MỘT SỐ NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC MINH TRỊ DUY TÂN CỦA NHẬT BẢN ĐẾN PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC .... Nhưng, không tiếp nhận một cách máy móc, giáo điều, mà với sự
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
NGÔ BÍCH ĐÀO
ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC
TỪ MINH TRỊ (MEIJI) NHẬT BẢN ĐẾN TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội - 2014
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
NGÔ BÍCH ĐÀO
ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC
TỪ MINH TRỊ (MEIJI) NHẬT BẢN ĐẾN TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới
Hà Nội - 2014
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới
Tôi cũng xin cam đoan, đề tài này không trùng với bất cứ đề tài luận văn thạc sĩ nào đã được công bố ở Việt Nam
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài
Người cam đoan
Ngô Bích Đào
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của sự dạy dỗ tận tình, sự góp ý chân thành của tất cả các thầy giáo, cô giáo; và sự nỗ lực phấn đấu của bản thân tôi trong suốt thời gian học tập, tu dưỡng tại Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội
Qua đây, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nói riêng, cũng như tất cả các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt cho chúng tôi kho tàng kiến thức vô cùng quý báu trong quá trình học tập tại Trường Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới – người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả bạn bè, người thân, đồng nghiệp – những người đã luôn ở bên giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 01 năm 2014
Ngô Bích Đào
Trang 5MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu 3
3 Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 10
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 11
6 Đóng góp của luận văn 11
7 Ý nghĩa của luận văn 11
8 Kết cấu của luận văn 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN CHO SỰ DU NHẬP TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC THỜI KỲ MINH TRỊ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX 12
1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và những tác động đến Việt Nam 12
1.1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX 12
1.1.2 Bối cảnh chính trị - xã hội – văn hóa, giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX 15
1.2 Tư tưởng cải cách giáo dục thời Minh Trị Duy tân 24
1.3 Phong trào Đông Kinh nghĩa thục và vị trí của nó trong phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX 33
1.3.1 Vai trò của các nhà nho duy tân lãnh đạo phong trào Đông Kinh nghĩa thục 33
1.3.2 Nội dung tư tưởng và vị trí của Đông Kinh nghĩa thục trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX 37
Tiểu kết chương 1 42
Trang 6CHƯƠNG 2 MỘT SỐ NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC MINH TRỊ DUY TÂN CỦA NHẬT BẢN ĐẾN
PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC 44
2.1 Ảnh hưởng về mô hình giáo dục 44
2.2 Ảnh hưởng về nội dung giáo dục 48
2.3 Ảnh hưởng về phương pháp giáo dục 70
2.4 Ý nghĩa của việc tiếp biến tư tưởng cải cách giáo dục từ duy tân Minh Trị của Nhật Bản đối với công cuộc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay 76
Tiểu kết chương 2 87
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
Trang 7MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội thế giới và Việt Nam có nhiều biến chuyển Các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ La tinh lần lượt trở thành miếng mồi ngon của các nước tư bản đang trong giai đoạn chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên con đường mở rộng thị trường, … Nhiều nước bị biến thành thuộc địa, nửa thuộc địa của các nước thực dân phương Tây, đặc biệt là ở khu vực Châu
Á Việt Nam không nằm ngoài luồng xâm nhập, mở rộng thị trường của các nước đế quốc phương Tây Từ năm 1858 đến năm 1883, sau hơn 20 năm kháng cự thất bại, nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến của thực dân Pháp
Sự biến chuyển về thực tiễn chính trị - xã hội trong và ngoài nước, tất yếu sẽ dẫn đến sự biến chuyển về nhận thức tư tưởng nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết của dân tộc, của thời đại Với nhiều hình thức khác nhau, các cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX: từ bạo lực bằng khởi nghĩa vũ trang, hay đấu tranh cải lương, duy tân ôn hòa trong lĩnh vực tư tưởng…song đều bị thực dân Pháp đàn áp trong bể máu…
Khác với các nước trong khu vực khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản là một trong những quốc gia hiếm hoi thực hiện thành công cải cách toàn diện đất nước hướng theo văn minh phương Tây Giới nghiên cứu bàn đến cuộc cải cách mang tính cách mạng này với cái tên Minh Trị duy tân (1868-1912), mà trước tiên là cải cách trên lĩnh vực giáo dục Nhiều nội dung của cuộc cải cách này đã ảnh hưởng đến các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam, đặc biệt ảnh hưởng rõ nét đến phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội
Trang 8Thắng lợi của cải cách Minh Trị Nhật Bản, nhất là những thành tựu
về giáo dục, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến một bộ phận trí thức nho sĩ yêu nước có tư tưởng duy tân ở Việt Nam Họ đã nhanh chóng xúc tiến, dấy lên một phong trào cải cách trên địa hạt giáo dục và văn hóa với phạm vi lớn Năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục, một trường học kiểu mới ảnh hưởng tư tưởng cải cách giáo dục Nhật Bản được thành lập ở Hà Nội làm nên tiêu điểm cho cả một phong trào lan rộng ra cả nước Nhưng, không tiếp nhận một cách máy móc, giáo điều, mà với sự kết hợp với các phong trào chống Pháp bằng vũ trang ở tầng sâu, lại đồng thời bùng phát những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, tư tưởng của Đông Kinh nghĩa thục đã tạo nên những hiểm họa lớn đối với âm mưu thực dân Pháp muốn nô dịch vĩnh viễn nước ta Vì sao một phong trào canh tân văn hóa, giáo dục, tư tưởng lại có sức lan tỏa nhanh chóng, khiến thực dân Pháp thực sự hoảng hốt và
cố sức dập tắt phong trào? Những công trình nghiên cứu tư tưởng trước đây
đã tập trung để trả lời vẫn đề này, song cho đến nay, vẫn cần có sự tiếp tục
đi sâu làm sáng tỏ cách thức người Việt tiếp nhận ảnh hưởng tư tưởng từ bên ngoài và bài học về phương thức tiếp nhận tư tưởng của phong trào Đông Kinh nghĩa thục đối với lịch sử Việt Nam cận – hiện đại
Hiện nay, những tài liệu về Đông Kinh nghĩa thục ngày càng phong phú và đầy đủ Dưới ánh sáng đổi mới, góc nhìn về phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã cởi mở và đa diện hơn, cần có những nhìn nhận, nghiên cứu
và đánh giá, bổ sung những tư tưởng cải cách giáo dục mà các nhà khai sáng Nghĩa thục đã đặt ra trước vận mệnh đất nước lúc bấy giờ Để làm được điều đó, cần nhận định đầy đủ và hệ thống hóa phương thức mà các nhà Nghĩa thục đã tiếp biến các luồng tư tưởng ngoại lai cuối thế kỷ XIX –đầu thế kỷ XX, trong đó trực tiếp nhất là tư tưởng canh tân giáo dục thời kỳ Minh Trị duy tân
Trong những năm đổi mới gần đây, giáo dục Việt Nam có những biến chuyển, trong xây dựng cải cách còn gặp những lúng túng cả về quy
Trang 9mô, nội dung, chương trình giáo dục… Điều đó đặt ra yêu cầu bức bách trước các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà hoạch định chính sách giáo dục
và các nhà giáo dục tìm hướng đi mới Tìm hiểu, nghiên cứu sâu về tư tưởng cải cách giáo dục thời trước là điều chúng ta nên làm để rút ra những bài học kinh nghiệm, phát huy những bài học giá trị nhằm vận dụng, góp phần giải quyết những đòi hỏi phải đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam Phong trào Đông Kinh nghĩa thục – với tư cách là một cuộc cải cách sâu sắc về tư tưởng giáo dục - trở thành một đối tượng cần thiết để chúng ta nghiên cứu nhằm tìm những gợi ý cho giải pháp đổi mới nền giáo dục hiện thời
Với những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề “Ảnh hưởng tư tưởng cải
cách giáo dục từ Minh Trị (Meiji) Nhật Bản đến tư tưởng giáo dục của phong trào Đông Kinh nghĩa thục” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu, chúng tôi thấy theo thời gian có thể phân loại các công trình theo các nhóm sau đây:
a Công trình nghiên cứu về cải cách và về tư tưởng cải cách giáo dục Nhật Bản
Là một đất nước ở Đông Á, có tiềm lực kinh tế thứ ba thế giới, Nhật Bản là đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả ở nhiều quốc gia Đặc biệt, các nhà khoa học chú ý nghiên cứu cuộc cách mạng tư tưởng đặt nền tảng
cơ sở lý luận cho con đường đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước này, mà trọng tâm là những tư tưởng cải cách giáo dục tạo nên “sự phát triển thần kỳ Nhật Bản”, bắt đầu từ cải cách Minh Trị năm 1868 Có thể kể tới những công trình sau:
Bài nghiên cứu của tác giả Nhật Bản Mitani Hiroshi Cuộc cách mạng Minh Trị: Sự thay đổi cơ cấu, những tổn thất và vai trò của chủ nghĩa dân tộc do Phương Dung dịch, in trên Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 2 năm
Trang 101996 đưa ra những nhận định về những đóng góp và mặt trái của cuộc cải cách Minh Trị đối với lịch sử phát triển Nhật Bản
Năm 2002, Hội thông tin giáo dục quốc tế kết hợp với NXB Chính
trị quốc gia xuất bản cuốn Hiện đại hóa giáo dục Nhật Bản cả về mặt tư
tưởng, hệ thống, nội dung và phương pháp, có nhấn mạnh đến cải cách giáo dục thời kỳ Minh Trị duy tân và vai trò của nó đối với nền giáo dục Nhật Bản hiện đại
Năm 2003, trong luận án Tiến sĩ của Đặng Xuân Kháng “Cải cách giáo dục và những tác động chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản”, tác giả đã khái quát được toàn bộ đời sống giáo dục Nhật Bản
qua những mốc chuyển từ cải cách Taika, Minh Trị, đến cải cách sau chiến tranh thế giới thứ hai Trong đó, cải cách giáo dục dưới thời Minh Trị Duy Tân được tác giả đề cập khá sâu sắc trên nhiều khía cạnh, nhất là hệ thống giáo dục, luật giáo dục, tổ chức và nội dung giáo dục
Nguyễn Văn Kim, trong bài Nhật Bản, ba lần mở cửa ba sự lựa chọn
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 năm 2004 đã trình bày và đánh giá về những cuộc cải cách lớn trong lịch sử Nhật Bản, đặc biệt là công cuộc cải cách Minh Trị, “sự lựa chọn” hướng theo văn minh phương Tây đem đến cho Nhật Bản sự thành công rực rỡ trên các mặt của đời sống xã hội
Năm 2005, Nguyễn Bá Thái viết bài Tìm hiểu cải cách giáo dục ở Nhật Bản trên Tạp chí Khoa học Giáo dục, đã trình bày những nội dung
biểu hiện và khái quát thành tựu của công cuộc cải cách giáo dục Nhật Bản
từ thời Minh Trị cho đến những năm đầu thế kỷ XXI…
Năm 2007, nhóm nghiên cứu Khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cùng viết chung chuyên
khảo Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX – đầu thế
kỷ XX do GS Vũ Dương Ninh chủ biên Công trình đã nghiên cứu các trào
lưu cải cách, trong đó có trào lưu cải cách giáo dục của các nước Đông Á:
Trang 11Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam… trong bối cảnh chung bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược Các trào lưu này, dù thành hay bại, đều đã gây ra sức hút và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia, sự vận động, va đập,
và tác động lẫn nhau giữa các luồng tư tưởng, trong đó Việt Nam cũng là một thực thể tiếp biến những làn sóng tư tưởng từ các nước khác…
Cải cách giáo dục của Nhật Bản cũng đang là đối tượng nghiên cứu của sinh viên, nghiên cứu sinh trong giai đoạn gần đây Năm 2012, Dương Thị Nhẫn – học viên cao học Khoa Triết học – Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã bảo vệ thành công công trình luận văn thạc sĩ với đề tài Tìm hiểu tư tưởng duy tân về giáo dục của Fukuzawa Yukichi Luận văn đã tập
trung phân tích các điều kiện, tiền đề cho tư tưởng duy tân giáo dục của Fukuzawa Yukichi, đặc biệt đã đi sâu hệ thống hóa tư tưởng cải cách giáo dục của ông; cụ thể hóa những nội dung của tư tưởng duy tân ấy trong một nhân vật cải cách kiệt xuất nhất thời Minh Trị - Fukuzawa Yukichi
b Các công trình nghiên cứu về phong trào Đông Kinh nghĩa thục
và tư tưởng Đông Kinh nghĩa thục:
Tuy chỉ tồn tại được 9 tháng, song Đông Kinh nghĩa thục đã xốc lên một phong trào yêu nước mạnh mẽ ở Bắc Kỳ mà trung tâm là Hà Nội Hoạt động rộng rãi về văn hóa – giáo dục đã làm tiếng vang của phong trào lan rộng khắp cả nước Đông Kinh nghĩa thục cũng đi vào lịch sử dân tộc với
tư cách là một trong những phong trào đấu tranh công khai, ôn hòa và mang rõ tính chất dân tộc - dân chủ trong thời đại mới, hướng tới việc giải phóng dân tộc, trước hết bằng những hoạt động có tính chất cải cách dân chủ, đổi mới tư tưởng, kết hợp với những biện pháp thực hiện cụ thể về giáo dục, xã hội, kinh tế, , đồng thời, hoạt động đó gắn liền với xu hướng bạo động cách mạng của Phan Bội Châu, ngọn cờ trung tâm tập hợp và chi phối các phong trào yêu nước lúc bấy giờ
Do những đặc điểm, những nét độc đáo riêng của phong trào, Đông Kinh nghĩa thục đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong nước quan
Trang 12tâm tìm hiểu, nghiên cứu và đã có nhiều công trình được công bố, từ nhiều góc độ: văn học, sử học, văn bản học… Ngay từ năm 1937, sách của Đào
Trinh Nhất: Đông Kinh nghĩa thục, Nhà in Mai Lĩnh, Hà Nội đã cho biết
nhiều nhân vật quan trọng của Đông Kinh nghĩa thục
Năm 1950, Nhà xuất bản Sài Gòn đã cho in cuốn Đông Kinh nghĩa thục của nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê Cuốn sách đã trình bày quá trình
thành lập và nội dung hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục trong bối cảnh của phong trào Duy tân những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời, có điểm tới
sự tiến bộ của một phương pháp giáo dục mới, đóng góp cho lịch sử Việt Nam Trong các bộ sách thông sử Việt Nam đều có ghi chép về Đông Kinh nghĩa thục, nhưng còn chưa đánh giá đúng vai trò, vị trí của phong trào này
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, không khí học thuật thuận lợi hơn, việc đầu tư cho công tác nghiên cứu lịch sử tư tưởng có những chuyển biến rõ nét Trong đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về phong trào Đông Kinh nghĩa thục thực sự đã có những thành quả nhất định Trong đó, có thể kể tới
GS Trần Văn Giàu với Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 2 xuất bản năm 1975, đây là một mắt
xích trong bộ 3 tập nghiên cứu của cố giáo sư Trần Văn Giàu Tập 2 bộ sách đã tiếp nối tập 1 và là nền tảng của sự ra đời của tập 3, phân tích khá
rõ những vận động và biến chuyển của lịch sử tư tưởng Việt Nam bắt đầu
từ khi thực dân Pháp đặt gót giày xâm lược lên đất nước ta cho tới khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công Trong tập này, tác giả đã nêu rõ vị trí, vai trò lịch sử của phong trào Đông Kinh nghĩa thục như một bộ phận của phong trào Duy tân thuộc trào lưu cải cách đầu thế kỷ XX
Từ sau đổi mới 1986, khoa học xã hội Việt Nam có điều kiện hội nhập hơn, điều đó tạo cơ hội cho các nhà nghiên cứu mở rộng phạm vi học thuật của mình trong tiếp cận lịch sử tư tưởng GS Đinh Xuân Lâm và các
đồng tác giả năm 1997 cho xuất bản cuốn Tân thư và xã hội Việt Nam cuối
Trang 13thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phân tích những tác động và vai trò của Tân thư,
tân văn Trung Quốc Nhật Bản tới cuộc vận động cải cách ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Cũng trong năm này, Cục Lưu trữ Quốc gia và Viện Viễn Đông
Bác Cổ Pháp cũng đã phối hợp với nhà xuất bản Văn hóa in Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục sưu tập những bài thơ, bài văn dùng làm tài liệu học tập,
tuyên truyền trong quá trình Đông Kinh nghĩa thục hoạt động mới được
phát hiện
Tác giả Chương Thâu - một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về
tư tưởng Việt Nam cận đại - năm 1997 sưu tầm, chỉnh lý, bổ sung, nhấn mạnh đến vai trò của Đông Kinh nghĩa thục và ý nghĩa lịch sử của nó đối
với phong trào cải cách văn hóa Việt Nam thế kỷ XX trong ấn phẩm Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX Cũng trong
khoảng thời gian này, ông viết bài đăng trên Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, trong đó khẳng định những ảnh hưởng của Khánh Ứng nghĩa thục ở Nhật
Bản đến mô hình, cách thức hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục: Từ Khánh Ứng nghĩa thục (Keio Gijuku) của Nhật Bản đến Đông Kinh nghĩa thục và phong trào nghĩa thục ở Việt Nam, (số 2 – 1996), Phong trào người Việt Nam du học tại Nhật Bản đầu thế kỷ XX (số 1 – 1997), Ảnh hưởng cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật Bản đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của một số nước Châu Á đầu thế kỷ XX (số 5 – 1998, tr.39-
43)…
Tuy nhiên, trong giới nghiên cứu hiện nay, vẫn còn nhiều nhận định chưa thống nhất về đóng góp của Đông Kinh nghĩa thục Đáng chú ý là 100 năm sau khi trường học này bị đóng cửa, năm 2007, một hội thảo đã được tiến hành với sự tham gia của nhiều học giả trong nước với chủ đề: 100 năm Đông Kinh nghĩa thục Những bài viết được trình bày trong hội thảo
đã được in thành kỷ yếu và xuất bản thành sách 100 năm Đông Kinh nghĩa thục… Cuốn sách là tập hợp 40 báo cáo của các nhà nghiên cứu trong nước
về Đông Kinh nghĩa thục thể hiện được vị trí, vai trò của phong trào cách
Trang 14tân văn hóa - giáo dục này trong sự vận động chung của tư tưởng Việt Nam hướng tới mục đích giải phóng dân tộc Điểm nhấn mới là về tư tưởng giáo dục Đông Kinh nghĩa thục lan tỏa đến một số địa phương và một số nhân vật tiêu biểu Một số tác giả đề cập tới giá trị của minh triết Đông Kinh nghĩa thục đối với giáo dục hiện nay
