1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tiểu luận bài tập nhóm môn kinh tế vĩ mô Đề tài khủng hoảng kinh tế việt nam năm 1975 1986

15 7 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khủng Hoảng Kinh Tế Việt Nam Năm 1975-1986
Tác giả Bùi Thị Kim Loan-B22DCQT141, Nguyễn Thùy Linh-B22DCQT135
Người hướng dẫn Vũ Trọng Phong
Trường học Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông
Chuyên ngành Kinh Tế Vĩ Mô
Thể loại Tiểu luận
Năm xuất bản 2023
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 15
Dung lượng 575,47 KB

Nội dung

Còn sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanhtrong công và thương nghiệp và tập thể trong nông nghiệp - với hợp tác xã cấp cao là nòng

Trang 1

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

TIỂU LUẬN BÀI TẬP NHÓM

MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ

ĐỀ TÀI: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VIỆT NAM NĂM

1975-1986 Giảng viên hướng dẫn: Vũ Trọng Phong

Sinh viên thực hiện :Bùi Thị Kim Loan-B22DCQT141 Nguyễn Thùy Linh-B22DCQT135 Nhóm học phần : 15

Hà Nội, ngày 13 tháng 09 năm 2023

Trang 2

MỤC LỤC

Trang 3

PH N 1:M Đ UẦ Ở Ầ

1.1 Lý do chọn đề tài

Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam năm 1975-1986 là môt sự kiện quan trọng, có nhiều bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế

Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về cuộc khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam năm 1975-1986, chúng em đã chọn đề tài này để thực hiện tiểu luận môn kinh

tế vĩ mô

1.2 Mục tiêu

Mục tiêu của tiểu luận là phân tích nguyên nhân, diễn biến, và tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tại Nga năm 1917 Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1.3 Nội dung

Bài tiểu luận này trình bày về cuộc khủng hoảng kinh tế Nga năm 1917

PH N 2: N I DUNGẦ Ộ

2.1.Giới thiệu chung

2.1.1.Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này Đây là thời kỳ của 2 kế hoạch 5 năm 1976-1980 và 1981-1986

Thời kỳ xác lập mô hình kinh tế chung cho cả nước

Trang 4

2.1.2.Mô hình kinh tế

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế Ông thừa nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của thị trường tự do ở miền Nam.[1] Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, ông đã phát biểu:

“ Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa ngay lập tức Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy Phải có tư sản, phải cho nó phát triển phần nào đã Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này Xưa nay ở miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi sai quy luật Nếu chúng ta đi sai quy luật mà đưa vào miền Nam thì càng sai

Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn áp dụng mô hình kinh tế của miền Bắc cho miền Nam Vì thế, Hội nghị cuối cùng quyết nghị: xóa

bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ

Tiếp theo, Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức vào tháng 12 năm 1976 Tại đây, Đại hội quyết nghị đổi tên nước thành Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước Nội dung chính của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội là:

Thứ nhất, thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa Sản xuất lớn có nghĩa là nền kinh tế dựa vào những đơn vị có quy mô lớn, huyện trở thành pháo đài kinh tế-xã hội, các tỉnh được sáp nhập lại còn 29 tỉnh Còn sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh(trong công và thương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp - với hợp tác xã cấp cao là nòng cốt) Để thực hiện được sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, và văn hóa tư tưởng Cách mạng quan

hệ sản xuất có nội dung cơ bản là cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể,

Trang 5

biến chúng thành các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể - gọi chung là cải tạo xã hội chủ nghĩa

Thứ hai, làm chủ tập thể Đây là một tư tưởng do Lê Duẩn sáng tạo mà rất ít người hiểu, kể cả các nhà triết học

Thứ ba, áp dụng chế độ kế hoạch hóa tập trung Đây là mô hình chung ở các nước

xã hội chủ nghĩa Ở Việt Nam nó được thực hiện theo một công thức do Lê Duẩn sáng tạo, đó là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ Tại Đại hội IV, đường lối này được thể hiện bằng chủ trương tiến hành kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1976-1980 Theo kế hoạch do Đại hội IV định hướng, sản xuất

xã hội sẽ tăng bình quân hàng năm 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%, năng suất lao động xã hội tăng 7,5– 8%, lương thực quy thóc đạt ít nhất 21 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt

1 triệu tấn

Thứ tư, công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế

Thứ năm, Nhà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại

2.2 Nguyên nhân

Việt Nam không thành công trong mô hình CNH trước thời kỳ đổi mới (1975 -1986)

– Những khó khăn:Trong giai đoạn mới, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Chuyển từ nền kinh tế sang dựa sức mình là chính

Trong 10 năm 1975-1986, bên cạnh việc Đảng khẳng định 3 thành tựu nổi bật thì tồn tại song song đó là những sai lầm, khuyết điểm nổi bật - không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra

Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm

và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng cao và kéo dài Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng

Trang 6

Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội do xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh

Hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh ở biêngiới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá Cách mạng Việt Nam

là do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình Nguyên nhân chủ quan

hình,xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế,quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch

Hoàn cảnh quốc tế giữa các thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt

Nền kinh tế thấp kém dẫn đến thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra (xé rào, khoánchui )

Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ không tranh thủ được những thành tựu của Cách mạng Khoa học kỹ thuật – Công nghệ trên thế giới, còn hạn chế về tiếp thu thành tựu trong phạm vi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa 2.3.Mục tiêu gắn với tăng trưởng kinh tế

1 Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc,

về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác

2 Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh

mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo

Trang 7

3 Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước

2.4 Công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô đã sử dụng để đạt được mục tiêu phát triển

Có thể coi Hội nghị trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế; phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển; ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao, hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại hệ thống phân phối trong hệ thống hợp tác xã nông nghiệp, bỏ phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động… Trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp; cải tiến các chính sách lưu thông, phân phối (giá, lương, tiền, tài chính, ngân hàng); đổi mới công tác kế hoạch hoá, kết hợp với thị trường; kết hợp 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động

Những chủ trương đó nhanh chóng được nhân dân trong cả nước đón nhận và biến thành hành động thực tế trong thực tiễn cuộc sống Đầu những năm 80 của thế

kỷ XX, có địa phương đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế: “mua cao, bán cao” thay cho “mua cung, bán cấp”; bù giá vào lương; được phép thí điểm hình thức khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác

xã nông nghiệp đã ra đời

Trên lĩnh vực công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của cơ sở trong sản xuất, kinh doanh, với chủ trương “ba phần kế hoạch” (phần Nhà nước giao có vật tư bảo đảm, phần Xí nghiệp tự làm, phần sản phẩm phụ) theo Quyết định 25/CP, ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản

Trang 8

phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh được áp dụng

Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, vấn đề sử dụng các thành phần kinh

tế đã được đặt ra; từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức

tổ chức sản xuất thích hợp; chính sách đối với kinh tế cá thể từng bước được điều chỉnh cho đúng thực tế hơn; nhấn mạnh chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống

Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam xảy ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa đủ thời gian để những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, trong khi đó, nhiều chỉ tiêu cơ bản do Đại hội

IV đưa ra lại quá cao so với thực tế, nên không thực hiện được Nền kinh tế tiếp tục

ở trạng thái trì trệ, sa sút; đời sống nhân dân có nhiều khó khăn

Hội nghị trung ương 8 khoá V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện

cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa

Tháng 8/1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế Trong đó xác định: trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội

Có thể nói, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) là Đại hội mang tính lịch sử, tạo ra bước ngoặt cực kỳ quan trọng cho đất nước Tại Đại hội này, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới tư duy, đối mới tổ chức - cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác Đại hội đã

đề ra ba Chương trình kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là mũi nhọn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới; đồng thời chủ trương kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, xây

Trang 9

dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường; lập lại trật tự kỷ cương; giữ ổn định chính trị, xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân

2.5.Kết quả

2.5.1 Tổng quan

Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá

Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm Theo loại hình sở hữu,

sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71% Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh

tế tăng trưởng

Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này tăng 61,6%/năm

Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên

Trang 10

nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm

Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định không biết chữ, có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ Công tác dạy nghề phát triển cũng mạnh mẽ Năm 1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung học chuyên nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và 7,8 nghìn giáo viên Đến năm

1985, số trường trung học chuyên nghiệp là 314 trường, với quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên và 44,9% về số giáo viên so với năm 1977)

2.5.2 Cụ thể

-Đẩy mạnh sản xuất tập trung ở miền Bắc

Theo Kế hoạch 5 năm 1976–1980 thì diện tích đơn vị sản xuất, tức hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc tăng gấp hai đến 2,5 lần hậu kích thích sản xuất nhưng năng suất vẫn trì trệ Tính trên đầu người thì lượng thực phẩm ở Miền Bắc giảm từ 248

kg vào năm 1976 xuống chỉ còn 215 kg vào năm 1980 Dù không đạt được mục đích chính phủ vẫn quyết định áp dụng cùng một chính sách ở Miền Nam vừa mới thống nhất

-Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam

Hợp tác hóa

Việc hợp tác hóa ở miền Nam được tiến hành khẩn trương trong các năm từ 1977 đến 1980 Theo kế hoạch thì ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp Máy móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho Nhà nước theo giá

kế hoạch thấp hơn rất nhiều giá thị trường Bù lại, Nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các tập đoàn Tuy nhiên tình hình kinh tế Miền Nam không thích hợp với mô hình hợp tác hóa vì chương trình "Người cày có ruộng" vào đầu thập niên 1970 đã phân phối ruộng đất khiến đa số nông dân Miền Nam thuộc hạng trung nông với năng suất khá cao Hơn nữa chính quyền cũng đã nhận thấy lịch sử hợp tác hóa ở miền Bắc đã gặp nhiều thất bại nên hợp tác hóa ở miền Nam cũng bị

bỏ dở

Ngày đăng: 15/02/2025, 22:04

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN