Các nghiên cứu về yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế trên thế giới và ở Việt Nam .... Nhằm đánh giá kiến thức và thái độ của nhâ
TỔNG QUAN
Vệ sinh tay của nhân viên y tế
Vệ sinh tay của nhân viên y tế bao gồm việc làm sạch tay bằng nước và xà phòng có hoặc không có chất sát khuẩn, hoặc sử dụng chế phẩm khử khuẩn Rửa tay với nước và xà phòng trung tính không chứa chất khử khuẩn, trong khi rửa tay khử khuẩn sử dụng xà phòng có chứa chất khử khuẩn Chà tay khử khuẩn là phương pháp sử dụng chế phẩm vệ sinh tay chứa cồn để giảm vi khuẩn trên tay mà không cần nước, với nồng độ cồn từ 60% đến 90%, thường là Ethanol hoặc Isopropanol, hoặc sự kết hợp của cả hai với một chất khử khuẩn khác.
1.1.2 Hiệu quả của vệ sinh tay lên các bệnh nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc sức khỏe
Vệ sinh tay là một phương pháp đơn giản và tiết kiệm, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát bệnh nhiễm trùng Thiếu thực hành vệ sinh tay đúng cách có thể dẫn đến lây lan các bệnh nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe, ảnh hưởng đến đường tiết niệu, hô hấp, tiêu hóa và các vị trí phẫu thuật Hướng dẫn của CDC năm 2002 khuyến nghị sử dụng dung dịch gốc cồn để khử trùng tay với các chất bẩn không nhìn thấy, và sử dụng xà phòng và nước cho các chất bẩn có thể nhìn thấy Nghiên cứu của Girou cho thấy chất chà tay chứa cồn hiệu quả hơn rửa tay bằng xà phòng trong việc giảm ô nhiễm vi khuẩn.
Rửa tay thường xuyên với xà phòng và nước sạch là biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả trong việc phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm Việc rửa tay ở những thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và chăm sóc người bệnh có thể ngăn ngừa sự lây lan của mầm bệnh Theo Tổ chức Y tế thế giới, vệ sinh tay đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nguy cơ lây nhiễm COVID-19 và bệnh đậu mùa khỉ Ngoài ra, việc rửa tay thường xuyên cũng giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh như tay chân miệng, tiêu chảy, Adeno virus, cúm và giun sán.
Theo thống kê mới nhất của UNICEF, chỉ có 12% người rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và 16% sau khi đi vệ sinh Thói quen này góp phần tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, dẫn đến nhiều dịch bệnh nguy hiểm Việc không nhận thức đúng tầm quan trọng của việc rửa tay là một trong những nguyên nhân chính gây ra các dịch bệnh đe dọa bùng phát, bao gồm cả Ebola.
Ngày 15-10 hàng năm được Liên hiệp quốc công nhận là Ngày Thế giới rửa tay với xà phòng, trong khi Ngày Vệ sinh tay thế giới được tổ chức vào ngày 05-5 Trong những năm qua, Bộ Y tế đã tích cực phát động phong trào vệ sinh tay tại các bệnh viện và cộng đồng nhằm nâng cao ý thức về tầm quan trọng của việc rửa tay đúng cách.
Tổ chức Y tế Thế giới nhấn mạnh rằng vệ sinh tay là một biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả, có thể cứu sống hàng triệu người Nghiên cứu cho thấy việc rửa tay sạch có thể giảm 35% khả năng lây truyền vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy, nguyên nhân tử vong của hàng triệu người mỗi năm Để phòng ngừa các dịch bệnh đường tiêu hóa và hô hấp như Tả, SARS, Cúm A và đặc biệt là bệnh Tay - Chân - Miệng đang bùng phát, việc giữ gìn vệ sinh tay là vô cùng quan trọng Rửa tay với xà phòng không chỉ bảo vệ sức khỏe cá nhân mà còn góp phần phòng chống dịch bệnh cho cộng đồng, vì một tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Nhiễm khuẩn bệnh viện có tỷ lệ mắc cao trên toàn cầu, với điều tra tại Mỹ từ năm 1998 đến 2001 cho thấy 5-10% bệnh nhân nhập viện bị nhiễm trùng bệnh viện, tương đương khoảng 2 triệu trường hợp mỗi năm Đặc biệt, các ca nhiễm trùng này thường xảy ra tại khoa chăm sóc đặc biệt Hằng năm, có khoảng 90.000 người tử vong do nhiễm trùng bệnh viện, gây ra chi phí lên tới 4,5 - 5,7 tỷ USD.
Theo số liệu điều tra của Tổ chức Y tế Thê giới tại 47 bệnh viện của
Theo một nghiên cứu tại 14 quốc gia đại diện cho các khu vực khác nhau, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện đạt 8,7% Để cải thiện tình hình này, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo rằng vệ sinh tay của nhân viên y tế là một trong những biện pháp hàng đầu nhằm kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện và ngăn ngừa sự lây truyền bệnh tật cho cả bệnh nhân lẫn nhân viên y tế trong quá trình cung cấp dịch vụ y tế.
Trên da tay có hai loại vi khuẩn: vi khuẩn thường trú và vi khuẩn vãng lai Vi khuẩn thường trú có độc tính thấp và hiếm khi gây nhiễm trùng trong các tiếp xúc thông thường, nhưng có thể gây hại khi thực hiện các thủ thuật xâm lấn Ngược lại, vi khuẩn vãng lai là những tác nhân gây nhiễm trùng bệnh viện phổ biến và thường chỉ tồn tại trên da trong thời gian ngắn.
28 tiếng Chúng không có khả nâng nhân lên trên da và dễ bị loại bỏ bằng rửa tay với nước và xà phòng
Trong quá trình chăm sóc và điều trị, đôi bàn tay của nhân viên y tế dễ bị ô nhiễm bởi các tác nhân gây bệnh Mức độ ô nhiễm này phụ thuộc vào loại thao tác và thời gian thực hiện trên bệnh nhân Chẳng hạn, sau các thao tác như xoay trở bệnh nhân, bắt mạch, đo huyết áp hay lấy nhiệt độ cơ thể, đôi tay có thể chứa tới 100 vi khuẩn.
Sau các hoạt động y tế như tiêm, truyền tĩnh mạch và chăm sóc đường thở, việc tiếp xúc với chất bài tiết của bệnh nhân có thể dẫn đến sự hiện diện của 1000 khuẩn lạc Klebsiella SPP Cụ thể, trên đôi tay của nhân viên y tế có thể phát hiện khoảng 300 đơn vị khuẩn lạc (UFs) sau khi thực hiện các thao tác này.
1.1.3 Thời điểm vệ sinh tay [54]
Hình 1.1 Năm thời điểm phải vệ sinh tay và quy trình rửa tay thường quy
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị 5 thời điểm quan trọng để vệ sinh tay nhằm nâng cao mức độ tuân thủ toàn cầu đối với các thực hành vệ sinh tay hiệu quả, từ đó giảm thiểu gánh nặng của các bệnh nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe.
Trước khi tiếp xúc với người bệnh:
Để ngăn ngừa sự lây truyền vi khuẩn từ khu vực chăm sóc y tế và chống lại nhiễm khuẩn ngoại sinh do các tác nhân gây hại trên bàn tay của nhân viên y tế, việc thực hiện các biện pháp vệ sinh tay là vô cùng cần thiết.
- Trước khi thực hiện các thăm khám trên người bệnh
- Trước khi hỗ trợ BN trong các hoạt động chăm sóc cá nhân
- Trước khi chăm sóc và thực hiện các thao các không xâm lấn khác
Trước khi làm thủ thuật vô trùng:
Chỉ định này cần được thực hiện ngay trước khi tiếp cận các vị trí quan trọng có nguy cơ nhiễm khuẩn ở bệnh nhân, đặc biệt đối với những thủ thuật liên quan đến tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với niêm mạc, vùng da không lành lặn, hoặc dụng cụ y tế có tính xâm lấn.
- Trước khi thay băng vết thương có hoặc không có dụng cụ, tiêm, chọc dò qua da
- Trước khi thăm khám âm đạo hay trực tràng bằng tay, đặt thuốc âm đạo, khám tai mũi họng có hoặc không có dụng cụ
- Trước khi đặt 1 thủ thuật xâm lấn (cannula mũi, cathete, ống thông tiểu…)
Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể
Vệ sinh tay là một bước quan trọng cần thực hiện ngay sau khi hoàn thành các thao tác có nguy cơ tiếp xúc với dịch tiết và sau khi tháo găng tay Điều này giúp bảo vệ nhân viên y tế khỏi sự xâm nhập của vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh từ bệnh nhân, đồng thời ngăn ngừa sự lây lan trong môi trường chăm sóc y tế.
- Sau khi tiếp xúc với da không lành lặn
- Sau khi tháo bỏ 1 dụng cụ xâm lấn
- Sau khi tháo tã lót, băng vết thương, gạc, khăn vệ sinh…
- Sau khi làm sạch chất bài tiết và bất kỳ dịch cơ thể khác, bề mặt bị lây nhiễm và vật liệu bị vấy bẩn…
Sau khi tiếp xúc với người bệnh
- Sau khi thực hiện các thăm khám trên người bệnh
- Sau khi hỗ trợ BN trong các hoạt động chăm sóc cá nhân
- Sau khi chăm sóc và thực hiện các thao các không xâm lấn khác
Sau khi tiếp xúc với các bề mặt xung quanh người bệnh
Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh tay của nhân viên
Nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe là một thách thức lớn trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao Tại Liên minh Châu Âu, hàng năm có tới 37.000 ca tử vong do 4.544.100 ca nhiễm trùng, trong khi tại Hoa Kỳ ghi nhận khoảng 2.000.000 ca nhiễm và 100.000 ca tử vong Những con số này cho thấy rằng các bệnh nhiễm trùng này đang gây ra mối đe dọa nghiêm trọng cho hàng triệu người trên toàn cầu.
Theo Hiệp hội Dịch tễ học Chăm sóc sức khỏe Hoa Kỳ, chỉ có 31% nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe được thông báo đầy đủ về thực hành vệ sinh tay đúng cách Sinh viên y khoa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc bệnh nhân, nhưng một nghiên cứu ở Ả Rập Saudi cho thấy tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của họ chỉ đạt 17% Những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thấp này bao gồm thiếu kiến thức, môi trường làm việc căng thẳng, quan niệm sai lầm về vệ sinh tay và thực hành kém từ đồng nghiệp và người cố vấn.
Nghiên cứu của Jawad Ahmed và cộng sự tại Bệnh viện Dân sự Tiến sĩ Ruth KM Pfau, Karachi vào tháng 1 năm 2019 cho thấy chỉ có 12,3% nhân viên y tế thường xuyên sử dụng nước rửa tay sát khuẩn trước và sau khi khám cho mỗi bệnh nhân.
Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu tại các bệnh viện tuyến cuối ở Bangladesh, nơi tỷ lệ tuân thủ chung đạt 25,3%, với y tá có tỷ lệ cao nhất là 28,5% và nhân viên vệ sinh thấp nhất chỉ 9,9% Đáng chú ý, tỷ lệ thực hiện vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với bệnh nhân cao gấp 3,36 lần so với trước khi chạm vào bệnh nhân.
Nghiên cứu của Mahadeo B Shinde và cộng sự năm 2014 về kiến thức, thái độ và thực hành vệ sinh tay của sinh viên và điều dưỡng tại bệnh viện Tertiary, Karad cho thấy 74,0% đối tượng có kiến thức trung bình về vệ sinh tay Kết quả cũng chỉ ra rằng thái độ của sinh viên điều dưỡng tốt hơn so với nhân viên điều dưỡng trong bệnh viện, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Nghiên cứu của Hamed Sarani và cộng sự năm 2014 cho thấy 43% người tham gia có kiến thức kém về nhiễm khuẩn bệnh viện, 42% có thực hành trung bình và 37% có thái độ vừa phải Kết quả cũng chỉ ra có mối quan hệ đáng kể giữa kiến thức và giới tính (r = 0,08, p = 0,02), trong khi các yếu tố như tuổi tác, tình trạng hôn nhân, việc làm, kinh nghiệm làm việc, giáo dục và nơi làm việc không có mối liên hệ đáng kể với các biến độc lập (p > 0,05).
Nghiên cứu của Đặng Thị Ngọc Anh tại Bệnh viện đa khoa Vũ Thư, tỉnh Thái Bình năm 2019 cho thấy 99,2% nhân viên y tế nhận thức rằng việc tuân thủ quy trình vệ sinh tay sẽ giảm nguy cơ nhiễm khuẩn ở bệnh nhân và bản thân họ Đặc biệt, 83,5% nhân viên y tế hiểu rằng cần vệ sinh tay trước khi tiếp xúc với bệnh nhân, 94,5% trước khi tiêm truyền, và 93,7% sau khi tiếp xúc với bệnh nhân cũng như dịch cơ thể của họ.
Việc nhận thức về vệ sinh tay đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa lan truyền mầm bệnh cho bệnh nhân và bản thân nhân viên y tế (NVYT) Tuy nhiên, kết quả cho thấy có tới 65% NVYT có kiến thức chưa đúng về phương pháp chà tay bằng dung dịch chứa cồn, và đặc biệt là 85,8% NVYT nhận thức sai về phương pháp vệ sinh tay tốt nhất, bao gồm việc thực hiện rửa tay thường quy sau đó chà tay bằng dung dịch chứa cồn Điều này cho thấy sự cần thiết phải cải thiện kiến thức và nhận thức về vệ sinh tay trong cộng đồng NVYT.
Nghiên cứu của Nguyễn Nam Thắng và Lê Đức Cường tại hai bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2017 cho thấy tỷ lệ điều dưỡng viên có kiến thức về vệ sinh tay còn thấp, với tỷ lệ trả lời đúng dưới 50% cho nhiều câu hỏi quan trọng Cụ thể, chỉ 40,2% điều dưỡng viên nhận biết hệ vi khuẩn trên bàn tay là tác nhân chính gây nhiễm khuẩn bệnh viện, 46% hiểu rõ vai trò của vệ sinh tay trong phòng ngừa nhiễm khuẩn, và tỷ lệ biết thời gian tối thiểu để vệ sinh tay với nước và xà phòng chỉ đạt 47,3% Tỷ lệ điều dưỡng viên có kiến thức đạt ở bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải là 66,4%, trong khi ở bệnh viện đa khoa Nam Tiền Hải là 50,5% (p < 0,05) Về thực hành, tỷ lệ điều dưỡng viên thực hiện rửa tay thường quy tại bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải là 45,0% và tại bệnh viện đa khoa Nam Tiền Hải chỉ đạt 25,8% (p < 0,05).
Nghiên cứu của Dương Duy Quang và cộng sự năm 2015 cho thấy 94,5% bác sĩ, điều dưỡng và nữ hộ sinh tại các khoa lâm sàng hiểu đúng khái niệm vệ sinh tay Đặc biệt, 98% người tham gia nghiên cứu nhận định rằng vệ sinh tay là biện pháp quan trọng và đơn giản nhất để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện cũng như các vi khuẩn kháng thuốc Tuy nhiên, vẫn có 29% bác sĩ, điều dưỡng và nữ hộ sinh chưa nắm rõ thời gian thích hợp để thực hiện vệ sinh tay.
Năm 2014, nghiên cứu tại bệnh viện sản – nhi tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy 93,04% nhân viên y tế (NVYT) có kiến thức về vệ sinh tay thường quy, với tỷ lệ cao nhất (78,26%) ở câu hỏi liên quan đến việc sử dụng nước và xà phòng sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ dính máu và dịch tiết của bệnh nhân Đồng thời, 92,17% NVYT thể hiện thái độ tích cực đối với việc tuân thủ vệ sinh tay, và 64,29% áp dụng phương thức vệ sinh tay bằng dung dịch chứa cồn.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Diệu Mỹ và cộng sự về thái độ và sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế tại khoa thận nhân tạo, bệnh viện Trung ương Huế năm 2012 cho thấy rằng tỷ lệ rửa tay cao nhất xảy ra sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết (88%) cũng như sau khi tiếp xúc với bệnh nhân (82,1%) Trước khi thực hiện thủ thuật và sau khi tiếp xúc với môi trường xung quanh bệnh nhân, tỷ lệ rửa tay của nhân viên cũng tương đối tốt (50,4% và 59,1%) Tuy nhiên, tỷ lệ rửa tay trước khi tiếp xúc với bệnh nhân còn thấp (43,4%).
Rửa tay đúng cách là một biện pháp phòng bệnh hiệu quả, cần thực hiện trong ít nhất 20 giây bằng xà phòng và nước hoặc cồn, tại các thời điểm quan trọng theo hướng dẫn của WHO Hành động này giúp loại bỏ vi khuẩn gây bệnh trên tay, giảm nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện và bảo vệ sức khỏe cho cả bệnh nhân lẫn nhân viên y tế.
Nghiên cứu của Thân Thị Thu Ba và cộng sự (2013) tại Bệnh viện Trưng Vương cho thấy mặc dù nhân viên y tế (NVYT) có hiểu biết tốt về vệ sinh tay, nhưng tỷ lệ tuân thủ chỉ đạt 31,58%, cho thấy nguy cơ lây nhiễm chéo cao trong bệnh viện Thời gian thực hành vệ sinh tay chưa đạt 50% so với yêu cầu, và việc bỏ qua các bước vệ sinh theo khuyến cáo làm giảm hiệu quả làm sạch tay Đánh giá của Đỗ Thị Hà và cộng sự (2019) tại Bệnh viện Thống Nhất cho thấy can thiệp truyền thông và giáo dục sức khỏe đã nâng tỷ lệ thực hiện đúng quy trình vệ sinh tay lên 97,6%, từ 57,8% trước đó Một số vị trí như đầu ngón tay và kẽ móng thường bị bỏ qua, dẫn đến vi sinh vật không được loại bỏ Việc mang đồ trang sức cũng ảnh hưởng đến khả năng loại bỏ vi sinh vật, với vùng da dưới nhẫn chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh hơn Các hướng dẫn hiện nay khuyến cáo NVYT không để móng tay dài và không mang nhẫn khi thực hiện vệ sinh tay, nhấn mạnh sự cần thiết của việc duy trì và tăng cường can thiệp, truyền thông và tập huấn về tuân thủ vệ sinh tay trong cộng đồng y tế.
Các nghiên cứu về yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh
Nghiên cứu tại các bệnh viện tuyến cuối ở Bangladesh chỉ ra rằng, 80,6% nhân viên vệ sinh gặp phải rào cản do nguồn cung cấp xà phòng và cồn không đầy đủ Đối với điều dưỡng, 30,9% cho biết phản ứng trên da sau khi sử dụng hóa chất rửa tay là một trong những vấn đề chính ảnh hưởng đến công việc của họ.
Hầu hết nhân viên y tế không bị viêm da dị ứng do hóa chất vệ sinh tay, trừ khi họ sử dụng sản phẩm kém chất lượng như xà phòng bột hoặc dung dịch không có chất làm ẩm Các chế phẩm vệ sinh tay chứa iodine hoặc chlorhexidine có nguy cơ gây kích ứng da cao hơn so với dung dịch chứa cồn.
Mức độ tuân thủ rửa tay bằng xà phòng thấp chủ yếu do nguồn cung không đầy đủ (27,0%), khối lượng công việc lớn (26,3%) và thiếu cơ sở vật chất (22,7%) Theo ý kiến của điều dưỡng, khối lượng công việc và thiếu thời gian (33,5%) là những rào cản chính trong việc thực hiện rửa tay Ngoài ra, việc thiếu thiết bị rửa tay chức năng cũng là một trở ngại đáng kể đối với bác sĩ (29,7%) và nhân viên vệ sinh (22,0%).
Nghiên cứu cho thấy nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc tuân thủ vệ sinh tay trong ngành y tế, bao gồm trình độ học vấn, đặc điểm của nhân viên y tế như tuổi, giới tính và thâm niên công tác, cũng như vị trí công việc và tính khẩn cấp Sự khác biệt trong thái độ tuân thủ các biện pháp vệ sinh tay giữa bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên và hộ lý là rõ rệt Đáng lưu ý, mặc dù trình độ học vấn cao, nhưng không phải lúc nào cũng dẫn đến việc tuân thủ nghiêm túc các quy định kiểm soát nhiễm khuẩn, với thống kê cho thấy bác sĩ thường không tuân thủ nghiêm ngặt như điều dưỡng.
Nhân viên y tế (NVYT) có những đặc điểm nổi bật như độ tuổi, giới tính và thâm niên công tác, trong đó có sự khác biệt rõ rệt về kiến thức giữa các giới tính và trình độ chuyên môn Thâm niên công tác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kiến thức chuyên môn của NVYT.
Công tác vệ sinh tay thường quy là một yếu tố thiết yếu trong các bệnh viện hiện nay Để nhân viên y tế (NVYT) có thể nâng cao kiến thức và thái độ tích cực, sự quan tâm và chỉ đạo từ lãnh đạo là vô cùng cần thiết.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tuân thủ vệ sinh tay của cán bộ y tế bao gồm: thiếu phương tiện, thiếu kiến thức, tình trạng quá tải nhân lực, lạm dụng găng tay, thiếu kiểm tra giám sát, và thiếu các biện pháp khuyến khích thói quen vệ sinh tay thường xuyên.
Giới thiệu khái quát địa điểm nghiên cứu
Huyện Lạc Sơn, nằm ở phía Nam tỉnh Hòa Bình, là một huyện nông thôn thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam Địa hình của huyện chủ yếu là đồi núi, được chia cắt bởi các sông suối và có nhiều cánh rừng nhỏ xen kẽ.
Năm 2019, huyện Lạc Sơn có dân số 136.652 người, chủ yếu là người Mường (chiếm 90%), và diện tích 580 km2 Huyện bao gồm 24 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 1 thị trấn là Vụ Bản và 23 xã, với Vụ Bản là thủ phủ của huyện.
Trung tâm Y tế huyện Lạc Sơn là đơn vị tuyến III, có nhiệm vụ khám và điều trị bệnh, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân trong khu vực rộng lớn và đông dân cư Trung tâm đã cải cách thủ tục hành chính và lề lối làm việc, tạo sự tin tưởng cho bệnh nhân Với đội ngũ 153 cán bộ, trong đó có 8 bác sĩ trình độ sau đại học, trung tâm chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế hiện đại, đồng thời tổ chức các khóa đào tạo chuyên môn cho nhân viên Trung tâm cũng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giúp giảm thời gian chờ đợi và phiền hà cho bệnh nhân Ngoài ra, trung tâm triển khai các biện pháp phòng chống dịch và vệ sinh môi trường, nhằm hạn chế nhiễm khuẩn và xây dựng bệnh viện an toàn Đặc biệt, trung tâm chú trọng nâng cao y đức và thái độ chăm sóc, hướng đến sự hài lòng của người bệnh và người nhà bệnh nhân.
Khung lý thuyết
Yếu tố đặc điểm cá nhân, tuổi, giới, trình độ chuyên môn, thâm niên công tác
Nhận thức đúng về VST thường quy
Mức độ chủ động tìm hiểu tài liệu thông tin về VST thường quy
Nhận thức về mức độ nghiêm trọng của NKBV
Tuân thủ VST thường quy
Trung tâm hoạt động hiệu quả cần đảm bảo có kiểm tra và giám sát thường xuyên, cung cấp đủ xà phòng và chế phẩm VST chứa cồn Ngoài ra, cần bố trí nơi chứa sản phẩm VST chứa cồn một cách thuận tiện để nâng cao hiệu quả sử dụng.
Thái độ của NVYT về lợi ích/ tác hại của VST thường quy và mức độ nghiêm trọng của NKBV
Kiến thức Thái độ Thực hành vệ sinh tay thường quy
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nhân viên y tế của Trung tâm y tế huyện Lạc Sơn, Hòa Bình (bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên) đang làm việc tại các khoa phòng lâm sàng
+ NVYT có thời gian công tác từ 6 tháng trở lên
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Có mặt tại Trung tâm trong thời gian nghiên cứu
+ Có đủ sức khỏe thể chất và tinh thần để tham gia nghiên cứu
+ NVYT làm việc tại các phòng ban chức năng như: kế toán, hành chính, nghiên cứu khoa học, thiết bị vật tư…
+ Không đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Không có mặt tại Trung tâm trong thời gian nghiên cứu
+ Không có đủ sức khỏe tham gia
2.1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian thu thập số liệu: 01/2024 – 03/2024
- Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm y tế huyện Lạc Sơn – Bệnh viện Đa khoa Lạc Sơn Địa chỉ: Quốc lộ 12B, xã Liên Vũ, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu Áp dụng phương pháp nghiên cứu của dịch tễ học với thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng trong nghiên cứu mô tả
Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu
Z (1-𝜶/2): Hệ số tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% thì Z (1-𝛼/2) = 1,96
𝜶: mức ý nghĩa thống kê (0,05) Độ chính xác tuyệt đối: Chọn d = 0,05 p: Ước toán tỷ lệ NVYT có thái độ tích cực với tuân thủ VST thường quy là
Với tỷ lệ p = 92,17%, cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 111 đối tượng Để dự phòng cho trường hợp một số người từ chối tham gia hoặc mất thông tin, cỡ mẫu được điều chỉnh lên 122 đối tượng, tương đương với 10% dự trù Cuối cùng, nghiên cứu đã thu thập được mẫu thực tế gồm 124 nhân viên y tế trong tổng số 153 nhân viên đủ tiêu chuẩn, đạt tỷ lệ 81%.
Cách chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện, toàn bộ các nhân viên y tế thuộc các khoa lâm sàng của Trung tâm y tế
2.3 Biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá
2.3.1 Biến số và chỉ số nghiên cứu
Bảng 2.1 Biến số và chỉ số nghiên cứu
STT Biến số Phân loại biến Chỉ số
Phương pháp thu thập Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
1 Giới tính Định tính, Tỷ lệ giới nam Phát vấn
STT Biến số Phân loại biến Chỉ số
2 Tuổi Định lượng, rời rạc
Tỷ lệ từng nhóm tuổi
3 Trình độ chuyên môn Định tính, danh mục
Tỷ lệ NVYT là bác sĩ
Tỷ lệ NVYT là điều dưỡng, kỹ thuật viên
Tỷ lệ NVYT là hộ lý
4 Vị trí công việc Định tính, danh mục
Tỷ lệ NVYT là nhân viên
Tỷ lệ NVYT là điều dưỡng/ nữ hộ sinh trưởng
Tỷ lệ NVYT là phó khoa/phòng
Tỷ lệ NVYT là trưởng khoa/ phòng
5 Thời gian công tác Định lượng, rời rạc
Tỷ lệ NVYT có thâm niên công tác
STT Biến số Phân loại biến Chỉ số
Phương pháp thu thập thâm niên công tác
Tỷ lệ NVYT có thâm niên công tác
Tỷ lệ NVYT có thâm niên công tác
6 Được truyền thông, tập huấn vệ sinh tay Định tính, nhị phân
Tỷ lệ NVYT có được truyền thông, tập huấn vệ sinh tay
Tỷ lệ NVYT không được truyền thông, tập huấn vệ sinh tay
Kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh tay của NVYT
NVYT về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn Định tính, danh mục
Tỷ lệ NVYT có kiến thức đạt về kiểm soát nhiễm khuẩn
NVYT về loại hóa chất sử dụng trong VST thường quy Định tính, danh mục
Tỷ lệ NVYT có kiến thức đạt về loại hóa chất sử dụng trong VST thường quy
9 Thái độ của Định tính, Tỷ lệ NVYT có thái Phát vấn
STT Biến số Phân loại biến Chỉ số
NVYT đối với công tác kiểm soát nhiễm khuẩn danh mục độ tích cực đối với công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
10 Thời điểm vệ sinh tay của
NVYT Định tính, danh mục
Tỷ lệ NVYT thực hành đúng Điều tra viên quan sát
Một số yếu tố liên quan
11 Tuổi, giới, vị trí công tác, thâm niên công tác, sự chủ động tìm hiểu thông tin, kiến thức đạt, thái độ tốt
Biến độc lập OR (95%CI) p
12 Kiến thức, thái độ, thực hành
Về kiến thức: đánh giá theo thang điểm 1
- Điểm kiến thức của đối tượng = Tổng điểm các câu về kiến thức
- Đối tượng có kiến thức đạt là đạt được >= 14/20 (tổng số điểm tối đa
Thái độ kiểm soát nhiễm khuẩn được đánh giá qua thang điểm 5 mức độ, phản ánh mức độ đồng ý với các nhận định liên quan đến công tác kiểm soát nhiễm khuẩn Việc này giúp xác định sự nhận thức và cam kết của nhân viên trong việc thực hiện các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả.
NVYT có thái độ tích cực khi trả lời ở mức độ đồng ý theo thang điểm likert 5 điểm
- Rất không đồng ý, Không đồng ý, Bình thường: 0 điểm
- Đồng ý, Rất đồng ý: 1 điểm Đối tượng có thái độ tích cực khi có điểm thái độ >= 5/7 điểm (tổng số điểm tối đa là 7 điểm)
Thực hành vệ sinh tay thường quy là rất quan trọng trong công tác y tế Cần quan sát trực tiếp số lần nhân viên y tế thực hiện vệ sinh tay theo 5 thời điểm khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới Việc tuân thủ các thời điểm này giúp giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm và bảo vệ sức khỏe cho cả nhân viên và bệnh nhân.
- NVYT được đánh giá kiến thức VST sẽ được quan sát thực hành VST từ 2 đến 5 lần
- Mỗi lần giám sát thực hành sẽ đánh giá tối thiểu 01 quy trình kỹ thuật thăm khám, thủ thuật, kỹ thuật chăm sóc
Việc tuân thủ VST tại NVYT được thực hiện thông qua sự giám sát trực tiếp tại các khoa lâm sàng, với các giám sát viên là thành viên trong nhóm nghiên cứu đã được đào tạo bài bản về kỹ năng giám sát.
Phương pháp thu thập thông tin
Công cụ thu thập thông tin:
Bộ câu hỏi được thiết kế dựa trên các biến số và chỉ số từ Hướng dẫn vệ sinh tay thường quy của Bộ Y tế, đồng thời tham khảo các nghiên cứu của Bệnh viện phụ sản Vĩnh Phúc và các tác giả Đỗ Hoàng Yến cùng Nguyễn Thị Phương Thảo.
- Bộ câu hỏi gồm các phần
+ Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
+ Kiến thức về vệ sinh tay thường quy
+ Thái độ về các nội dung kiểm soát nhiễm khuẩn
Bảng kiểm thực hành được phát triển dựa trên bộ công cụ của WHO nhằm đánh giá tuân thủ vệ sinh tay Bảng kiểm ghi rõ 5 thời điểm quan trọng cần thực hiện vệ sinh tay trong quá trình điều trị và chăm sóc bệnh nhân, giúp theo dõi sự tuân thủ của nhân viên y tế tại các thời điểm này và ghi nhận kết quả vào phiếu.
Xây dựng bộ công cụ:
- Bước 1: Xây dựng bộ công cụ điều tra phỏng vấn và quan sát thực hành vệ sinh tay của nhân viên y tế
- Bước 2: Thử nghiệm trên 30 đối tượng
- Bước 3: Chỉnh sửa và hoàn thiện bộ công cụ điều tra
Quy trình thu thập thông tin
- Bước 1: Lựa chọn điều tra viên là những sinh viên chuyên ngành y tế công cộng, đã có kinh nghiệm tham gia điều tra nghiên cứu
- Bước 2: Tập huấn điều tra viên về công cụ nghiên cứu và cách tiếp cận điều tra và thu thập số liệu tại thực địa
Bước 3: Tiến hành thu thập dữ liệu từ 30 đối tượng thông qua bộ câu hỏi đã được thiết kế và hoàn thiện tại các khoa trong bệnh viện.
Trong bước 4 của quá trình nghiên cứu, điều tra viên sẽ tiến hành điều tra chính thức bằng cách thông báo rõ ràng về mục đích và nội dung của nghiên cứu Họ cũng sẽ giải thích các thắc mắc của người tham gia theo nội dung đã thống nhất Điều tra viên phát phiếu tự điền và có mặt tại điểm thu thập thông tin cho đến khi quá trình thu thập hoàn tất, đồng thời nhắc nhở người tham gia không trao đổi thông tin với nhau.
Quan sát thực hành vệ sinh tay do điều tra viên quan sát trực tiếp đối tượng nghiên cứu và ghi lại kết quả
- Bước 5: Kiểm tra, thu thập phiếu điều tra
Biểu đồ 2 1 Sơ đồ nghiên cứu
Xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu được nhập và làm sạch bằng phần mềm Microsoft Excel
2010, sau đó chuyển sang phần mềm SPSS 20.0 phục vụ xử lý và phân tích
- Số liệu được xử lý và phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS
- Thống kê mô tả được thực hiện: Tính giá trị trung bình (Mean) và độ lệch chuẩn (SD) đối với các biến định lượng liên tục So sánh các
Thu thập và phân tích số liệu
Kiến thức, thái độ, thực hành Một số yếu tố liên quan
Phỏng vấn, quan sát NVYT
Viết luận văn báo cáo kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình Sử dụng bảng để trình bày đặc điểm của nhóm nghiên cứu và thực hiện kiểm định sự khác biệt với mức ý nghĩa p < 0,05 bằng test Khi bình phương Kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ giữa các nhóm.
< 0,001 là rất có ý nghĩa thống kê
- Phân tích hồi quy được thực hiện để khám phá mối liên quan của các biến số được đề xuất dựa trên giá trị OR, với khoảng tin cậy 95%.
Sai số và cách khắc phục
Các sai số trong nghiên cứu này có thể là sai số hệ thống
- Sai số nhớ lại: vì nghiên cứu có hỏi một số thông tin trong quá khứ
- Sai số do chọn mẫu thuận tiện
- Sai số thông tin do ĐTNC trả lời sai với thực tế, do tâm lý lo ngại người khác biết thông tin, ý kiến của mình
Sai số hệ thống có thể phát sinh từ việc điều tra viên không giải thích rõ ràng câu hỏi, người được phỏng vấn không hiểu câu hỏi hoặc chọn nhầm đáp án Ngoài ra, việc xử lý và phân tích số liệu không chính xác cũng góp phần vào sai số này.
- Sai số đo lường: chưa chuẩn hóa bộ công cụ
- Bộ câu hỏi được thử nghiệm trên đối tượng nghiên cứu trước khi điều tra chính thức
- Các định nghĩa tiêu chuẩn đưa ra thống nhất, rõ ràng
Để đảm bảo thu thập thông tin chính xác, cần tổ chức tập huấn kỹ lưỡng cho điều tra viên về bộ câu hỏi, nhằm thống nhất nội dung từng câu hỏi và làm rõ mục tiêu cũng như nội dung nghiên cứu Ngoài ra, việc giám sát chặt chẽ trong quá trình điều tra và giải thích cặn kẽ những điểm mà điều tra viên chưa hiểu trong bộ câu hỏi là rất quan trọng.
Để giảm thiểu thiếu sót thông tin trong quá trình điều tra, việc giám sát là rất quan trọng Các điều tra viên sẽ kiểm tra ngay các phiếu điều tra sau khi người tham gia hoàn thành phỏng vấn, nhằm yêu cầu bổ sung những thông tin còn thiếu.
- Nhập lại 10% số liệu để kiểm tra.
Đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu chỉ được thực hiện khi được hội đồng đề cương nghiên cứu và hội đồng đạo đức của trường Đại học Thăng Long thông qua
- Nghiên cứu được sự chấp thuận và ủng hộ của Ban lãnh đạo và nhân viên Trung tâm y tế Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
- Các số liệu thu thập được bảo mật và chỉ phục vụ cho nghiên cứu, không phục vụ cho mục đích khác
Nghiên cứu này áp dụng thiết kế mô tả cắt ngang, tuy nhiên không thể xác định mối quan hệ nhân quả Phạm vi nghiên cứu hạn chế chỉ tại một trung tâm y tế tỉnh, do đó không đảm bảo tính đại diện cho toàn bộ quần thể.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1: Phân bố tuổi, giới của nhân viên y tế Thông tin Số lượng (n= 124) Tỷ lệ (%)
Trong nghiên cứu, tổng số nhân viên y tế tham gia là 124 người, với độ tuổi trung bình là 31,9 ± 4,22 Nhóm tuổi từ 30 đến 39 chiếm tỷ lệ cao nhất, đạt 68,6%, trong khi nhóm tuổi từ 40 đến 49 chỉ chiếm 2,4% Tỷ lệ nhân viên y tế nữ là 77,4%, trong khi tỷ lệ nhân viên y tế nam là 22,6%.
Biểu đồ 3.1 cho thấy thông tin về trình độ chuyên môn của nhân viên y tế, trong đó 75% có trình độ cao đẳng, 22,6% có trình độ đại học, và tỷ lệ nhân viên có trình độ trung học rất thấp.
Sau đại học Đại học Cao đẳng Trung học chuyên nghiệp
Bảng 3.2: Thâm niên công tác của nhân viên y tế (n4)
Thâm niên công tác Số lượng Tỷ lệ %
Nhận xét: Nhóm nhân viên y tế có thâm niên công tác từ 5 – 10 năm chiếm đa số với tỷ lệ 45,9%, nhóm thâm niên trên 10 năm là 33,1%, nhóm thâm niên dưới
Biểu đồ 3.2: Phân bố nhân viên y tế theo khoa công tác
Nhận xét: Nhân viên y tế ở khoa Nội, nhi, truyền nhiễm chiếm tỷ lệ nhiều nhất
34,7% sau đó là khoa Hồi sức cấp cứu 25%, khoa Chăm sóc sức khỏe sinh sản 15,3%, khoa Y học cổ truyền, PHCN 12,9% và khoa Ngoại 12,1%
Nội, Nhi, TN YHCT-PHCN Ngoại SKSS HSCC
Bảng 3.3: Phân bố đào tạo về vệ sinh tay của nhân viên y tế (n4) Đào tạo về vệ sinh tay Số lượng Tỷ lệ % Được đào tạo 122 98,4
Nhận xét: Đa số nhân viên y tế công tác tại các khoa đã được đào tạo về vệ sinh bàn tay với tỷ lệ 98,4%.
Kiến thức về vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại Trung tâm y tế huyện Lạc Sơn
Bảng 3.4: Kiến thức của nhân viên y tế về 5 thời điểm vệ sinh tay thường quy
Thời điểm vệ sinh tay thường quy
Trước và sau khi tiếp xúc với người bệnh, cũng như trước khi thực hiện các thủ thuật vô khuẩn, cần tuân thủ các biện pháp an toàn để đảm bảo sức khỏe Việc rửa tay sạch sẽ sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết cũng là điều quan trọng nhằm ngăn ngừa lây nhiễm.
Sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt vùng xung quanh người bệnh 124 100 0 0 0 0
Nhận xét: 100% nhân viên y tế có kiến thức đúng về 5 thời điểm vệ sinh tay thường quy
Bảng 3.5: Kiến thức của nhân viên y tế về tác dụng của vệ sinh tay thường quy
Tác dụng của vệ sinh tay thường quy
Bàn tay của NVYT là tác nhân quan trọng trong lây truyền NKBV 124 100 0 0 0 0
NVYT tuân thủ đúng quy trình VST sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn ở người bệnh và chính bản thân họ
VST đúng quy trình là phương pháp đơn giản, hiệu quả nhưng tốn kém để phòng ngừa NKBV
Mang găng sạch thay thế cho rửa tay 115 92,7 9 7,3 0 0
Tuân thủ VSTTQ loại bỏ hầu hết các vi khuẩn thường trú trên da bàn tay 87 70,2 35 28,2 2 1,6
Kết quả đánh giá cho thấy 100% nhân viên y tế nhận thức đúng về vai trò của tay trong việc lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện Hơn 98% nhân viên hiểu rằng tuân thủ quy trình rửa tay giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cho bệnh nhân và bản thân họ Tuy nhiên, chỉ 92,7% cho rằng mang găng sạch không thể thay thế cho việc rửa tay, và 70,2% nhận thức đúng về việc tuân thủ vệ sinh tay có thể loại bỏ hầu hết vi khuẩn trên da Đáng chú ý, chỉ 68,5% nhân viên y tế biết rằng vệ sinh tay đúng quy trình là phương pháp đơn giản, hiệu quả và tiết kiệm để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện.
Biểu đồ 3.3 trình bày tỷ lệ nhân viên y tế thực hiện đúng thứ tự các bước trong quy trình vệ sinh tay thường quy (VSTTQ), bao gồm 6 bước cơ bản Đầu tiên, làm ướt tay bằng nước và lấy xà phòng, sau đó chà 2 lòng bàn tay vào nhau Tiếp theo, chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các ngón tay của bàn tay kia, rồi tiếp tục chà 2 lòng bàn tay vào nhau, chú ý miết mạnh các kẽ trong ngón tay Bước tiếp theo là chà mặt ngoài các ngón tay lên lòng bàn tay kia và ngược lại Sau đó, dùng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược lại, cuối cùng là xoay các đầu ngón tay vào lòng bàn tay kia và ngược lại Cuối cùng, rửa sạch tay dưới vòi nước chảy đến cổ tay và làm khô tay.
Tỷ lệ nhân viên y tế sắp xếp đúng thứ tự 6 bước của quy trình vệ sinh tay (VSTTQ) chỉ đạt 60,5% Phần lớn nhân viên y tế trong nghiên cứu gặp khó khăn trong việc xác định đúng thứ tự các bước, chủ yếu là do nhầm lẫn giữa bước 2 và bước 3.
Xếp đúng thứ tự 6 bước Không xếp đúng thứ tự 6 bước
Bảng 3.6: Kiến thức của nhân viên y tế về thời điểm sử dụng dung dịch vệ sinh tay phù hợp nhất
Trường hợp/ Thời điểm cần vệ sinh tay
Dung dịch phù hợp nhất Nước và xà phòng
Cồn/ dung dịch chứa cồn
VST trước khi tiêm truyền 84 67,7 40 32,3
VST ngay sau khi bàn tay bị rủi ro do vật sắc nhọn 111 89,5 13 10,5
VST vào bất cứ thời điểm nào khi bàn tay nhiễm bẩn 95 76,6 29 23,4
Sau khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên cùng một người bệnh
Trước khi tiến hành các thao tác y tế, việc rửa tay sạch sẽ là rất quan trọng, với tỷ lệ 79% thực hiện đúng quy trình Trước khi tiếp xúc với bệnh nhân, 28% nhân viên y tế đã rửa tay, trong khi 96% không thực hiện Sau khi tiếp xúc với các đồ vật, dụng cụ dính máu, dịch và chất bài tiết của bệnh nhân, việc vệ sinh tay cũng cần được chú trọng để đảm bảo an toàn cho cả bệnh nhân và nhân viên y tế.
112 90,3 12 9,7 Diệt tốt nhất vi khuẩn trên bàn tay 105 84,7 19 15,3
Trong một cuộc khảo sát về việc lựa chọn dung dịch vệ sinh tay của nhân viên y tế, 90,3% đã chọn nước và xà phòng là dung dịch phù hợp nhất sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ dính máu và dịch bài tiết Đối với các tình huống nguy cơ như tiếp xúc với vật sắc nhọn, 89,5% và 76,6% nhân viên đã chọn đúng dung dịch là cồn hoặc dung dịch chứa cồn Tuy nhiên, chỉ có 37,6% nhân viên lựa chọn nước và xà phòng khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên cùng một bệnh nhân Đáng chú ý, chỉ 32,3% và 36,3% nhân viên chọn cồn trước khi tiêm truyền và trước khi đeo găng tay sạch Cuối cùng, chỉ 15,3% nhân viên lựa chọn cồn là dung dịch hiệu quả nhất để diệt vi khuẩn trên da tay.
Biểu đồ 3.4 cho thấy phân loại kiến thức chung về vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế, với tỷ lệ đạt kiến thức lên tới 85,5% và tỷ lệ không đạt là 14,5%.
85,5% Đạt ≥ 13 điểm không đạt < 13 điểm
Thái độ của NVYT đối với công tác vệ sinh tay thường quy
Bảng 3.7 Thái độ của NVYT đối với công tác vệ sinh tay thường quy
Nội dung thái độ SL %
Nghĩ mình có đủ thời gian cho việc tuân thủ các quy định/hướng dẫn vệ sinh tay 112 90,3
Cảm thấy bất tiện khi phải nhắc nhở, góp ý với đồng nghiệp và các đối tượng khác trong khoa khi không làm đúng quy định/hướng dẫn VST
Việc góp ý, giúp đỡ đồng nghiệp thực hiện đúng quy định/ hướng dẫn VST sẽ góp phần cải thiện chất lượng công tác KSNK tại nơi làm việc
Bệnh viện hiện nay có những quy định/ hướng dẫn phù hợp về VST thường quy 106 85,5
Nghĩ rằng những quy định/hướng dẫn VST thường quy là đầy đủ và phù hợp 97 78,2
Bệnh viện cần tổ chức đào tạo, cập nhật kiến thức về
VST thường quy cho NVYT 87 70,2
Tin tưởng rằng việc tuân thủ quy định/ hướng dẫn
VST thường quy giúp làm giảm NKBV ở bệnh nhân và NVYT
Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tích cực đối với vệ sinh tay dao động từ 70% đến 97%, với tỷ lệ cao nhất 97,6% cho quan điểm tin tưởng rằng việc tuân thủ quy định vệ sinh tay giúp giảm nhiễm khuẩn bệnh viện Hai nội dung khác về vệ sinh tay cũng đạt trên 90%, bao gồm 90,3% nhân viên nghĩ rằng họ có đủ thời gian để tuân thủ quy định và 96,8% cảm thấy bất tiện khi phải nhắc nhở đúng quy định Tỷ lệ thấp nhất ghi nhận là 70,2% cho ý kiến cho rằng bệnh viện cần tổ chức đào tạo, cập nhật kiến thức về vệ sinh tay cho nhân viên y tế.
Biểu đồ 3.5 Thái độ chung của NVYT đối với vệ sinh tay thường quy
(n4) Nhận xét: Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tích cực đối với vệ sinh tay thường quy chiếm 86,2%
Tích cực Không tích cực
Thực hành vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại Trung tâm y tế huyện Lạc Sơn
Bảng 3.8 Số lượt quan sát và số nhân viên y tế được quan sát vệ sinh tay theo khoa lâm sàng
Khoa lâm sàng Số nhân viên được quan quan sát
Số lượt quan sát vệ sinh tay
Chăm sóc sức khỏe sinh sản 19 64
Nhận xét: Tổng số lượt quan sát là 468 lượt quan sát trên tổng số 124 nhân viên y tế
Bảng 3.9 Số lượt quan sát theo thời điểm vệ sinh tay Khoa lâm sàng Số lượt quan sát Tỷ lệ %
Trước khi tiếp xúc với người bệnh 101 21,6
Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn 95 20,3
Sau khi tiếp xúc với người bệnh 93 19,9
Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể 96 20,5 Sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt xung quanh người bệnh 83 17,7
Bảng 3.10: Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay trước khi tiếp xúc với người bệnh
Trước khi tiếp xúc với NB Số lượng Tỷ lệ %
Trong một nghiên cứu với 101 lượt quan sát về thực hành vệ sinh tay trước khi tiếp xúc với người bệnh, tỷ lệ tuân thủ quy trình vệ sinh tay thường quy đạt 62,4%.
Bảng 3.11: Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay trước khi làm thủ thuật vô khuẩn Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn Số lượng Tỷ lệ %
Trong một nghiên cứu với 95 lượt quan sát về thực hành vệ sinh tay trước khi thực hiện thủ thuật vô khuẩn, tỷ lệ tuân thủ quy trình vệ sinh tay thông thường đạt 86,3%.
Bảng 3.12: Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với người bệnh Sau khi tiếp xúc với NB Số lượng Tỷ lệ %
Nhận xét: Trong số 93 lượt quan sát thực hành vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với
Bảng 3.13: Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể
Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể Số lượng Tỷ lệ %
Trong một nghiên cứu với 96 lượt quan sát thực hành vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể, tỷ lệ tuân thủ quy trình vệ sinh tay đạt 93,7%.
Bảng 3.14: Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt xung quanh người bệnh
Sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt xung quanh NB
Trong một nghiên cứu với 83 lượt quan sát về việc thực hành vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với đồ dùng và bề mặt xung quanh người bệnh, tỷ lệ tuân thủ quy trình vệ sinh tay thường quy đạt 62,6%.
Bảng 3.15 Phương thức vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế
Bằng nước Bằng nước và xà phòng
Bằng cồn/dung dịch chứa cồn
Trước khi tiếp xúc với người bệnh (n1) 16 15,8 3 2,9 60 59,4
Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn (n) 9 9,5 37 38,9 45 47,4
Sau khi tiếp xúc với người bệnh (n) 20 21,5 24 25,8 45 48,4
Sau khi tiếp xúc với máu, dịch cơ thể (n) 6 6,3 78 81,2 12 12,5
Sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt xung quanh người bệnh (n)
Tỷ lệ nhân viên y tế thực hiện vệ sinh tay bằng cồn hoặc dung dịch chứa cồn trước khi tiếp xúc với người bệnh đạt 59,4%, trong khi tỷ lệ vệ sinh tay trước khi thực hiện thủ thuật vô khuẩn chỉ là 47,4% Sau khi tiếp xúc với người bệnh, chỉ có 25,8% nhân viên y tế vệ sinh tay bằng nước và xà phòng, nhưng tỷ lệ này tăng lên 81,2% sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể Đáng chú ý, chỉ có 21,7% nhân viên vệ sinh tay bằng nước và xà phòng sau khi tiếp xúc với đồ dùng và bề mặt xung quanh người bệnh.
Bảng 3.16: Tỷ lệ nhân viên y tế tuân thủ đúng đủ các bước của quy trình vệ sinh tay thường quy
Tuân thủ đúng đủ Tuân thủ không đầy đủ Không tuân thủ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Qua quan sát quy trình vệ sinh tay của nhân viên y tế trước khi tiếp xúc với bệnh nhân, 100% nhân viên tuân thủ đầy đủ bước 1, trong khi 87,3% tuân thủ bước 2 Tuy nhiên, tỷ lệ không tuân thủ cao ở bước 5 là 22,2% và bước 6 là 33,3% Cụ thể, tỷ lệ không tuân thủ ở bước 5 là 17,5% và bước 6 là 14,3%.
Bảng 3.17: Tỷ lệ số lần tuân thủ vệ sinh tay thường quy theo khoa làm việc
Tuân thủ Không tuân thủ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Chăm sóc sức khỏe sinh sản 39 60,9 25 39,1
Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế tại các khoa khác nhau cho thấy sự khác biệt rõ rệt Cụ thể, khoa Hồi sức cấp cứu và Ngoại có tỷ lệ tuân thủ cao nhất, đạt 90,1% và 87,5% Trong khi đó, khoa Nội, Nhi, Truyền nhiễm và Chăm sóc sức khỏe sinh sản có tỷ lệ tuân thủ lần lượt là 73,7% và 60,9% Đáng chú ý, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay ở khoa Y học cổ truyền và PHCN là thấp nhất, chỉ đạt 47,2% Tóm lại, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay chung cho tất cả cơ hội rửa tay của nhân viên y tế là 76%.
Biểu đồ 3.6 cho thấy tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế theo thời gian quan sát Cụ thể, vào buổi sáng, tỷ lệ này đạt 78%, trong khi vào buổi chiều, tỷ lệ giảm xuống còn 74,1%.
Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ thực hành vệ sinh tay thường quy đạt của nhân viên y tế
Nhận xét: Tỷ lệ nhân viên y tế thực hành vệ sinh tay thường quy đạt yêu cầu là
66,9%, tỷ lệ nhân viên y tế thực hành chưa đạt yêu cầu là 33,1%.
Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh tay thường
3.5.1 Mối liên quan giữa một số đặc điểm chung của NVYT với kiến thức về KSNK
Bảng 3.18: Mối liên quan giữa một số yếu tố và mức độ đạt yêu cầu về kiến thức của nhân viên y tế về vệ sinh tay thường quy
Thông tin chung của nhân viên y tế
Kiến thức chưa đạt (n) OR (95% CI) p
Trình độ chuyên môn Đại học (n() 27 96,4 1 3,6 1
0,0947 Cao đẳng và trung học
Thông tin chung của nhân viên y tế
Kiến thức chưa đạt (n) OR (95% CI) p
Chăm sóc sức khỏe sinh sản (n) 18 94,7 1 5,3 1,4
Bảng dữ liệu cho thấy mối liên hệ giữa các yếu tố thông tin và kiến thức về vệ sinh tay của nhân viên y tế Cụ thể, nhân viên y tế trên 30 tuổi có kiến thức đạt yêu cầu về vệ sinh tay cao hơn 1,1 lần so với nhân viên dưới 30 tuổi Trong khi đó, nữ nhân viên y tế có kiến thức đạt yêu cầu thấp hơn 0,7 lần so với nam giới Nhân viên có trình độ cao đẳng và trung học cũng có kiến thức về vệ sinh tay thấp hơn 0,2 lần so với nhân viên có trình độ đại học Đặc biệt, những nhân viên có thâm niên công tác trên 10 năm có kiến thức đạt yêu cầu cao hơn 1,9 lần so với nhóm có thâm niên dưới 10 năm, tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê.
Nhân viên y tế tại khoa Y học cổ truyền và phục hồi chức năng có kiến thức về vệ sinh tay thường quy thấp hơn đáng kể so với nhân viên tại khoa Nội, nhi, truyền nhiễm (OR=0,03; 95% CI: 0,007-0,165) Trong khi đó, nhân viên y tế ở các khoa khác có kiến thức vệ sinh tay đạt yêu cầu tương đương với khoa Nội, nhi, truyền nhiễm, cho thấy không có sự khác biệt thống kê.
3.5.2 Mối liên quan giữa một số đặc điểm chung của NVYT với thái độ về vệ sinh tay của NVYT
Bảng 3.19 Mối liên quan giữa một số đặc điểm chung của NVYT với thái độ về vệ sinh tay của NVYT (n4)
Thông tin chung của nhân viên y tế
Thái độ không tích cực (n) OR (95% CI) p
Trình độ chuyên môn Đại học và sau đại học
0,65 (0,21 - 2,05) 0,4707 Cao đẳng và trung học
Thông tin chung của nhân viên y tế
Thái độ không tích cực (n) OR (95% CI) p
(0,59 - 18,71) 0,1714 Chăm sóc sức khỏe sinh sản (n) 15 14,0 4 23,5 3,5556
Nhóm nhân viên y tế có thâm niên công tác trên 10 năm thể hiện thái độ tích cực về vệ sinh tay thường quy gấp 4,7 lần so với nhóm có thâm niên dưới 10 năm Đặc biệt, nhân viên khoa Y học cổ truyền và PHCN có thái độ tích cực về vệ sinh tay thường quy gấp 6,1 lần so với nhân viên tại khoa Nội, nhi, truyền nhiễm, với sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê Tuy nhiên, không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố như trình độ chuyên môn, giới tính và nhóm tuổi.
3.5.3 Mối liên quan giữa một số đặc điểm chung của NVYT với thực hành về vệ sinh tay của NVYT
Bảng 3.20: Mối liên quan giữa một số yếu tố và mức độ đạt yêu cầu về thực hành vệ sinh tay thường quy
Thông tin chung của nhân viên y tế
Thực hành chưa đạt OR (95% CI) p
Trình độ chuyên môn Đại học (n() 20 71,4 8 28,6 1
0,5664 Cao đẳng và trung học
Thông tin chung của nhân viên y tế
Thực hành chưa đạt OR (95% CI) p
17,51) 0,1648 Chăm sóc sức khỏe sinh sản (n) 13 68,4 6 31,6 1,2 (0,37-
Bảng trên cho thấy mối liên quan giữa độ tuổi và thâm niên công tác của nhân viên y tế với thực hành vệ sinh tay Cụ thể, nhân viên y tế trên 30 tuổi có thực hành vệ sinh tay đạt yêu cầu cao hơn đáng kể so với những người dưới 30 tuổi (OR = 3,9; 95%CI: 1,78-8,62) Ngoài ra, những nhân viên có thâm niên công tác trên 10 năm cũng thực hành vệ sinh tay tốt hơn so với nhóm có thâm niên dưới 10 năm (OR = 2,7; 95%CI: 1,12-6,62).
Nghiên cứu cho thấy, nhân viên y tế nữ thực hành vệ sinh tay đạt yêu cầu thấp hơn 0,8 lần so với nam giới Đối với trình độ chuyên môn, nhóm nhân viên y tế có trình độ cao đẳng và trung học cũng đạt yêu cầu thấp hơn 0,8 lần so với nhóm có trình độ đại học Ngoài ra, nhân viên y tế tại các khoa Y học cổ truyền, PHCN và hồi sức cấp cứu thực hành vệ sinh tay kém hơn so với nhân viên ở khoa Nội, nhi và truyền nhiễm Ngược lại, nhân viên tại khoa Ngoại và Chăm sóc sức khỏe sinh sản có tỷ lệ thực hành cao hơn, nhưng sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.21: Mối liên quan giữa kiến thức về vệ sinh tay với một số yếu tố của nhân viên y tế theo mô hình đa biến hồi quy logistic
Yếu tố cá nhân OR (95% CI) p
(Đại học/dưới đại học)
(Nội, nhi, truyền nhiễm/khoa khác)
Bảng kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy mối liên hệ giữa một số yếu tố và kiến thức về vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế Các yếu tố như nhóm tuổi trên 30, nam giới và trình độ đại học có xu hướng thể hiện kiến thức vệ sinh tay tốt hơn so với các nhân viên y tế khác, tuy nhiên sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.22: Mối liên quan giữa thực hành vệ sinh tay với một số yếu tố của nhân viên y tế theo mô hình đa biến hồi quy logistic
Yếu tố cá nhân OR (95% CI) p
(Đại học/dưới đại học)
(Nội, nhi, truyền nhiễm/khoa khác)
1 0,9 (0,75-1,24) 0,79 Đạt yêu cầu về kiến thức vệ sinh tay thường qui (Đạt/không đạt)
Bảng phân tích hồi quy đa biến cho thấy mối liên hệ giữa một số yếu tố và thực hành vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế Cụ thể, nhân viên y tế trên 30 tuổi thực hành vệ sinh tay ít hơn 0,3 lần so với nhóm dưới 30 tuổi, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (95% CI: 0,09-0,71) Mặc dù nam giới, nhân viên có trình độ đại học và điểm kiến thức đạt yêu cầu thực hành vệ sinh tay tốt hơn, nhưng không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm này.
Bảng 3.23: Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành vệ sinh tay thường quy
Kiến thức về VSTTQ Đạt (n= 106) 74 69,8 32 30,2 2,3
Tỷ lệ nhân viên y tế thực hành vệ sinh tay đạt yêu cầu lần lượt là 69,8% ở nhóm có điểm kiến thức về vệ sinh tay đạt và 50% ở nhóm chưa đạt Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 3.24: So sánh trung bình điểm kiến thức giữa 2 nhóm thực hành đạt và thực hành chưa đạt
Nhóm nhân viên y tế Số lượng Trung bình điểm kiến thức p
Nhận xét: Nhóm nhân viên y tế thực hành VSTTQ đạt yêu cầu có điểm kiến thức trung bình cao hơn nhóm thực hành chưa đạt với p > 0,05.