Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh, trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh đã ghi lại một cách hiểu của mình về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của c
Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và nghiên cứu Nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố từ các cá nhân và tập thể ở nhiều cấp độ khác nhau Những nhà khoa học và chính trị gia nổi bật như Cố Tổng bí thư Trường Chinh, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và GS Trần Văn Giàu đã có những đóng góp quan trọng trong việc khám phá tư tưởng của Người Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khai thác từ nhiều góc độ, bao gồm chính trị, quân sự, đạo đức, giáo dục, văn hóa và triết học Đặc biệt, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định là nền tảng cho sự phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nam dựa vào chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các nhà khoa học nghiên cứu một cách công phu và hệ thống, thể hiện qua các giáo trình như Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (bậc Đại học), Giáo trình Giáo dục chính trị (bậc Cao đẳng) và môn học Tư tưởng triết học.
Hồ Chí Minh được giảng dạy trong hệ thống các trường đại học và giáo dục nghề nghiệp, với tư tưởng về văn hóa ứng xử được phổ biến rộng rãi Nhiều công trình nghiên cứu đã phân tích nội dung văn hóa ứng xử theo tư tưởng của Người từ nhiều góc độ khác nhau Các công trình này có thể được phân loại thành các nhóm vấn đề liên quan đến chủ đề văn hóa ứng xử trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một số nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến văn hóa ứng xử, tiêu biểu là tác phẩm “Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất” của GS Song Thành.
Nxb Chính trị quốc gia tại Hà Nội đã phát hành tác phẩm vào năm 1999, trong đó tác giả phân tích chi tiết về văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh qua 10 chương Nội dung văn hóa của Hồ Chí Minh chủ yếu bao gồm các yếu tố như khiêm tốn, nhã nhặn và lịch lãm; chân tình, nồng hậu và tự nhiên; linh hoạt, chủ động và biến hóa; uyển chuyển với lý lẽ và tình cảm; khả năng cảm hóa; cũng như sự khoan dung và đại lượng.
Tác phẩm “Văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh với việc xây dựng con người mới hiện nay” của Cao Thị Hải Yến là một luận văn Thạc sĩ Văn hóa học tại trường Đại học, tập trung vào việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc hình thành và phát triển con người mới trong bối cảnh hiện đại Luận văn không chỉ phân tích các giá trị văn hóa ứng xử của Bác mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của những giá trị này trong việc xây dựng một xã hội văn minh, nhân ái và phát triển bền vững.
Luận văn về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, được ấn hành năm 2001, nhấn mạnh những đặc điểm nổi bật như tính nhất quán trong mục tiêu và nguyên tắc, sự đa dạng và linh hoạt trong cách ứng xử, cùng với sự tinh tế và uyên bác Bên cạnh đó, văn hóa ứng xử này còn thể hiện sự ân cần, cởi mở và chu đáo, quyết tâm và kiên trì, cũng như tinh thần lạc quan Ngoài ra, nó còn phản ánh sự cảm hóa, khoan dung, độ lượng, khiêm nhường, nhã nhặn, lịch lãm và bình dị, tất cả đều mang tính nhân văn sâu sắc.
Bài viết “Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh – Giá trị và ý nghĩa” của Hoàng Chí Bảo, đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 2005, được chia thành 5 phần, trong đó phần 4 nêu rõ quan điểm về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh Tác giả cho rằng văn hóa ứng xử này không chỉ là nguyên tắc ứng xử của Người mà còn là sự kết hợp giữa giáo dục lý thuyết và thực hành qua công việc thực tế, cùng với việc nêu gương Đặc biệt, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh còn mang tính tự ứng xử, thể hiện sự tự giác và trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Tác phẩm “Tìm hiểu văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh” của TS Nguyễn Thị Tình và Lê Kim Dung, xuất bản năm 2009, khám phá những yếu tố quan trọng trong nhân cách của Hồ Chí Minh Tác giả nhấn mạnh lòng nhân ái, tình yêu thương con người, trí tuệ sáng suốt, học vấn sâu rộng và lý tưởng cao đẹp, từ đó làm nổi bật văn hóa ứng xử của vị lãnh tụ vĩ đại.
Thứ hai, một số công trình, bài viết về vận dung quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử tại các đơn vị như:
Bài viết của Võ Thị Hồng Loan phân tích việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng văn hóa giao tiếp cho cán bộ, lãnh đạo, và quản lý tại Việt Nam hiện nay Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giao tiếp hiệu quả trong công việc lãnh đạo, đồng thời đề xuất các phương pháp cải thiện kỹ năng giao tiếp dựa trên các giá trị nhân văn và đạo đức mà Hồ Chí Minh đề xướng Qua đó, bài viết góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo và quản lý, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
Bài viết trên Tạp chí khoa học xã hội (3), tr20-28, năm 2003, bao gồm hai mục lớn và bốn mục nhỏ, tập trung vào khái niệm văn hóa và văn hóa giao tiếp Tác giả phân tích mối quan hệ giữa văn hóa giao tiếp và văn hóa ứng xử, từ đó lý giải sức thuyết phục cao của văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh Bài viết cũng trình bày một số nguyên tắc cơ bản trong văn hóa giao tiếp Hồ Chí Minh cần được quán triệt.
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học “Văn hóa ứng xử của sinh viên các trường
Luận văn "Cao đẳng ở Thành phố Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Hồng Thủy Tiên, thuộc Đại học KHXH&NV – ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019, áp dụng phương pháp khảo sát xã hội học để thống kê kết quả nhận thức và hành vi văn hóa ứng xử của sinh viên tại ba trường Cao đẳng ở Thành phố Sóc Trăng.
Phân tích số liệu cho thấy cần xác định rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của sinh viên tại các trường Cao đẳng ở Thành phố Sóc Trăng Để nâng cao văn hóa ứng xử, cần triển khai các giải pháp hiệu quả như tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo về kỹ năng giao tiếp, và xây dựng môi trường học tập tích cực.
Một số tác phẩm tiêu biểu về văn hóa ứng xử trong môi trường học đường bao gồm: "Văn hóa ứng xử của sinh viên trong trường Đại học Công Đoàn" của Nguyễn Thị Phương Thùy, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Công đoàn số 30, tháng 5/2023; "Văn hóa giao tiếp, ứng xử - nền tảng căn bản của văn hóa nhà trường Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Tuyết Lan, đăng trên Tạp chí Giáo dục số đặc biệt, tháng 7/2019; và "Một số giải pháp xây dựng văn hóa ứng xử trong sinh viên tại trường Đại học Công nghiệp dệt may Hà Nội" của Trịnh Thùy Giang.
Vào tháng 4 năm 2020, bài viết “Bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho sinh viên” của Nguyễn Thị Huyền Chi được đăng tải trên Tạp chí văn học nghệ thuật, số 433 Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa ứng xử trong sinh viên tại Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội Để nâng cao kỹ năng giao tiếp và ứng xử, cần triển khai các giải pháp hiệu quả nhằm tạo ra môi trường học tập tích cực cho sinh viên Bạn có thể tham khảo thêm tại đường dẫn http://hict.edu.vn/khoa-kinh-te/mot-so-giai-phap-xay-dung-van-hoa-ung-xu-trong-sinh-vien-tai-truong-dai-hoc-cong-nghiep-det-may-ha-noi.htm.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là làm rõ các nội dung cơ bản về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh và áp dụng những giá trị này vào việc xây dựng văn hóa ứng xử cho sinh viên tại trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức hiện nay.
❖ Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ nội dung cơ bản và đặc điểm chủ yếu trong văn hóa ứng xử
Thứ hai, phân tích thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên tại trường CĐCN
Đề tài này nhằm đề xuất giải pháp áp dụng và phát huy quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử, đặc biệt là trong việc xây dựng văn hóa ứng xử cho sinh viên tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Thủ Đức trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong Triết học Mác – Lênin nhằm đánh giá và giải quyết các vấn đề Ngoài ra, nghiên cứu còn áp dụng các phương pháp hỗ trợ như phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, so sánh, cũng như thống kê số liệu để trình bày một cách rõ ràng và toàn diện.
Đóng góp của đề tài
Bài viết này phân tích thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên tại trường CĐCN Thủ Đức, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng và phát huy quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử Những giải pháp này không chỉ giúp cải thiện hành vi của sinh viên mà còn góp phần vào việc thực hiện sứ mệnh giáo dục nghề nghiệp của nhà trường.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 2 chương, 4 tiết
- Chương I: Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử
Quan niệm chung về văn hóa ứng xử
Quan niệm chung về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm phong phú và phức tạp, đã thu hút sự chú ý của nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa học Từ khi văn hóa trở thành đối tượng nghiên cứu, đã có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng có thể phân chia thành hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Văn hóa, theo nghĩa hẹp, có thể được hiểu qua các giới hạn về chiều sâu, chiều rộng, không gian và thời gian Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa phản ánh những giá trị tinh hoa Khi giới hạn theo chiều rộng, văn hóa đề cập đến các giá trị trong từng lĩnh vực cụ thể Giới hạn theo không gian cho thấy những giá trị đặc thù của từng vùng miền, trong khi giới hạn theo thời gian chỉ ra những giá trị đặc trưng của từng giai đoạn lịch sử.
Văn hóa được hiểu là tổng thể những gì con người sáng tạo ra, không thể tách rời khỏi con người Trong tiếng Tây, từ "văn hóa" xuất phát từ chữ "cultus" trong tiếng Latinh, có nghĩa là "trồng trọt" Từ này mang hai nghĩa: "cultusagri" chỉ việc trồng cây ngoài đồng và "cultusannimi" ám chỉ việc phát triển tinh thần, con người Do đó, văn hóa theo nghĩa gốc là quá trình làm cho sự vật và hiện tượng phát triển theo hướng tích cực.
Trong truyền thống phương Đông, "văn" biểu thị những giá trị tốt đẹp của cuộc sống được chắt lọc từ trí tuệ con người, trong khi "hóa" ám chỉ sự biến đổi và áp dụng những giá trị này vào thực tiễn để nâng cao chất lượng cuộc sống Văn hóa không chỉ là động lực phát triển xã hội mà còn là phương tiện giáo dục con người thông qua cái đẹp.
Văn hóa là một lĩnh vực phong phú, bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến hoạt động của con người, dẫn đến nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau Nhiều ngành khoa học nghiên cứu văn hóa từ những bối cảnh lịch sử và góc độ khác nhau Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào một số khái niệm văn hóa cụ thể.
Trong tác phẩm "Văn hóa nguyên thủy" của Edward Burnett Tylor, nhà nhân chủng học người Anh, ông đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về văn hóa Tylor cho rằng văn hóa là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng những khái niệm và thói quen khác mà con người tiếp thu khi trở thành thành viên của xã hội.
Theo E.Tylor, văn hóa bao gồm tất cả các lĩnh vực liên quan đến đời sống con người như tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức và pháp luật Quan niệm này nêu bật nhiều lĩnh vực của văn hóa, nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở việc liệt kê các lĩnh vực sáng tạo của con người.
Một số quan niệm về “văn hóa” như sau:
Văn hóa không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết mà còn là nền tảng định hướng cho cách ứng xử của cộng đồng Sự hiểu biết trở thành văn hóa khi nó ảnh hưởng đến tâm hồn, đạo lý, lối sống và hành vi của mỗi cá nhân Văn hóa hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp, không chỉ trong mối quan hệ giữa con người với nhau mà còn với môi trường xã hội và tự nhiên xung quanh.
Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi ứng xử tích cực của cá nhân và cộng đồng Trong cuốn "Cơ sở văn hóa Việt Nam" xuất bản năm 1991, tác giả Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa, nhấn mạnh tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sống xã hội.
Văn hóa là hệ thống giá trị đa dạng, bao gồm cả vật chất và tinh thần, được hình thành và phát triển qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người Nó phản ánh sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, tạo nên những giá trị tĩnh và động, vật thể và phi vật thể.
Tác giả chỉ ra bốn chức năng đặc trưng của văn hóa: tính hệ thống gắn liền với chức năng tổ chức xã hội, tính giá trị liên quan đến chức năng điều chỉnh xã hội, tính nhân sinh kết nối với chức năng giao tiếp, và tính lịch sử đi đôi với chức năng giáo dục.
Văn hóa được hiểu qua nhiều quan niệm khác nhau, nhưng tất cả đều coi văn hóa là sản phẩm của hoạt động con người, hình thành từ sự tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội Những sản phẩm văn hóa này không chỉ hướng con người tới chân, thiện, mỹ mà còn gắn bó chặt chẽ với đời sống của con người Định nghĩa văn hóa của UNESCO trong bản tuyên bố chung của Hội nghị cũng nhấn mạnh quan niệm này.
