So với khái niệm “buôn lậu” trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” có thể thấy rằng khái niệm “buôn lậu” với ý nghĩa là một tội phạm trong Bộ luật hình sự phải có yếu tố bắt buộc là “qua biên g
Trang 1LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ Nội - 2014
Trang 2Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Trương Quang Vinh
Hà Nội - 2014
Trang 33
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2014
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Vui
Trang 44
LỜI MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang ra sức tập trung thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và từng bước đưa đất nước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Thành tựu đạt được trong những năm qua đã đưa đất nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế tăng trưởng khá cao; nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được thiết lập; quan hệ quốc
tế được mở rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều, tình hình chính trị, xã hội ổn định, được nhân dân và bạn bè quốc tế đánh giá cao Tuy nhiên, bên cạnh những thành tự đạt được, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, thêm vào đó là những sơ hở, thiếu sót của Nhà nước ta trong quản lý kinh tế đã khiến cho nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có môi trường nảy sinh, phát triển trong đó có tội phạm buôn lậu
Buôn lậu được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm, không chỉ làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, gây thất thu thuế cho Nhà nước mà còn đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế đất nước, xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của người tiêu dùng Ở nước ta trong những năm gần đây hoạt động buôn lậu diễn biến rất phức tạp với quy mô ngày càng rộng lớn, các vụ buôn lậu bị phát hiện ngày càng nhiều, giá trị hàng phạm pháp có nhiều vụ lên tới hàng tỷ đồng Người phạm tội sử dụng nhiều thủ đoạn xảo quyệt hơn và chúng luôn sẵn sàng manh động, chống người thi hành công vụ khi bị bắt quả tang Trước thực trạng buôn lậu như trên có thể thấy rằng buôn lậu không chỉ
là một tệ nạn mà còn là một tội phạm nguy hiểm gây thiệt hại rất lớn cho Nhà nước và xã hội
Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ các dấu hiệu pháp lý và tình hình của tội buôn lậu nhằm phát hiện, đề xuất, kiến nghị giải quyết các vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng luật hình sự về tội buôn lậu là rất cần thiết Xuất
Trang 55
phát từ nhận thức như vậy, tôi đã chọn đề tài "Tội buôn lậu trong Luật hình
sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2013)" làm đề tài nghiên cứu luận văn cho mình
Đình Nông – 1997);
Đấu tranh phòng chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Bình - 2000);
Một số vấn đề về đấu tranh phòng chống tội buôn lậu (tác giả Ngô
Ngọc Thuỷ, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1995);
Tội buôn lậu hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Luận văn thạc sĩ của tác
giả Trần Đức Thìn – 1996);
Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
(Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Dương Thị Nhàn, năm 2006);
Bên cạnh đó còn có một số bài viết:
"Buôn lậu và chống buôn lậu" của tác giả Bùi Toản (Tạp chí Kiểm sát,
số 1 + 2 năm 1999, trang 56 - 58);
"Phòng, chống buôn lậu trong lĩnh vực hải quan khi Việt Nam gia nhập
WTO" của tác giả Nguyễn Phi Hùng có bài viết (Tạp chí Quản lý nhà nước -
Học viện Hành chính Quốc gia, số 12/2006, trang 12 - 16)
Ngoài ra, còn nhiều công trình, bài viết nghiên cứu của các tác giả khác trên các tạp chí Hải quan, Công an nhân dân Các công trình nghiên cứu trên
đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu, đồng thời cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống buôn lậu Tuy nhiên, tình hình buôn lậu trong những
Trang 66
năm gần đây đã có những thay đổi với nhiều thủ đoạn phạm tội mới, các giải pháp nêu ra trước đây trong điều kiện hiện nay ít phát huy tác dụng, không mang tính thời sự Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, tội buôn lậu đang diễn ra rất phức tạp và thực tiễn xét xử về tội phạm này cũng gặp nhiều vướng mắc, tuy
đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về tội phạm này những vẫn còn mang tính chung chung và thông tin cập nhật còn nhiều hạn chế
3 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2013
4 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ lý luận về tội buôn lậu, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2013 Số liệu sử dụng để nghiên cứu trong đề tài này là thống kê tội phạm của Tòa án nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh
6 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nhằm đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội buôn lậu góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Để đạt được mục đích trên đây, nhiệm vụ cơ bản của luận văn cần phải giải quyết đó là:
Trang 7sự Việt Nam về tội buôn lậu
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo
và phần phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam Chương 2: Tình hình tội buôn lậu và thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009 - 2013
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội buôn lậu
Trang 88
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI BUÔN LẬU
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1 Những vấn đề chung
1.1.1 Khái niệm tội buôn lậu theo Luật hình sự Việt Nam
Tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng là một hiện tượng tiêu cực của
xã hội mà nguồn gốc của nó là từ xã hội và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của xã hội Mỗi một quốc gia, để bảo vệ lợi ích của nước mình, phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách ngăn chặn và làm giảm bớt tác hại của loại tội phạm này Ở nước ta, trong những năm gần đây tình hình buôn lậu diễn ra rất phức tạp, tác động xấu tới sự phát triển kinh tế - xã hội như: Gây thất thu thuế cho Nhà nước, đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng cũng như đến trật tự quản lý kinh tế
Thuật ngữ “buôn lậu” đã xuất hiện từ lâu trong các văn bản của Nhà
nước ta Thông tư số 33-VH/HS ngày 5-7-1958 của Bộ Tư pháp đã quy định
cụ thể việc xử lý buôn lậu Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa III) ngày
12/1/1974 cũng đã nhấn mạnh: “ Phải tìm cho ra và nghiêm trị bọn lưu manh,
điển nghiệp vụ phổ thông của Bộ Công an thì buôn lậu được hiểu là: “mua
bán lén lút, trái phép những hàng hóa thuộc diện Nhà nước cấm vận hoặc Nhà nước thống nhất quản lý”[40]
Theo “Từ điển tiếng Việt”, “buôn” được hiểu là việc mua đi bán lại một loại hàng hóa nào đó nhằm kiếm lợi nhuận, “lậu” chỉ sự không chính đáng,
lén lút, trái pháp luật, “buôn lậu là buôn bán hàng hóa trốn thuế hoặc hàng
quốc cấm”[25] Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa thông thường chúng ta nhận
thấy, buôn lậu chỉ đơn giản là hành vi buôn bán những mặt hàng cấm hoặc những hàng hóa trốn đóng thuế theo quy định của pháp luật Bên cạnh đó, cuốn “Từ điển bách khoa Việt Nam” cũng giải thích về khái niệm buôn lậu
Trang 99
nhưng cụ thể hơn, rõ ràng hơn cách giải thích nói trên trong “Từ điển tiếng
Việt”: “Buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại
hàng hóa hoặc ngoại tệ, kim khí và đá quý, những vật phẩm thuộc về di tích lịch sử, văn hóa, những hàng cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn bán
hàng hóa nói chung mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của Hải quan”[19], tuy
nhiên cách giải thích này vẫn chưa đúng hoàn toàn với cách hiểu của Luật hình sự Việt Nam về hành vi buôn lậu
