1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

59 1 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại Việt Nam
Tác giả Thái Tiến Sĩ
Người hướng dẫn ThS. Trần Thị Ngọc Hết
Trường học Trường Đại Học Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Khóa luận
Năm xuất bản 2024
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 59
Dung lượng 1,23 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài (8)
  • 3. Mục đích nghiên cứu đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài (10)
  • 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài (11)
    • 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu (11)
    • 4.2. Phạm vi nghiên cứu (11)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (12)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận (12)
  • 6. Bố cục tổng quát của khóa luận (13)
  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (14)
    • 1.1 Khái niệm, đặc điểm của Vi phạm cơ bản hợp đồng đồng (14)
      • 1.1.1 Khái niệm chung về hợp đồng và Vi phạm cơ bản hợp đồng (14)
        • 1.1.1.1 Vi phạm hợp đồng (14)
        • 1.1.1.2 Vi phạm cơ bản hợp đồng (15)
      • 1.2.1 Đặc điểm của hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng (17)
      • 1.2.1 Pháp luật Việt Nam (19)
      • 1.2.2 Pháp luật quốc tế (21)
    • 1.3. Các chế tài do vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng (23)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT (26)
    • 2.1. Quy định của pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng theo luật Thương mại Việt Nam (26)
      • 2.1.1. Quy định về cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng (26)
      • 2.1.2. Quy định về chế tài đối với hành vi phạm cơ bản hợp đồng (29)
        • 2.1.2.1 Hủy hợp đồng (30)
        • 2.1.2.2 Nghĩa vụ bồi thường và phạt vi phạm (32)
        • 2.1.2.3. Quyền buộc thực hiện đúng hợp đồng (33)
    • 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm do vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (34)
      • 2.2.1 Bất cập trong xác định các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng (34)
        • 2.2.1.1. Yếu tố thiệt hại trong “vi phạm cơ bản” không rõ ràng và không cần thiết (34)
        • 2.2.1.2. Cần làm rõ mục đích giao kết của hợp đồng (37)
      • 2.2.2. Bất cập trong áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng (38)
        • 2.2.2.1. Vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản (38)
        • 2.2.2.2. Quyền buộc thực hiện đúng hợp đồng đối với vi phạm cơ bản (39)
        • 2.2.2.3. Quyền khắc phục vi phạm cơ bản hợp đồng (42)
        • 2.2.2.4. Căn cứ hủy bỏ hợp đồng do vi phạm cơ bản hợp đồng là quá rộng (43)
        • 2.2.2.5. Chưa quy định hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng dự đoán trước (0)
    • 2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (45)
      • 2.3.1. Thống nhất thuật ngữ vi phạm cơ bản trong LTM với thuật ngữ vi phạm nghiêm trọng trong BLDS (45)
      • 2.3.2. Làm rõ yếu tố thiệt hại đáng kể cho bên bị vi phạm (47)
      • 2.3.3. Làm rõ yếu tố mục đích của việc giao kết hợp đồng (48)
      • 2.3.4. Sửa đổi bổ sung một số chế tài xử lý hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng (49)
      • 2.3.5. Bổ sung Điều luật về vi phạm hợp đồng trước thời hạn (51)

