi nhuận Tuy nhiên, một số lượng lớn các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đã phảichịu những thiệt hại không đáng có do bị áp mức thuế chống bán phá giá không phù hợp,
mà điển hình trong số đó là những doanh nghiệp xuất khẩu tôm nước ấm đông lạnh sang thị trường Hoa Kỳ Trước tình hình đó, từ năm 2009 Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã đề xuất với chính phủ về việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để buộcHoa Kỳchấm dứt các biện pháp chống bán phá giá gây bất lợi cho nhà xuất khẩu Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong nước Vụ kiện tôm nước
ấm DS404 là vụ kiện đầu tiên và thắng lợi pháp lý đầu tiên của Việt Nam tại WTO với tư cách
là nguyên đơn Vụ kiện này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như các cơ quan trong nước có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế Chính vì vậy, nhóm chúng tôi chọn chủ đề “Vụ kiện Tôm nước ấm DS404” làm
đề tài nghiên cứu cho môn học Pháp luật Thương mại Quốc tế
Bài tiểu luận gồm bốn phần:
I
II
III Kết quả và bài học kinh nghiệm
Do những hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót Vì vậy, nhóm thực hiện mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp, nhận xét để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn
Trang 2CHƯƠNG I.MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VỤ TRANH CHẤPDS404-WTO GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
1 Bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu
Điều 2 Khoản 1 Hiệp định về chống bán phá giá (ADA) quy định:
“Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”
Cụ thể, nếu một sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X nhưng lại được xuất khẩu sang nước B với giá Y (Y<X) thì sản phẩm đó được xem là bán phá giá từ nước A sang nước B
Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu Và các “vụ kiện chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của các vụ kiện) là một hình thức để hạn chế hành vi này
2 Chống bán phá giá
Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hoá bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phán giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá đó
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống bán phá giá , ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);
Trang 3 Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc
bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên;
3 Phương pháp “Quy về 0” (zeroing)
Zeroing là một phương pháp tính toán trong quá trình tính biên độ phá giá trong đó cho phép quy về 0 tất các các giao dịch có biên độ phá giá âm Mỹ là nước duy nhất trong 153 nước thành viên của WTO đang sử dụng biện pháp zeroing để tính thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng xuất khẩu sang nước này
Ví dụ, nếu một nhà xuất khẩu bị điều tra thực hiện 5 giao dịch xuất khẩu, trong đó có 2 giao dịch xuất khẩu có biên độ phá giá là 20%, 1 giao dịch có biên độ phá giá bằng 0 và 2 giao dịch có biên độ phá giá -25% thì nếu không sử dụng phương pháp zeroing, bình quân biên độ phá giá của nhà xuất khẩu này sẽ là: (20% + 20% + 0% - 25% - 25%): 5 = -7% (với biên độ phá giá âm, tức là không phá giá, nhà xuất khẩu này sẽ không bị áp thuế)
Tuy nhiên, nếu sử dụng zeroing thì biên độ phá giá trung bình sẽ là:
(20% + 20% +0% + 0% + 0%): 5 =8% (và kết quả là nhà xuất khẩu sẽ bị áp thuế 8%) Phương thức này khiến cho mức thuế trở nên rất cao, và đã nhiều lần bị các thẩm phán của WTO lên án
Điều 2.4.2 Hiệp định ADA quy định “việc xác định có tồn tại biên độ phá giá hay không trong suốt giai đoạn điều tra, thông thường sẽ dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị bình quân gia quyền thông thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được hoặc thông qua so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu trên cơ sở từng giao dịch” Ở đây, việc so sánh phải được thực hiện trên tất cả các giao dịch xuất khẩu mới bảo đảm sự công bằng, vì trong các giao dịch đó có giao dịch có biên độ phá giá dương nhưng cũng có các giao dịch có biên độ phá giá âm và giữa chúng khi bù trừ cho nhau sẽ phản ánh một cách chính xác nhất về việc có bán phá giá hay không và mức độ bán phá giá tác động lên thị trường nước nhập khẩu như thế nào Khi sử dụng phương pháp zeroing với việc quy về
0 tất cả các giao dịch có biên đô phá giá âm là vi phạm vào nguyên tắc “so sánh công bằng”
mà Điều 2.4 Hiệp định ADA đã quy định
Việc áp dụng phương pháp zeroing gây ra rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu của nước xuất khẩu bởi một số lí do
Thứ nhất, khi áp dụng phương pháp zeroing, hầu hết các kết quả điều tra đều đưa đến kết luận là có bán phá giá và bị áp thuế chống bán phá giá cao Điều đó gây bất công và tạo ra nhiều khó khăn cho các nước xuất khẩu, từ đó hạn chế sự tự do hóa thương mại
Thứ hai, biên độ phá giá bị đẩy lên cao không phản ánh đúng thực tế, khiến số tiền mà doanh nghiệp phải nộp cho thuế chống bán phá giá là một gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Trang 4Thứ ba, ngoài thiệt hại về việc phải đóng thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu còn phải chịu những hệ lụy khác từ việc áp thuế như phải ký quỹ một khoản tiền rất lớn Điều này một lần nữa gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi vốn – luôn là một vấn đề của doanh nghiệp – phải dùng để ký quỹ Điều này lại làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp không bị áp thuế chống bán phá giá
Như vậy, có thể hiểu là tại sao các nước xuất khẩu, thường là các nước đang phát triển, hết sức lên án phương pháp “Quy về 0” và coi đó là một trong những biện pháp điển hình của chống bán phá giá bất công
Việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing khi tính các biên độ phá giá đã gặp phải sự phản đối từ các đối tác thương mại của nước này Họ cho rằng điều này không phù hợp với các quy tắc của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về hệ thống luật chống bán phá giá Hoa Kỳ đã nhiều lần
bị kiện tại Tổ chức Thương mại thế giới với lý do nước này sử dụng zeroing trong các cuộc điều tra chống bán phá giá, điển hình như các vụ Gỗ xẻ mềm của Canada (DS264), Ổ bi của Nhật Bản (DS322), 21 vụ kiện chống bán phá giá từ EU (DS294), Tôm nước ấm đông lạnh của Ecuađo (DS335), Tôm của Thái Lan (DS343), Thép không gỉ của Mêxicô (DS344)…
4 Các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.
4.1 Cơ quan giải quyết tranh chấp (DBS)
Là đại hội đồng của WTO bao gồm đại diện của các quốc gia thành viên thành lập các Ban hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Ban Phúc thẩm bằng nguyên tắc “đồng phủ quyết” Giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ, trả đũa
4.2 Ban Hội thẩm
Trực tiếp xem xét các vấn đề kiện tụng cụ thể trên cơ sở các quy định của WTO được các nước nguyên đơn viện dẫn Đưa ra Báo cáo trình DBS thông qua và giúp DBS đưa ra khuyến nghị cho các bên tranh chấp
4.3 Cơ quan phúc thẩm.
Xem xét lại báo cáo của ban Hội thẩm để đảm bảo tính chính xác trong quá trình giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm nếu có yêu cầu
5 Nguồn của cơ chế giải quyết tranh chấp (do DSU viện dẫn).
- Điều XXII và XXIII GATT 1947 ( Điều 3.1 DSU)
- Các quy tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh chấp tại các Hiệp định trong khuôn khổ WTO ( Điều 11.4 đến 17.7 GATT 1994)
- Quyết định về các Thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt” GATT 1966: các quy tắc áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp giữa một nước kém phát triển và một nước phát triển ( Điều
Trang 53.12 DSU) và các thủ tục đặc biệt áp dụng cho tranh chấp có một bên là nước kém phát triển nhất
6 Trình tự giải quyết tranh chấp.
B1: Tham vấn
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4 DSU) Việc tham vấn được tiến hành bí mật (không công khai) và không gây thiệt hại cho các quyền tiếp theo của các Bên Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp khẩn cấp – ví dụ hàng hoá liên quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10 ngày và 20 ngày) Bên được tham vấn có nghĩa vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo cơ hội thoả đáng" cho Bên yêu cầu tham vấn
Với các ưu thế nhất định như tiết kiệm được về thời gian, tiền bạc, quan hệ hữu hảo giữa các bên tranh chấp… các phương thức chủ yếu dựa trên đàm phán ngoại giao này được DSU đặc biệt khuyến khích sử dụng (Điều 3.7 DSU), và việc tìm ra được một giải pháp hợp
lý thoả mãn tất cả các bên tranh chấp có lẽ còn được coi trọng hơn cả việc đạt được một giải pháp phù hợp với các qui tắc thương mại trong Hiệp định
B2: Thành lập Ban hội thẩm.
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham vấn từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu tham vấn (Điều 6 DSU) Tuy nhiên, như trên đã đề cập, yêu cầu thành lập Ban hội thẩm có thể đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ tục tham vấn, hoà giải không dẫn đến kết quả gì Văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải nêu rõ quá trình tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ pháp lý cho khiếu kiện
Bất kỳ quốc gia thành viên nào có quyền lợi thực chất trong vấn đề tranh chấp đều có thể thông báo cho DSB về ý định tham gia vụ việc với tư cách là Bên thứ ba Các Bên thứ ba này được tạo điều kiện để trình bày ý kiến bằng văn bản trước Ban hội thẩm
Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures): Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của mình để giúp DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp
B3: Phúc thẩm (Appelate Review).
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản Khi có yêu cầu này thủ tục phúc thẩm sẽ được bắt đầu
Trang 6Việc xem xét và đưa ra Báo cáo phải được thực hiện với sự tham gia của các Bên tranh chấp Cơ quan Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường hợp
có yêu cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải thông báo lý do cho DSB biết) Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề và kết luận pháp lý của Ban hội thẩm Các Bên không có quyền phản đối Báo cáo này DSB thông qua Báo cáo của
Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo cáo của SAB được chuyển đến tất cả các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết
B4: Khuyến nghị các giải pháp (Recommended Remedies)
Khi Báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một Bên là vi phạm qui định của WTO, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc Bên có biện pháp vi phạm phải tuân thủ qui định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp liên quan) và
có thể đưa ra các gợi ý (không bắt buộc) về cách thức thực hiện khuyến nghị đó
Trường hợp khiếu kiện không vi phạm, Bên thua kiện không phải rút lại biện pháp liên quan (vì không có vi phạm) nhưng Báo cáo có thể khuyến nghị Bên thua thực hiện các dàn xếp nhất định để thoả mãn các Bên liên quan (Báo cáo có thể đưa ra những gợi ý về biện pháp dàn xếp thoả đáng, ví dụ: bồi thường)
B5: Thi hành (Implementation)
Bên thua phải thông báo ý định về việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB triệu tập trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo Nếu không thực hiện được ngay, Bên đó có thể được gia hạn thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (thời hạn này do DSB quyết định trên cơ sở đề nghị của các Bên; hoặc do các Bên tranh chấp thỏa thuận trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị; hoặc theo phán quyết trọng tài tiến hành trong vòng 90 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị)
DSB cũng là cơ quan giám sát việc thực thi khuyến nghị của các Bên liên quan Trong thời gian qui định cho việc thực hiện khuyến nghị, bất kỳ thành viên nào cũng có thể đưa vấn
đề thực hiện khuyến nghị này vào chương trình nghị sự của DSB; mỗi khi có đề nghị như vậy thì Bên phải thực hiện khuyến nghị có nghĩa vụ giải trình bằng văn bản về việc thực hiện khuyến nghị của mình gửi cho DSB chậm nhất là 10 ngày trước khi tiến hành phiên họp của DSB