Bộ luật hình sự Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự 1999) quy
định tội buôn lậu tại Điều 153: “Người nào buôn bán trái phép qua biên
giới…hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa,…hàng cấm có số lượng lớn…”
Căn cứ vào Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 có thể đưa ra khái niệm về
tội buôn lậu như sau: “Tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên
giới quốc gia các loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, các loại vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, các loại hàng cấm nhằm mục đích kiếm lời”
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng giữa khái niệm “buôn lậu” hiểu theo nghĩa thông thường và khái niệm “buôn lậu” theo Luật hình sự Việt Nam có
sự khác biệt So với khái niệm “buôn lậu” trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” có thể thấy rằng khái niệm “buôn lậu” với ý nghĩa là một tội phạm trong Bộ luật
hình sự phải có yếu tố bắt buộc là “qua biên giới”, nếu hành vi buôn bán các
mặt hàng như kể trên mà không qua biên giới thì đó không phải là tội buôn lậu, đồng thời, đối tượng của hành vi buôn lậu theo Luật hình sự Việt Nam được mở rộng hơn vì bên cạnh hàng hóa cấm, đối tượng của tội buôn lậu trong Bộ luật hình sự còn bao gồm: hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa So với
Trang 1010
khái niệm “buôn lậu” trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam thì khái niệm
“buôn lậu” theo Luật hình sự Việt Nam cũng có điểm khác biệt về đối tượng của tội buôn lậu, trong Bộ luật hình sự, không chỉ có ngoại tệ mà cả tiền Việt Nam cũng là đối tượng của tội buôn lậu, đồng thời tội buôn lậu trong Bộ luật hình sự còn có thêm dấu hiệu mục đích của người phạm tội là mục đích kiếm lời, đây là một dấu hiệu giúp phân biệt giữa tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
1.1.2 Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội buôn lậu
Tội buôn lậu với tính chất là một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã gây
ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khiến cho Nhà nước không kiểm soát được hàng hóa xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hóa; làm cho thị trường hàng hóa bị rối loạn, mất ổn định, làm cho sự cạnh tranh trên thị trường thiếu lành mạnh
Để đấu tranh với hiện tượng tiêu cực này, Nhà nước ta đã đưa ra rất nhiều biện pháp để ngăn chặn và tiến tới loại trừ hành vi này
Nhận thức được tác hại của hành vi buôn lậu nên từ rất sớm, hoạt động chống buôn lậu hàng hóa qua biên giới đã được các triều đại phong kiến Việt Nam đề cao, coi trọng Ngay từ thời Lê (thế kỷ XV) đã có luật pháp quy định việc xử phạt đối với những hành vi buôn lậu Điều 221 Bộ Quốc triều Hình
Luật quy định về việc chống buôn lậu đối với các quan lại như sau: “Các
quan vâng mệnh triều đình đi sứ nước ngoài mà chỉ lo buôn bán thì phải tội biếm hay đồ Nếu là vật quý lạ, cùng là sách vở, và các thứ thuốc men, thì cho phép được mua Khi về nước đến quan ải phải khai rõ từng thứ; quan ở trấn
ấy, sai quan cấp dưới đệ trình các thứ đó về kinh để kiểm soát; nếu có thứ gì đáng dâng lên vua dùng, thì sẽ trả lại tiền mua thứ ấy; còn các thứ khác sẽ trả lại cho người đi sứ Nếu giấu giếm không khai thực hiện đều phải xử tội
Trang 1111
biếm hay bãi chức, đồ vật sẽ bị tịch thu sung công” [41] Điều 615 Bộ Quốc
triều Hình Luật còn quy định: “Người ở Vân Đồn, chở hàng hóa Trung Quốc
lên kinh thành, mà không có giấy An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Đông Triều lại không đến kho Đề bạc ty kiểm soát, đã đem đi bán lén lút thì đều phải biếm một tư và phạt tiền 100 quan; thưởng người tố cáo một phần ba (số tiền phạt) Nếu đem “hàng hóa đến các nơi làng mạc bán giấu giếm thì xử biếm
ba tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo một phần ba…”[42]
Năm 1802 với sự ra đời của triều Nguyễn, Vua Gia Long đã ban hành Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là bộ luật Gia Long), trong bộ luật này, tội buôn lậu cũng được quy định nhưng chưa rõ ràng, cụ thể là tại Điều 133 Hoàng Việt
Luật lệ quy định: “Phàm là thuyền to của khách buôn từ biển cả cập bến thì
phải kê khai thiệt, hết tất cả các hàng hóa cho quan trích lấy một phần Nếu ghé vào bến thấp lầy của các nhà mối lái để buôn bán với họ mà không báo thì phạt 100 trượng Tuy có khai báo mà không khai báo thiệt thì như tội trên Các hàng hóa không báo và báo không hết, cho nhập vào quan, ai cất giấu thì chịu cùng tội Ai chỉ bắt được thì được thưởng bạc 20 lạng”[28] Như vậy, có
thể thấy rằng ngay từ thời phong kiến, mặc dù hành vi mua bán trái phép qua biên giới không được định nghĩa rõ ràng là hành vi buôn lậu như Bộ luật hình
sự hiện nay nhưng với những quy định trên cũng đã chứng tỏ rằng trong xã hội phong kiến tác hại của buôn lậu đã được nhìn nhận và quan tâm
Sau Cách mạng Tháng tám 1945, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một
số văn bản pháp luật đấu tranh chống loại tội phạm này Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên phải kể đến đó là Sắc lệnh số 45 ngày 9/10/1945 do Chủ Tịch
Hồ Chí Minh ký quy định cấm xuất cảnh kho thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc, quy định này nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói năm
1945 Sau đó, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm đấu tranh với loại tội phạm này và một trong những văn bản quan trọng phải kể
Trang 1212
đến đó là “Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép” ban hành ngày 30/6/1982 Khác với các văn bản trước đó,
Pháp lệnh ngày 30/6/1982 đã quy định rõ ràng một tội danh với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó, có thể nói, tại văn bản này khái niệm tội buôn lậu mới chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước Trong pháp lệnh ngày 30/6/1982, tội buôn lậu được quy định ở hai điều luật
khác nhau: Điều 3 – “Tội buôn lậu, tàng trữ hàng cấm” là hành vi: “…Buôn
lậu, tàng trữ vàng bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các hàng hóa khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ…” và Điều 4 – Tội
buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là hành vi:
“Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới…”[18] (hàng hóa ở đây được hiểu là mọi hàng hóa ngoài những loại
hàng hóa được coi là hàng cấm được quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh) Đối với hành vi buôn bán trái phép hoặc vận chuyển hàng hóa qua biên giới, nếu
có mục đích kinh doanh thì đó là buôn lậu, nếu không có mục đích kinh doanh thì được coi là vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới Buôn lậu thời kỳ này được quan niệm như là một tội phạm về kinh tế
Trước bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng có sự phát triển mạnh
mẽ, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng kéo theo đó là tình hình tội phạm cũng có xu hướng tăng, thủ đoạn xảo quyệt hơn và diễn biến ngày càng phức tạp, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 quy định cụ thể, đồng thời thống nhất về tội phạm và hình phạt để đáp ứng công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong hoàn cảnh mới, trong đó có tội phạm buôn lậu Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đã đánh dấu bước phát triển mới của ngành lập pháp hình sự nước ta Trong Bộ luật hình sự năm
1985 (với 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) tội buôn lậu được quy định trong cùng một điều luật với tội vận chuyển trái phép
Trang 1313
hàng hóa tiền tệ qua biên giới tại Điều 97 với tên gọi “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 được quy định như sau:
“1 Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm
2 Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt từ năm năm đến mười hai năm:
đ) Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm
3 Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”
Trong thời kỳ này, Tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới lại được quan niệm là một tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia
Sau hơn 10 năm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 trong đó có tội buôn lậu đã bộc lộ nhiều bất cập Trước tình hình này ngày 21/12/1999 tại kỳ họp lần thứ VI – Quốc hội khóa X đã thông qua Bộ luật hình sự mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự 1999) thay thế Bộ luật hình sự 1985 Bộ luật hình sự 1999 (gần đây mới sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) đã tách riêng tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và quy định hai tội này ở hai điều luật khác nhau trong đó tội buôn lậu được quy định tại Điều 153 với nội dung:
“Người nào buôn bán trái phép qua biên giới… hàng hóa, tiền tệ Việt Nam,
Trang 1414
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa…hàng cấm có số lượng lớn…” Bộ luật hình sự 1999 coi tội buôn lậu
thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản
lý trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu Việc các nhà làm luật quy định như vậy là phù hợp với bản chất kinh tế của tội buôn lậu, điều đó đã góp phần không nhỏ trong việc giúp chúng ta nhận thức về loại tội phạm này cũng như có những biện pháp đấu tranh đề ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm buôn lậu
Tóm lại, buôn lậu được coi là một tội phạm có tính truyền thống, nó cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử So với các giai đoạn trước tội buôn lậu trong Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung cả về dấu hiệu pháp lý cũng như đường lối xử lý, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này trong từng trường hợp cụ thể, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới
1.1.3 Tội buôn lậu trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới
Nghiên cứu luật hình sự của một số nước trên thế giới có thể thấy rằng tội buôn lậu cũng được quy định trong Bộ luật hình sự của một số nước trong khu vực và trên thế giới cụ thể là:
Trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga (trước đây) thì các nhà làm luật đã đồng nhất hành vi buôn lậu với hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, không đề cập đến việc người phạm tội có mục đích buôn bán hay không Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự của Liên bang Nga hiện nay, quan niệm về tội buôn lậu đã có sự khác biệt so với trước đây Sau khi bãi bỏ độc quyền Nhà nước về ngoại thương, nhận thức về bản chất xã hội của việc vận chuyển hàng hóa, tiền tệ trái phép qua biên giới đã thay đổi Trong Bộ luật hình sự mới của Liên bang Nga thông qua ngày 24/11/1995, tội buôn lậu
được quy định tại Điều 186 như sau: “Buôn lậu là đưa hàng qua biên giới hải
quan của Liên bang Nga bằng thủ đoạn không khai báo hay trốn tránh sự kiểm soát hải quan hoặc sử dụng các tài liệu giả mạo, khai báo gian dối hoặc
Trang 1515
không đầy đủ các chất ma túy, các chất hướng thần, chất có tác dụng mạnh, chất độc, chất nổ, chất phóng xạ hay vũ khí, vật liệu nổ, loại súng, phương tiện chiến tranh, vũ khí hạt nhân, hóa học, vũ khí vi trùng hoặc các loại vũ khí giết người hàng loạt khác mà khi đưa ra khỏi Liên bang Nga phải tuân thủ các quy định đặc biệt” [8] Theo đó, tội buôn lậu ở đây được hiểu là sự vận
chuyển trái phép qua biên giới các chất ma túy, các loại chất độc, chất phóng
xạ, thuốc nổ, vũ khí…
Bộ luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ban hành năm 1979 không có quy phạm định nghĩa về tội buôn lậu mà quy định tội buôn lậu, đầu cơ trong cùng một điều luật (Điều 118), trong chương III – “Các tội phá hoại trật tự
kinh tế Xã hội chủ nghĩa”: “Người có hành vi buôn lậu, đầu cơ chuyên nghiệp
với số lượng rất lớn, hoặc người chủ mưu trong tổ chức buôn lậu, đầu cơ bị phạt
tù từ ba đến mười năm, đồng thời có thể bị tịch thu tài sản”[4] Để đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, Bộ luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được sửa đổi, bổ sung năm 1997 đã quy định tội buôn lậu tại Mục 2, Chương III – Tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa từ Điều 151 đến Điều 157 nhưng cũng chỉ liệt kê những hành vi bị coi
là buôn lậu mà chưa có quy phạm định nghĩa tội buôn lậu
Nghiên cứu Luật hình sự của nước ta với Luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Liên bang Nga cho thấy quan niệm về khách thể của tội buôn lậu của các nhà làm luật có sự giống nhau Trong Bộ luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1979, tội buôn lậu thuộc Chương 3 –
“Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa”, đến Bộ luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1979, tội buôn lậu vẫn được quy định tại Chương 3 – “Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa” Trong Bộ luật hình sự của Liên bang Nga, tội buôn lậu được đưa vào nhóm các tội phạm về kinh tế và được quy định tại Điều 186 Như vậy, Luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Liên bang Nga đều coi khách thể của tội buôn lậu là trật tự quản lý kinh tế
Trang 16về mặt lý luận còn trong điều tra thực tiễn, truy tố, xét xử, việc xem xét bốn yếu tố này phải được tiến hành đồng thời trong một thể thống nhất thì mới đảm bảo đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ, chính xác về tội buôn lậu
1.2.1 Khách thể của tội buôn lậu
Theo Luật hình sự Việt Nam, buôn lậu là hành vi buôn bán hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý các loại vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, các loại hàng cấm qua biên giới một cách trái phép, theo đó, khách thể bị xâm hại của tội buôn lậu là các quy định pháp luật của Nhà nước
về buôn bán hàng hóa qua biên giới mà cụ thể là xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về ngoại thương (xuất – nhập khẩu hàng hóa) [33]
Trước đây theo quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, tội buôn lậu được quy định trong chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tuy nhiên đến nay Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 153 tội buôn lậu được chuyển về chương XVI –
“Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, điều này thể hiện quan điểm đúng đắn của các nhà lập pháp hình sự, phản ánh đúng được bản chất kinh tế của hành vi phạm tội buôn lậu vì mục đích mà người phạm tội buôn lậu muốn đạt tới chỉ đơn thuần là mục đích kinh tế chứ không phải là xâm hại an ninh quốc gia như trước kia quy định
Trang 1717
Theo quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự 1999, đối tượng của hành
vi phạm tội buôn lậu rất đa dạng, bao gồm các loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm, thuộc di tích lịch sử, văn hóa và các loại hàng cấm Cụ thể như sau:
Hàng hóa: là sản phẩm được làm ra trong quá trình sản xuất, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi trên thị trường Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng Trên thực tế, hàng hóa
có thể là hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống hằng ngày của con người như tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe máy,… hoặc những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị,… Như vậy, hàng hóa với tư cách là đối tượng của tội phạm buôn lậu
là một khái niệm có nội hàm rất rộng, bao gồm tất cả các sản phẩm, chỉ trừ một số loại hàng hóa do tính chất đặc biệt đã được quy định là đối tượng của các tội phạm khác như: Các chất ma túy, vũ khí quân dụng và phương tiện kỹ thuật, vũ khí thô sơ và công cụ hỗ trợ, chất phóng xạ,…
Tiền Việt Nam: Đồng tiền trong tội buôn lậu không thực hiện chức năng trao đổi hay thanh toán thông thường mà nó được coi là hàng hóa, là đối tượng của hành vi mua bán Tiền là đối tượng của tội buôn lậu phải là tiền Việt Nam hiện hành (do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành) Các đồng tiền Việt Nam đang lưu hành hiện nay là tiền giấy và tiền kim loại [22]
Ngoại tệ: Trên thực tế, ngoại tệ được hiểu là tiền nước ngoài, không phải là đồng tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành Có thể hiểu ngoại tệ là các loại tiền do nước ngoài phát hành bao gồm: tiền giấy, tiền bằng kim loại còn hiệu lực lưu hành
Kim khí quý: Là các loại kim khí thuộc loại quý hiếm dạng tự nhiên hoặc các chế phẩm làm từ kim khí quý theo danh mục do Nhà nước Việt Nam ban hành như: vàng, bạc, bạch kim… Theo quy định tại Điều 3 Điều lệ quản
lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988 thì kim khí quý bao gồm: Vàng, bạc và các kim loại thuộc nhóm bạch kim
Trang 1818
Đá quý: Là các loại đá tự nhiên và các loại thành phần từ đá quý theo danh mục Nhà nước Việt Nam ban hành Theo quy định tại Điều 1 Quy chế quản lý các hoạt động điều tra địa chất, khai thác mỏ, chế tác và buôn bán đá
quý ngày 7/10/1993 của Chính phủ thì “đá quý là các loại ngọc tự nhiên như
rubi, kim cương, saphia, eromot và các loại đá quý tự nhiên khác có giá trị tương đương”
Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa: Theo khoản 3 Điều 4 Luật di sản văn hóa được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001 quy định
thì “di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học”[20]
Tuy nhiên, Luật di sản văn hóa lại không quy định thế nào là vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa của Luật di sản văn hóa thì có thể thấy rằng vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa bao gồm: di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia Các vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa chính là những sản phẩm vật chất
có giá trị văn hóa, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc ta vào những thời kỳ lịch sử nhất định và được lưu giữ đến nay Theo quy định tại khoản 5,6,7 Điều 4 Luật di sản văn hóa được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001 thì:
“…5 Di vật được lưu truyền lại có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học
6 Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên
7 Bảo vật quốc gia là hiện vật được truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm, tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học”
Hàng cấm: Là những loại hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán trên lãnh thổ Việt Nam và cấm xuất – nhập khẩu Ở tội buôn lậu có thể hiểu rằng hàng cấm là những hàng thuộc phạm vi quy định của Điều 155 Bộ luật hình
sự 1999 Danh mục các loại hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi ở mỗi
Trang 1919
giai đoạn nhất định phù hợp với tình hình thực tế và sự chuyển đổi của nền
kinh tế Hiện nay theo Phụ lục 1 – Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh (Ban hành kèm theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 10/06/2006 của Chính phủ) có quy định cụ thể về 18 loại hàng hóa cấm kinh doanh, ví dụ:
Vũ khí quân dụng, trang thiết bị kỹ thuật, khí tài…; các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách, các chất ma túy, các loại pháo;… Tuy nhiên theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, thì một số hàng cấm đã là đối tượng của các tội phạm khác thì
sẽ không là đối tượng của tội buôn lậu như: Điều 193 – Tội sản xuất trái phép chất ma túy; Điều 195 – Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy;…
1.2.2 Mặt khách quan của tội buôn lậu
Cũng như bất cứ tội phạm nào, mặt khách quan của tội buôn lậu là tập hợp tất cả những biểu hiện bên ngoài của tội buôn lậu diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể nhận biết được, cho phép đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi buôn lậu, đồng thời
đó cũng là căn cứ để phân biệt tội phạm buôn lậu với các tội khác
Hành vi khách quan của tội buôn lậu
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người đã gây ra và
đe dọa gây ra cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai hình thức đó là hành động hoặc không hành động Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm
Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới các mặt hàng trên của người phạm tội là hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới để trao đổi trái phép với các quy định của Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên
Trang 20+ Hành vi không khai báo thể hiện ở việc người buôn bán các mặt hàng
kể trên qua biên giới nhưng không thực hiện nghĩa vụ khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chủng loại, số lượng theo đúng quy định, người phạm tội có thể bằng cử chỉ, lời nói từ chối thẳng thừng việc khai báo hoặc không chịu ghi vào tờ khai hải quan theo các mục của Hải quan yêu cầu…
+ Khai báo gian dối là hành vi người buôn bán hàng hóa, tiền tệ, kim khí, đá quý, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm qua biên giới quốc gia tuy có khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng sự khai báo đó không phù hợp với thực tế số lượng, chủng loại nhằm đánh lừa các cơ quan đó Biểu hiện cụ thể của hành vi này có thể là: Khai báo không đúng về số lượng, chủng loại; hàng mới khai là hàng cũ; hàng cấm xuất – nhập khẩu lại khai là hàng được phép xuất – nhập khẩu; hàng bị đánh thuế cao lại khai là loại hàng bị đánh thuế thấp…
Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, Trần Đàm và đồng bọn đã mua chuộc, hối lộ cả Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh và một số lãnh đạo Cục Hải quan các tỉnh Cần Thơ, Long An, Thừa Thiên Huế
để nhập lậu hàng trăm Công tơ nơ hàng điện tử, nhưng lại mở tờ khai hải quan là máy nông cụ
Tinh vi hơn, có trường hợp lợi dụng sự quan lý yếu kém của Nhà nước
và sự kém hiểu biết của cán bộ các ngành đã móc ngoặc ngay trong việc xin
Trang 2121
cấp giấy phép nhập hàng hoá, khi Hải quan phát hiện có hiện tượng không bình thường nhưng cũng không có cách nào quy kết được đó là buôn lậu hay không buôn lậu Ví dụ: Nguyễn Thị Mỹ Phượng mua lại các giấy phép của Bộ thương mại cấp cho các doanh nghiệp được nhập khẩu một lượng lớn xe máy đã qua
sử dụng Sau đó Mỹ Phượng cử người ra nước ngoài mua nhiều lô xe máy mới khác nhau, rồi yêu cầu chủ hàng phải làm cũ một vài chi tiết của xe như: đồng
hồ đo km/h đã chỉ 23, 30, 40 , làm bẩn sơn xe, làm móp ống bô, làm xướt sơn, làm hư một vài bóng đèn chiếu sáng.v.v rồi nhập về Việt Nam
+ Giả mạo giấy tờ là việc người buôn bán các loại hàng hóa, tiền tệ, kim khí, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng hóa cấm qua biên giới quốc gia tuy có xuất trình giấy tờ nhưng đó là giấy tờ giả mạo hoặc giấy tờ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng có được bằng con đường gian dối hoặc sử dụng không đúng với mục đích cấp nó
Không có giấy tờ hợp lệ được hiểu là không có giấy phép xuất – nhập khẩu theo hạn ngạch và các giấy tờ cần thiết khác theo quy định của Nhà nước hoặc có giấy phép xuất - nhập khẩu và các giấy tờ cần thiết khác nhưng lại không đúng với hàng hóa quy định trong giấy phép đó hoặc tuy có xuất giấy phép xuất – nhập khẩu nhưng giấy phép đó lại không phải do người có thẩm quyền cấp hoặc giấy phép đó là giả mạo
+ Hành vi trốn tránh sự kiểm soát của Hải quan hay các cơ quan quản lý cửa khẩu biển hiện ở việc đi đường tắt qua biên giới, không qua trạm kiểm soát, lợi dụng sơ hở của các lực lượng chống buôn lậu để đưa hàng hóa qua biên giới Việt Nam Tuy nhiên không phải mọi trường hợp hàng hóa, tiền tệ qua biên giới quốc gia đều là hành vi buôn lậu và cấu thành tội buôn lậu (ví dụ như buôn bán hàng hóa qua biên giới mang tính chất trao đổi, phục vụ đời sống hàng ngày với số lượng không đáng kể thì không coi là phạm tội buôn lậu)
Trang 2222
Mặc dù Luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội buôn lậu nhưng điều đó không có nghĩa là hậu quả không xảy ra Thực tế cho thấy hành vi buôn lậu gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất nội địa, gây thất thu thuế của Nhà nước, gây mất ổn định thị trường… Hậu quả tuy không có ý nghĩa quyết định trong việc định tội song việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi buôn lậu và hậu quả có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội, nếu hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra là ít nghiêm trọng thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo khung hình phạt có mức tương ứng với hậu quả đó
Các dấu hiệu khách quan khác của tội buôn lậu
Ngoài hành vi khách quan đối với tội buôn lậu, một dấu hiệu khách quan khác có tính chất bắt buộc của cấu thành tội phạm này đó là địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, nếu thiếu dấu hiệu này thì dù một người có hành
vi buôn bán trái phép hàng hóa, tiền tệ, kim khí, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng hóa cấm cũng không phải là hành vi buôn lậu
Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “người nào buôn bán trái
phép qua biên giới…”, theo đó, địa điểm phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội buôn lậu đó là “qua biên giới” Nếu người phạm tội thực hiện
hành vi buôn bán trái phép hàng hóa không qua biên giới thì không cấu thành tội buôn lậu mà tùy vào từng trường hợp hành vi phạm tội đó cấu thành tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển buôn bán hàng cấm (Điều 155 Bộ luật hình sự) hay tội kinh doanh trái phép (Điều 159 Bộ luật hình sự) Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ khái niệm biên giới trong cấu thành tội phạm này
Khái niệm “biên giới” ở đây không chỉ được quan niệm máy móc là
đường giáp ranh giữa hai quốc gia mà còn được hiểu theo nghĩa rộng là hàng rào biên giới thuế quan, vùng kiểm soát của Bộ đội biên phòng, An ninh cửa
Trang 2323
khẩu, vùng kiểm tra của Hải quan trên tất cả các tuyến đường (đường bộ, đường thủy, đường hàng không, đường xe lửa, đường bưu điện quốc tế) ở mọi khu vực (kể cả các khu chế xuất)
Vì vậy, việc xác định “qua biên giới” không có ý nghĩa là chỉ căn cứ vào việc xác định hành vi buôn lậu mà còn căn cứ vào hàng rào kiểm soát hàng hóa qua biên giới của các cơ quan quản lý như: Hải quan sân bay, Hải quan các cửa khẩu khác, địa điểm của các cơ quan này có khi là những địa điểm nằm sâu trong lãnh thổ nước ta do đó, hành vi buôn lậu vẫn xảy ra Chính vì vậy, để xác định hàng hóa đã qua biên giới hay chưa nên căn cứ vào việc hàng hóa đó đã thoát khỏi sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về xuất – nhập khẩu hàng hóa đó hay chưa? Hàng hóa có thể là hàng xuất khẩu hoặc hàng nhập khẩu nên cần phân biệt hai trường hợp:
+ Đối với hàng nhập khẩu: Chỉ khi nào người buôn lậu đưa hàng hóa qua biên giới quốc gia thì mới cấu thành tội buôn lậu Trường hợp khi hàng hóa đã nhập vào nội địa mới bị phát hiện nếu có đủ căn cứ chứng minh là đã nhập trái phép nhằm buôn bán kiếm lời thì cũng cấu thành tội buôn lậu Nếu hàng hóa mới được đưa tập kết gần đường biên giới nhưng chưa đưa vào nước ta thì không coi là tội phạm hoàn thành vì hàng nhập khẩu vẫn còn đang nằm ngoài sự kiểm soát của ta
+ Đối với hàng xuất khẩu: Khi người phạm tội đưa hàng hóa qua khu vực kiểm soát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và bị phát hiện thì coi là thỏa mãn dấu hiệu qua biên giới và bị coi là phạm tội buôn lậu Trường hợp người phạm tội đã đưa hàng hóa trót lọt ra ngoài biên giới sau đó mới bị phát hiện thì cũng cấu thành tội phạm này
1.2.3 Chủ thể của tội buôn lậu
Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm được hiểu là con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội vào thời điểm họ có năng lực trách
Trang 2424
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội buôn lậu chỉ cần là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực nhận thức và điều khiển hành
vi Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội Chỉ người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có khả năng điều khiển được hành vi ấy Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12
Bộ luật hình sự 1999) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự 1999) [33]
Trong tội buôn lậu, người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự tức là họ nhận thức được hành vi buôn bán trái phép qua biên giới quốc gia là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm thực hiện và họ hoàn toàn
có khả năng điều khiển hành vi của mình để không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó nhưng họ vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó có nghĩa là người phạm tội hoàn toàn có tự chủ và ý thức rõ ràng về hành vi nguy hiểm cho xã hội khi thực hiện nó
Bên cạnh năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội phạm nói chung cũng như tội buôn lậu nói riêng còn phải là người đạt đến độ tuổi nhất định Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như
sau: “Người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm;
người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
Trang 2525
trọng” Đồng thời theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự có quy định: “…tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây ra nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” Đối chiếu giữa Điều 153 với Điều 152 và khoản 3
Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 có thể thấy rằng: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu trong các trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật, còn người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu trong các trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 của điều luật
Qua những phân tích ở trên có thể thấy rằng chủ thể của tội buôn lậu theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam bao gồm: Công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định Bên cạnh việc thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thì chủ thể của tội buôn lậu còn phải thỏa mãn điều kiện: Nếu vật phạm pháp là hàng hóa, kim khí quý, đá quý dưới 100 triệu đồng hoặc hàng cấm có số lượng chưa lớn, người phạm tội phải là người đã bị
xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc hành vi quy định tại một trong các điều 154,155,156,157,158,159,160,161 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết
án về một trong các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội buôn lậu
1.2.4 Mặt chủ quan của tội buôn lậu
Cũng như các tội khác, khi xem xét dấu hiệu thuộc mặt chủ quan chúng
ta cần làm rõ ba dấu hiệu:
Lỗi của người phạm tội
Đối với tội buôn lậu, tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp vì:
Trang 2626
Về cấu trúc tâm lý của người phạm tội trong trường hợp này cho thấy
về mặt lý trí, người thực hiện hành vi buôn lậu nhận thức rõ hành vi do mình thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm và người phạm tội cũng thấy trước được thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội đó gây ra nhưng vẫn thực hiện hành vi đó
Mặc dù tội buôn lậu là tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả cụ thể của tội phạm không được nêu lên trong điều luật quy định về tội buôn lậu song đối với trường hợp này muốn xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp hay không chỉ cần xác định người đó đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi đó [33] Đối chiếu với người thực hiện hành vi buôn lậu, điều này hoàn toàn phù hợp, do đó lỗi của người thực
hiện hành vi này là lỗi cố ý trực tiếp
Động cơ và mục đích phạm tội buôn lậu
Đối với tội buôn lậu, mặc dù động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc cũng như không được quy định cụ thể trong Điều 153 Bộ luật hình
sự 1999 nhưng thực chất động cơ của người phạm tội là vụ lợi, mục đích là để buôn bán kiếm lời, trong đó, mục đích buôn bán kiếm lời là dấu hiệu cần thiết
và là căn cứ để phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 154 Bộ luật hình sự 1999)
Tóm lại, qua việc nghiên cứu và phân tích bốn yếu tố cấu thành tội phạm của tội buôn lậu có thể thấy rằng chúng là một thể thống nhất, có quan
hệ biện chứng với nhau, cho phép nhận thức sâu sắc bản chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi buôn lậu đồng thời là căn cứ pháp lý quan trọng để phân biệt tội buôn lậu với một số tội phạm cụ thể khác
Trang 271.3.1 Phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999
Theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999, người phạm tội trong trường hợp này thì “bị phạt tiền mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” Hình phạt này sẽ được áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu nếu họ thực hiện hành vi buôn bán trái phép qua biên giới các mặt hàng sau:
Hàng hóa, tiền Việt Nam, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng thì người phạm tội phải có một trong các dấu hiệu sau: Người phạm tội đó đã bị xử phạt hành chính về các tội sau của Bộ luật hình sự 1999 mà còn tái phạm: Điều 153; Điều 154; Điều 155; Điều 156; Điều 157; Điều 158; Điều 159; Điều 160; Điều 161, hoặc người phạm tội đã bị kết án về tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định đã bị kết án về tội buôn lậu hoặc một nội dung trong các quy định tại Điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 161 của Bộ luật hình sự 1999 nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, nếu người đó không phạm tội thuộc các quy định tại Điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236, 238 của
Bộ luật hình sự 1999 Điều luật này quy định rất cụ thể mức giá trị của các mặt hàng là đối tượng của tội buôn lậu, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
Trang 2828
quan tiến hành tố tụng trong việc xác định giá trị vật phạm pháp, từ đó xác định trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội một cách đúng đắn
Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa: Đối với hành vi buôn bán trái phép qua biên giới vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì không phụ thuộc vào giá trị của vật phẩm mà chỉ cần người nào có hành vi buôn bán trái phép đối tượng này qua biên giới nếu có đầy đủ dấu hiệu bắt buộc khác của tội buôn lậu thì người đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu và
bị xử lý theo khung hình phạt này
Hàng cấm: Đối với hành vi buôn bán hàng cấm qua biên giới thì hàng cấm đó phải có số lượng lớn Nếu hàng cấm không có số lượng lớn thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc một trong các hành vi quy định tại Điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 161 của Bộ luật hình sự 1999 hoặc người phạm tội đã bị kết án về một trong các tội này nhưng chưa được xét án tích mà còn tái phạm, nếu người đó không phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230,
232, 233, 236, 238 của Bộ luật hình sự 1999
Hiện nay, chưa có hướng dẫn hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn, nhưng qua thực tiễn xét xử, nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về một số trường hợp tương tự, tham khảo các văn bản đã hướng dẫn hoặc sắp hướng dẫn, có thể căn cứ vào một trong các cách tính như sau:
- Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ 1.500 bao đến dưới 5.000 bao là hàng cấm có số lượng lớn;
- Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 2 đến dưới 5 hiện vật là hàng cấm có số lượng lớn;
- Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ
20 đến dưới 100 sản phẩm là hàng cấm có số lượng lớn;
Trang 29Khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 là khung tăng nặng đầu tiên
của tội buôn lậu, nếu phạm tội theo khoản 2 Điều 153 thì “bị phạt tù từ ba
năm đến bảy năm” Người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị xử lý theo khung
hình phạt này khi có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
Phạm tội có tổ chức: Khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
“Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm” Theo đó có thể thấy rằng đây là trường hợp có đồng phạm và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: Theo khoản 5.1 Điều 5 Nghị
quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự,
sẽ được coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi đáp ứng hai điều kiện:
“a, Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt
đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích
b, Người phạm tội đều lấy việc phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính”
Ví dụ: A không có việc làm nên không có tiền nuôi sống bản thân và gia đình, A cùng với bạn của mình là B chuyên đi mua vải từ Trung Quốc nhập lậu về Việt Nam để buôn bán kiếm lời Đây là nghề sinh sống của A và lợi nhuận từ việc buôn lậu vải là nguồn sống chính của gia đình A Trường hợp này chính là trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Trang 3030
Tái phạm nguy hiểm: Khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự 1999 có quy
định về trường hợp tái phạm nguy hiểm được hiểu là trường hợp người phạm tội trước đây đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi buôn lậu mà các tình tiết tăng nặng có khung hình phạt ở mức từ bảy năm tù trở lên hoặc người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi buôn lậu
Ví dụ: A đã bị kết án về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104
Bộ luật hình sự 1999 (phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý), sau khi ra tù (chưa được xóa án tích), A đã tiến hành nhập lậu pháo từ Trung Quốc về Việt Nam với giá trị hàng phạm pháp là sáu trăm triệu đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự (khung hình phạt từ bảy năm tù đến mười lăm năm tù) Trong tình huống này A được xác định là tái phạm nguy hiểm
Vật phạm pháp có giá trị từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng:
Trường hợp phạm tội này xác định cần căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp mà người phạm tội buôn bán trái phép qua biên giới Nếu hàng phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999
Tuy nhiên, khi xác định giá trị hàng phạm pháp các cơ quan tiến hành
tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định
Hàng cấm có số rất lượng lớn: Qua thực tiễn xét xử, nghiên cứu các
quy định của Bộ luật hình sự về một số trường hợp tương tự, tham khảo các văn bản đã hướng dẫn hoặc sắp hướng dẫn, có thể căn cứ vào một trong các cách tính như sau:
Trang 31- Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 90kg đến dưới 300kg là hàng cấm có số lượng rất lớn
Tuy nhiên, cách tính trên cũng chỉ là ước lệ có tính chất tương đối, vì chính sách kinh tế thường xuyên thay đổi, nên hàng cấm hay không cấm cũng
thường xuyên thay đổi
Thu lợi bất chính lớn: Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người
phạm tội thu được do hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới
Khi xác định tình tiết này, cần căn cứ vào tình tiết quy định tại điểm d của khoản này Nếu vật phạm pháp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
2 Điều 153 Bộ luật hình sự, thì khoản lợi bất chính thu được từ số hàng phạm pháp từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng chính là khoản thu lợi
bất chính lớn
Lợi dụng chiến tranh để buôn lậu: Lợi dụng chiến tranh để phạm tội
buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng hoàn cảnh có chiến tranh
để thực hiện tội buôn lậu Việc thực hiện tội phạm do lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh có thể được thuận lợi hơn, khó bị phát hiện hoặc có thể thu lợi bất chính lớn hơn
Trang 3232
Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai để buôn lậu: Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai
để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng thiên tai để thực hiện buôn lậu
Thiên tai là những tai hoạ do thiên nhiên gây ra, thiên tai bao giờ cũng gây ra những khó khăn cho xã hội Những khó khăn này phải đáng kể nếu không nói là đặc biệt, như bị bão lụt, bị động đất
Ví dụ: Trong đợt bão lũ, A đã lợi dụng việc chuyển hàng cứu trợ cho những người dân vùng lũ để chuyên chở hàng cấm, hàng lậu với mục đích mua bán kiếm lời
Lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu: Lợi dụng dịch bệnh để phạm tội buôn
lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng những khó khăn do dịch bệnh
gây nên để thực hiện hành vi buôn lậu
Người phạm tội lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu chủ yếu đối với các mặt hàng liên quan đến việc khắc phục dịch bệnh nhằm thu lợi bất chính cao hơn như: thuốc chữa bệnh, các phương tiện, dụng cụ dùng cho việc khắc phục hậu quả của dịch bệnh
Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội:
Ngoài khó khăn thiên tai, địch hoạ, dịch bệnh gây nên, còn có những khó khăn đặc biệt khác Những khó khăn này, có thể xảy ra ở từng nơi, vào từng lúc Có thể xảy ra ở một địa bàn rộng, nhưng cũng có thể xảy ra ở một làng, một xã, một cơ quan, xí nghiệp trường học v.v
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để kiểm tra hàng hóa xuất cảnh, nhập cảnh (nhân viên hải quan) hay trong tuần tra, kiểm soát tại khu vực biên giới, hải đảo (Bộ đội biên phòng, cán bộ công an cửa khẩu…) để thực hiện hành vi phạm tội
Trang 3333
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là trường hợp nhân viên của các
cơ quan, đoàn thể, tổ chức trong nước hoặc nước ngoài lợi dụng các quyền ưu tiên miễn trừ khi qua các cửa khẩu để thực hiện hành vi phạm tội
Phạm tội nhiều lần là trường hợp người phạm tội đã có ít nhất hai lần thực hiện hành vi buôn lậu và mỗi lần đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự [37]
Ví dụ: A cùng đồng bọn đã nhiều lần buôn lậu thuốc lá ngoại từ Campuchia về Việt Nam nhưng chưa lần nào bị phát hiện và đưa ra xét xử, sau đó trong một lần đang đưa hàng từ Campuchia về Việt Nam, A cùng đồng bọn đã bị lực lượng chức năng phát hiện và bắt quả tang, thu giữ 10.000 gói thuốc lá ngoại Trong tình huống này A và đồng bọn thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần
Gây hậu quả nghiêm trọng: Việc xác định hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng (theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình
sự 1999) hay đặc biệt nghiêm trọng (theo khoản 4 Điều 154 Bộ luật hình sự 1999) không chỉ căn cứ vào số tiền thu lợi bất chính do hành vi buôn lậu gây
ra, ví dụ: làm mất cân đối cung cầu hay gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp nhà nước, làm ảnh hưởng xấu tới các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nước, làm rối loạn thị trường Hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và
những thiệt hại phi vật chất cho xã hội
1.3.3 Phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999
Khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 là khung tăng nặng thứ hai của
tội buôn lậu, nếu phạm tội theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 thì “bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” Người thực hiện hành vi phạm tội sẽ
bị xử lý theo khung hình phạt này khi có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
Trang 3434
Vật phạm pháp có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng: Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ khác nhau ở chỗ: giá trị vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng Khi xác định giá trị vật phạm pháp, cũng phải căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định
Hàng cấm với số lượng đặc biệt lớn: Trường hợp phạm tội này cũng
tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, chỉ khác nhau ở chỗ: Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn
Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ, tuy chưa có hướng dẫn hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn Tuy nhiên, nếu căn cứ vào cách tính như đã giới thiệu hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn nếu:
- Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ 15.000 bao trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn;
- Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 10 hiện vật trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn;
- Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ
500 sản phẩm trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn;
- Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 300kg trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn
Thu lợi bất chính rất lớn: Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như
trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: lợi
Trang 3535
nhuận do hành vi buôn lậu mà người phạm tội thu được là rất lớn Cũng như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 điều luật, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn nếu người phạm tội buôn lậu thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
Gây hậu quả rất nghiêm trọng: Trường hợp phạm tội này cũng tương
tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng
Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật
Vật phạm pháp có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên: Trường hợp phạm tội
này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a
khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng
trở lên Cũng như các trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 của điều luật, khi xác định giá trị vật phạm pháp, cũng phải căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định
Trang 3636
Thu lợi bất chính đặc biệt lớn: Trường hợp phạm tội này cũng tương tự
như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và điểm c khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: lợi nhuận do hành vi buôn lậu mà người phạm tội thu được là đặc biệt lớn Cũng như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và khoản 3 điều luật Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính đặc biệt lớn nếu người phạm tội buôn
lậu thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng trở lên
Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: Trường hợp phạm tội này cũng
tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 và điểm d khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội
1.3.5 Phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 (hình phạt bổ sung)
Theo quy định tại khoản 5 Điều 153 Bộ luật hình sự 1999, ngoài hình phạt chính tương ứng với bốn khung hình phạt, người phạm tội buôn lậu còn