Nội dung

1. Lý do chọn đề tài Hợp đồng được ví là luật của các bên trong quan hệ dân sự. Nói đến hợp đồng là nói đến hiệu lực hợp đồng, thực hiện hợp đồng và trách nhiệm pháp lý của các bên. Quá trình thực hiện hợp đồng thương mại các bên có thể vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ trong hợp hợp đồng và khi vi phạm bên vi phạm phải chịu hậu quả do chính hành vi của họ gây ra, hậu quả đó có thể được quy định trong hợp đồng hoặc do pháp luật quy định. Tuy nhiên, khi xem xét và thực thi pháp luật có thể thấy giữa LTM và BLDS chưa có sự thống nhất, một số quy định cụ thể của LTM chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại và LTM quốc tế gây khó khăn, thiếu cơ sở căn cứ để áp dụng một số chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại. Trong đó có thể nhắc đến khái niệm “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng. Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 LTM thì vi phạm cơ bản là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng các chế tài trong thương mại như: chế tài tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng khi các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận về điều kiện áp dụng ba chế tài này. Tuy vậy, LTM còn thiếu nhiều quy định có tính hướng dẫn để làm rõ hơn về khái niệm cũng như là cách thức áp dụng, thực tiễn thực thi đã gặp rất nhiều bất cập, khó khăn. LTM không đưa ra sự giải thích cụ thể để xác định hành vi vi phạm như thế nào bị coi là vi phạm cơ bản. Vấn đề đặt ra là chế định vi phạm cơ bản hợp đồng đặt ra những vấn đề gì trong thực tiễn áp dụng? Cần sửa đổi những quy định nào để hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng?. Để trả lời được những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu kỹ những quy định về vi phạm cơ bản trong LTM và so sánh thêm với pháp luật thế giới. Đó là lý do để chọn vấn đề “vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam” làm đề tài khóa luận cử nhân Luật học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua quá trình khảo sát về tình hình nghiên cứu đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập tới nhiều góc độ khác nhau của vi phạm cơ bản hợp đồng cụ thể như: Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 2), trong đó tác giả đã đưa ra một số bản án liên quan đến chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện đúng hợp đồng từ trang 565-612 có đề cập sơ lược đến vi phạm nghiêm trọng, vi phạm cơ bản hợp đồng Cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (tái bản năm 2013), cũng đã đề cập đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng. Tác giả cho rằng “chỉ nên coi những vi phạm có ảnh hưởng lớn tới hợp đồng mới là cơ bản” và việc xác định tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng là “phụ thuộc hoàn cảnh cụ thể và khi có tranh chấp thì Tòa án sẽ tự xác định” Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Võ Sỹ Mạnh (2015), trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam”. Luận án có đề cập đến vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở góc độ lý luận và thực tiễn nhưng ở mức độ phạm vi bao quát cả pháp luật quốc tế mà chưa trọng tâm phân tích quy định cơ bản theo pháp luật Thương mại Việt Nam Luận văn Thạc sĩ Luật của tác giả Phạm Thị Minh Nguyệt, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh “Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và chế tài khi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” năm 2013. Luận văn này chỉ nghiên cứu khái quát về khái niệm vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thương mại nói chung và theo quy định của Luật Thương mại, các chế tài áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài các sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ được liệt kê ở trên thì vẫn còn nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khoa học về vi phạm cơ bản hợp đồng có thể kể đến như: “Vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. Một số bất cập và định hướng hoàn thiện”, của tác giả Võ Sỹ Mạnh, đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại ngày 23/10/2014. Trong bài viết Tác giả cho rằng khái niệm vi phạm cơ bản trong LTM và các luật khác liên quan là chưa thống nhất và đề nghị thống nhất tên gọi, tiêu chí để nhận biết thế nào là vi phạm cơ bản để tạo sự thống nhất về pháp luật và bảo đảm cho 2 3 quá trình hội nhập với quốc tế, thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp và áp dụng các chế tài có liên quan. “So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại Việt Nam 2005 và Công ước Viên 1980”, Phan Thị Thanh Thủy (2014), Tạp chí Khoa học: Luật học, tập 30, số 3/2014, tr. 50-60: Bài viết này tập trung vào so sánh những quy định của LTM 2005 và CISG về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng để làm rõ những điểm tương đồng và sự khác biệt của hai văn bản này. “Vi phạm cơ bản hợp đồng”, Đỗ Văn Đại, bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004 đã giải nghĩa thuật ngữ “cơ bản”, “vi phạm cơ bản”. Tác giả này nhấn mạnh một số văn bản quốc tế về hợp đồng như PICC, PECL đều không sử dụng khái niệm “vi phạm cơ bản”. Theo quan điểm của tác giả này, không nên tiếp nhận từ nước ngoài những thuật ngữ cũ hoặc không rõ ràng, gây khó khăn trong áp dụng thống nhất. Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quý giá, đã cung cấp nhiều tài liệu giúp người viết có thêm thông tin quan trọng để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Tính tới thời điểm hiện tại cơ bản chỉ mới có một luận án tiến sĩ nói về vi phạm cơ bản nhưng được nhìn nhận dưới góc độ của Công ước viên và một luận văn thạc sĩ nghiên cứu khái quát về khái niệm vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thương mại và các chế tài áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Thông qua việc xem xét về tình hình nghiên cứu và thực tiễn áp dụng, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra nhiều tiêu chí, cách nhận biết về vi phạm cơ bản hợp đồng, tuy nhiên cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn về cấu thành cấu thành của vi phạm cơ bản cũng như chỉ ra những bất cập còn tồn tại để giúp các nhà làm Luật có thêm cái nhìn tổng quan về vấn đề này. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật thoơng mại Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam” mà muốn hướng đến là: các quy định của pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam thông qua phân tích các 4 quy định của pháp luật thương mại Việt Nam và so sánh sơ bộ với Công ước Viên năm 1980. Đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra nguyên nhân tranh chấp và bất cập áp dụng pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất là làm rõ những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng Thứ hai là phân tích, làm rõ quy định về vi phạm cơ bản và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo LTM Việt Nam Thứ ba là phân tích, làm rõ quy định về chế tài do vi phạm cơ và thực trạng vận dụng các chế tài này của Tòa án, Trọng tài Thứ tư phân tích những bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan của Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng để giúp các cơ quan, giải quyết tranh chấp thuận lợi trong việc áp dụng các chế tài khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vi phạm cơ bản hợp. Để làm rõ đề tài này, tác giả tập trung đi sâu vào phân tích các vấn đề sau: Một là các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam. Hai là phân tích các chế tài mà bên vi phạm phải chịu khi có hành vi vi phạm cơ bản. Ba là làm rõ trách nhiệm của các bên trong trường hợp vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam. Bốn là nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án có liên quan tới hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm phạm vi không gian, phạm vi thời gian và phạm vi nghiên cứu về nội dung của đề tài: Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Thương mại năm 2005 liên quan đến vi phạm cơ bản và thực tiễn áp dụng các quy định này. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả có tiến hành so sánh sơ bộ với các quy định tương ứng của Công ước viên năm 1980 nhằm đưa ra sự đánh giá tổng quan nhất về vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng. Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng từ khi Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực thi hành cho đến nay. Phạm vi nghiên cứu nội dung của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu về khái niệm của vi phạm cơ bản hợp đồng theo LTM, quy định và chế tài đối với hành vi vi phạm cơ bản và đồng thời đánh giá vấn đề bất cập và đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận này tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm thực hiện hóa mục tiêu nghiên cứu bao gồm phương pháp luận (phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin và một số phương pháp sau: Phương pháp phân tích – tổng hợp được vận dụng xuyên suốt trong đề để làm rõ các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến đối tượng nghiên cứu; Phương pháp so sánh sử dụng khi khi so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam và quy định của CISG để đối chiếu nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả vận dụng phương pháp này để lý giải một số vấn đề mà pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ hoặc thực tiễn xét xử có sự khác biệt. Và cuối cùng là phương pháp phân tích vụ việc được sử dụng để phân tích các bản án của Tòa án khi áp dụng pháp luật Thương mại Việt Nam, nhằm đánh giá sự hiệu quả, linh hoạt của quy định pháp luật và bình luận về tính phù hợp của việc xét xử đối với vấn đề nghiên cứu.

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Qua quá trình khảo sát, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện bởi các tác giả, tập trung vào các khía cạnh khác nhau của vi phạm hợp đồng.

Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của Đỗ Văn Đại, xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 2) bởi Nxb Chính trị Quốc gia, trình bày nhiều bản án liên quan đến việc chấm dứt và hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện đúng các điều khoản hợp đồng Từ trang 565-612, tác giả đề cập đến các khái niệm vi phạm nghiêm trọng và vi phạm cơ bản hợp đồng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về những vấn đề pháp lý này.

Cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại, xuất bản năm 2010 và tái bản năm 2013, đã trình bày khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng Tác giả nhấn mạnh rằng chỉ những vi phạm có ảnh hưởng lớn đến hợp đồng mới được coi là vi phạm cơ bản Việc xác định tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, và trong trường hợp có tranh chấp, Tòa án sẽ tự mình xác định tính nghiêm trọng này.

Luận án tiến sĩ luật học của Võ Sỹ Mạnh (2015) tại Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Tác giả phân tích vấn đề này từ góc độ lý luận và thực tiễn, tuy nhiên, luận án chưa đi sâu vào việc phân tích các quy định cơ bản theo pháp luật Thương mại Việt Nam, mà chỉ đề cập đến khía cạnh tổng quát của pháp luật quốc tế.

Luận văn Thạc sĩ Luật của Phạm Thị Minh Nguyệt tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 tập trung vào việc nghiên cứu khái niệm vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thương mại và các chế tài liên quan theo quy định của Luật Thương mại Tác giả phân tích những khía cạnh tổng quát của vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, đồng thời làm rõ các biện pháp xử lý khi xảy ra vi phạm này.

Ngoài các sách, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đã được đề cập, còn nhiều công trình nghiên cứu và bài báo khoa học khác về vi phạm cơ bản hợp đồng cũng rất đáng chú ý.

Bài viết "Vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam: Một số bất cập và định hướng hoàn thiện" của tác giả Võ Sỹ Mạnh, đăng trên Tạp chí Kinh tế đối ngoại, phân tích những vấn đề chính liên quan đến vi phạm hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam Tác giả chỉ ra những bất cập hiện tại và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp lý, nâng cao hiệu quả thực thi hợp đồng, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Trong bài viết ngày 23/10/2014, tác giả nêu ra rằng khái niệm vi phạm cơ bản trong Luật Thương mại (LTM) và các luật liên quan chưa được thống nhất Tác giả đề xuất cần có sự đồng nhất về tên gọi và tiêu chí nhận diện vi phạm cơ bản, nhằm tạo sự thống nhất trong pháp luật, hỗ trợ cho quá trình hội nhập quốc tế, và thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp cũng như áp dụng các chế tài liên quan.