Trang 7CHƯƠNG II TỔNG QUANVỤ TRANH CHẤPDS404-WTO
GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
1 Bối cảnh vụ tranh chấp
1.1 Quan hệ thương mại Hoa Kỳ- Việt Nam trong ngành thủy sản.
Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm Năm 1998 con số này đã lên tới 82 triệu USD và đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ Vào năm 2001 Việt Nam xuất khẩu 70.930 tấn thủy sản các loại, trị giá 489.03 triệu USD Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu
đã tăng lên 98.664 tấn, đạt 645.98 triệu USD, chiếm 32.4% tống giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt 777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35.3% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam Đến năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá ba sa phile đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ có phần giảm sút, thị trường Hoa
Kỳ chỉ chiếm 23% thị phần xuất khẩu của Việt Nam Con số này tiếp tục giảm dần, đến năm
2012 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Trong các mặt hàng thủy sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ, tôm chiếm tỷ trọng chính 74% tổng giá trị hàng thủy sản xuất khẩu (2013) Việt Nam vươn lên vị trí thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ (về khối lượng đứng hàng thứ 7)
Trang 81.2 Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện.
Vụ điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam được Bộ Thương mại Hoa Kỳ ( DOC ) khởi xướng tháng 1/2004 Việc điều tra được tiến hành đối với ba doanh nghiệp bị đơn có lượng xuất khẩu lớn nhất (bao gồm Minh Phú, Minh Hải và Camimex- gọi là bị đơn bắt buộc) Đến tháng 2 năm 2005, DOC chính thức áp thuế chống bán phá giá với các thuế suất thông qua phương pháp tính biên độ phá giá Zeroing của Hoa Kỳ :
- Từ 4.3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc
- Từ 4,57% ( mức bình quân gia quyền của thuế suất áp dụng cho 3 bị đơn bắt buộc) đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra
- Mức thuế suất toàn quốc (……) cho tất cả các doanh nghiệp còn lại
Theo luật pháp Hoa Kỳ, cứ sau 1 năm kể từ khi áp thuế, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (POR) các mức thuế mà cơ quan này áp dụng Tính đến tháng 2/2010, cơ quan này đã rà soát hành chính 3 lần đối với các doanh nghiệp Việt Nam và cả 3 lần doanh nghiệp Việt Nam đều bị áp những mức thuế bất lợi cụ thể:
- Lần rà soát thứ 2- POR2, 30 doanh nghiệp Việt Nam đăng ký tham gia rà soát DOC chọn
2 doanh nghiệp là Minh Phú và Camimex là bị đơn bắt buộc do có lượng xuất khẩu lớn nhất Hai doanh nghiệp này đạt mức thuế suất không đáng kể (0-0.01%) 28 doanh nghiệp còn lại bị áp dụng mức thuế là 4.57% và mức thuế được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp không tham gia rà soát ( mức thuế toàn quốc) là 25.76%
- Lần ra soát thứ 3- POR3, có 28 doanh nghiệp đăng ký rà soát, DOC lựa chọn 3 doanh nghiệp làm bị đơn là ( Minh Phú, Camimex và Phương Nam) Ba doanh nghiệp này lần lượt được áp thuế là 0.43%; 0.08%; 0.21% Mức thuế cho 25 doanh nghiệp còn lại là 4.57% và mức thuế toàn quốc là 25.76%
Trang 9Trước nguy cơ DOC tiếp tục sử dụng phương pháp này gây kết quả bất lợi trong những lần rà soát lại mức thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đề xuất kiện Hoa Kỳ ra WTO lên Chính phủ và được Chính phủ chấp nhận để bắt đầu vụ kiện
2 Tóm tắt vụ kiện
Ngày 01/02/2010, phía Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn đối với chính phủ Hoa Kỳ liên quan đến các biên pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam
Các bên liên quan Văn bản pháp lý liên quan Khung thời gian
Nguyên
đơn
Việt Nam
ADA: các điều 2.1, 2.4, 2.4.2, 6.10, 6.10.2, 9.3, 9.4, 11.1, 11.3, 17.6(i)
GATT 1994:
điều VI:2
Việt Nam gửi yêu cầu
Thành lập Ban hội
Ban hành Báo cáo của Ban hội thẩm 11/07/2011
Bị đơn Hoa Kỳ
Ban hành Báo cáo của
Cơ quan Phúc thẩm 11/07/2011 Thông qua 02/11/2011
• Sản phẩm và biện pháp gây tranh cãi
- Hành động gây tranh cãi: Những quyết định chống bán phá giá trong đợt rà soát hành chính thứ 2 và thứ 3 đối với nhập khẩu từ Việt Nam tiếp tục được USDOC sử dụng trong những hành động chống bán phá giá tiếp theo
- Sản phẩm: Tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam
• Các hiệp định, nghị định liên quan đến vụ tranh chấp
- Hiệp định Chống bán Phá giá của WTO ( ADA)
- Hiệp định GATT 1994
- Nghị định Thư về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp trong WTO (Ngày 20 tháng 11 năm 1996)
Trang 10CHƯƠNG III.PHÂN TÍCH NỘI DUNG VỤ TRANH
CHẤPDS404-WTO GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
1 Yêu cầu xem xét và khuyến nghị của các bên
- Việt Nam đề nghị Ban Hội thẩm xem xét các vấn đề:
(a) Việc sử dụng phương pháp zeroing để xác định biên độ phá giá đối với các bị đơn bắt buộc trong rà soát POR2 và POR3 và việc tiếp tục sử dụng phương pháp này trong các rà soát tiếp theo của DOC là không phù hợp với Điều 9.3, 2.1, 2.4.2, và 2.4 Hiệp định CBPG và Điều VI:2 GATT 1994;
(b) DOC sử dụng phương pháp zeroing là vi phạm Điều 9.3 Hiệp định CBPG và Điều VI:2 GATT 1994;
(c) Lấy biên độ phá giá được xác định theo phương pháp zeroing làm mức thuế suất áp dụng cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong hai rà soát POR2 và POR3 là không tuân thủ Điều 9.3, 2.1, 2.4.2, và 2.4 Hiệp định CBPG;
(d) Áp dụng mức thuế suất chung cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn mà không căn cứ vào kết quả điều tra các bị đơn bắt buộc và áp dụng mức thuế bất lợi cho các bị đơn không được lựa chọn trong rà soát POR2 và POR3 là không phù hợp với Điều 9.4, 17.6(i)
và 2.4 Hiệp định CBPG;
(e) Áp dụng mức thuế suất toàn quốc sau rà soát POR2 và POR3 trên cơ sở tính toán từ những thông tin sẵn có bất lợi và việc tiếp tục áp dụng mức thuế này trong các rà soát tiếp theo
là vi phạm Điều 6.8, 9.4, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định CBPG;
(f) Quyết định của DOC trong rà soát POR2 và POR3 nhằm hạn chế số lượng bị đơn bắt buộc, do đó không đảm bảo nghĩa vụ thực thi đầy đủ theo Hiệp định CBPG, cụ thể là các điều khoản 6.10, 6.10.2, 9.3, 11.1 và 11.3
- Hoa Kỳ đề nghị Ban Hội thẩm chấp nhận yêu cầu phán quyết sơ bộ mà Hoa Kỳ đã đề đạt với Ban Hội thẩm từ trước đó, và bác bỏ khiếu nại của Việt Nam rằng Hoa Kỳ đã vi các phạm hiệp định trên
2 Vấn đề 1: Khiếu nại của phía Mỹ liên quan đến các nội dung thuộc điều khoản tham chiếu của Ban hội thẩm
Nhìn chung, Việt Nam yêu cầu Ban Hội thẩm xem xét các vấn đề liên quan đến 4 vấn đề: Quyết định của DOC trong lần rà soát thứ hai, Quyết định của DOC trong lần rà soát thứ
ba, “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” và phương pháp tính biên độ bán phá giá “quy về 0”