có thể bị áp dụng thêm các hình phạt bổ sung sau:
Phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 30 triệu đồng
Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
Cấm đảm nhiệm chức vụ
Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm Việc nhà làm luật quy định hình phạt bổ sung có tác dụng hỗ trợ và tăng sức mạnh cưỡng chế, giáo dục của hình phạt chính Với khả năng hỗ trợ cho hình phạt chính, hình phạt bổ sung mở thêm khả năng pháp lý cho toà án
có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội
Trang 37Hai tội phạm này về nội dung cấu thành tội phạm có nhiều dấu hiệu giống nhau như khách thể, đối tượng của tội phạm, lỗi, thủ đoạn phạm tội Sự khác nhau cơ bản của hai tội phạm này là ở hành vi khách quan của nó, thể hiện ở chỗ: Hành vi khách quan của tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm Còn ở tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thì hành vi khách quan là hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm
Như vậy, ở cả hai tội buôn lậu (Điều 153 Bộ luật hình sự 1999) với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới (Điều 154 Bộ luật hình sự 1999) đều có yếu tố là đưa hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm qua biên giới, dấu hiệu để có thể phân biệt hành vi của hai tội này là: Hành vi “buôn bán” và hành
vi “vận chuyển” trái phép qua biên giới Hành vi buôn bán ở tội buôn lậu là hành vi mua, bán, trao đổi hàng hóa, tiền tệ với mục đích kiếm lời; còn đối với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới người phạm tội thực hiện hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, họ không phải chủ hàng, họ chỉ là người vận chuyển cho chủ hàng, còn người chủ hàng ở đây là người buôn lậu
Đồng thời, một dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt hai tội phạm này
đó là mục đích của tội buôn lậu là buôn bán kiếm lời còn đối với tội vận
Trang 3838
chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới, mục đích phạm tội không phải là buôn bán nhằm thu lợi bất chính, họ chỉ vận chuyển thuê để lấy tiền công, thậm chí còn có trường hợp là vì tình cảm, nể nang mà vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới Theo đó, nếu phát hiện một người đang vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm thì cần xác định mục đích phạm tội, nếu người đó thực hiện hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ nhằm mục đích kiếm lời thì người đó phạm tội buôn lậu theo Điều 153 Bộ luật hình sự 1999, còn nếu người đó thực hiện hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ qua biên giới mà không nhằm mục đích kiếm lời thì người đó phạm tội vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ theo Điều 154 Bộ luật hình sự 1999 Ví
dụ sau sẽ cho thấy việc xác định mục đích vận chuyển hàng hóa của người phạm tội nhằm mục đích kiếm lời hay không chính là cơ sở đề phân biệt giữa hai tội phạm này
Ví dụ về vụ án buôn lậu thiết bị quy mô lớn do các bị cáo Trần Tiến Thịnh (53 tuổi, Giám đốc Công ty Nhựa Trường Thịnh) và Phan Thanh Hóa (59 tuổi, Giám đốc Công ty Trùng Dương) cùng đồng bọn thực hiện: Tháng 06/2010, TAND huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang đã đưa vụ án ra xét xử và tuyên phạt các bị cáo về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới nhưng tháng 07/2010, tòa phúc phẩm TAND Bắc Giang đã tuyên hủy toàn bộ bản án
sơ thẩm trên để điều tra, xét xử lại Ban đầu, các bị cáo đều khai rằng mục đích nhập khẩu hàng trái phép của các bị cáo để làm “từ thiện” chứ không có
ý định buôn bán để thu lợi, tuy nhiên thông qua quá trình điều tra, xét xử, Hội đồng xét xử kết luận việc các bị cáo Thịnh, Hóa khai rằng mục đích nhập 4 container trang thiết bị đã qua sử dụng để làm từ thiện là không có cơ sở vì: Chúng không thông qua Sở Y tế Bắc Giang, không thực hiện các thủ tục pháp
lý đúng quy định, đặc biệt Thịnh và Hòa còn thay đổi tên 4 container thiết bị y
Trang 3939
tế đã qua sử dụng thành sợi tổng hợp 100% Polyester (vì biết rằng loại thiết bị
y tế đã qua sử dụng thuộc nhóm hàng cấm nhập khẩu), hai bị cáo còn có hành
vi khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ, đánh tháo hàng hóa… Theo đó, tòa đã tuyên phạt Trần Tiến Thịnh mức án 2 năm, Phan Thanh Hóa 2 năm 5 tháng tù cùng về tội buôn lậu
Trường hợp người vận chuyển thường xuyên, liên tục cho người buôn lậu, giữa họ có mối liên hệ, cùng phối hợp thực hiện những hoạt động này thì
sẽ bị coi là đồng phạm buôn lậu, vì người vận chuyển biết rõ mục đích của người thuê vận chuyển là để mua bán kiếm lời nhưng vẫn nhận vận chuyển số hàng lậu đó
1.4.2 Phân biệt tội buôn lậu (Điều 153 Bộ luật hình sự 1999) với tội buôn bán hàng cấm (Điều 155 Bộ luật hình sự 1999)
Hai tội này có nhiều điểm giống nhau về đối tượng tác động của tội phạm là hàng cấm, lỗi, thủ đoạn phạm tội Căn cứ phân biệt hai tội phạm đó là:
Về khách thể của tội phạm, ở tội buôn lậu, khách thể là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự việc xuất khẩu hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng cấm còn khách thể của tội buôn bán hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý buôn bán hàng cấm trong phạm vi lãnh thổ nước ta Mặt khác, đối tượng của tội phạm trong hai tội này cũng khác nhau: Đối tượng của tội buôn lậu là các loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng cấm Trong khi đó, đối tượng của tội buôn bán hàng cấm chỉ là những hàng hóa mà Nhà nước Việt Nam cấm buôn bán
Về hành vi khách quan của tội phạm, hành vi khách quan của tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại
tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng cấm còn
Trang 4040
hành vi khách quan của tội buôn bán hàng cấm là hành vi buôn bán hàng cấm
cụ thể là hành vi mua đi bán lại hàng cấm dưới bất kỳ hình thức nào (trao đổi, thanh toán bằng hàng cấm…) nhằm thu lợi bất chính nhưng phạm tội không vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ nước ta, điều này hoàn toàn khác so với tội buôn lậu Theo đó, nếu người phạm tội thực hiện hành vi buôn bán hàng cấm trái phép qua biên giới thì sẽ bị xử lý về tội buôn lậu theo Điều 153 Bộ luật hình sự 1999, còn nếu hành vi buôn bán hàng cấm tiến hành trong nội địa thì sẽ
bị xử lý về tội buôn bán hàng cấm theo Điều 155 Bộ luật hình sự 1999
1.4.3 Phân biệt tội buôn lậu (Điều 153 Bộ luật hình sự 1999) với tội trốn thuế (Điều 161 Bộ luật hình sự 1999)
Cũng giống như tội trốn thuế, tội buôn lậu với hành vi vận chuyển hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch
sử, văn hóa, hàng cấm qua biên giới nhằm mục đích kiếm lời cũng lẩn trốn nộp một khoản tiền phải nộp cho Nhà nước đó là thuế Tuy nhiên giữa hai tội phạm này có nhiều điểm khác biệt:
Về khách thể của tội phạm: Ở tội buôn lậu, khách thể là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất - nhập khẩu hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng cấm, còn đối với tội trốn thuế, khách thể của tội phạm này là trật tự quản
lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc thu thuế nộp ngân sách Nhà nước
Về đối tượng của tội phạm, đối với tội buôn lậu đối tượng của hành vi phạm tội có thể là những hàng hóa mà Nhà nước hạn chế xuất - nhập hoặc cấm xuất – nhập khẩu như: hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng cấm Còn đối với tội trốn thuế thì đối tượng của tội phạm này là số tiền thuế mà lẽ ra người phạm tội phải nộp theo quy định của pháp luật, theo đó có thể hiểu rằng mặt hàng chịu thuế theo quy định của tội phạm này là những mặt hàng mà Nhà nước cho phép kinh doanh và quy định mức thuế suất