“So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại Việt Nam 2005 và Công ước Viên 1980”, Phan Thị Thanh Thủy (2014), Tạp chí

Bài viết trong Khoa học: Luật học, tập 30, số 3/2014, trang 50-60, so sánh các quy định của Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) và Công ước Viên về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (CISG) liên quan đến trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, nhằm làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai văn bản pháp lý này.

Trong bài viết "Vi phạm cơ bản hợp đồng" của Đỗ Văn Đại, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9/2004, tác giả đã giải thích khái niệm "cơ bản" và "vi phạm cơ bản" Ông nhấn mạnh rằng nhiều văn bản quốc tế về hợp đồng như PICC và PECL không sử dụng thuật ngữ "vi phạm cơ bản" Quan điểm của tác giả cho rằng không nên tiếp nhận những thuật ngữ cũ hoặc không rõ ràng từ nước ngoài, vì điều này có thể gây khó khăn trong việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn.

Các công trình khoa học hiện có là nguồn tài liệu quý giá, cung cấp thông tin quan trọng cho nghiên cứu về vi phạm cơ bản trong hợp đồng thương mại Đến nay, chỉ có một luận án tiến sĩ và một luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề này, nhưng vẫn cần nhiều nghiên cứu sâu hơn Tác giả nhận thấy rằng mặc dù có nhiều tiêu chí và cách nhận biết vi phạm cơ bản, vẫn còn những bất cập cần được làm rõ Do đó, nghiên cứu đề tài “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết trong bối cảnh hiện tại.

Mục đích nghiên cứu đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1 Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài "Vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam" là phân tích các quy định pháp luật liên quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam Nghiên cứu sẽ so sánh các quy định này với Công ước Viên nhằm làm rõ các điểm tương đồng và khác biệt, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về khung pháp lý hiện hành.

Năm 1980, bài viết phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam, đồng thời chỉ ra nguyên nhân tranh chấp và những bất cập trong việc áp dụng pháp luật này.

Thứ nhất là làm rõ những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng

Phân tích và làm rõ quy định về vi phạm cơ bản trong hợp đồng theo Luật Thương mại Việt Nam là rất cần thiết Điều này bao gồm việc xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng, từ đó giúp hiểu rõ hơn về trách nhiệm pháp lý và quyền lợi của các bên liên quan trong giao dịch thương mại.

Phân tích quy định về chế tài đối với vi phạm cơ bản và thực trạng áp dụng các chế tài này của Tòa án và Trọng tài là rất cần thiết Việc làm rõ các quy định này giúp hiểu rõ hơn về hiệu quả và tính khả thi của các chế tài trong thực tiễn.

Bài viết phân tích các vấn đề trong quy định và thực tiễn áp dụng về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam Đồng thời, tác giả đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan, giúp các cơ quan dễ dàng giải quyết tranh chấp và áp dụng chế tài khi xảy ra vi phạm cơ bản hợp đồng.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vi phạm cơ bản trong lĩnh vực hợp Tác giả sẽ phân tích sâu sắc các vấn đề liên quan để làm rõ nội dung của đề tài này.

Hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam được cấu thành từ nhiều yếu tố Các bên vi phạm sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc khi thực hiện hành vi vi phạm này Đồng thời, cần làm rõ trách nhiệm của các bên liên quan trong trường hợp vi phạm cơ bản hợp đồng Cuối cùng, việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án liên quan đến hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng cũng rất quan trọng để hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm phạm vi không gian, phạm vi thời gian và phạm vi nghiên cứu về nội dung của đề tài:

Bài viết tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Thương mại năm 2005 liên quan đến vi phạm cơ bản và thực tiễn áp dụng các quy định này Đồng thời, tác giả cũng tiến hành so sánh sơ bộ với các quy định tương ứng của Công ước viên năm 1980 để đưa ra đánh giá tổng quan về vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng.

Phạm vi thời gian của đề tài nghiên cứu tập trung vào các vi phạm cơ bản hợp đồng kể từ khi Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực cho đến nay.

Đề tài nghiên cứu tập trung vào khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Luật Thương mại, phân tích các quy định và chế tài liên quan đến hành vi vi phạm này Đồng thời, bài viết cũng đánh giá những bất cập trong pháp luật hiện hành và đề xuất các hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vi phạm hợp đồng.

Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận này áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đa dạng nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin Tác giả sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp để làm rõ các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam Phương pháp so sánh được áp dụng để đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam với CISG, giúp làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu và lý giải những vấn đề pháp luật chưa rõ ràng Cuối cùng, phương pháp phân tích vụ việc được sử dụng để đánh giá hiệu quả và tính linh hoạt của quy định pháp luật qua việc phân tích các bản án của Tòa án trong lĩnh vực Thương mại Việt Nam.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận

Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ hệ thống hóa cơ sở lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng, dựa trên các lý thuyết khoa học, quy định pháp luật trong nước và Công ước Vienna năm 1980 Những phân tích và đánh giá trong khóa luận không chỉ bổ sung cơ sở khoa học cho đề tài mà còn giúp hoàn thiện các quy định pháp luật, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các bên trong hợp đồng.

Khóa luận này, dựa trên phân tích và tổng hợp pháp luật thương mại Việt Nam cùng với thực tiễn áp dụng qua các bản án của Tòa án, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng Tài liệu này sẽ là nguồn tham khảo quý giá cho các nhà lập pháp, những người áp dụng pháp luật, nhà nghiên cứu và sinh viên trong quá trình nghiên cứu và học tập.

Bố cục tổng quát của khóa luận

Bố cục tổng quát của khóa luận bao gồm phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục các bản án, và được chia thành 2 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng theo luật Thương mại

Chương 2: Thực trạng pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Khái niệm, đặc điểm của Vi phạm cơ bản hợp đồng đồng

1.1.1 Khái niệm chung về hợp đồng và Vi phạm cơ bản hợp đồng

Hợp đồng là hình thức pháp lý quan trọng nhất để thể hiện quan hệ tài sản, phản ánh bản chất pháp lý riêng của nó qua nhiều hình thức và ngôn ngữ khác nhau Tại Việt Nam, định nghĩa về hợp đồng đã thay đổi qua các thời kỳ lịch sử, nhưng chủ yếu có hai nhóm hợp đồng cơ bản: một là hợp đồng điều chỉnh quan hệ dân sự, và hai là hợp đồng kinh tế điều chỉnh quan hệ trong lĩnh vực thương mại.

Khái niệm hợp đồng kinh tế đã được điều chỉnh bởi hệ thống văn bản pháp luật thống nhất kể từ khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 có hiệu lực Hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Tuy nhiên, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại vẫn tồn tại và được điều chỉnh bởi các quy định riêng, bởi vì các hoạt động thương mại được coi là hành vi dân sự đặc thù.

Vi phạm hợp đồng là một vấn đề phổ biến trong hệ thống pháp luật toàn cầu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.

Vi phạm hợp đồng được hiểu là hành vi không tuân thủ hoặc thực hiện sai các thỏa thuận mà các bên đã đồng ý Điều này đồng nghĩa với việc một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ hoặc cam kết đã được thống nhất, dẫn đến sự không phù hợp trong mối quan hệ hợp tác giữa các bên.

