BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 --- ĐÀO DUY TUYÊN NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CẬN LÂM SÀNG VÀ CĂN NGUYÊN VI SINH TRONG ĐỢT CẤP CỦA
TỔNG QUAN
Định nghĩa và dịch tễ bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Trước khi có những định nghĩa rõ ràng về BPTNMT, đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau do sự không thống nhất về thuật ngữ, gây khó khăn trong chẩn đoán và xác định đặc điểm dịch tễ học Năm 1992, Tổ chức Y tế thế giới đã thống nhất sử dụng thuật ngữ BPTNMT trong chẩn đoán và thống kê bệnh tật Từ năm 1995, thuật ngữ này đã trở nên phổ biến toàn cầu, dẫn đến sự ra đời của nhiều định nghĩa khác nhau về BPTNMT Đặc biệt, năm 1998, Tổ chức Y tế thế giới đã khởi xướng sáng kiến toàn cầu về BPTNMT (GOLD), từ đó cung cấp các định nghĩa và hướng dẫn chi tiết về chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh này.
Gần đây, định nghĩa mới về BPTNMT (2023) của GOLD đã có một số thay đổi quan trọng, không còn đề cập đến tính phổ biến, khả năng phòng ngừa và điều trị của bệnh, cũng như vai trò của bệnh đồng mắc Theo định nghĩa mới, BPTNMT được mô tả là một tình trạng bệnh lý phổi không đồng nhất, đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp mạn tính như khó thở, ho, khạc đờm, cùng với những đợt cấp do bất thường ở đường thở (viêm phế quản, viêm tiểu phế quản) và/hoặc phế nang (khí phế thũng), dẫn đến tắc nghẽn đường thở dai dẳng và thường tiến triển.
GOLD 2023 giới thiệu khái niệm “tiền BPTNMT”, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhận diện các tình trạng lâm sàng phù hợp với định nghĩa, nguyên nhân và yếu tố nguy cơ Đặc biệt, sự chú ý được đặt vào giới hạn thông khí không hồi phục hoàn toàn, được đánh giá qua chỉ số FEV1/FVC.
Khi đo thông khí phổi (TKP), nếu chỉ số FEV1/FVC dưới 0,7 sau test hồi phục phế quản, bệnh nhân sẽ được chẩn đoán xác định là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) Tuy nhiên, một số trường hợp có thể biểu hiện tổn thương cấu trúc phổi như khí phế thũng (KPT) hoặc các bất thường sinh lý như FEV1 thấp, căng giãn phổi quá mức, và giảm khả năng khuếch tán mà không có tắc nghẽn luồng khí Những trường hợp này được gọi là "tiền BPTNMT" Thuật ngữ "PRISm" được sử dụng cho những người có tỷ lệ FEV1/FVC bình thường nhưng có các chỉ số TKP bất thường khác Những đối tượng mắc "tiền BPTNMT" hoặc "PRISm" có nguy cơ cao tiến triển thành BPTNMT, tuy nhiên không phải tất cả bệnh nhân đều sẽ phát triển đến giai đoạn này.
BPTNMT là một bệnh lý phổ biến toàn cầu với tỷ lệ mắc ngày càng tăng Các nghiên cứu từ nhiều quốc gia cho thấy sự khác biệt trong quan niệm về bệnh này, dẫn đến sự khác nhau trong thống kê tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong liên quan đến BPTNMT.
1.1.2.1 Trên thế giới Ở Châu Âu, ước tính tỷ lệ mắc BPTNMT từ 23-41% ở người nghiện thuốc lá, tỷ lệ nam/nữ là 10/1 Ở Mĩ La-tinh tỷ lệ BPTNMT khoảng 18,3-32,1% ở người trên 60 tuổi Tỷ lệ mắc BPTNMT có xu hướng gia tăng mạnh năm
Tính đến năm 2000, khoảng 10 triệu người Mỹ đã được chẩn đoán mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT), nguyên nhân dẫn đến 8 triệu lượt khám ngoại trú và 1,5 triệu lượt cấp cứu hàng năm Đến năm 2017, số người mắc BPTNMT tăng lên khoảng 15,7 triệu, chiếm 6,4% dân số BPTNMT gây ra khoảng 160.000 ca tử vong mỗi năm, đứng thứ tư trong số các nguyên nhân gây tử vong Ước tính, đợt cấp BPTNMT gây 110.000 trường hợp tử vong và hơn 500.000 ca nhập viện hàng năm, với chi phí trực tiếp khoảng 18 tỷ đô la Tại Pháp, nghiên cứu của Roche N và cộng sự (2005) cho thấy tỷ lệ BPTNMT ở người trên 45 tuổi là 8,4%, trong đó tỷ lệ ở nam giới là 10,6% và ở nữ giới là 6,7%.
[11] Dự báo theo mô hình dịch tễ BPTNMT, đến năm 2025, tỷ lệ mắc
Tại Pháp, tỉ lệ BPTNMT dự kiến sẽ gia tăng đáng kể, đặc biệt trong nhóm GOLD 3-4 với mức tăng gấp 4 lần, trong khi nữ giới sẽ tăng 23% và nhóm người trên 75 tuổi sẽ tăng 21% Một nghiên cứu được thực hiện tại 12 quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2003 cho thấy tần suất BPTNMT ở người trên 30 tuổi là 6,3% Tại Trung Quốc, một nghiên cứu đã được tiến hành trên 20.245 đối tượng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở người từ 40 tuổi trở lên tại 7 tỉnh và thành phố, tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT) là 8,2%, trong đó nam giới chiếm 12,4% và nữ giới 5,1% Tỷ lệ mắc BPTNMT cao hơn ở khu vực nông thôn, những người có tiền sử hút thuốc, người lớn tuổi, có chỉ số BMI thấp, tiếp xúc với bụi nghề nghiệp hoặc nhiên liệu sinh khối, cũng như những người có tiền sử bệnh phổi trong thời thơ ấu.
Việt Nam có tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) cao nhất trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đạt 6,7% trong cộng đồng dân số trên 40 tuổi Từ năm 1996 đến 2000, Bệnh viện Bạch Mai đã ghi nhận 3.606 trường hợp mắc bệnh này.
Tại khoa Hô hấp, 25,1% bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) khi ra viện, trong đó 15,7% có chẩn đoán tâm phế mạn Năm 2010, nghiên cứu của Đinh Ngọc Sỹ và cộng sự cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT toàn quốc ở mọi lứa tuổi là 2,2%, với tỷ lệ mắc ở nam giới cao hơn nữ giới (3,4% so với 1,1%) Đặc biệt, tỷ lệ mắc BPTNMT ở người trên 40 tuổi là 4,1%.
Tại độ tuổi 40, tỷ lệ mắc bệnh BPTNMT chỉ là 0,4% Có sự chênh lệch rõ rệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ, với tỷ lệ lần lượt là 7,1% và 1,9% (p 0,05.
3.1.1.3 Triệu chứng lâm sàng ở 2 nhóm người bệnh nghiên cứu
Bảng 3.4 Thời gian mắc bệnh của 2 nhóm người bệnh nghiên cứu
Số NB Tỷ lệ (%) Số NB Tỷ lệ (%) p
Thời gian mắc bệnh trung bình của nhóm nghiên cứu là 7,23 ± 4,38 năm, trong khi nhóm II là 7,21 ± 5,62 năm, không có sự khác biệt ý nghĩa với p>0,05 Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh kéo dài từ 10 năm trở lên ở nhóm I là 38,04%, cao hơn so với 23,61% ở nhóm II Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bệnh nhân theo thời gian mắc bệnh giữa hai nhóm với p>0,05.
Bảng 3.5 Đặc điểm số đợt cấp nhập viện/1 năm gần nhất của 2 nhóm người bệnh nghiên cứu
Số đợt cấp nhập viện/1 năm gần nhất
Trong nghiên cứu, số đợt cấp nhập viện trung bình mỗi năm ở nhóm I là 2,72 ± 0,93 và ở nhóm II là 2,61 ± 0,95 Phần lớn bệnh nhân đều trải qua nhiều đợt cấp trong năm, với tỷ lệ bệnh nhân có 3 đợt cấp nhập viện trong năm gần nhất cao nhất ở nhóm I (58,70%) và nhóm II (47,83%) Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm khi so sánh tỷ lệ bệnh nhân theo số đợt cấp nhập viện trong năm gần nhất (p > 0,05).
Bảng 3.6 Tiền sử dùng ICS của 2 nhóm người bệnh nghiên cứu Đặc điểm
Nhóm II (nF) So sánh
Số NB Tỷ lệ (%) Số NB Tỷ lệ (%) p
Sử dụng ICS chiếm tỷ lệ cao ở cả nhóm I (54,35%) và nhóm II (58,70%), tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ lệ sử dụng ICS giữa hai nhóm này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.7 Đặc điểm BMI của 2 nhóm người bệnh nghiên cứu Đặc điểm
Số NB Tỷ lệ (%) Số NB Tỷ lệ (%) p
Thang điểm toàn trạng của NB: BMI trung bình ở nhóm I (20,51 ± 3,16) không có sự khác biệt có ý nghĩa so với nhóm II (21,46 ± 2,86), tuy nhiên tỷ lệ
NB thiếu cân ở nhóm I (27,17%) cao hơn có ý nghĩa so với nhóm II (10,87%) với p