1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đề Tài- Bản Lĩnh Độc Lập, Tự Chủ, Sáng Tạo Trong Lãnh Đạo Cách Mạng Của Đảng Cộng Sản Việt Nam.pdf

20 48 2
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tác giả Ngô Thị Anh Tú
Người hướng dẫn PGS.TS.GVCC. Nguyễn Quang Liệu
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
Thể loại Tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 20
Dung lượng 2,44 MB

Nội dung

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài Bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lãnh đạo cách

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài Bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lãnh đạo cách :

mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Họ và tên sinh viên: Ngô Thị Anh Tú

Mã sinh viên: 19031604 Ngành: Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Giảng viên: PGS.TS.GVCC Nguyễn Quang Liệu

Hà Nội, tháng 11 năm 2021

Trang 2

Bài làm

I, Mở đầu

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước Tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng của cha ông, suốt những năm qua kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Có thể khẳng định rằng, thành quả vĩ đại của dân tộc, của đất nước ta trong hơn chín thập kỷ qua gắn liền với vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là đô ^c lâ ^p dân tô ^c, chủ nghĩa xã hô ^i, làm tất cả chỉ

vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và làm chủ của nhân dân - đó là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh

Ngày 03/02/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Đảng Cộng sản Việt Nam

ra đời Đây là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở để dẫn tới những thắng lợi oanh liệt, những bước phát triển nhảy vọt và những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc 90 năm qua, dù con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có lúc quanh co, phức tạp, dù có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng Đảng luôn vượt lên mọi khó khăn, thử thách để lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam Những thành quả vĩ đại ấy là minh chứng cho bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Độc lập, tự chủ, sáng tạo không chỉ là truyền thống, mà còn là nét nổi bật thuộc về bản lĩnh chính trị của Đảng ta, bản lĩnh này thể hiện ở nhiều khía cạnh và đặc biệt rõ ràng nhất ở những lúc cách mạng gặp khó khăn, trước những bước ngoặt của lịch sử Từ đó tạo ra cao trào cách mạng rộng khắp để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Đặc biệt trong công cuộc đổi mới, nhờ có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã có đường lối cách mạng đúng đắn, luôn chủ động, sáng tạo để đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua những khó khăn thử thách, đi đến thắng lợi thành công

II, Nội dung chính

1 Bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc

1.1 Giai đoạn 1930 - 1945

Có thể nói, bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ yêu cầu khách quan của tình hình thế giới cũng như thực tiễn cách

2

Trang 3

mạng nước ta Nhưng một điều không thể phủ nhận, đó chính là bản lĩnh chính trị, năng lực thiên tài của đảng ta khi đứng trước những khó khăn, thử thách, trước những bước ngoặt của lịch sử Trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, trong suốt quá trình cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch

Hồ Chi Minh luôn thể hiện sâu sắc tư tưởng đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm Đồng thời người cũng nêu cao tư tưởng độc lập, tự chủ với phương châm: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”; “Muốn người giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã” Người cũng hết sức phê phán tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào thế lực bên ngoài Người có nói: “Một dân tộc không tự lực cảnh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ, thì không xứng đáng được hưởng độc lập” Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã luôn vận dụng triệt để và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh như trên Trên cơ sở lý luận đó, Đảng đã chứng minh bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối lãnh đạo, trong phát động phong trào cách mạng, để từ đó tạo nên sức manh của toàn dân tộc, bất chấp những khó khăn, thử thách, bất chấp sự can thiệp, chi phối từ bên ngoài, đem lại thắng lợi cho cách mạng

Sự sáng tạo của Đảng thể hiện ngay từ những ngày đầu thành lập, cụ thể là quy luật ra đời của Đảng Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp không chỉ

có chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân mà còn thêm yếu tố phong trào yêu nước Như ta đã biết, theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân Luận điểm này đúng, nhưng chỉ đúng với các nước phương Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng cách mạng độc lập, được lý luận khoa học của Mác dẫn đường Sự ra đời và phát triển của một loạt Đảng của giai cấp vô sản ở các nước Tây Âu cũng như ở Nga hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ

XX đã chứng minh tính đúng đắn của luận điểm nêu trên Còn ở các nước phương Đông, đặc biệt là các nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam thì luận điểm

đó cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện cụ thể Những nước này

bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc hậu Công nghiệp gần như chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời và sống khá tập trung, song còn nhỏ bé Vì vậy, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chưa đại diện được cho toàn bộ phong trào dân tộc Hơn nữa, vấn đề dân tộc cần phải giải quyết trở nên hết sức bức xúc, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân phải hoà chung với phong trào yêu nước của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo những cuộc đấu tranh này Sự ra đời của Đảng là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam Như vậy, khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước Đây là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng

3

Trang 4

Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam

Nếu C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những người đặt nền móng cho việc hình thành lý luận về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong thời đại mới, thì Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam là những người đầu tiên đã thành công trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận đó vào điều kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa phong kiến Ngay từ khi mới ra đời, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) đã nhận thấy yêu cầu khách quan, bức thiết nhất của xã hội thuộc địa như Việt Nam là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp lên cao như ở các nước tư bản phương Tây Đối tượng trực tiếp của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ chưa phải là chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản nói chung Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” Chủ trương đó đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử Việt Nam Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, Luận cương chính trị được thông qua tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10-1930) đã không kế thừa được những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống

đế quốc và chống phong kiến Khi chiến tranh thế giới lần thứ Hai bùng nổ, liên tiếp trong ba hội nghị: lần thứ Sáu (11-1939), lần thứ Bảy (11-1940), và đặc biệt là Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, trên cơ sở phân tích chuẩn xác những biến chuyển của tình hình thế giới và Đông Dương, đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược với chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc và Việt gian tay sai để giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “Cách mạng ruộng đất” Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương” Vấn đề ruộng đất mà hội nghị bàn đến chỉ là chia lại công điền, và chia ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản quốc”, tức là ruộng đất đang nằm trong tay

kẻ thù của dân tộc, chứ không phải của địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế Vì thế, “Trong khi tuyên truyền, không được dùng những khẩu hiệu quá thời Không nên nói đánh đổ Nam triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của địa chủ mà nói diệt trừ bọn Việt gian phản quốc” Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Đảng tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943): “Lúc này, nhiệm vụ dân tộc giải phóng cần kíp và quan trọng hơn Nên Đảng phải thống nhất mọi lực lượng cách mạng đặng mau hoàn thành nhiệm vụ ấy trước Do đó khẩu hiệu thổ địa cách mạng không thể đề ra lúc này” Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) đều xác định nhiệm vụ và

4

Trang 5

mục tiêu chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày Đó là chủ trương đúng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc Tuy nhiên, chủ trương đó đã có thời kỳ vấp phải sự phản ứng và phê phán gay gắt từ phía Quốc tế Cộng sản và những người cùng chung chí hướng Song bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng ta, đứng đầu

là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, vượt qua các rào cản của những tư tưởng và khuôn mẫu giáo điều, kiên định với mục tiêu đã định Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và tập hợp được sức mạnh và lực lượng của toàn thể quốc gia dân tộc, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Đó chính là biểu hiện rõ nhất của

sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, cũng như góp phần làm phong phú lý luận đó từ điều kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa phong kiến

Cùng với đó, Đảng ta không chịu chập nhận sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản một cách thụ động, bằng bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo của mình, Đảng đã xác định rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là: Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa Giai đoạn lãnh đạo dân tộc đấu tranh giành độc lập 1930 –

1945, để phù hợp đặc điểm tình hình và nhiệm vụ từng thời kỳ, hình thức, khẩu hiệu, phương pháp đấu tranh được Đảng điều chỉnh linh hoạt nhưng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu tối thượng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta Chẳng hạn như, giai đoạn