Trong năm 2010, nhân dịp kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long năm 2010, nhà nghiên cứu hàng đầu về Đông Kinh nghĩa thục - Chương
Thâu – chủ biên xuất bản cuốn Đông Kinh nghĩa thục và văn thơ Đông Kinh nghĩa thục Đây là một công trình đồ sộ gồm 2 tập, mỗi cuốn gần
1000 trang Các tác giả đã tập hợp cho in những bài giảng còn lại của Đông Kinh nghĩa thục sau những nỗ lực tìm tòi, tập hợp và dịch để đến tay bạn đọc Nội dung các bài văn thơ được sưu tập cũng đồng thời là sách giáo khoa giảng dạy trong những năm trường hoạt động, đây là nguồn sử liệu, tư liệu vô cùng quý giá cho những người nghiên cứu Đông Kinh nghĩa thục
Tháng 6 năm 2012, trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6 (136),
nghiên cứu viên Dương Thúy Hiền đã công khai kết quả nghiên cứu về
“Nhận thức canh tân đất nước ở một số quốc gia Đông Á nửa cuối thế kỷ XIX: những nét tương đồng” Bài báo đã trình bày những điểm tương đồng
về hoàn cảnh khách quan cho sự ra đời tư tưởng canh tân, quá trình thực hiện và kết quả thực hiện cải cách ở một số quốc gia trong bối cảnh bị thực dân phương Tây xâm lược cuối thế kỷ XIX, trong đó có Nhật Bản và Việt Nam Tuy nhiên, bài báo mới dừng lại ở việc khái quát những điểm tương đồng trong nhận thức canh tân của các quốc gia Đông Á mà chưa có sự chuyên sâu, cụ thể trong nghiên cứu tư tưởng canh tân của các nước, sự tiếp biến tư tưởng canh tân của các quốc gia với nhau, trong đó có sự tiếp biến tư tưởng giữa Việt Nam và Nhật Bản
Năm 2012, Trần Thị Hạnh xuất bản ấn phẩm Quá trình chuyển biến
tư tưởng của nho sĩ Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX Trong đó, tác
giả đã tập trung phân tích những điều kiện, tiền đề và nội dung cơ bản của
Trang 15quá trình chuyển biến tư tưởng của các nho sĩ duy tân Việt Nam đầu thế kỷ
XX, nhận định, đánh giá những kết quá, hạn chế của quá trình đó đối với lịch sử tư tưởng và xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó cũng đề cập đến những tư tưởng duy tân về giáo dục của Đông Kinh nghĩa thục trong 1 tiết của chương III, nhưng chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu, cụ thể hóa nó trong những tác phẩm được giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những tác phẩm còn lại của phong trào này mới được công bố gần đây
Tóm lại, những tác giả, tác phẩm trên đây đã có những tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, có những đánh giá trực tiếp, sâu sắc về nội dung
tư tưởng và hành động của cả Minh Trị duy tân và Đông Kinh nghĩa thục… Những công trình này chính là cơ sở nền tảng quan trọng cho việc tiếp tục đi vào tìm hiểu, đánh giá nội dung, cách thức tiếp biến tư tưởng của các nhà nho duy tân – những người lãnh đạo phong trào này Tuy một số công trình đã ít nhiều đề cập đến những ảnh hưởng từ các cuộc cải cách bên ngoài tác động tới trường học Đông Kinh, nhưng còn chưa hệ thống và cập nhật đầy đủ tư liệu
Qua việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về Đông Kinh nghĩa thục, chúng tôi nhận thấy các tư liệu về phong trào này ngày càng đầy đủ hơn qua thời gian và cung cấp cho người nghiên cứu những tài liệu đa chiều, ngày càng toàn diện và chính xác hơn Tuy nhiên, cho tới nay những nhận định về Đông Kinh nghĩa thục vẫn còn chưa đồng nhất ở nhiều tác giả Tư duy mới trước những vấn đề còn dở dang của lịch sử tư tưởng giai đoạn cận đại cần đến những phân tích sâu, có tính khách quan hơn trước một sự kiện đáng được quan tâm và ghi nhận Cố gắng kế thừa, tiếp thu những thành tựu của người đi trước, chúng tôi thấy rằng việc đi sâu hơn nữa nghiên cứu nội dung và phương thức tiếp biến tư tưởng giáo dục Nhật Bản thời kỳ Minh Trị duy tân của các nhà nho tiến bộ trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục một là điều cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, nhất là
Trang 16trong thực trạng giáo dục hiện nay đang cần một sự đổi mới toàn diện, mạnh mẽ
3 Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu của luận văn là: Làm rõ những khía cạnh tư tưởng về giáo dục thời kỳ Minh Trị duy tân ảnh hưởng đến tư tưởng cải cách giáo dục của phong trào Đông Kinh nghĩa thục
* Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề văn hóa, tư tưởng của Việt Nam và thế giới làm cơ sở cho yêu cầu cải cách ở Việt Nam và sự
du nhập của tư tưởng cải cách giáo dục của Nhật Bản đến nước ta đầu thế
kỷ XX
+ Trình bày khái quát những tư tưởng cải cách giáo dục cơ bản thời
kỳ Minh Trị duy tân ở Nhật Bản
+ Hệ thống hóa và phân tích một số nội dung ảnh hưởng tư tưởng cải cách giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị đến phong trào Đông Kinh nghĩa thục thông qua việc nghiên cứu di thảo văn thơ của phong trào này
+ Chỉ ra ý nghĩa và bài học của việc tiếp biến tư tưởng của những người sáng lập, lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục đối với tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và đối với công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay nói riêng
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Ảnh hưởng tư tưởng cải cách giáo dục Nhật đối với tư tưởng cải cách giáo dục của các nhà sáng lập Đông Kinh nghĩa thục Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề là: Chủ yếu là các tác phẩm “Khuyến học”, “Phúc ông tự truyện”, một số nội dun Luật giáo dục được Arinori ban
hành thời Minh Trị (Nhật Bản) và các tác phẩm thơ văn của phong trào Đông Kinh nghĩa thục (Việt Nam) mới được công bố gần đây
Trang 175 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận dụng phương pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử triết học vào nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Nhật Bản, Việt Nam…
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học vào nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, đồng thời luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, đặc biệt chú trọng phương pháp đối chiếu, logic – lịch sử
6 Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những ảnh hưởng từ tư tưởng cải cách giáo dục của Nhật Bản thời duy tân Minh Trị đến tư tưởng cải cách giáo dục của phong trào Đông Kinh nghĩa thục Từ đó góp phần khẳng định ý nghĩa của bài học tiếp biến tư tưởng cải cách giáo dục của các nho sĩ duy tân yêu nước đầu thế kỷ XX đối với công cuộc cải cách giáo dục
ở Việt Nam hiện nay
7 Ý nghĩa của luận văn
Luận văn bước đầu làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu ảnh hưởng
từ tư tưởng giáo dục thời kỳ Minh Trị duy tân tác động đến Việt Nam qua trường hợp phong trào Đông Kinh nghĩa thục Từ đó, rút ra một số đánh giá
ý nghĩa và bài học của phương thức tiếp biến tư tưởng bên ngoài ở các nhà nho duy tân trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục đối với tiến trình lịch
sử tư tưởng của dân tộc và giá trị đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay
8 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương với 7 tiết
Trang 18CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
CHO SỰ DU NHẬP TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC THỜI KỲ MINH TRỊ
NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và những tác động đến Việt Nam
1.1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc, các nước tư bản phương Tây âm mưu mở rộng thị trường bằng cách đi xâm lấn các nước bên ngoài, đặc biệt là các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ La tinh Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và bành trướng đó, đến thế kỷ XIX, các quốc gia tư bản sau một thời kỳ phát triển trong điều kiện tự do cạnh tranh đã tất yếu chuyển dần sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa Bằng nhiều cách phản ứng với mức độ đấu tranh khác nhau, nhưng đều thất bại, trừ Nhật Bản, các dân tộc châu Á và nhiều quốc gia trên thế giới đã từng bước trở thành thuộc địa và phụ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị vào các nước thực dân phương Tây Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình bành trướng, cạnh tranh khốc liệt, mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân, các nước tư bản Anh, Pháp, Đức, Mỹ đã dần dần nổi lên như những đế quốc trên thế giới Theo đó, năm 1881, Pháp đã thiết lập chế độ bảo hộ ở Tunisi; năm
1882, Anh chiếm Ai Cập, năm 1883, Đức bắt đầu tham gia giành đất thuộc địa ở Tây - Nam Phi Trong các năm 1884 - 1885, Pháp và Anh tiến mạnh xâm lược đến khu vực Đông Dương và Miến Điện (Myanmar); năm 1889 các nước Đức, Anh và Mỹ chiếm vương quốc Samoan và phân chia nước này thành ba vùng cộng trị Như vậy, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, phần lớn khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á - Thái Bình Dương đều lần lượt rơi vào tay các cường quốc thực dân Ở Đông Bắc Á, cho đến giữa