Vi phạm hợp đồng là khái niệm quan trọng trong nghiên cứu học thuật, xảy ra khi một bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà không có lý do hợp pháp, hoặc thực hiện không đúng cách hoặc không có khả năng thực hiện.

1 Tham khảo: Đinh Thị Mai Phương, 2005, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, NXB Tư pháp

Theo Trần Văn Hùng (2017), trong giai đoạn 1995-2015, hoạt động thương mại của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể Việc vi phạm hợp đồng chỉ được coi là xảy ra khi không có lý do hợp lý, điều này cũng được quy định trong pháp luật quốc tế Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng nhìn chung, các quy định đều nhấn mạnh việc các bên phải tuân thủ những thỏa thuận đã đạt được.

Tại Việt Nam, theo khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005, vi phạm hợp đồng được định nghĩa là hành vi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của Luật Thương mại Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 cũng nêu rõ vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nội dung của nghĩa vụ Hai quy định này cho thấy sự thống nhất trong việc xác định các hình thức vi phạm hợp đồng và nghĩa vụ tại Việt Nam.

Luật Thương mại (LTM) mở rộng phạm vi vi phạm hợp đồng so với Bộ luật Dân sự (BLDS) bằng cách xem "thực hiện không đầy đủ" là một hình thức cụ thể của việc không thực hiện hợp đồng Điều này cho thấy sự phù hợp của quy định trong LTM với xu hướng của một số văn bản quốc tế.

1.1.1.2 Vi phạm cơ bản hợp đồng

Vi phạm cơ bản hợp đồng là một loại vi phạm hợp đồng đặc biệt, không phải tất cả các vi phạm hợp đồng đều được coi là vi phạm cơ bản Sự khác biệt chính giữa vi phạm cơ bản và các loại vi phạm khác nằm ở tính chất cơ bản của hành vi vi phạm.

Theo ngôn ngữ tiếng Việt, “cơ bản” có nghĩa là “trọng yếu nhất”, chỉ những vi phạm có tính chất nghiêm trọng Tính chất cơ bản của hành vi vi phạm thể hiện ở việc vi phạm hợp đồng phải đủ nghiêm trọng để bên bị vi phạm có thể xem như là vi phạm toàn phần, chứ không chỉ là vi phạm từng phần Do đó, bên bị vi phạm có quyền ngừng thực hiện hợp đồng và khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tàu đi chệch hướng là một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hành trình dự kiến và khiến chủ tàu không thể coi là đã thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng chuyên chở Khi tàu đi chệch hướng một cách cơ bản, chủ tàu không thể yêu cầu lợi ích từ các điều khoản có lợi trong hợp đồng chuyên chở.

Trong bài viết của Phan Thị Thanh Thủy năm 2014, tác giả đã so sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại Việt Nam 2005 với Công ước Viên 1980 Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật, từ đó giúp hiểu rõ hơn về cách thức xử lý vi phạm hợp đồng trong bối cảnh thương mại quốc tế.

5 Theo Từ điển Black’s Law (phiên bản thứ 9)

6 Tàu đi chệch hướng được nêu ra trong vụ tranh chấp Joseph Thorley Ltd v Orchris Steamship Co., [1907] 1

K.B 660 (Eng.C.A) trong chuyên chở đường biển được xem như nguồn gốc của học thuyết vi phạm cơ bản đến nay, học thuyết vi phạm cơ bản đã được phát triển mạnh mẽ trong giới luật học và trở thành quy định quan trọng trong pháp luật hợp đồng của Anh, Mỹ,Canada… và được tiếp cận chủ yếu ở hai khía cạnh sau:

Vi phạm hợp đồng được coi là cơ bản khi nó liên quan đến việc vi phạm các điều khoản chính yếu hoặc nghĩa vụ cốt lõi của hợp đồng.

Mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng đến mục đích và lợi ích kinh tế của một bên là yếu tố quan trọng trong việc xác định trách nhiệm và hậu quả của vi phạm.

Các chế tài do vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng

Trong hoạt động kinh doanh thương mại, hợp đồng hợp pháp giữa các bên cần được tôn trọng và thực hiện theo thỏa thuận Tuy nhiên, vi phạm hợp đồng vẫn xảy ra do nhiều nguyên nhân, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho các bên liên quan Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng đúng cam kết và bồi thường cho bên bị thiệt hại, pháp luật đã phát triển các chế tài ngày càng hoàn thiện.

Chế tài trong hợp đồng thương mại, theo Ngô Huy Cương, là quyền được pháp luật hoặc hợp đồng trao cho một bên để thi hành khi bên kia vi phạm Đây là hậu quả bất lợi mà bên vi phạm phải chịu, nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm Về mặt pháp lý, chế tài đóng vai trò quan trọng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, giúp ngăn ngừa vi phạm, bảo vệ quyền lợi các bên, đồng thời ổn định giao dịch và thúc đẩy phát triển thương mại.

Luật thương mại hiện hành quy định sáu loại chế tài cụ thể, bao gồm: buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng Ngoài ra, luật cũng cho phép các bên áp dụng các chế tài khác theo thỏa thuận, miễn là không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, và tập quán thương mại quốc tế.

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là biện pháp chế tài nhằm yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ hợp đồng hoặc áp dụng các biện pháp khác để đảm bảo hợp đồng được thực hiện Mục tiêu của biện pháp này là khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi xảy ra vi phạm, đưa các bên trở lại với quan hệ hợp đồng đã thỏa thuận, đồng thời bên vi phạm phải chịu các chi phí phát sinh.

Phạt vi phạm là hình thức trách nhiệm vật chất áp dụng cho bên vi phạm hợp đồng, khi các bên đã thống nhất rõ ràng về khoản phạt mà bên vi phạm phải chịu.

Buộc bồi thường thiệt hại nhằm đền bù cho những tổn thất mà bên yêu cầu phải chịu do vi phạm hợp đồng, cũng như những lợi nhuận mà họ lẽ ra đã được hưởng nếu vi phạm không xảy ra.

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là hành động mà một bên không thực hiện nghĩa vụ tạm thời khi có vi phạm theo thỏa thuận giữa các bên, hoặc khi có vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng, trừ trường hợp miễn trách nhiệm Ngược lại, đình chỉ thực hiện hợp đồng xảy ra khi một bên chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng do điều kiện đã thỏa thuận hoặc khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, cũng trừ trường hợp miễn trách nhiệm theo thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật.

Hủy bỏ hợp đồng là việc không thực hiện tất cả hoặc một phần nghĩa vụ hợp của hợp đồng

Vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng không phải lúc nào cũng dẫn đến việc áp dụng một trong sáu chế tài đã nêu Việc áp dụng chế tài phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, trong đó bên bị vi phạm có quyền lựa chọn các chế tài hợp lý Cuối cùng, quyết định sẽ được đưa ra dựa trên sự xem xét và đánh giá của cơ quan tài phán.

CISG chỉ công nhận bốn loại chế tài, bao gồm buộc thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, hủy thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại Do sự thiếu thống nhất giữa các nước civil law và common law, phạt vi phạm và đình chỉ thực hiện hợp đồng không được công nhận là biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng trong CISG.

Nam quy định một cách cụ thể, đầy đủ hơn so với Công ước viên

Chương 1 đã phân tích các khái niệm cơ bản về vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, CISG và pháp luật của một số quốc gia khác Vi phạm cơ bản hợp đồng được hiểu là hành vi của một bên làm mất đi đáng kể lợi ích mong muốn từ hợp đồng, bao gồm việc không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng hoặc vi phạm các điều khoản quan trọng của hợp đồng.

Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về vi phạm cơ bản hợp đồng, việc điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này cần tuân thủ nguyên tắc tôn trọng hợp đồng Điều này cũng đồng nghĩa với việc bên bị vi phạm có quyền chấm dứt hiệu lực hợp đồng khi có vi phạm cơ bản Qua phân tích lý luận, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về khái niệm "vi phạm cơ bản hợp đồng", từ đó áp dụng các nền tảng lý luận đã được trình bày ở chương 1 để làm sáng tỏ vấn đề thực thi pháp luật.

Chương 2 của bài viết tập trung vào việc phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành Nội dung này nhằm làm rõ các quy định về vi phạm cơ bản và tìm kiếm giải pháp cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Quy định của pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng theo luật Thương mại Việt Nam

2.1.1 Quy định về cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng

Theo pháp luật Việt Nam, hợp đồng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra các nguyên tắc chung mang tính khái quát cao Mặc dù không có quy định cụ thể về nguyên tắc cơ bản của hợp đồng hay quy trình giao kết và thực hiện hợp đồng, nhưng điều này không có nghĩa là việc giao kết và thực hiện hợp đồng không tuân thủ nguyên tắc nào.

Theo Bộ luật Dân sự, pháp luật về hợp đồng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: tự do ý chí, thiện chí và áp dụng tập quán Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, thuật ngữ "vi phạm cơ bản hợp đồng" không được sử dụng, thay vào đó là thuật ngữ "nghiêm trọng" hợp đồng Mặc dù có sự khác biệt trong cách diễn đạt, nhưng về bản chất, các thuật ngữ này vẫn có những điểm tương đồng.

Kể từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực, khái niệm "vi phạm cơ bản hợp đồng" đã được công nhận Theo Điều 3, khoản 13, vi phạm cơ bản được định nghĩa là hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia, dẫn đến việc bên bị thiệt hại không đạt được mục đích của việc ký kết hợp đồng.

Theo đó một hành vi vi phạm hợp đồng được coi là hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng khi đáp ứng đầy đủ các cấu thành sau:

Thứ nhất có thiệt hại của bên bị vi phạm

Vi phạm hợp đồng thường dẫn đến tổn hại, nhưng không phải lúc nào cũng có tổn hại khi xảy ra vi phạm Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng mà không phát sinh tổn hại Theo khoản 13 Điều 3 LTM, thiệt hại là yếu tố bắt buộc để xác định vi phạm cơ bản hợp đồng Tuy nhiên, cần làm rõ rằng thiệt hại có thể tồn tại, nhưng chưa chắc đã do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.

11 Tiến sĩ Trần Kiên, 2020, Khái niệm về hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam

Theo quy định của Luật Thương mại (LTM), thiệt hại là yếu tố bắt buộc, nhưng chưa có định nghĩa rõ ràng về loại thiệt hại nào, liệu là vật chất hay tinh thần Điều 302 LTM chỉ nêu rằng thiệt hại phải là tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do hành vi vi phạm gây ra, cùng với khoản lợi mà họ lẽ ra được hưởng Việc tồn tại tổn thất là yêu cầu thiết yếu khi áp dụng chế tài bồi thường, tức là bồi thường cho các tổn thất thực tế mà bên bị vi phạm gánh chịu Tuy nhiên, khái niệm thiệt hại còn rộng hơn, không chỉ dừng lại ở tổn thất tài sản hay thu nhập mà còn bao gồm cả uy tín kinh doanh Các nhà soạn thảo LTM đã đồng nhất "thiệt hại" với "tổn thất", trong khi thực tế không phải lúc nào "thiệt hại" cũng chỉ là tổn thất.

Trong tiếng Việt, "thiệt hại" thường được hiểu là những hậu quả bất lợi không mong muốn liên quan đến tài sản hoặc phi tài sản do sự kiện hoặc hành vi nào đó gây ra Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể trong luật, việc hiểu khái niệm "thiệt hại" trong hợp đồng mua bán hàng hóa có thể dựa vào các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, thiệt hại được phân loại thành bốn nhóm, trong đó hai nhóm đặc biệt liên quan đến hợp đồng là thiệt hại về tài sản và thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Thiệt hại trong hợp đồng là những hậu quả bất lợi do vi phạm hợp đồng gây ra, bao gồm thiệt hại thực tế, thiệt hại tiên liệu trước và thiệt hại phi thực tế Bên bị vi phạm có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại, bao gồm tổn thất thực tế, tổn thất trực tiếp và khoản thu nhập bị bỏ lỡ Mức độ thiệt hại được chứng minh sẽ là cơ sở để cơ quan tài phán xem xét và chấp nhận yêu cầu bồi thường.

Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng ngày càng trở nên mơ hồ và trừu tượng, dẫn đến việc dễ nhầm lẫn với việc xác định thiệt hại trong chế tài bồi thường thiệt hại.

Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cung cấp hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng các quy định trong bộ luật dân sự liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Nghị quyết này nhằm đảm bảo sự nhất quán trong việc xét xử và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Việc hiểu rõ các quy định này không chỉ giúp các thẩm phán thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả mà còn tạo điều kiện cho người dân nắm bắt quyền lợi của mình trong các vụ việc bồi thường thiệt hại.

Thứ hai vi phạm khiến mục đích của hợp đồng không đạt được Đối với yếu tố mục đích giao kết hợp đồng, theo khoản 13 Điều 3 LTM năm

Theo quy định năm 2005, một vi phạm không nghiêm trọng đến mức ngăn cản bên bị vi phạm đạt được mục đích thực hiện sẽ không được coi là vi phạm cơ bản Do đó, yếu tố không đạt được mục đích hợp đồng là cần thiết để xác định vi phạm cơ bản Tuy nhiên, việc xác định mục đích giao kết hợp đồng không hề đơn giản, vì các bên có thể có nhiều mục đích khác nhau mà không được thể hiện rõ trong hợp đồng Trong khi đó, CISG cho phép diễn giải rộng hơn so với pháp luật Việt Nam, khi xem xét "những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng", bao gồm cả mục đích giao kết và các lợi ích khác như tổn hại về uy tín.

Các bên thỏa thuận để ràng buộc quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần trong sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng Mục đích chung của các hợp đồng thường được thể hiện qua các điều khoản, phản ánh các mục tiêu cụ thể mà các bên mong muốn đạt được Khi xem xét mục đích của hợp đồng, cần phân biệt giữa mục đích chung của loại hợp đồng (như hợp đồng mua bán hàng hóa) và mục đích cụ thể của từng hợp đồng riêng lẻ (ví dụ, mục đích của hợp đồng mua bán gạo khác với hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị).

Pháp luật hợp đồng thực định tại Việt Nam không quy định cụ thể về mục đích giao kết hợp đồng, mà cần được hiểu qua Điều 123 BLDS, nêu rõ rằng “mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được.” Ngoài ra, Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng hướng dẫn thực hiện các quy định chung liên quan đến vấn đề này.