Văn hóa là tổng thể các đặc điểm tinh thần và vật chất, quyết định tính cách của xã hội và nhóm người Nó bao gồm nghệ thuật, văn chương, lối sống, quyền cơ bản, giá trị, tập tục và tín ngưỡng Văn hóa cho phép con người suy xét về bản thân, trở thành những sinh vật có lý tính và dấn thân có đạo lý Nhờ văn hóa, chúng ta có thể đánh giá giá trị thực, thực hiện lựa chọn và tự thể hiện mình Nó giúp con người tự ý thức, khám phá ý nghĩa mới và sáng tạo nên những thành tựu vượt trội.
Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng và bao gồm những nét đặc trưng về vật chất, tinh thần, trí tuệ và xúc cảm, tạo nên bản sắc của một dân tộc hoặc cộng đồng Hệ giá trị là yếu tố cốt lõi, điều tiết hoạt động của mọi thành viên trong cộng đồng Hồ Chí Minh cũng đã ghi lại quan niệm của mình về văn hóa trong tập Nhật ký trong tù, nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội.
Văn hóa là tổng hòa của những sáng tạo và phát minh của loài người, bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và các công cụ phục vụ cho cuộc sống hàng ngày Những yếu tố này được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu sống và yêu cầu sinh tồn, phản ánh cách mà con người thích ứng với môi trường xung quanh.
Nội dung cơ bản và đặc điểm chủ yếu văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
Văn hóa ứng xử truyền thống của dân tộc Việt Nam
Văn hóa ứng xử là một phần thiết yếu của văn hóa chung, mang những đặc trưng như tính biểu tượng, tính xã hội, tính tín hiệu, tính chuẩn mực, tính đánh giá, tính sáng tạo, tính nhân văn, đặc biệt là tính bản sắc và tính trường tồn Những đặc điểm này được hình thành từ điều kiện môi trường thiên nhiên, dẫn đến sự khác biệt trong cách ứng xử ở các vùng địa lý khác nhau.
Việt Nam, nằm ở Đông - Nam Á với khí hậu nóng ẩm và nhiều mưa, có hệ thống sông lớn và đồng bằng phù sa màu mỡ, rất thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp lúa nước Điều này đã định hình văn hóa Việt Nam mang tính nông nghiệp, ảnh hưởng sâu sắc đến các đặc điểm ứng xử của người dân.
Văn hóa ứng xử của người Việt mang tính cộng đồng, xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước theo thời vụ Người dân Việt Nam sống hài hòa, gắn bó với nhau để nương tựa, giúp đỡ và hỗ trợ nhau trong lao động, sản xuất và sinh hoạt hàng ngày Tính cộng đồng này đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, tính cách và bản sắc văn hóa Việt Nam, chi phối đến đời sống và các quan hệ ứng xử của người Việt.
Tính cộng đồng trong văn hóa dân tộc Việt Nam thể hiện qua truyền thống ứng xử tốt đẹp, bao gồm tinh thần đoàn kết và tương thân tương ái Những giá trị này được thể hiện rõ nét trong những câu ca dao như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”, nhấn mạnh sự gắn bó và sẻ chia trong lúc khó khăn; “Thương người như thế thương thân”, khẳng định tầm quan trọng của lòng nhân ái; “Lá lành đùm lá rách” và “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” thể hiện tinh thần hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng.
Tính cộng đồng trong văn hóa ứng xử của người Việt được hình thành từ những giá trị truyền thống như chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết và tình thương yêu lẫn nhau Qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời phong kiến Bắc thuộc đến kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sự đoàn kết của cộng đồng dân tộc Việt Nam đã thể hiện mạnh mẽ, góp phần tạo nên sức mạnh vượt trội giúp dân tộc giành chiến thắng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết chính là yếu tố then chốt, tạo ra “một làn sóng vô cùng to lớn, mạnh mẽ” để chống lại mọi thế lực xâm lược.
Hồ Chí Minh, với tư cách là một người con của dân tộc, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ đặc điểm văn hóa của mình, điều này định hình cách ứng xử của Người Trách nhiệm với cộng đồng dân tộc đã thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, và lòng yêu nước cùng nỗi trăn trở về nỗi đau của dân tộc là động lực mạnh mẽ giúp Người vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục tiêu Khi trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, Người luôn thể hiện sự tôn trọng ý kiến tập thể và cộng đồng trong quá trình làm việc và thăm hỏi nhân dân.
Người Việt Nam nổi bật với lối ứng xử trọng tình nghĩa, hình thành từ cuộc sống cộng đồng gắn bó ở làng xã Sự đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau là nguồn cội của nếp sống “trọng tình” trong truyền thống ứng xử Người dân thường gắn bó với quê hương, xây dựng mối quan hệ bền chặt qua huyết thống và hàng xóm, thể hiện quan niệm “bán anh em xa mua làng giềng gần” Lối sống giàu tình cảm này tạo ra cuộc sống hòa thuận, trong đó tình nghĩa được coi là giá trị cốt lõi, định hình mọi hành vi ứng xử: “yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”.
Người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm, xem đó là giá trị quan trọng nhất trong cuộc sống Trong gia đình, câu nói “Vợ chồng là nghĩa ở đời/Ai ơi chớ nói những lời thiệt hơn” thể hiện sự gắn bó và tôn trọng lẫn nhau Ngoài xã hội, lòng biết ơn được thể hiện qua câu: “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tri ân Điều này lý giải tại sao Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tình cảm trong lãnh đạo cách mạng, khẳng định rằng: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa”, cho thấy tình cảm và lý tưởng phải đi đôi với nhau.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc từ lối sống hài hòa, linh hoạt của người Việt Nam, đặc biệt là từ nghề trồng lúa nước, yêu cầu sự giao hòa với thiên nhiên Triết lý sống này thể hiện qua quan niệm Thiên - Địa - Nhân, cho thấy con người sống phụ thuộc vào trời đất và phải hòa đồng với môi trường xung quanh Điều này góp phần hình thành lối ứng xử lạc quan, yêu đời của Hồ Chí Minh, nhất là trong những năm tháng bị giam cầm, nơi ông đã tự an ủi bằng những câu thơ lạc quan Không chỉ hòa hợp với thiên nhiên, người Việt còn thể hiện sự linh hoạt trong quan hệ xã hội, biết cách sống hòa thuận để không làm mất lòng ai, điều này được minh chứng qua cách ứng xử của cha ông ta trong lịch sử.
Hồ Chí Minh, với tấm lòng nhân đạo và tình yêu thương con người, đã tiếp nối truyền thống ứng xử của các bậc anh hùng dân tộc, đánh thức lương tri của lính Pháp và lính lê dương từ nhiều quốc tịch khác nhau Họ đã gia nhập hàng ngũ Việt Minh, sát cánh cùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1946.
Năm 1954, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chính sách khoan hồng của Hồ Chí Minh đã tạo nên nhiều câu chuyện cảm động về tinh thần hòa hiếu, khoan dung và độ lượng của bộ đội và nhân dân Việt Nam đối với kẻ thù Để hiểu rõ những hành động này, cần nắm bắt sâu sắc đặc trưng văn hóa và truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam.
Việc chú trọng các mối quan hệ giúp người Việt Nam phát triển lối ứng xử năng động và linh hoạt, có khả năng thích nghi cao với mọi tình huống Tính linh hoạt này không chỉ thể hiện trong giao lưu văn hóa mà còn qua quá trình sàng lọc và tích lũy các giá trị văn hóa, làm phong phú thêm văn hóa ứng xử của dân tộc Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu cho sự linh hoạt trong việc tiếp thu văn hóa dân tộc và nhân loại, góp phần nâng cao văn hóa ứng xử cho mỗi người Việt Nam.
Giá trị văn hóa ứng xử của nhân loại
Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những đặc điểm văn hóa dân tộc tạo nên bản sắc "người Việt Nam" mà còn tiếp thu một cách biện chứng những thành tựu văn hóa nhân loại, từ đó hình thành văn hóa ứng xử độc đáo của chính mình.
Trước hết, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh mang cốt cách của sự ứng xử người phương Đông
Xuất phát từ một gia đình khoa bảng, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh, không chỉ là một học thuyết mà còn là sự trăn trở về số phận dân tộc Người trân trọng các giá trị tích cực của Nho giáo, đặc biệt là tư tưởng "lấy dân làm gốc", thể hiện qua câu nói nổi tiếng: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” Hồ Chí Minh cũng kế thừa phương châm ứng xử "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", nhấn mạnh tôn trọng con người và lòng yêu nước, thương dân Ông khẳng định: “Lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi”, thể hiện cam kết vững chắc của Người đối với nhân dân và nhân loại.
Hồ Chí Minh đã phát triển tình thương yêu ở một tầm cao mới, sâu sắc và toàn diện, đặc biệt dành cho nhân dân lao động và những người cùng khổ Từ tình yêu quê hương, Người mở rộng lòng yêu thương đến tất cả nhân loại đang chịu đựng áp bức và bất công Với lập trường của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh đã nâng cao tình yêu thương con người thành chủ nghĩa nhân văn cách mạng Ông khẳng định rằng, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, và trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân.
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [18;89]
Những nội dung cơ bản trong quan niệm văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
Lối sống và cách ứng xử là một phần quan trọng của văn hóa, và chân dung nhà văn hóa Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét qua văn hóa ứng xử của Người Văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh truyền thống văn hóa dân tộc mà còn mang giá trị nhân văn cao cả, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh và nhân cách vĩ đại của Người Phong cách ứng xử mẫu mực của Người đã góp phần làm phong phú thêm giá trị văn hóa ứng xử Việt Nam trong thời đại mới Đặc điểm nổi bật của văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh là sự chân thành, bình dị và tự nhiên, xuất phát từ tâm hồn lớn lao của Người Nó không phải là nghệ thuật xã giao gò ép hay những mánh khóe giả dối, mà là sự phản ánh chân thực con người Hồ Chí Minh.
Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh được thể hiện qua một số nội dung cơ bản như sau:
Một là, ứng xử với mình
Con người có nhiều mối quan hệ phong phú và phức tạp trong cuộc sống hàng ngày, được chia thành ba loại chính: mối quan hệ với người khác, mối quan hệ với công việc, và mối quan hệ với bản thân Trong số này, mối quan hệ "đối với mình" là thách thức lớn nhất, vì nó liên quan đến việc hiểu và chấp nhận chính bản thân mình.
Hồ Chí Minh thể hiện sự nhất quán trong cách ứng xử với bản thân, luôn đồng nhất giữa lời nói và việc làm, lý luận và thực tiễn, cũng như giữa quan điểm và hành động.
Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều câu chuyện cảm động đã thể hiện tấm gương nêu gương và sự kết hợp giữa lời nói và hành động Năm 1945, khi miền Bắc đang đối mặt với nạn đói, Người đã kêu gọi toàn dân tiết kiệm gạo để hỗ trợ những đồng bào đang gặp khó khăn.
Tôi khuyến nghị mọi người trên toàn quốc thực hiện việc nhịn ăn một bữa mỗi 10 ngày, tức là ba bữa mỗi tháng Số gạo tiết kiệm được từ mỗi bữa nhịn ăn, khoảng một bơ, sẽ được dùng để hỗ trợ những người nghèo khổ.
Hồ Chí Minh, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đã thể hiện sâu sắc đặc trưng văn hóa phương Đông, coi trọng hành động thực tiễn hơn lý thuyết suông Ông là tấm gương sống động, có giá trị hơn cả trăm bài diễn văn tuyên truyền, và thường giải thích lý luận qua thực tiễn và hành động cụ thể Khi thấy việc làm của mình đúng đắn, Người đã khơi dậy tinh thần và động lực cho mọi người xung quanh cùng thực hiện theo.
Sự khác biệt trong nhân cách và văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh nằm ở chỗ ông không phân biệt giữa văn hóa ứng xử cách mạng và văn hóa ứng xử đời thường Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khái quát sâu sắc về nhân cách và văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh, nhấn mạnh rằng: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà dường như thân thiết từ lâu.”
Bữa ăn hàng ngày của Bác rất giản dị, thường chỉ gồm bát canh, quả cà, lát cá hoặc miếng thịt kho, giống như bữa ăn của mọi gia đình Sau khi ăn, Bác luôn tự tay thu dọn gọn gàng, thể hiện sự tôn trọng đối với công sức của người phục vụ và là bài học về cách ứng xử trong các mối quan hệ Tư trang của Bác chỉ có hai bộ quần áo ngoài, một bộ kaki và một bộ da, cùng vài bộ đồ lót, đôi dép cao su và đôi guốc mộc Bác thường nhắc người phục vụ vá khăn mặt, vá áo lót và chiếu rách để tiếp tục sử dụng Có lần, khi tất rách chưa kịp vá, Bác đã cầm chiếc tất rách, xoay chỗ rách vào trong và nói: “Đấy có trông thấy rách nữa đâu.”
Hồ Chí Minh thể hiện sự khiêm tốn và giản dị trong mọi hành động của mình, từ cách ứng xử đến nơi ở và công việc Ông luôn lạc quan, yêu đời, thể hiện qua những bữa cơm giản dị, trang phục bình thường và đôi dép cao su đã đồng hành cùng ông trong suốt những năm kháng chiến Chính sự giản dị và tự nhiên này đã khiến nhà nghiên cứu Mỹ Đavít Hanbocxtam nhận định rằng ông tỏa ra một phong thái bình dị và tế nhị, đại diện cho một nền văn hóa không phải châu Âu mà có thể là nền văn hóa tương lai.
Phong thái bình dị và tự nhiên của Hồ Chí Minh đã tạo nên một tinh thần lạc quan, yêu đời trong cách ứng xử của Người Tính lạc quan này không chỉ phản ánh sự kiên cường và tài trí của một lão thành cách mạng, mà còn mang đến sự dí dỏm, tươi vui và trong sáng Điều này thể hiện rõ nét trong những tác phẩm thơ ca của Người.
Trong “Nhật ký trong tù”, tinh thần lạc quan và niềm tin vững chắc vào chính nghĩa của Người thể hiện rõ nét, ngay cả khi bị giam cầm Dù ở trong ngục tối, Người vẫn có thể tận hưởng giấc ngủ ngon, với những khoảnh khắc “một giấc ngủ miên man suốt mấy giờ” Chính vì vậy, Người tự nhận mình là “khách tiên trong ngục”, thể hiện sự thanh thản và kiên cường trong hoàn cảnh khó khăn.
“Tự do tiên khách trên trời,
Biết đâu trong ngục có người khách tiên” [15;317]
Tinh thần lạc quan cách mạng đã giúp Người duy trì ý chí kiên cường trong những ngày sống cực khổ và ốm đau trong ngục.
“Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh,
Nội thương đất Việt cảnh lầm than,
Trong tù mắc bệnh càng đau đắng, Đáng khóc mà là cứ hát tràn” [14;419]
Và Người đã biến những nỗi đau chịu đựng đó thành tinh thần lạc quan cách mạng cao độ:
“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn, quét sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trũ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng” [19;352]
Khi tuổi cao và sức khỏe giảm sút, Hồ Chí Minh đã viết những lời căn dặn quan trọng Năm năm trước khi qua đời, Di chúc của Người thể hiện tinh thần lạc quan về tương lai của dân tộc Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới Người khẳng định rằng: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải trải qua nhiều gian khổ và hy sinh, song nhất định sẽ đạt thắng lợi hoàn toàn.” Đây là một mẫu mực ứng xử của Người mà chúng ta có thể học hỏi từ lời nói, việc làm và thực tiễn cuộc sống cách mạng của Người.
Hồ Chí Minh được xem là một vĩ nhân nhưng luôn thể hiện sự khiêm tốn đáng quý Thái độ này phản ánh văn hóa ứng xử của Người, không bao giờ tự đặt mình cao hơn người khác hay yêu cầu sự tôn vinh Cuộc đời cách mạng và tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh đã đưa Người trở thành một trong những nguyên thủ quốc gia có uy tín trên thế giới Trong các cuộc tiếp xúc, Người luôn ẩn mình, quan tâm đến mọi người xung quanh và khẳng định rằng "chinh phục trái tim mọi người không phải bằng lý luận cao siêu mà bằng cuộc sống giản dị, khiêm tốn" Hồ Chí Minh đã làm nảy nở tình hữu ái và sự hiểu biết giữa con người, để lại cho chúng ta niềm vinh dự khi được tiếp xúc với một phần lịch sử châu Á, một con người từng trải giúp chúng ta trở nên tốt đẹp hơn.
Sự khiêm nhường và nhã nhặn trong văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh được thể hiện qua nhiều hành vi trong cuộc đời hoạt động của Người Dù là lãnh tụ dân tộc, Người vẫn xưng hô là "cháu" với cụ Phụng Lục, một cụ lão cứu quốc ở huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, người đã tích cực tham gia kháng chiến và thực hành đời sống mới, đồng thời động viên con cháu tham gia vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.