Trang 19thế kỷ XIX, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên cũng bắt đầu
bị cơn lốc của chủ nghĩa thực dân tràn tới uy hiếp
Hầu hết các nước Đông Á, trừ Nhật Bản còn chìm đắm trong chế độ phong kiến hàng ngàn năm với hệ tư tưởng Nho giáo giữ vai trò chủ đạo trong mọi mặt đời sống xã hội Sự xâm lấn của thực dân phương Tây khiến nhiều nước ở khu vực này lần lượt trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa do: giai cấp phong kiến thống trị hèn yếu; dùng biện pháp cải lương, nửa vời nên nhanh chóng thất bại; hoặc đấu tranh vũ trang song lực lượng lẻ tẻ, chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn nên các phong trào lần lượt bị thực dân đàn áp trong bể máu
Sự xâm lấn của thực dân phương Tây cũng tạo nên một làn sóng du nhập văn hóa phương Tây vào Châu Á, làm thức tỉnh giới học trò, trí thức
ở các nước này Đến nửa cuối thế kỷ XIX, một làn sóng cải cách đã lần lượt nổi lên ở hầu khắp các nước Đông Á như một hiện tượng lịch sử phổ biến với quy mô, tính chất, diễn biến và kết quả khác nhau Một số nước đã
đề xuất và thực hiện những tư tưởng cải cách: Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản… nhưng duy nhất chỉ có Nhật Bản duy tân thắng lợi
Trước sự xâm nhập của văn minh phương Tây, Nhật Bản đã có sự tiếp nhận dần dần, đổi mới, thi hành nhiều chính sách, biện pháp hiệu quả nhằm cải thiện tình hình, bảo vệ nền độc lập làm tiền để cho công cuộc canh tân Minh Trị, bắt đầu từ khi Thiên hoàng Minh Trị lên ngôi năm
1868 Sau 30 năm, cuộc cải cách này đã đạt được những thành tựu vĩ đại, đưa nước Nhật từ một nước phong kiến thành nước đế quốc đầu tiên và duy nhất ở Châu Á vào cuối thế kỷ XIX Cải cách Minh Trị với sự thay đổi quan hệ sản xuất từ phong kiến sang tư bản chủ nghĩa đã biến Nhật Bản từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước tư bản phát triển nhờ những cách tân trên mọi lĩnh vực, đặc biệt giáo dục đã đi trước một bước
Cuộc cải cách cuối thế kỷ XIX tại Thái Lan với vai trò của hai nhà vua: Mongkut và Chulalongkorn cùng chủ trương tránh đối đầu, cải cách
Trang 20ôn hòa về mặt chính trị - xã hội, tăng cường buôn bán với các nước phương Tây đã giúp triều đình phong kiến bảo vệ được nền độc lập của mình tuy phải san sẽ bớt thực quyền
Vốn được coi là cái nôi của nền văn minh Đông Á, Trung Quốc luôn
tự tôn, coi mình là trung tâm văn minh của đất nước khác Nước này coi các vùng khác, đặc biệt là phương Tây, là “man di, mọi rợ” Nhưng ngay khi xuất hiện mối đe dọa, các nước phương Tây bắt đầu uy hiếp Trung Hoa, mà mở đầu là thực dân Anh với cuộc chiến tranh Nha phiến năm
1840, thì đến những năm 60 của thế kỷ XIX, giới nho sĩ duy tân ở Trung Quốc đã bắt đầu khởi xướng một cuộc vận động học tập văn minh phương Tây, hay còn gọi là phong trào Dương vụ để đưa Trung Quốc tiến kịp phương Tây, chống được xâm lược phương Tây Tiếp theo, cuối thế kỷ XIX lại nổi lên phong trào vận động Mậu Tuất chính biến năm 1898 Tư tưởng do Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng mở màn cho Mậu Tuất chính biến, đưa ra một số chương trình cải tổ nhằm mở cửa, đưa nền kinh tế của Trung Quốc phát triển theo hướng tư bản, chống lại sự lạc hậu, bảo thủ, trì trệ của triều đình Mãn Thanh và sự can thiệp ngày càng sâu của các nước Phương Tây Phong trảo nổ ra năm 1898, lãnh đạo là các nho sĩ duy tân với sự ủng hộ của vua Quang Tự, bị phe bảo thủ đứng đầu là
Từ Hy Thái Hậu chống lại, cuối cùng cũng bị thất bại sau 103 ngày thực hiện Năm 1901, Trung Quốc thực sự bị xâu xé trong tay của các nước phương Tây sau Điều ước Thiên Tân: Trung Quốc trở thành nước phong kiến nửa thuộc địa Từ đây lại khởi phát lên phong trào dân tộc dân chủ do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đưa đến Cách mạng Tân Hợi 1911, thay thế triều đình phong kiến bằng Nhà nước Cộng hòa do Tôn Trung Sơn làm Tổng thống Nhưng thành quả đó mau chóng bị đánh tráo
Phong trào Duy tân ở Trung Quốc thất bại đã cho thấy việc canh tân theo văn minh phương Tây đã trở thành yêu cầu bức thiết đối với sự tồn vong của các nước Đông Á Phong trào đã để lại những giá trị to lớn,
Trang 21không chỉ đối với lịch sử tư tưởng Trung Quốc, mà các ánh sáng tiến bộ còn tỏa chiếu lan tràn khắp trong khu vực, cổ súy phong trào các nước khác Thông qua Tân văn, Tân thư, Tân báo, các luồng tư tưởng duy tân của Trung Quốc mang theo cả tư tưởng duy tân của Nhật Bản cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng và tình hình tư tưởng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX
Tóm lại, tình hình khu vực và thế giới diễn biến mau chóng đã tạo ra điều kiện khách quan cho sự chuyển biến, thay đổi nhận thức của các nhà Nho duy tân tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền… Và sự bàn bạc, phối hợp chặt chẽ giữa họ đã làm nên nhân tố quan trong chủ quan, những con người là thực thể khởi phát hiện tượng tiếp biến tư tưởng bên ngoài, trong đó chủ yếu là tư tưởng canh tân của các nước Đông Á, tư tưởng canh tân giáo dục của thời kỳ Minh Trị Duy tân để vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong phong trào cứu nước đầu thế
kỷ Trong đó, nổi bật đặt biệt là phong trào Đông Kinh nghĩa thục
1.1.2 Bối cảnh chính trị - xã hội – văn hóa, giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
* Về chính trị - xã hội:
Ở Việt Nam, tuy đã biết đến ưu thế của văn minh phương Tây nhưng
vì lợi ích của tập đoàn phong kiến, vua quan nhà Nguyễn vẫn kiên trì “bế quan, tỏa cảng” nhằm ngăn chặn sự tấn công của các nước tư bản và coi đây là phương thức tự vệ hữu hiệu nhất Cuối cùng, sự lựa chọn sai lầm đó
là nguyên nhân chính khiến Việt Nam trở thành thuộc địa nửa phong kiến của thực dân Pháp Sau Hiệp ước Patenôtre năm 1883, nhà Nguyễn mất chủ quyền và trở thành chính quyền bù nhìn dưới sự thống trị của Pháp
Cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, nước ta căn bản trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu sự thống trị của thực dân Pháp Chúng thi hành chính sách cai trị chuyên chế với bộ máy kép thực dân – phong kiến đàn áp
Trang 22nặng nề lên đất nước Việt Nam Chúng thực thi chia nhỏ quyền lực, đặt ba chế độ chính trị ở ba miền Bắc – Trung – Nam để dễ bề thao túng
Để phục vụ cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, Pôn Đume đã tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước lai ghép, chặt chẽ, đồng thời thực hiện thủ đoạn “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”
Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương gồm các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Campuchia, đến ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương, trực thuộc Bộ Thuộc địa Đứng đầu Liên bang Đông Dương là viên Toàn quyền người Pháp, đại diện cho chính phủ Pháp trực tiếp cai trị Đông Dương về mọi mặt Dưới Hội đồng tối cao Đông Dương,
có các cơ quan Trung ương về quân sự, dân sự, pháp lý, thanh tra, cảnh sát tài chính, canh nông, thương mại, bưu điện, y tế….đặc trách các công việc giúp Toàn quyền điều hành bộ máy thống trị và khai thác bóc lột
Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn chặt với việc củng cố chính quyền các xứ Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành động của chúng Nước Việt Nam chia làm ba xứ với ba chế độ khác nhau
Nam Kỳ là xứ thuộc địa gồm 20 tỉnh do thực dân trực tiếp cai trị về mọi mặt
Trung Kỳ là xứ bảo hộ chia làm 14 tỉnh do một viên quan Khâm sứ Pháp đứng đầu, triều đình Huế vẫn được duy trì với tên gọi “Chính phủ Nam triều” Nhưng mọi quyền hành đều ở Tòa Khâm sứ do viên Khâm
sứ Pháp đứng đầu Ngoài ra còn có Hội đồng bảo hộ gồm một hay hai đại diện của Phòng Thương mại hay Canh nông, hai đại diện của Viện Cơ mật
Bắc kỳ là xứ “nửa bảo hộ” do một viên Thống sứ người Pháp đứng đầu Bên cạnh Phủ Thống sứ có Hội đồng bảo hộ và hai Phòng Thương mại
và Canh nông ở hai thành phố lớn Hà Nội và Hải Phòng Bắc Kỳ có 26 tỉnh, 35 đại lý, 4 đạo quan binh và hai thành phố
Trang 23Hệ thống chính quyền ở Trung kỳ và Bắc Kỳ từ cấp tỉnh trở xuống
về đại thể giống nhau Đứng đầu mỗi tỉnh là một viên Công sứ người Pháp Bên cạnh tòa Công sứ, hệ thống tổ chức quan lại cũ vẫn được duy trì Tất
cả các quan “Nam triều” này chỉ đóng vai trò thừa hành những quyết định của Tòa Công sứ Pháp Mỗi tỉnh chia làm nhiều phủ, huyện bao gồm các tổng, xã, làng, đạo, châu đối với các tỉnh miền núi là các tổng, làng, bản
Song song với việc tăng cường và củng cố bộ máy hành chính, thực dân Pháp còn tăng cường bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án, nhà tù nhằm nhanh chóng hoàn thành triệt để công cuộc bình định, để “phòng thủ Đông Dương”, “mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là các nước lân cận với Đông Dương” và phục vụ cho công cuộc khai thác, bóc lột
Đi đôi với bộ máy quân sự, cảnh sát to lớn là hệ thống pháp luật khắc nghiệt với chế độ riêng cho từng xứ cùng hệ thống tòa án, nhà tù dầy đặc khắp Việt Nam Từ huyện, phủ, châu trở lên điều có nhà tù và trại giam Ngoài ra thực dân Pháp còn thực hiện thủ đoạn chia rẽ dân tộc và tôn giáo
Bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ sở của
sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động
do thực dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác, bóc lột vô cùng tàn bạo của chúng
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cũng ảnh hưởng mạnh
mẽ đến cơ cấu xã hội, sự phân hóa giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn Bên cạnh những giai cấp cũ là địa chủ phong kiến và nông dân còn xuất hiện thêm giai cấp mới từ quá trình bóc lột thuộc địa là giai cấp công nhân, đồng thời là sự hình thành của tầng lớp tiểu tư sản
Trang 24lực cho chúng, ra sức bóc lột nhân dân ta Nhưng thái độ chính trị của giai cấp địa chủ có phân hóa Bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước sẵn sàng tham gia cách mạng Một bộ phận lững thững chờ thời Một bộ phận cấu kết với thực dân Pháp Một bộ phận chuyển hóa trở nên nhà tư sản là cơ sở xã hội cho các phong trào duy tân yêu nước
+ Giai cấp nông dân:
Bị phân hóa sâu sắc vì chính họ là đối tượng bị bóc lột Nạn cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến, cùng sưu cao thuế nặng, tạp dịch cũng như thiên tai xảy ra liên miên dẫn đến nông dân bị mất mùa nạn đói đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa và phá sản Hơn 95% dân số là mù chữ, bị vô sản hóa, người nông dân phải bỏ làng bỏ xóm ra thành phố, đến các công trường, hầm mỏ, xí nghiệp, đồn điền để làm thuê Chính vì vậy họ không ngừng tham gia các cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến Đây cũng là cơ sở cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản trong những năm đầu thế kỉ XX
+ Tầng lớp tư sản:
Hình thành sau giai cấp công nhân sau đợt khái thác thuộc địa lần thứ nhất, giai cấp tư sản số lượng còn ít, nguồn gốc xuất thân, thái độ chính trị khác nhau Tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam ra đời sau tầng lớp tư sản mại bản nhưng không có địa vị cao về kinh tế và chính trị, lại bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa chèn ép Với thực lực kinh tế chính trị yếu ớt, lại
bị phụ thuộc vào Pháp, cho nên tầng lớp tư sản chưa đủ điều kiện để trở thành một giai cấp làm lực lượng lãnh đạo Tất cả các đặc điểm đó dẫn đến yếu tố cải lương trong quá trình đấu tranh đầu thế kỷ XX
+ Tầng lớp trí thức Nho học và tiểu tư sản:
Trí thức Nho học và tiểu tư sản là tầng lớp hình thành sớm cùng chế
độ thuộc địa Đến đầu thể kỷ XX, thành phần của tầng lớp này trở nên phức tạp và cũng phát triển theo quy mô khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
Trang 25bao gồm: tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên, học sinh, trí thức,… Tầng lớp này bị chế độ phong kiến và thực dân Pháp chèn ép dẫn đến thường bị phá sản và bần cùng hóa, nên có tinh thần yêu nước sẵn sàng tham gia vào cách mạng Tầng lớp này trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX chưa thể là lực lượng xã hội chính để tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài vào, mà lực lượng chính yếu có điều kiện trở thành lực lượng lãnh đạo là các Nho sĩ duy tân yêu nước: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Quyền, Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ…
+ Giai cấp công nhân:
Ra đời rất sớm, là lực lượng xã hội mới quan trọng, nhưng đầu thế kỷ
XX, họ chưa trở thành giai cấp tự giác Đây là lớp công nhân đầu tiên làm việc trong hầm mỏ, đồn điền, xí nghiệp…họ tập trung chủ yếu ở những đô thị trung tâm công nghiệp khai thác mỏ quan trọng của thực dân Pháp Đời sống công nhân hết sức gian khổ, nên họ ra sức đấu tranh Ngay từ khi mới
ra đời giai cấp công nhân Việt Nam sớm đã kế thừa những tư tưởng yêu nước nhưng họ chưa thể tiếp nhận những tư tưởng cải lương bên ngoài và trở thành lực lượng chính của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX Chính
vì vậy giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng: Có mối quan hệ gắn bó với giai cấp nông dân; Kế thừa truyền thống yêu nước của cha ông ta; Chịu hai tầng áp bức bóc lột là đế quốc và phong kiến; Mới ra đời đã tiếp thu những ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin mà ít chịu ảnh hưởng của các tư tưởng tư sản phi Mác xít
* Về kinh tế:
Thực dân Pháp du nhập không hoàn chỉnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta, đồng thời vẫn tiếp tục duy trì quan hệ kinh tế phong kiến để tăng cường lợi nhuận Chúng đẩy mạnh khai thác thuộc địa trên tất cả các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải với quy mô và tốc độ ngày càng tăng Trong chính sách khai thác
Trang 26thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, trong chương trình hành động gửi
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa (22/3/1897), Pôn Đume nêu rõ:
“Xây dựng cho Đông Dương một thiết bị Kinh tế to lớn, một hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng, những cái cần thiết cho việc khai thác xứ Đông Dương, đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và người lao động của người bản xứ, khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng viển Đông, nhất là các nước lân cận” [9, 128]
Do sự du nhập các yếu tố mới, dù là để bóc lột thuộc địa của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi khác trước: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, quan hệ sản xuất mới những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới
Nét nổi bật nhất của chính sách khai thác của thực dân Pháp chính là chính sách cướp đoạt ruộng đất một cách trắng trợn, được hợp pháp hóa bằng những điều ước, nghị định, với sự câu kết giữa thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến Thực dân Pháp còn tiếp tay cho địa chủ cướp đoạt ruộng đất của nông dân Chính sách cướp đoạt ruộng đất và khai thác nông nghiệp không bền vững của thực dân Pháp đã đẩy nông nghiệp Việt Nam vào tình trạng hết sức tiêu điều: “Chế độ thực dân như vậy không mang thêm chút nào cho sự giàu có của xứ sở” [9, 132], mà trái lại làm cho
nó trở nên kiệt quệ
Trong khi kìm hãm nông nghiệp trong vòng lạc hậu, thực dân Pháp tiến hành đầu tư vào một số ngành kinh tế để khẳng định vị trí của chủ nghĩa tư bản Pháp ở Đông Dương Trước hết là đầu tư những ngành khai thác mỏ: thiếc, kẽm, bạc, sắt, vàng, thủy ngân…đặc biêt là than Trong lĩnh vực khai thác mỏ, mỏ than đặc biệt chú ý, tổng sản lượng khai thác năm
1903 là 285.919 tấn, đến năm 1913 là 500.000 tấn Thực dân Pháp chú trọng xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu
Trang 27thị trường Đông Dương và kiếm được nhiều lợi nhuận, vừa có khả năng cạnh tranh ở thị trường Viễn Đông Năm 1903 có 82 xí nghiệp, đến năm
1906 tăng lên 200 xí nghiệp Phương thức kinh doanh chủ yếu là tận dụng nguyên liệu dồi dào, nguồn nhân công rẻ mạt, sử dụng đến mức tối đa sức lao động thủ công kết hợp sơ đẳng với cơ giới, kết hợp bóc lột của tư bản với phong kiến, nhờ đó mà lợi nhuận thu được không ngừng tăng lên Một nền công nghiệp đã xuất hiện ở nước ta nhưng đó chỉ là một nền công nghiệp phiến diện, què quặt, không có công nghiệp nặng, thể hiện rõ tính chất thuộc địa Đến lúc này, nước ta đã thực sự biến thành “sân sau” của Pháp
Trong lĩnh vực thương nghiệp, Việt Nam là thị trường độc chiếm của
tư bản Pháp Hàng hóa Pháp nhập vào Việt Nam được hoàn toàn miễn thuế, trong khi đó, hàng hóa của các nước khác bị Pháp đánh thuế mạnh Thực dân Pháp còn ra sức chèn ép thương nhân Việt Nam, dung dưỡng cho thương nhân Hoa Kiều làm đại lý cung ứng hàng xuất khẩu, buôn bán và tiêu thụ hàng hóa Pháp Chính sách độc quyền thương mại của thực dân Pháp đã làm bần cùng hóa nhân dân lao động và bóp chết các ngành tiểu thủ công nghiệp Việt Nam
Toàn bộ chính sách đầu tư, khai thác bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương là một chính sách hẹp hòi, ích kỉ và thiển cận nhằm trói buộc nền kinh tế nước ta phụ thuộc vào nền kinh tế của Pháp Đây là chính sách cướp bóc của thực dân Pháp bằng phương pháp bóc lột tư bản chủ nghĩa kiểu cũ kết hợp với hình thức bóc lột dã man thời trung cổ, thu lợi nhuận siêu ngạch Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XX, chính sách kinh tế của thực dân Pháp đã tạo ra sự biến đổi trong đời sống kinh tế Việt Nam Đó là sự xâm nhập của phương thức sản xuất tư bản dẫn tới sự tan rã dần dần nền kinh tế
tự nhiên ở nông thôn, đồng thời kinh tế hàng hóa có điều kiện phát triển Ở một số đô thị và một số lĩnh vực nhỏ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế phụ thuộc, lạc hậu ở
Trang 28nước ta Đây là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thái thực dân được thể hiện bằng sự kết hợp giữa phương thức bóc lột tư bản với phương thức bóc lột phong kiến trên phạm vi cả nước Tuy nhiên, Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp
* Về văn hóa – giáo dục:
Mặc dù đã chiếm được Việt Nam từng phần từ giữa thế kỷ XIX nhưng đến đầu thế kỷ XX, về giáo dục, thực dân Pháp vẫn còn duy trì nền giáo dục Nho học vốn đã tồn tại lâu dài cùng chế độ phong kiến Bên cạnh
đó, ở Nam Kỳ cũng bắt đầu làm quen với nền giáo dục của Pháp khi Pháp thực hiện chế độ cai trị ở Việt Nam và sau đó lan ra cả nước
Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, đầu độc về văn hóa Mục đích của nền giáo dục thuộc địa là góp phần duy trì ách thống trị vĩnh viễn của thực dân Pháp Vì vậy, tùy theo yêu cầu về chính trị và kinh tế của từng thời kì, thực dân Pháp đã đề ra những chủ trương cụ thể đối với nền giáo dục và văn hóa nước ta
Để thực hiện mục đích trên, thực dân Pháp chủ trương tiếp tục lợi dụng nền giáo dục Nho học với chế độ khoa cử lỗi thời Bên cạnh đó, để phục vụ cho khai thác thuộc địa, thực dân Pháp còn mở các trường sư phạm
ở Hà Nội, Nam Định, Huế, Gia Định, các trường chuyên nghiệp và xưởng học nghề, các trường kỹ nghệ thực hành, trường thợ may, trường cơ khí Á Châu Sài Gòn, trường Mỹ thuật Gia Định, trường Y sĩ Hà Nội được thành lập năm 1901 Năm 1906, sau khi giải tán trường Đông Kinh nghĩa thục, để tranh giành ảnh hưởng với phong trào Đông Kinh nghĩa thục, thực dân Pháp mở trường Đại học Đông Dương (tiền thân của Đại học Quốc gia Hà Nội) Ngoài ra, Pháp còn mở một số viện khoa học: Viện Vi trùng học Sài Gòn, Sở Địa Chất, Trường Viễn Đông Bác Cổ, Nha Khí tượng, Viện Nghiên cứu Nông nghiệp và Kỹ nghệ…
Trang 29Báo chí là một công cụ tuyên truyền đắc lực cho sự thống trị của thực dân Pháp Việc xuất bản sách, báo, tranh ảnh, bản đồ, tem thư cũng được chú ý Sách báo được xuất bản thành 4 ngôn ngữ: Hán, Nôm, Pháp, Quốc ngữ Hoạt động xuất bản sách báo đã đánh dấu một bước phát triển mới, chuyển từ xuất bản sách phần lớn là chữ Hán và chữ Nôm sang phần lớn chữ Quốc ngữ và chữ Pháp
Phật giáo vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt Trong khi đó, trước bối cảnh bị xâm lược, tầng lớp nho sĩ bị khủng hoảng nặng nề về ý thức hệ, một số trí thức thức thời đã hiểu rằng: Nho giáo không còn là chiếc chìa khóa vạn năng cho mọi vấn đề Bên cạnh việc thi hành chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản trên đất nước ta, thực dân Pháp còn tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn sự ảnh hướng của những nền văn hóa tiến bộ thế giới vào Việt Nam, thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề thống trị Đây cũng là điều được các nhà nho duy tân yêu nước sáng lập Đông Kinh nghĩa thục nhận ra
Ngoài những yếu tố trên, tình hình sinh hoạt văn hóa ở nước ta đã có
ít nhiều biến đổi và phát triển trong bối cảnh thuộc địa nửa phong kiến, chủ yếu ở các đô thị Ở nông thôn, văn hóa làng vẫn tồn tại trong chính sách
“bần cùng hóa”, và “ngu dân hóa” Những “thói hư tật xấu” của xã hội phong kiến được “lưu truyền” qua nhiều thế hệ, không những vẫn “cố thủ”,
mà còn được thực dân Pháp dung dưỡng Nạn cờ bạc không bị cấm đoán
mà còn được Pháp khuyến khích bằng việc cho phép mở các sòng bạc để thu thuế Tệ uống rượu không bị hạn chế Thực dân Pháp còn mở các cơ quan thu mua và các ti bán thuốc phiện để thu ngân sách cho Phủ Toàn quyền Ở nông thôn, hủ thục ma chay, cưới xin, tệ hương ẩm, nạn thù hằn giữa các phe phái vẫn tồn tại và không kém phần trầm trọng Thêm vào đó, nạn bói toán, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề Nhân dân bị thất học, hơn 95% không biết chữ
Trang 30Tuy vậy, sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa, tư tưởng bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, bằng chữ Hán hay chữ Pháp, chữ Quốc ngữ vẫn diễn ra ngày một mạnh mẽ tại Việt Nam đầu thế kỷ XX Một số bộ phận trí thức nho học
từ động cơ yêu nước đã tiếp nhận và chắt lọc tinh hoa từ các nền văn hóa
ấy để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, dấy lên các phong trào, nhằm mục đích giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và phát triển đất nước Trong đó,
có nhiều trí thức đã kế thừa tư tưởng bên ngoài tiến bộ như: Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch ở cuối thế kỷ XIX…, hướng theo con đường du nhập văn minh phương Tây, nhưng không được chính quyền thực dân - phong kiến ủng hộ, do đó, không thể thực hiện được Tư tưởng của các nhà tư tưởng canh tân cuối thế kỷ XIX cũng là một trong những cơ
sở cho các nhà nho duy tân đầu thế kỷ XX kế thừa để thực hiện công cuộc cải cách giáo dục của mình
1.2 Tư tưởng cải cách giáo dục thời Minh Trị Duy tân
Để có được thành công và tiếng tăm lẫy lừng như vậy, Nhật Bản đã
có sự tích lũy dần về số lượng các đổi mới nhỏ lẻ, chuẩn bị từ nguồn lực con người qua đào tạo chất lượng làm nền tảng cơ bản để phát triển đất nước Từ đây, với cải cách Minh Trị, Nhật Bản trải qua một quá trình tăng tốc làm chuyển biến nhanh chóng và có tính quyết liệt trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Trong đó, người ta ghi nhận đáng kể những thành tựu của công cuộc cải cách giáo dục, đặc biệt với vai trò của Arinori Mori (Sâm Hữu Lễ) (1847-1889) và Fukuzawa Yukichi (Phúc Trạch Dụ Cát) (1835 – 1901) – những nhà tư tưởng lỗi lạc Nhật Bản xuất thân từ tầng lớp võ sĩ dưới thời Minh Trị
Là Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên của Chính phủ lập hiến Minh Trị, đồng thời là đại sứ ngoại giao của Nhật Bản đến Mỹ lần đầu tiên, Arinori Mori nhận thấy ở Hoa Kỳ mọi ngành nghiên cứu đều có học hội, nhờ vậy các học giả có dịp trao đổi ý kiến về học thuật, tổ chức những buổi nói chuyện có lợi ích cho người đời Trong khi đó, ở Nhật khi đó, các học giả
Trang 31ai cũng cô lập, không chịu liên lạc với nhau, vì thế mới dẫn đến tình trạng đạo đức của dân chúng bị suy thoái trầm trọng Nhằm cứu vãn tình thế đó, ông đề nghị thiết lập một học hội vừa để chấn hưng học thuật vừa để làm gương mẫu đạo đức Hội mang tên là Meirokusha (Minh lục xã), bởi lẽ việc thành lập hội được thảo luận vào năm thứ 6 thời Minh Trị (1873) - “Minh”
là Minh Trị, “lục” là sáu, và “xã” là hội Tôn chỉ thiết lập của hội công bố một năm sau đó, được tóm tắt như sau: “Nhằm xúc tiến giáo dục trong nước, nhóm hữu chí chúng tôi thương nghị về các biện pháp, hội họp các người đồng chí để trao đổi ý kiến, mở mang kiến thức” Qua tháng 2 năm
1875, Meirokusha được chính thức thành lập, là cơ sở xã hội quan trọng thúc đẩy giáo dục văn hóa Nhật Bản tiến bộ
Là một trong những thành viên chủ chốt của Meirokusha, ngay từ rất sớm, Fukuzawa đã ý thức được tầm quan trọng của việc giáo dục con người toàn diện, ông chủ trương thành lập một trường học mẫu mực, kiểu mới ngay tại đất nước mình Nghĩa thục vốn xuất phát nghĩa từ tiếng Anh (public school), là trường học với lý tưởng xã hội cộng hòa Qua những năm tháng dày công học tập mà Fukuzawa Yukichi đã sớm tiếp thu được tư tưởng tự do dân chủ tư sản phương Tây và lần đầu lập ra ở Nhật Bản một
“Gijuku” (nghĩa thục) cố gắng lột tả tinh thần “public school” (trường học công cộng) của nước Anh Trường này được ông đặt tên là Keio Gijuku (Khánh Ứng nghĩa thục) Tinh thần “public school”, theo Fukuzawa, hướng đến mục tiêu giáo dục toàn diện, giáo dục bốn phẩm chất quan trọng, sẽ góp phần làm rạng danh cho người Nhật: tính tự cường, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào các công việc công ích công thiện Cho đến năm 1874, trường đã có một số lớp tiểu và trung học Năm
1890, với sự cộng tác của một số giáo sư Đại học Harvard (Mỹ), trường mở thêm các lớp trình độ đại học Năm 1891, trường mở thêm một số lớp học ban đêm chuyên dạy các môn thương mại Từ năm 1895, trường mở thêm một phân khoa chuyên về khoa học kinh doanh ngoài bốn phân khoa đã có
Trang 32sẵn: kinh tế, chính trị, luật học và văn chương Keio Gijuku trở thành mẫu hình Đại học tư thục đa cấp, đa ngành đầu tiên khá hoàn chỉnh trên đất nước Nhật Bản
Thực hiện chính sách cải cách giáo dục với mục tiêu làm “phú quốc cường binh”, Nhật Bản nhận thấy cần phải có những con người có trình độ
để tiếp thu và vận dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và quân sự
Có thể khái quát tư tưởng cải cách giáo dục Nhật Bản qua hai nhân vật làm nên “linh hồn” của cuộc cải cách giáo dục Nhật Bản thời kỳ này là Fukuzawa Yukichi và Arinori Mori, với những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, từ lợi ích dân tộc Nhật Bản, tiếp thu toàn diện văn minh
phương Tây “Họ cho rằng giáo dục chính là chiếc chìa khóa bí mật tạo nên sức mạnh của phương Tây và nó cũng không phải là một cái gì không thể tiếp thu được” [66, 169] Sau sự kiện các nước Châu Âu đổ bộ vào đất Nhật bằng hạm đội hùng hậu, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã nhanh chóng nhận thấy sự lạc hậu về kỹ thuật của nước mình Ngay sau khi lên ngôi, Thiên Hoàng Minh Trị cũng đã thấy được tầm quan trọng của việc thống nhất những quan điểm và hiện đại hóa nền giáo dục, trong đó có một vấn đề dễ được chấp nhận là việc nhanh chóng tiếp thu kinh nghiệm, thành tựu giáo dục từ các nước phương Tây
Thứ hai, phương hướng nhất quán ngay từ đầu cải cách giáo dục
hướng ngoại là tiếp thu văn minh phương Tây trên cơ sở bảo tồn, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc “Hòa hồn Dương tài” Ngày mồng 4 tháng 7 năm
1868, khi cuộc chiến giữa lực lượng nổi dậy chống lại chế độ phong kiến Tokugawa đang diễn ra ác liệt, Fukuzawa đã nói với học sinh của mình, lúc bấy giờ chỉ còn 18 người: “dù bên ngoài có đổi thay, có biến động thế nào thì trường vẫn vững vàng duy trì ngành Tây phương học Trong tình hình căng thẳng như vậy, nhưng chúng ta quyết sẽ không nghỉ một ngày nào Chừng nào trường này còn, Nhật Bản vẫn còn là một nước văn minh trên thế giới” [98, 287-288]; Ông nói: “Việc tiếp thu văn minh phương Tây
Trang 33không phải là cứu cánh, mà bất quá chỉ là phương tiện Để bảo vệ độc lập dân tộc không có cách nào khác ngoài con đường tiến đến văn minh Lý do duy nhất để người dân ta tiến đến văn minh là để bảo vệ độc lập quốc gia” [43, 34] Tuy nhiên, dù tiếp thu văn minh của nước nào nhưng tinh thần tiếp thu của người Nhật vẫn là dựa trên nền của văn hóa Nhật Bản: “Wahon kansai” (Hòa hồn Hán tài), hay “Wahon Yosai” (Hòa hồn Dương tài), với chủ trương nhất quán: tiếp biến văn minh nước đó thành tài sản làm giàu, làm mới tư tưởng của mình, nghĩa là ngay từ đầu Nhật Bản luôn giữ thái độ tiếp thu một cách chủ động các thành tựu giáo dục trên cơ sở yêu cầu phát triển dân tộc
Thứ ba, đường lối chung là chú trọng xây dựng một nền giáo dục
thực dụng, thiết thực với mục tiêu là “Phú quốc cường binh”
Do học hỏi từ mô hình giáo dục phương Tây nên Nhật Bản đã xây dựng được một nền giáo dục mang tính thực dụng cao Điều này nằm ngay trong tư tưởng của nhà cải cách giáo dục bậc thầy Fukuzawa Yukichi Ông cho rằng: học không chỉ là học thuộc những kiến thức có sẵn trước đây mà phải gắn việc học với những nhu cầu của cuộc sống hiện đại như đọc, viết (đặc biệt là ngoại ngữ), làm tính để có thể giao dịch, trao đổi với bên ngoài một cách hiệu quả Với trường Đại học Keio của mình, ông đã đào tạo ra cho Nhật Bản nhiều lớp thương gia và các nhà lãnh đạo quan trọng trong bộ máy nhà nước Giáo dục của ông là giáo dục mang tinh thần khoa học, độc lập và thực dụng Theo ông, các nước phương Đông sở dĩ chậm tiến trong thời Cận đại là bởi giáo dục Khổng giáo quá thiên về hư học Vì vậy, chú trọng việc trang bị kiến thức khoa học và thực nghiệm là mục tiêu quan trọng của giáo dục Nhật Bản từ thời Minh Trị cho tới tận sau này Các nhà canh tân giáo dục Nhật Bản cho rằng, mục tiêu giáo dục cũng chính là phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước theo con đường kinh tế tư bản chủ nghĩa Giáo dục kỹ thuật không chỉ góp phần vào công nghiệp hóa mà còn tập trung nâng cao sức mạnh quân sự, đưa Nhật Bản vào hàng ngũ các
Trang 34nước hùng mạnh trên thế giới, có sức cạnh tranh với các đế quốc: Nga, Anh, Pháp Và sau ba mươi năm thực hành cải cách, Nhật Bản đã vươn lên thành một cường quốc tư sản đánh thắng Nga, xâm chiếm lân bang
Nhật Bản cũng là một trong những nước nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục đối với đời sống xã hội, đặc biệt, theo các nhà cải cách giáo dục Minh Trị: “Giáo dục có ảnh hưởng đến các vấn đề sau đây: 1 Sự phồn vinh vật chất của mỗi nước; 2 Đối với thương nghiệp của mỗi nước; 3 Lợi ích trong công nghiệp, nông nghiệp của mỗi nước, 4 Trạng thái thân thể, đạo đức, xã hội của mỗi nước, 5 Hiệu quả về mặt chính trị, pháp luật” [39, 215]
Mục đích giáo dục Nhật Bản, suy cho cùng là hướng tới sự phát triển đất nước tiến kịp, tiến xa các nước phương Tây, để phát triển đất nước cần bắt nguồn từ những nỗ lực của mỗi người, do đó, điều quan trọng đầu tiên
là phải giáo dục những cá nhân “tri hành hợp nhất” Fukuzawa nói:
“Phương châm của tôi không phải chỉ hướng đến mục đích mộ tập học trò
và bắt chúng đọc sách nguyên bản Tôi muốn làm sao để mở cửa đất nước Nhật Bản đang bị đóng kín này đưa lên con đường văn minh kiểu phương Tây, tiến tới phú quốc cường binh để khỏi lạc hậu với thế giới Thế nhưng, không phải chỉ nói miệng, mà trước hết phải bắt đầu từ bản thân mình, hành động và lời nói mà lệch nhau thì không được” [98, 329-330]
Thứ tư, Nhật Bản chủ trương đào tạo là để nâng cao trí tuệ quốc dân
nên các công dân đều có cơ hội bình đẳng trong giáo dục “Tâm hồn con người dù là nam hay nữ đều giống nhau Không có đạo lý nào quy định rằng đứa trẻ do người hạ đẳng sinh ra nhất định sẽ trở thành hạ đẳng Những đứa trẻ mới lọt lòng, dù chúng sinh ra trong nghèo khó hay giàu sang, đều bình đẳng, không thể bị kỳ thị hay bị phân biệt” [99, 188] Luật giáo dục cơ bản (Học chế) năm 1872 có đoạn:
“Ngày nay giáo dục phải được truyền bá rộng rãi trong dân chúng (nam cũng như nữ, cựu quý tộc và võ sĩ, nông dân, thương nhân cũng như
Trang 35thợ thủ công) để trong mỗi làng không còn một gia đình nào mù chữ và không còn người nào mù chữ trong mỗi gia đình Trẻ em đến tuổi đi học, không phân biệt nam nữ đều phải tới trường và các bậc cha mẹ phải được thông báo về chính sách này với tất cả lòng ham muốn” [39, 171-172] Fukuzawa cho rằng, giáo dục chính là điều kiện tiên quyết để phân biệt người hạ đẳng và thượng đẳng, nhưng ban đầu mọi người đều có cơ hội ngang nhau vì: “do trời sinh ra và tất cả đều bình đẳng Không có sự khác biệt bẩm sinh nào giữa cao và thấp…kẻ nào không học, anh ta sẽ dốt và kẻ dốt thì ngu Cho nên sự khác biệt giữa người khôn và kẻ ngu là do vấn đề giáo dục mà ra” [66, 186]
Thứ năm, để đạt tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nên cần coi
trọng giáo dục tiểu học và đào tạo đội ngũ giáo viên Các nhà lãnh đạo thời Minh Trị đã sớm nhận thức được rằng, muốn xây dựng một nước Nhật mới không thể bắt đầu với số đông dân chúng mù chữ Vì vậy, ngay từ đầu khi công bố Học chế, chính phủ đã quy định thời gian giáo dục nghĩa vụ là 8 năm Sau đó, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn mà chính quyền đã điều chỉnh thời gian giáo dục nghĩa vụ bắt buộc cho phù hợp nhằm lôi kéo số trẻ em tới trường một cách tối đa Cùng với đó, việc đào tạo giáo viên cũng được chính phủ đặc biệt chú ý: có chính sách ưu tiên với người học sư phạm, nhưng bắt buộc họ cam kết không được đổi nghề Trong thời gian đầu, dù rất thiếu giáo viên nhưng tiêu chuẩn giáo viên của các cấp học vẫn được quy định rất chặt chẽ, yêu cầu về trình độ của họ ngày càng cao, nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo cao của các trường học
Dựa vào các nguyên tắc cơ bản trên đây, tiến trình cải cách giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị đã trải qua thời gian dài với nhiều giai đoạn và nhịp độ ngày càng nhanh hơn Công cuộc cải cách đó được Chính phủ chủ động khởi xướng và toàn dân thực hiện qua các thời kỳ, với các chủ trương, biện pháp mạnh mẽ, phù hợp Để đạt được mục đích giáo dục: lấy con người làm trung tâm nhằm đào tạo con người, đào tạo nguồn nhân lực chất
Trang 36lượng cao phục vụ cho sự phát triển đất nước, ngay từ đầu Chính phủ đã xây dựng một đường hướng, chính sách, nội dung giáo dục toàn diện theo các cấp trình độ của học sinh Ở trường, người học được học tất cả các môn học, đặc biệt chú trọng học tập kỹ nghệ và văn minh phương Tây… Tùy theo từng lứa tuổi và trình độ nhận thức mà Bộ Giáo dục Nhật Bản tổ chức thành các bậc học (tiểu học, trung học, đại học…), mở các trường học riêng dành cho nữ sinh và nam sinh, bên cạnh các trường dạy kiến thức khoa học
cơ bản, còn có cả trường đào tạo nghề các bậc khác nhau Đồng thời, ngay
từ năm 1872, Bộ ban hành Luật giáo dục, thực hiện quản lý giáo dục bằng các đạo luật trên cả nước nhằm biến giáo dục thành một trong những chiến lược của Nhật Bản Hệ thống sách giáo khoa cũng được sửa đổi liên tục theo hướng hiện đại hóa và đáp ứng được các nhu cầu của xã hội
Nguyên tắc tiếp thu văn minh phương Tây trên cơ sở duy trì bản sắc dân tộc được Nhật Bản quán triệt trên tinh thần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, trong đường hướng giáo dục đó, rõ rệt nhất là duy trì các giá trị nội dung giáo dục đạo đức Chính phủ Nhật Bản chủ trương “kỹ nghệ phương Tây, đạo đức phương Đông” Theo đó, dù thời đại có biến chuyển ra sao, thì môn Tu thân (đạo đức) luôn là môn học được quan tâm trong nhà trường Nhật Bản Ở trong các nhà trường Nhật Bản thời kỳ Minh Trị duy tân, người ta chú trọng giáo dục cho học sinh những giá trị truyền thống tốt đẹp: cần cù, nhẫn nại, thanh khiết, lao động hết mình, lòng trung thành… Đặc biệt, sự cẩn thận, tỉ mỉ và tính nguyên tắc được học sinh tiếp thu gần như bản năng Chủ yếu các tư tưởng đạo đức đó bắt nguồn từ học thuyết Khổng giáo nhưng đã mang tinh thần duy tân Nhật Bản Với quan điểm này, nội dung bài hướng đạo của Yozumi Yatsuka đã được treo trên tường trong các lớp học của giáo viên, là phương hướng tư tưởng cho các lớp đào tạo giáo viên:
“Nước Nhật Bản lấy quân thần làm đạo cả, lấy kính thờ Hoàng gia làm tôn giáo của mọi gia đình, lấy tôn trọng chủ quyền gia trưởng cũng
Trang 37trọng đại như chủ quyền quốc gia, lấy hòa đồng “nhà” ấy là “nước”,
“nước” ấy là “nhà” làm quan niệm tối thiêng liêng
Người Nhật Bản ra thì trung thần, về thì lấy hiếu tử làm bổn phận Người Nhật Bản đều do từ Hoàng thất cho nên phân tán ra thành gia đình và kết tụ thành quốc gia, nên người Nhật Bản lấy trung quân ái quốc làm nhiệm vụ
Đấy là những bí quyết khiến Nhật Bản từ bé trở thành lớn, từ yếu trở nên mạnh Chúng ta kiên quyết bảo trì truyền thống ấy” [39, 187]
Với tinh thần “Hòa hồn, Dương tài”, “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt phương Tây” ở mức độ cao nhất, mặc dù gặp nhiều khó khăn về tài chính, chính quyền Minh Trị vẫn dành một khoản tiền lớn cho việc mời các chuyên gia đầu ngành từ các nước Âu – Mỹ sang Nhật Bản để xây dựng và phát triển các ngành khoa học, đồng thời khuyến khích
mở rộng các ngành khoa học thực nghiệm theo quan điểm Âu học Bên cạnh đó, Nhật Bản còn tích cực cho học sinh ra nước ngoài du học, chỉ trong năm 1873 đã có 373 lưu học sinh Nhật Bản được chính quyền Minh Trị cử sang các nước phương Tây để học tập Tất cả các ngành từ nghề truyền thống (nông – lâm – ngư nghiệp) đến các ngành công nghiệp mới (hóa chất, đóng tàu, dịch vụ, xây dựng, sinh – hóa, vật lý…) hay các vấn đề khoa học đều được coi trọng và đưa vào chương trình dạy – học nhằm đào tạo một đội ngũ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư có trình độ cao đuổi kịp trình
độ tiên tiến của phương Tây
Với những đường lối, chính sách cải cách giáo dục một cách mạnh
mẽ và dứt khoát, Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi lối học hư học của Nho giáo làm kìm hãm sự phát triển tài năng và óc sáng tạo của con người Bắt đầu từ kỷ nguyên Minh Trị và cải cách giáo dục thời kỳ này, Nhật Bản
đã có được những thành tựu rực rỡ về nguồn nhân lực với chất lượng cao,
có “thương hiệu” toàn cầu và được cả thế giới biết đến mà trước tiên phải
kể đến việc nó đã giúp Nhật giữ vững nền độc lập, thoát ra khỏi nền kinh tế
Trang 38lạc hậu và bước vào thời kỳ tư bản chủ nghĩa Sau một thời gian ngắn, sự ngang hàng về khoa học kỹ thuật với phương Tây đã giúp Nhật thắng được hai cuộc chiến tranh với Trung Quốc (1894) và Nga (1904 – 1905) làm thức tỉnh toàn Châu Á, hướng tâm trí họ nhìn về tấm gương Nhật Bản
Tác giả Trần Thị Thu Lương của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh trong báo cáo đưa ra tại Hội thảo “100 năm Đông Kinh nghĩa thục” nhận xét: “Với cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân, Nhật Bản lúc đó
là địa điểm tốt nhất của Châu Á cho việc tiếp cận với tư tưởng mới và khoa học tiên tiến của phương Tây Ở Nhật Bản thời kỳ này có nhiều học giả từ phương Tây đến giảng dạy Theo thống kê trong 21 năm, từ 1868 đến 1889,
có 2299 học giả từ Anh, Pháp, Mỹ, Hà Han, Ý tới Nhật để dạy học.” [65, 105] Cho đến nay, Nhật Bản cũng là nơi có nhiều tài liệu, sách vở của các học giả phương Tây nhất ở khu vực Châu Á bao gồm đủ các nội dung văn học, kinh tế, chính trị, luật pháp, thống kê, triết học và đặc biệt là sách khoa học kỹ thuật, công - kỹ nghệ Trên thực tế, Nhật Bản đã trở thành địa chỉ du học của thanh niên Châu Á, nhịp cầu tiên phong chuyển tải tư tưởng mới vào phương Đông Không chỉ các chí sĩ hay các lưu học sinh Châu Á đến Nhật Bản được tiếp cận với Tân thư mà Tân thư còn từ đây theo nhiều con đường truyền tới các nước này, mở đường cho tư tưởng khai sáng của Châu
Âu thâm nhập vào Châu Á và Đông Nam Á đầu thế kỷ XX, xâm nhập trào lưu duy tân, cổ súy cho việc canh tân, nâng cao dân trí để thoát khỏi ách thống trị của thực dân Đông Kinh nghĩa thục của Việt Nam ra đời trong trào lưu duy tân ấy Các nhà nho yêu nước của Việt Nam đã biết đến danh tiếng của trường Keio Gijuku (Khánh Ứng nghĩa thục) do Fuzukawa (Phúc Trạch Dụ Cát) nhà tư tưởng khai sáng lớn nhất của Nhật Bản cận đại sáng lập năm 1868 tại thủ đô Tokyo Đây là một trường học kiểu mới, là niềm tự hào của Nhật Bản trên bước đường duy tân hiện đại hóa đất nước Theo tấm gương cải cách giáo dục đó, năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục của Việt
Trang 39Nam đã ra đời tại Hà Nội với những tài liệu và phương pháp học tập tiến
bộ, đầy tính đổi mới
Tóm lại, được sự tích lũy nhiều mặt trong quá trình tiếp xúc với văn minh giáo dục phương Tây qua các thế kỷ XVII-XVIII, giữa thế kỷ XIX, tư tưởng cải cách giáo dục của Nhật Bản đã hội được điều kiện để thực thi nhiều nội dung toàn diện Với tinh thần “Hòa hồn, Dương tài”, “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt phương Tây”, Nhật Bản đã có được những thành tựu về cải cách giáo dục, tạo ra nguồn nhân lực với chất lượng cao, làm kinh ngạc cả thế giới, mà trước tiên phải kể đến việc cuộc cải cách này đã giúp Nhật giữ vững nền độc lập, thoát ra khỏi nền kinh tế lạc hậu và bước vào thời kỳ tư bản chủ nghĩa, trở nên nguồn nhiệt năng
“thức tỉnh” các nước, trong đó có Việt Nam
1.3 Phong trào Đông Kinh nghĩa thục và vị trí của nó trong phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.3.1 Vai trò của các nhà nho duy tân lãnh đạo phong trào Đông Kinh nghĩa thục
Ở Việt Nam, qua nhiều con đường, đầu thế kỷ XX đã phổ biến nhiều bài ca yêu nước, tuyên truyền về một nước Nhật Bản duy tân, vươn đến văn minh, tiến bộ Chiến thắng vẻ vang của Nhật trong cuộc chiến tranh với Nga (1904-1905) dẫn đến hoà ước Postsmouth, đem lại cho Nhật hải cảng
Lữ Thuận, phía nam Sakhaline và con đường xe lửa phía nam Mãn Châu
Sự kiện trên khiến các nước châu Âu giật mình vì một châu Á đang trỗi dậy, nó còn đem lại niềm khích lệ lớn cho giới sĩ phu duy tân Việt Nam: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền, Lương Văn Can, Hoàng Tăng Bí… theo gương tự cường của nước Nhật để đánh đuổi thực dân Pháp
Sự du nhập tư tưởng cải cách giáo dục Minh Trị duy tân từ Nhật Bản vào Việt Nam ghi nhận công lao của Tăng Bạt Hổ Ông nguyên là người Bình Định, tham gia quân đội triều đình nhà Nguyễn, làm đến chức
Trang 40cai cơ; sau đó, ông cùng với Phạm Toàn mộ nghĩa quân chống Pháp Sau nhiều trận thất bại, nghĩa quân tan rã, không chấp nhận dụ hàng, ông trốn qua Thái Lan, rồi sang Trung Quốc xin làm thuỷ thủ cho một tàu buôn Nhờ đó, ông thường có dịp qua lại các hải cảng Nhật, tự học và nói thông tiếng Nhật Khi chiến tranh Nga - Nhật xảy ra, vì lòng căm hờn người Châu Âu, ông đăng ký vào thuỷ quân Nhật
Trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật đầu thế kỷ XX, Tăng Bạt Hổ lập công lớn trong các trận Đại Liên, Lữ Thuận, được Chính phủ Nhật Bản tặng thưởng huy chương quân công Ông được mời dự trong bữa đại yến
do Nhật hoàng đãi các tướng sĩ mừng chiến thắng, khi đỡ chén rượu do vua Nhật ngự rót, ông uống một hơi cạn rồi khóc lớn Khi được Nhật hoàng hỏi, ông nói rằng ông khóc mừng cho nước Nhật thắng trận và cũng khóc vì cái nhục của nước ông là Việt Nam còn trong ách xâm lược của thực dân Pháp Cũng trong bữa tiệc đó, Tăng Bạt Hổ ngỏ lời cầu viện sự giúp đỡ của Nhật hoàng cho quốc gia mình
Dù được an ủi và khen là chân ái quốc, nhưng vua Nhật cũng không hứa hẹn gì Nhưng tiếng khóc của ông tại hoàng cung Nhật đã gây được cảm tình lớn với nhiều tướng lĩnh và chính khách, đặc biệt với hai nghị sĩ Nhật (cựu sinh viên Keio Gijuku) là Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng Nghị) và Okuma Shigenobu (Đại Ôi Trọng Tín – sau này là thủ tướng Nhật) Hai ông này rất muốn tranh thủ vận động Nhật hoàng viện trợ cho Việt Nam kháng Pháp, nhưng do tình hình khi đó Nhật còn muốn hoà hoãn với Pháp Do đó, họ đã khuyên Tăng Bạt Hổ nên tìm cách quay
về phát triển phong trào duy tân trong nước để nâng cao dân khí, dân trí cho đại sự về sau dễ thành và hứa tận lực giúp cho học sinh Việt Nam sang Nhật được phép cư trú và miễn học phí
Cuối 1904, Tăng Bạt Hổ về Hải Phòng rồi vào Quảng Nam Qua giới thiệu của một người quen, ông nhiều lần gặp gỡ với Phan Bội Châu và
Kỳ ngoại hầu Cường Để Đầu năm 1905, ông đưa Phan Bội Châu sang