Vũ Thị Hoa (2019) đã nghiên cứu về chế định hủy hợp đồng theo Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đồng thời đưa ra những kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam Báo cáo tổng kết của đề tài này đã đạt giải ba cấp Bộ trong cuộc thi "Sinh viên nghiên cứu khoa học" năm 2019, với nội dung được trình bày từ trang 45 đến 47.

Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, nhấn mạnh rằng mục đích lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh là mong muốn của cá nhân hoặc tổ chức Khi các bên không có thỏa thuận rõ ràng về mục đích của hợp đồng, việc xác định mục đích giao kết hợp đồng sẽ dựa vào nguyên tắc giải thích hợp đồng dân sự theo Điều 409 BLDS.

Trong việc giải thích hợp đồng, không chỉ cần dựa vào ngôn từ mà còn phải xem xét ý chí chung của các bên, cũng như áp dụng nghĩa phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng và tập quán tại địa điểm giao kết Điều này giúp đảm bảo sự liên kết giữa các điều khoản, sao cho ý nghĩa của chúng phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng Nếu có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên và ngôn từ hợp đồng, thì ý chí chung sẽ được ưu tiên để giải thích hợp đồng.

2.1.2 Quy định về chế tài đối với hành vi phạm cơ bản hợp đồng

Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm do vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng

Để đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng, các bên có thể áp dụng chế tài yêu cầu giao hàng thay thế hoặc hủy hợp đồng Hủy hợp đồng sẽ giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của mình, gây ra hậu quả nghiêm trọng, trong khi mục đích ký kết hợp đồng là để thực hiện đầy đủ và thiện chí các quyền và nghĩa vụ, mang lại lợi ích kinh tế cho cả hai bên Điều này làm nổi bật tầm quan trọng của biện pháp buộc thực hiện hợp đồng, thường được áp dụng trong trường hợp vi phạm.

2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm do vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng

2.2.1 Bất cập trong xác định các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng

Sau gần 18 năm thực hiện Luật Thương Mại (LTM), các quan hệ thương mại đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều bất cập và vướng mắc trong quá trình thi hành Số lượng tranh chấp trong lĩnh vực thương mại có xu hướng gia tăng, cho thấy việc xác định các yếu tố cấu thành vi phạm còn nhiều thiếu sót Nhiều quy định hiện hành chưa rõ ràng và cụ thể, điều này cần được các nhà làm luật xem xét để hoàn thiện LTM nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giải quyết tranh chấp thương mại.

2.2.1.1 Yếu tố thiệt hại trong “vi phạm cơ bản” không rõ ràng và không cần thiết

Thiệt hại là yếu tố quan trọng khi xem xét vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại (LTM) Tuy nhiên, hiện tại không có văn bản hướng dẫn hay giải thích cụ thể về thiệt hại Thiệt hại có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng chủ yếu bao gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại phi vật chất Để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm cần tuân thủ các quy định liên quan.

Theo Vũ Huy Hoàng (2021), trong trường hợp bên bán vi phạm hợp đồng theo Công ước Viên 1980, bên mua có nghĩa vụ chứng minh tổn thất thực tế và khoản thu nhập bị bỏ lỡ Mức độ bồi thường sẽ phụ thuộc vào khả năng chứng minh của bên mua Điều này đặt ra câu hỏi về tính cần thiết của việc chứng minh thiệt hại trong trường hợp vi phạm cơ bản Các tranh chấp thương mại vẫn sẽ được giải quyết bởi Tòa án, tuân theo quy trình tố tụng của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Năm 2015, nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên bị thiệt hại, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp vi phạm cơ bản, việc chứng minh thiệt hại không phải là điều cần thiết Việc xác định mức độ thiệt hại có thể gặp khó khăn do sự đa dạng trong trình độ và nhận thức pháp lý, dẫn đến sự khác biệt trong cách xác định mức độ thiệt hại, thậm chí đôi khi chỉ được xác định một cách chung chung.

Mỗi thẩm phán và trọng tài viên đều có trình độ và nhận thức khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong việc nhìn nhận các vấn đề pháp lý Điều này có thể tạo ra sự thiếu thống nhất trong quan điểm xét xử và giải quyết tranh chấp.

Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh đã xác định rằng việc Bên bán giao hàng không đúng phẩm chất và không khắc phục theo khiếu nại của Bên mua đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho Bên mua Tuy nhiên, Tòa án không làm rõ loại thiệt hại và mức độ nghiêm trọng của nó, dẫn đến kết luận rằng Bên bán đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng theo khoản 13 Điều 3 LTM 2005.

Trong nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng tại Việt Nam, yếu tố thiệt hại do vi phạm hợp đồng không được xem là điều kiện cần thiết để xác định liệu vi phạm đó có phải là vi phạm cơ bản hay không Thực tế cho thấy, Tòa án và Trọng tài thường không xem xét thiệt hại khi đưa ra kết luận về vi phạm cơ bản của hợp đồng, điều này dẫn đến sự không rõ ràng trong nội dung liên quan đến thiệt hại.

Vào ngày 26/9/2007, Công ty cho thuê tài đã ký hợp đồng số 104/07/HĐ ĐMTB-ĐN với Công ty TNHH MTV đóng tàu Đà Nẵng, trong đó Bị đơn cam kết đóng mới một tàu biển vỏ thép chở hàng khô với trọng tải thiết kế 3.242 tấn, tổng giá trị hợp đồng là 32.000.000.000 đồng Thời hạn giao tàu được ấn định vào tháng 3/2008 tại xưởng đóng tàu Nguyên đơn đã chuyển khoản tiền cho Bị đơn theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.

16 Bản án số 19/2010/QĐST-KDTM ngày 30/9/2010 của TAND Quận 3

17 Bản án số 24/2011/ QĐST-KDTM ngày 30/9/2010 của TAND Quận 3

25.600.000.000đ nhưng quá thời hạn trên bị đơn không thực hiện việc giao tàu như hợp đồng đã ký

Hội đồng xét xử xác định rằng Hợp đồng số 104 ngày 26/9/2007 giữa hai bên là hợp đồng mua bán hàng hóa, với thời hạn giao hàng được quy định trong Điều 3 là tháng 3/2008 Tuy nhiên, đến thời điểm nguyên đơn khởi kiện vào ngày 14/10/2010, thời hạn giao tàu đã quá gần 30 tháng Thời hạn giao hàng là điều khoản cơ bản mà các bên phải thực hiện, do đó, việc không thực hiện nghĩa vụ giao tàu theo hợp đồng đã khiến nguyên đơn có quyền hủy bỏ hợp đồng theo Điều 312 LTM.

Vào ngày 07/07/2008 và 18/08/2008, Công ty TNHH Mỹ Tín (Bên A) đã ký hai hợp đồng nguyên tắc với Công ty TNHH Những bạn hữu (Bên B) để mua sắm các mặt hàng quà tặng như đồng hồ, khung hình và đế điện thoại Thời gian giao hàng được quy định từ 20/08/2008 đến 30/08/2008 và từ 05/09/2008 đến 15/09/2008 Tuy nhiên, Bên B đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng mặc dù Bên A đã nhiều lần nhắc nhở Tòa án đã xác định Bên B vi phạm nghĩa vụ giao hàng theo Điều 37 LTM năm 2005 và quyết định hủy bỏ hai hợp đồng nguyên tắc trên.

Trong thực tiễn xét xử các vụ án kinh doanh thương mại, Tòa án và Trọng tài thường không xem xét đến thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do các hành vi vi phạm hợp đồng như không giao hàng, giao hàng không đúng quy cách, không thanh toán tiền hàng và không nhận hàng Cách xử lý này tương tự như của một số quốc gia thành viên Công ước viên, cho thấy rằng các cơ quan tài phán cũng không đánh giá tổn hại đáng kể gây ra bởi những hành vi vi phạm này, đặc biệt là trong trường hợp giao hàng không đúng quy cách và phẩm chất.

Thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng cho thấy rằng, trong trường hợp vi phạm cơ bản, bên bị vi phạm có trách nhiệm chứng minh sự tồn tại của thiệt hại.

Bản án số 25/2014/QĐST-KDTM ngày 04/10/2014 của TAND Quận 3 chỉ ra rằng việc xác định mức độ thiệt hại do vi phạm hợp đồng thuộc về cơ quan tài phán, vì chỉ có họ mới có khả năng đánh giá thiệt hại đã đạt đến mức làm cho bên bị vi phạm không đạt được mục đích giao kết hợp đồng Sự bất cập trong thuật ngữ “thiệt hại” không chỉ nằm ở sự thiếu rõ ràng về nội hàm mà còn dẫn đến sự đa dạng trong kết luận của cơ quan tài phán, gây ra sự thiếu thống nhất trong quan điểm xét xử và giải quyết tranh chấp.

2.2.1.2 Cần làm rõ mục đích giao kết của hợp đồng

Mục đích của việc giao kết hợp đồng cần được làm rõ để kiểm chứng thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra Pháp luật Việt Nam không yêu cầu bên vi phạm phải tiên liệu hậu quả vi phạm, mà chỉ xem xét mục đích hợp đồng tại thời điểm giao kết Việc xác định thiệt hại chỉ dựa vào hợp đồng đã ký kết, không xem xét ý chí chủ quan của bên vi phạm Ngược lại, CISG 1980 yêu cầu bên vi phạm phải tiên liệu hậu quả, cho phép bên bị vi phạm quyền hủy hợp đồng nếu không đạt được mong đợi Do đó, việc xác định thiệt hại cần dựa vào khả năng tiên liệu hậu quả của bên vi phạm.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng

Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam tồn tại hai thuật ngữ quan trọng là “vi phạm cơ bản” và “vi phạm nghiêm trọng” Thuật ngữ “vi phạm cơ bản” được quy định trong Luật Thương Mại, trong khi “vi phạm nghiêm trọng” được đề cập trong Bộ Luật Dân Sự và một số văn bản pháp luật khác.

Vi phạm cơ bản là cơ sở để áp dụng các biện pháp như tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng thương mại Trong khi đó, "vi phạm nghiêm trọng" theo Bộ luật Dân sự (BLDS) cho phép một bên trong giao dịch dân sự có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.

24 Đỗ Văn Đại, 2005, Bàn về vi phạm cơ bản hợp đồng

Vi phạm cơ bản và vi phạm nghiêm trọng đều liên quan đến những hành vi vi phạm hợp đồng có tác động lớn đến bên bị vi phạm Cả hai khái niệm này không chỉ mang tính lý thuyết mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc duy trì ổn định các quan hệ hợp đồng và giao lưu dân sự, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, điều này là cần thiết cho bất kỳ nền kinh tế thị trường nào.

Sự không thống nhất giữa "vi phạm cơ bản" và "vi phạm nghiêm trọng" trong pháp luật hợp đồng Việt Nam có thể gây nhầm lẫn cho các bên liên quan khi áp dụng.

Thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng” vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng trong các văn bản pháp luật Việt Nam, trong khi đó, thuật ngữ “vi phạm cơ bản” lại được áp dụng, gây khó khăn trong việc hiểu và áp dụng trong thực tiễn Điều này dẫn đến việc trong một số trường hợp, trọng tài đã xác định vi phạm hợp đồng theo LTM nhưng lại kết luận bằng thuật ngữ vi phạm nghiêm trọng, tạo ra sự không nhất quán trong việc xử lý các vi phạm hợp đồng.

Trong vụ tranh chấp hợp đồng mua bán thép giữa người mua Việt Nam và người bán Trung Quốc, trọng tài đã tuyên bố rằng bên mua có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo quy định, nhưng đã vi phạm nghiêm trọng khi không thực hiện nghĩa vụ này Tương tự, trong tranh chấp với người bán Hoa Kỳ, nguyên đơn đã tự ý yêu cầu giám định mà không thông báo cho bị đơn, dẫn đến việc vi phạm điều khoản giám định của hợp đồng Trọng tài đã chỉ ra rằng hành vi vi phạm của nguyên đơn là nghiêm trọng, mặc dù không có quy định cụ thể nào trong pháp luật Việt Nam định nghĩa rõ về khái niệm vi phạm nghiêm trọng trong hợp đồng.

Bài viết đề cập đến việc minh bạch hóa pháp luật và yêu cầu đối với hệ thống pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế tại địa chỉ 25 Nguyễn Như Phát Nó chỉ ra rằng cơ quan tài phán sử dụng LTM để xem xét nghĩa vụ và vi phạm của các bên, nhưng lại kết luận về "vi phạm nghiêm trọng" mà không có định nghĩa rõ ràng trong LTM và thiếu lý giải thỏa đáng cho kết luận này.

Vi phạm cơ bản và vi phạm nghiêm trọng là những thuật ngữ phản ánh mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng, giúp áp dụng các chế tài phù hợp để bảo vệ an toàn pháp lý cho các giao dịch Do đó, về bản chất, hai thuật ngữ này có nhiều điểm tương đồng.

Sự tồn tại đồng thời của hai thuật ngữ tương tự trong pháp luật hợp đồng gây ra bất cập, dễ dẫn đến nhầm lẫn và không tương thích với các quy định quốc tế như CISG, PICC, PECL, vốn sử dụng khái niệm vi phạm cơ bản hoặc không thực hiện cơ bản hợp đồng Điều này càng trở nên quan trọng khi Việt Nam đã gia nhập Công ước Vienna.

2.3.2 Làm rõ yếu tố thiệt hại đáng kể cho bên bị vi phạm

Quy định hiện tại về vi phạm cơ bản trong LTM đang tồn tại nhiều bất cập, cả trong nội dung quy định lẫn thực tiễn áp dụng Sự không rõ ràng trong định nghĩa “thiệt hại” và “mức độ thiệt hại” gây khó khăn trong việc xác định các yếu tố cấu thành vi phạm Dựa trên phân tích những vấn đề này và tham khảo cách áp dụng của các cơ quan tài phán, tác giả đề xuất cần sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản trong LTM để nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong thực tiễn.

Không cần thiết phải quy định yếu tố “thiệt hại” trong việc xác định vi phạm cơ bản theo Khoản 13 Điều 3 Yếu tố “thiệt hại” nên được hiểu là những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm, chứ không phải là điều kiện bắt buộc Chỉ những vi phạm có tác động lớn đến lợi ích hợp pháp mới được coi là vi phạm cơ bản Do đó, không cần thiết phải đưa thuật ngữ này vào khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng Trong trường hợp chưa đủ cơ sở để thay đổi quy định, các cơ quan có thẩm quyền nên ban hành văn bản giải thích cụ thể và thống nhất.

2.3.3 Làm rõ yếu tố mục đích của việc giao kết hợp đồng

Mục đích của việc giao kết hợp đồng vẫn chưa rõ ràng, đặc biệt là về mức độ không đạt được mục tiêu Hiện tại, thiếu quy định cho phép các bên sửa chữa và khắc phục vi phạm cơ bản, dẫn đến khái niệm “vi phạm cơ bản” trong Luật Thương Mại có nhiều cách xác định khác nhau trong thực tiễn.

Tác giả đề xuất thay thế cụm từ “mục đích của việc giao kết hợp đồng” bằng “lợi ích kỳ vọng từ hợp đồng” và xác định mức độ ảnh hưởng của vi phạm hợp đồng tới “lợi ích kỳ vọng từ hợp đồng” bằng cụm từ “tước đi đáng kể” Việc này giúp làm rõ hơn nội dung và ý nghĩa của hợp đồng, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích của các bên tham gia.

Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định vi phạm cơ bản của Tòa án và Trọng tài, so với điều luật của Công ước viên, cho thấy việc xác định "những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng" chủ yếu liên quan đến lợi ích kinh tế và lợi nhuận Điều này nhấn mạnh rằng mục tiêu chính của các giao dịch mua bán hàng hóa giữa các bên là nhằm sinh lợi.

Mục đích của việc giao kết hợp đồng thường gây ra sự “cảm tính” trong việc xác định mục tiêu, trong khi thay vì tìm kiếm “mục đích của việc giao kết hợp đồng” từ bên bị vi phạm, ta có thể trực tiếp đánh giá mức độ ảnh hưởng của vi phạm đến lợi ích mà bên bị vi phạm mong đợi từ hợp đồng, chính là lý do họ đã ký kết hợp đồng.

Ngày đăng: 05/03/2025, 08:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ (Tái bản lần 2, có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ (Tái bản lần 2, có sửa đổi, bổ sung)
Tác giả: Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2021
2. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Phần II, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Phần II
Tác giả: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2017
3. Trường Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật thương mại Tập II (Tái bản lần thứ 11), NXB Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật thương mại Tập II (Tái bản lần thứ 11)
Tác giả: Trường Đại học luật Hà Nội
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2015
4. Phan Huy Hồng (2011), Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mau bán mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của Tòa án và trọng tài tại Việt Nam, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mau bán mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của Tòa án và trọng tài tại Việt Nam
Tác giả: Phan Huy Hồng
Nhà XB: Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2011
5. “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 2) Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án”
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư
6. “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (tái bản năm 2013);III. Công trình nghiên cứu khoa học/ Tạp chí Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng”
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (tái bản năm 2013); III. Công trình nghiên cứu khoa học/ Tạp chí
7. Phạm Ánh Dương, Nguyễn Thế Đức Tâm, Ngô Nguyễn Thảo Vy (2014), “Vi phạm cơ bản do giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng theo Công ước viên 1980 và Luật thương mại Việt Nam”, Tạp chí Sinh viên và Khoa học Pháp lý, số 8,tr 31-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi phạm cơ bản do giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng theo Công ước viên 1980 và Luật thương mại Việt Nam
Tác giả: Phạm Ánh Dương, Nguyễn Thế Đức Tâm, Ngô Nguyễn Thảo Vy
Nhà XB: Tạp chí Sinh viên và Khoa học Pháp lý
Năm: 2014
8. Vũ Thị Hoa (2019), Chế định hủy hợp đồng theo công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài tham gia xét giải thường “Sinh viên nghiên cứu khoa học” năm 2019, Đề tài đạt giải ba cấp Bộ, tr. 45-47 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định hủy hợp đồng theo công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam
Tác giả: Vũ Thị Hoa
Nhà XB: Báo cáo tổng kết đề tài tham gia xét giải thường “Sinh viên nghiên cứu khoa học” năm 2019
Năm: 2019
9. Phan Thị Thanh Thủy (2014), “So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật thương mại Việt Nam 2005 và Công ước viên 1980”, Tạp chí Khoa học – Luật học, tập 30, số 3/2014, tr.50-60 Sách, tạp chí
Tiêu đề: So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật thương mại Việt Nam 2005 và Công ước viên 1980
Tác giả: Phan Thị Thanh Thủy
Nhà XB: Tạp chí Khoa học – Luật học
Năm: 2014
10. Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam
Tác giả: Võ Sỹ Mạnh
Nhà XB: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2015
11. Võ Sỹ Mạnh, (2014), Vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí kinh tế đối ngoại Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
Tác giả: Võ Sỹ Mạnh
Nhà XB: Tạp chí kinh tế đối ngoại
Năm: 2014
12. Vũ Huy Hoàng (2021), Quyền buộc thực hiện đúng hợp đồng của bên mua khi bên bán vi phạm hợp đồng theo Công ước viên năm 1980 và giải pháp sửa đổi Luật thương mại Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, số 07/2021 - Năm thứ mười sáu Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Nghề luật
Tác giả: Vũ Huy Hoàng
Năm: 2021
13. Đỗ Văn Đại, (2004) “Vi phạm cơ bản hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 14. Đỗ Văn Đại, (2011) “Hoàn thiện các báo cáo rà soát Luật Doanh nghiệp, LuậtĐầu tư, Luật Thương mại” do VCCI phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh ngày 24/8/2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi phạm cơ bản hợp đồng
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Năm: 2004
15. Tiến sĩ Trần Kiên, 2020, Khái niệm về hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái niệm về hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam
Tác giả: Tiến sĩ Trần Kiên
Năm: 2020
16. Đoàn Đức Lương. (2020). Áp dụng bộ luật dân sự và luật thương mại trong quan hệ hợp đồng, Tạp chí pháp luật và thực tiễnIV. Website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Áp dụng bộ luật dân sự và luật thương mại trong quan hệ hợp đồng
Tác giả: Đoàn Đức Lương
Nhà XB: Tạp chí pháp luật và thực tiễn
Năm: 2020
1. Tiến sĩ Nguyễn Minh Hằng “ Vi phạm cơ bản hợp đồng”, https://phapluatdansu.edu.vn/2010/03/22/20/20/4637-2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi phạm cơ bản hợp đồng
Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Minh Hằng
Năm: 2010
2. Điều kiện hủy bỏ hợp đồng: Phải có vi phạm cơ bản (nghiêm trọng), https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/064-%7C-dieu-kien-huy-bo-hop-dong-phai-co-vi-pham-co-ban-nghiem-trong-a207.html Link
5. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 sửa đổi bổ sung 2020 Khác
6. Công ước viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.II. Giáo trình/ Tập bài giảng Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w