1930 – 1931, Đảng giương cao khẩu hiệu “Ruộng đất cho dân cày”, giai đoạn 1936 – 1939 là “chống phát xít, chống chiến tranh”, “Tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình”; giai đoạn 1939 – 1945 là “… dù hy sinh lớn tới đâu, dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”

Sau khi xác định đúng con đường cách mạng cùng với nhiệm vụ trước mắt

và kẻ thủ chính của giai cấp và của dân tộc ta, Đảng đã phát động được cao trào rộng khắp, thu hút, tập hợp được lực lượng cách mạng to lớn, mặc dù phải đương đầu với không ít những khó khăn thử thách, song với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng, mục tiêu đã định, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được nhiều thắng lợi qua các cao trào cách mạng 1930-1931; cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939; và đặc biệt là cao trào kháng Nhật cứu nước – Cuộc tổng diễn tập vĩ đại nhất cho thắng lợi cuộc Cách mạng tháng 8 Trong đó, nghệ thuật cách mạng ở cao trào kháng Nhật cứu nước là một điển hình cho bản tĩnh chủ động và sáng tạo của Đảng Cụ thể là lúc diễn ra cao trào, nhiều nơi chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng nhận thấy những chuyển biến mau lẹ của thời cuộc, dự đoán đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ sung lật đổ Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) để phân tích tình hình và đề ra chủ

5

Trang 6

trương chiến lược mới Ngày 12-3- 1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền ở những nơi có điều kiện Đó là một cuộc chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách mạng được mở rộng, lực lượng cách mạng được tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa Sau khi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng vạn quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước thế giới về nền độc lập của Việt Nam, khẳng định thể chế chính trị của Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội Một sáng tạo nổi bật trong giai đoạn này của Đảng ta là lựa chọn phương pháp đấu tranh giành độc lập dân tộc Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, các văn kiện, nghị quyết của Đảng đều khẳng định, bạo lực cách mạng là phương thức để xoá bỏ các mâu thuẫn đối kháng trong xã hội nước ta Sức mạnh bạo lực là sức mạnh của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đấu tranh cách mạng lâu dài, trải qua 3 lần tổng diễn tập: cao trào cách mạng 1930-1931, 1936- 1939 và 1939-1945 Đó là một cuộc cách mạng bạo lực kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh chính trị làm chính Hình thái khởi nghĩa là

từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, gắn việc giành chính quyền về tay nhân dân với việc bảo vệ thành quả cách mạng Đây chính là một điển hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang

Những sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng chính là nhân tố hàng đầu đưa đến thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; là cơ sở để Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đến thắng lợi, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thu non sông về một mối; góp phần bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến

1.2 Giai đoạn 1945 - 1954

Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới với nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất Thuận lợi về quốc

6

Trang 7

tế là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện khu vực và thế giới có những

sự thay đổi lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên

Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao Thuận lợi ở trong nước là Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước Đặc biệt, việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân Khó khăn

là trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó

có cách mạng Việt Nam Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn, không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài Cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng Khó khăn ở trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề, sự tàn phá của nạn

lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều; nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp Chưa dừng ở đó, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật Hoàng thua trận chưa được giải giáp Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài Trong lúc này, Đảng ta đã hết sức sáng tạo trong chính sách hòa hoãn, nhân nhượng kẻ thù, từ tháng 9/1945 đến trước ngày 4/3/1946, hòa với quân Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng đáng Pháp

ở miền nam; từ 6/3/1946 đến 19/12/1946, Đảng ta lại cho hòa với Pháp để đánh đuổi quân Tưởng về nước, tránh cho nhân dân ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh thần quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh

7

Trang 8

trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoài, thù trong những năm đầu chính quyền cách mạng non trẻ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các kẻ thù; củng cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám; tạo thêm thời gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Tăng cường đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sự ủng hộ vật chất là chính trị, tinh thần của toàn dân Phát triển thực lực cách mạng Đó là những thành công và kinh nghiệm nổi bật của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, giai đoạn 1945-1946

Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng

do, nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần Đến ngày 19-12-1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp thẳng thừng cự tuyệt Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa giành được Ngày 12-12-1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến Ngày 18-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố

Hà Nội) đã đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình, kịp thời đề ra chủ trương đối phó và quyết định phát động toàn dân, toàn quốc tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do Tại đây, bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự cường của Đảng ta được thể hiện rõ nét ngay trong đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947 Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính Đường lối đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị Hòa để tiến (9-3-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-(9-3-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947), Có thể thấy, phương châm chỉ đạo kháng chiến của Đảng ta trong lúc này là “kháng chiến dựa vào sức mình là chính”, đây là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng

8

Trang 9

giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện Lấy độc lập, tự chủ về đường lối

là yếu tố quan trọng hàng đầu Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám; củng cố, phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; mang đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến Thắng lợi của cuộc kháng chiến đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề về chính trị xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ vững chắc miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam Từ chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cho đến thắng lợi kháng chiến chống Pháp đều phải kể đến, phải ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng ta Đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu Đường lối cơ bản

là “kháng chiến và kiến quốc”; kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là chính Tinh thần, khí phách đó đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân tập trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thời kỳ kháng chiến Đảng ta tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của quốc tế, phát huy có hiệu quả cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ đối với cuộc kháng chiến; nhưng không quá phụ thuộc vào sức mạnh bên ngoài mà còn kết hợp tối đa sức mạnh nội lực của nhân dân Việt Nam vào đó để góp phần kháng chiến thành công

1.3 Giai đoạn 1954 - 1975

Với hiệp định Giơnevơ (7/1954) nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, miền Nam do chính quyền đối phương quản lý, trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ Trên trường quốc tế, thuận lợi của cách mạng Việt Nam là hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là

sự lớn mạnh của Liên Xô Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản Bất lợi là: xuất hiện đế quốc Mỹ

9

Trang 10

hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế giới, với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau xây dựng và thực hiện Thế giới đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc Ở trong nước, thuận lợi là đã có miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương cho

cả nước Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả nước Khó khăn là: đất nước chia làm hai miền, có chế độ chính trị khác nhau, miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hòa bình thống nhất đất nước Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại Trải qua nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình thành Đảng quyết định tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam Tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét sáng tạo độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7/1954 đến tháng 4/1975 Sở dĩ hai miền nam bắc phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng

là do cách mạng ở hai miền cùng giải quyết một mâu thuẫn lớn nhất của dân tộc: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Đế quốc Mỹ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ cách mạng nước ta và đối với quá trình thống nhất nước nhà, cụ thể là miền bắc giải phóng và đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, song song với đó, miền bắc chính là hậu phương lớn của cả nước cũng như chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau này Còn cách mạng ở miền nam lại nắm giữ vai trò quyết định trực tiếp đến việc dành độc lập cho dân tộc Đường lối cách mạng này của Đảng ta là một sáng tạo đặc sắc mang tầm chiến lược, không sao chép những cái đã có, mà là sự vận dụng phép biện chứng của Mác vào điều kiện đặc thù của cách mạng Việt Nam, có phát triển trong thời đại thế giới chia thành hai phe đối kháng Miền Bắc sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội Miền Bắc có

đi lên chủ nghĩa xã hội mới giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi tàn tích của chế độ thuộc địa, phong kiến tồn tại ngót 80 năm trên đất nước ta một cách triệt

để nhất Có như vậy mới thực sự đưa nhân dân ta bước lên vũ đài chính trị với tư cách người làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, làm chủ bản thân Miền Bắc giàu mạnh chẳng những là hậu phương vững chắc của cách mạng miền Nam, tăng cường sức mạnh cho cách mạng miền Nam, mà còn là tấm gương thu hút, động viên nhân dân miền Nam phấn đấu, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè

lũ tay sai bán nước miền Nam Ngược lại, cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam thu được những thắng lợi ngày càng lớn, sẽ có tác dụng kiềm chế hành động phiêu

10

Ngày đăng: 04/02/2025, 20:55

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN