1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận tốt nghiệp Ngữ văn: Giới thiệu, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải 20 bài thơ Vịnh cảnh kinh đô trong 'danh biên tập lục"

122 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giới thiệu, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải 20 bài thơ vịnh cảnh kinh đô trong 'danh biên tập lục'
Tác giả Trịnh Nguyệt Y Phương
Người hướng dẫn Th.S Huỳnh Văn Minh
Trường học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Hán Nôm
Thể loại Khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2023
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 122
Dung lượng 65,34 MB

Nội dung

Năm 2016, luận văn Thạc sĩ có tên “Tim hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Hàm Ninh” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bich Dao đã đề cập đến tình hình văn bản cũng như đề cập vẻ số lượng bài thơ trong phầ

Trang 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHAM THÀNH PHO HO CHÍ MINH

KHOA NGU VĂN

Trinh Nguyét Y Phuong

“DANH BIEN TAP LUC”

KHOA LUAN TOT NGHIEP

Thanh phố Hà Chi Minh — 2023

Trang 2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRUONG ĐẠI HỌC SƯ PHAM THÀNH PHO HO CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

Trịnh Nguyệt Y Phương

GIỚI THIỆU, PHIÊN AM, DỊCH NGHĨA, CHÚ GIẢI

20 BÀI THƠ VINH CANH KINH ĐÔ TRONG

“DANH BIEN TAP LUC”

Chuyên nganh =: Han Nom

Mã số sinh viên : 4501601101

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP

NGƯỜI HUONG DAN KHOA HOC:

Th.S HUYNH VAN MINH

Thanh phố Hỗ Chí Minh — 2023

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng chúng tôi,

không sao chép của bat cứ ai Mọi kết qua của công trình đều chưa từng được công bố ở bat kì công trình nào Kết qua nghiên cứu hay ý tưởng của tác giả khác đều được trích

dẫn và ghi nguồn day đủ trong công trình

Chúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những điều mà chúng tôi đã cam đoan

ở trên.

Thanh pho Ho Chi Minh, ngày tháng năm 2023

Sinh viên thực hiện khóa luận

Trịnh Nguyệt Y Phương

Trang 4

LỜI CÁM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn trường Đại học Sư phạm Thành phó Hồ Chí Minh, Phòng

Đào tạo, Khoa Ngữ Van vì đã hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn Th.S Huỳnh Văn Minh đãhướng dẫn tận tình trong quá trình làm cũng như hoàn thiện Khóa luận tốt nghiệp

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm vì đã giúp đỡ tôi về

mặt tư liệu làm bài.

Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn tới tat cả những người bạn, người thân đã ủng

hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện Khóa luận tốt nghiệp.

Thanh pho Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2023

Tác giả khóa luận

Trịnh Nguyệt Y Phương

Trang 5

0.6 — Cấu trúc khóa luận 4

Chương 1: GIỚI THIEU 20 BAI THƠ VỊNH CANH KINH ĐÔ TRONG “DANH

BIEN TAP LUC” 5

1.1 Hoan cảnh lịch sử - xã hội vả tinh hình văn học thé ký XIX 5

1 1 1 Hoan cảnh lich sử - xã hội 5

Chương 2: PHIÊN ÂM, CHÚ GIẢI 20 BÀI THƠ VỊNH CẢNH KINH ĐÔ

TRONG “DANH BIEN TAP LUC” 21

2.1 Nguyễn Hàm Ninh 21

Trang 6

2.1.1 Cao lâu thắng thưởng - #‡#Jl§ šf

Lương ta tinh ba — ji Aix

Tam phong sáp vân - = fie

Lý Văn Phức

1 Cao lâu thắng thưởng — fh RABEL

Quảng hạ dam văn — F/B BE

Hiên lan hoa lộ — BFR AER

Trai dũ tịch hà — AE ti 47 #5

Sơn đình mai vũ — 1lJ:§*f 5

Thủy các hà phong — 7k đ lí Thanh trì hương luyện — 3Ÿ⁄ìb###

Lương tạ tinh ba — 2 AER ÈÈ

Song kiêu gia nguyệt — “ |ƒ§ 2ˆ F]

Nguyễn Trung Mậu

.1 Cao lâu thưởng thing - #*#{##

Trai dũ tịch hà — #ÝÑ@ 4 #5

Lương tạ tình ba - 3 ARNE

31 33 35 37 37 39

41

43

46

48 50 51 53 53 55 57

Trang 7

Chương 3: ĐÓNG GÓP CỦA 20 BÀI THƠ VỊNH CẢNH KINH ĐÔ TRONG

“DANH BIEN TAP LUC” 61

3.1 Déng góp về mặt nội dung 61

3.1.1 Cảnh đẹp ở vườn Thường Mau 6l

3.1.2 Tam lòng tận trung với đất nước 70

3.2 Đóng góp về mặt nghệ thuật 73

3.2.1 Thê thơ 73

3.2.2 Điển cố, điển tích 76KÉT LUẬN 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO 81

PHU LUC 85

PHU LUC 2 99

PHY LUC 3 100

Trang 8

MỞ ĐÀU

0.1 Lí đo chọn đề tài

Xã hội ngày càng phát triển thì việc tìm về những giá trị văn hóa xưa càng trở

nên cấp thiết Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đù là tình nguyện

giao lưu hay việc “đồng hóa" thi văn hóa Việt Nam đã có một thời gian rất dài gắn

liền với chữ Hán, đặc biệt là đối với văn chương Van đẻ tìm và dịch lại thơ văn chữ

Hán của các bậc tiền nhân trở nên cấp thiết và được đặt ra trong nhiều năm Đã có rấtnhiều người đã bắt tay vào công cuộc sưu tầm cũng như dịch thuật thơ văn chữ Hánqua từng thời đại như: thơ văn Lý - Tran, thơ văn triều Lê hay gân nhất là thơ văn

dưới triều Nguyễn Tuy nhiên với một khối lượng tác phầm văn học đô sộ như vậy thì việc sưu tam, khảo cứu cũng gặp nhiều van đẻ khó khăn vì nhiều lý đo như mat

mat do chiến tranh, hư hỏng do thời gian bảo mòn vậy nên vẫn còn rất nhiều tác

phẩm chưa được khảo cứu, chưa được chú ý đến.

Vì nguyên nhân ấy cũng như với mong muôn tìm hiéu về ngôn ngữ — văn tự cô.

mà cụ thê ở đây là chữ Hán thông qua các văn bản thi ca; cùng với việc vận dụng kiến thức Hán Nôm va liên ngành đẻ phiên âm dịch nghĩa, chú giải những tác phâm thơ van chữ Hán của các bậc tiền nhân vốn đã được sưu tam nhưng chưa qua khảo cứu, chú giải, và qua đó có thé đóng góp thêm một phan nào đó trong việc giới thiệu

thơ ca chữ Hán một thời của cha ông vốn it được mọi người ngày nay quan tâm đẻ ý

đến, thiết nghĩ, đó cũng là sự cấp thiết và cũng là những lí do của việc chọn đề tài.

Đồng thời, cũng dé bản thân, đồng nghiệp và những người quan tâm, có cơ hội décủng có và nâng cao khả nang cảm nhận va tiếp cận tác phâm văn học nói chung vàtác phẩm văn học chữ Hán nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả cho các công việc liên

quan sau này.

“Danh biên tập luc” là tác phẩm tông hợp biểu, chiều, thơ văn của vua tôi đướitriều Minh Mệnh Nhà Nguyễn đã dé lại nhiều công trình kiến trúc có giá trị cả về

lịch sử lẫn văn hóa rất lớn Vậy nên, việc chọn 20 bai thơ vịnh cảnh kính đô trong tac

phẩm đẻ giới thiệu, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải mong muôn có thé giới thiệu phan

Trang 9

nào vẻ cảnh dep cũng như tai năng làm tho của các tác giả, nhất là triều thần thời nhà

Nguyễn.

0.2 Lịch sử nghiên cứu

“Danh biên tập lục” còn khá xa lạ, được nhắc đến không nhiều trong giới

nghiên cứu Vẻ tinh hình văn ban, tác phẩm hiện được lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm mang ký hiệu A.369, gồm 53 tờ, 116 trang, khỏ 21x3lem, chép thơ,

văn, biêu, tấu của vua tôi triều Nguyễn như: Vua Minh Mệnh Nguyễn Trung Mậu

Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức, Trong phan thơ vịnh thập cảnh kinh thành có 40 bải thơ của 4 nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức, Nguyễn Trung Mậu, Trương

Quốc Dụng.

Năm 2016, luận văn Thạc sĩ có tên “Tim hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Hàm

Ninh” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bich Dao đã đề cập đến tình hình văn bản cũng như

đề cập vẻ số lượng bài thơ trong phần thơ vịnh thập cảnh kinh thành của Nguyễn Hàm

Ninh là 10 bài.

Năm 2020, trong “Nghiên cứu Hán Ném” , thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Đào đã

giới thiệu về vườn Thường Mậu cũng như 10 bài thơ vịnh cảnh tại khu vườn này của

nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh.

Đến nay ngoài 10 bài thơ của tác giả Nguyễn Hàm Ninh đã được Thạc sĩ Nguyễn

Thị Bích Đào giới thiệu thì vẫn chưa thé tìm thêm công trình nghiên cứu cụ thé nào

liên quan đến tác phẩm “Danh biên tập lục” và những bài thơ còn lại thuộc phan vịnh

cảnh kinh thành trong tác phẩm Tuy nhiên, nếu trong quá trình nghiên cứu (hoặc về sau này) có tìm thêm được những van đẻ liên quan đến dé tai, chúng tôi sẽ b6 sung.

0.3 Mục đích nghiên cứu

Khóa luận mong được góp một phần nhỏ trong việc gìn giữ thơ văn chữ Hán

của các bậc tiền nhân để lại nhưng chưa được khảo cứu, phiên dịch cũng như giới

thiệu với độc giả công chúng.

Trang 10

Bên cạnh đó, đề tài cũng muốn đóng góp thêm một tài liệu tham khảo thuộc chuyên ngành Hán Nôm, tạo ra một nguồn ngữ liệu văn học dé có thé phục vụ cho

những nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt sau này.

0.4 Phạm vi nghiên cứu

Pham vi nghiên cứu của đề tài Giới thiệu, phiên âm, chú giải 20 bài thơ vịnh

cảnh kinh đồ trong “Danh biên tập lục ” là giới thiệu, phiên âm và chú giải 20 bài thơ

trên tông số 40 bai thơ thuộc phần thập cảnh kinh thành Với thời lượng thực hiện

khóa luận cho phép, cũng như xét khả năng của bản thân, về phạm vi khảo cứu và

chú giải, chúng tôi lựa chọn phân nửa trong số 40 văn bản nêu trên, và ưu tiên lựachọn những bài thuộc thé thơ thất ngôn bát cú (thơ thất ngôn bát cú có 30 bài của ba

nhà thơ: Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức và Nguyễn Trung Mậu còn 10 bài còn lại

là thơ ngũ ngôn của tác giả Trương Quốc Dụng) 20 bài thơ này cũng phải được lựa chọn ngẫu nhiên mà là đã thông qua bước lược khảo 40 văn bản đã có thẻ chọn ra những bài có ít sai sót, chỉnh sửa về mặt nội dung cũng như nghệ thuật.

Ngoài việc phiên âm, chú giải thi chúng tôi cũng sẽ trình bày sơ lược vẻ nội dung và nghệ thuật của 20 bải thơ vịnh cảnh dé khóa luận hoàn thiện hơn.

0.5 Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp

sau:

Phương pháp liên ngành: Lịch sử: tra cứu vẻ lịch sử thời đại, lịch sử văn học;

tra cứu điền tích, điền có

Phương pháp nghiên cứu văn bản: Dựa trên văn bản chữ Hán của 20 bài thơ da được lựa chọn, từ đó phiên âm, chú giải và dịch nghĩa các bài thơ.

Phương pháp tong hợp: Tổng hợp nhiều nguồn tài liệu có liên quan đến văn bản

để tạo nên nhiều phương điện đẻ tim hiểu văn bản dé dang hon.

Trang 11

0.6 Cấu trúc khóa luận

Đề tài ngoài phan mục luc, mở dau, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì phan nội dung chính được chia thành 3 chương trình bày những van đề sau:

Chương 1: Giới thiệu 20 bài thơ vịnh cảnh kinh đô trong “Danh biên tập

luc”: khái quát những thông tin cần nắm về tác phẩm lớn “Danh biên tập lục” cũng như về 20 bai thơ trong phan vịnh cảnh kinh đô dé có thé tiếp cận sâu thêm.

Chương 2: Phiên âm, chú giải 20 bài thơ vịnh cảnh kinh đô trong “Danh

biên tập lục”: nhiệm vụ chính của đề tài; phiên âm, dịch nghĩa và chú giải cụ thẻ về

20 bài thơ.

Chương 3: Đóng góp của 20 bài thơ vịnh cảnh kinh đô trong “Danh biên

tập luc” : phần mở rộng của đề tài với mục đích lam rõ thêm về giá trị của 20 bài thơ qua vai điểm tiêu biêu trong nội dung và nghệ thuật.

Trang 12

Chương 1:

GIỚI THIỆU 20 BÀI THƠ VINH CANH KINH ĐÔ TRONG

“DANH BIEN TAP LUC”

1.1 Hoàn cảnh lich sử - xã hội va tình hình văn học thế kỷ XIX

1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử - xã hội

Sau khi đánh bại quân Tây Sơn, vào ngày 1 tháng 6 năm Nhâm Tuắt (tức năm

1802), Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng dé, tự lay niên hiệu là Gia Long lập ra nhà

Nguyễn — triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam và đời Kinh đô về Phú Xuân

(Huế) Dat nước lúc nay đã được thông nhất cả Dang Trong và Dang Ngoài cũ và đâycũng là lần đầu tiên trong lịch sử có một triều đại trị vì lãnh thỏ đất nước kéo dài từ

Ai Nam Quan cho tới Mũi Ca Mau Năm 1803, Gia Long đã cứ sứ bộ sang nhà Thanh xin quốc hiệu, đến đầu năm 1804 thì được nhà Thanh cho quốc hiệu và đôi là Việt Nam; thế nhưng trước sự phản đối của nhân dân, ít lâu sau Gia Long đã lấy lại quốc

hiệu là Đại Việt Tuy nhiên đến năm Mậu Tuất 1838, vua Minh Mệnh đổi tên quốc

hiệu là Đại Nam, và cam nhân dân nhắc đến hai chữ Đại Việt.

Là triều đại phong kiến cuỗi cùng của Việt Nam, nhà Nguyễn ra đời khi nên

phong kiến nước nhà đã mục ruỗng và bước vào tình trạng suy vong Chính vì lẽ ay

ma đù rằng đã thừa hưởng tat ca những thành quả từ triều đình Tây Sơn thé nhưng đất nước dưới sự trì vì của triều đình nha Nguyễn thì lại chang phat trién, nguge lai

còn ngày càng đi xuống Thế nhưng không phải nhà Nguyễn không dem lại đóng góp

gi, nhìn về lich sử để suy xét công bằng thì thay rằng nhà Nguyễn đã có công lớn

trong việc khai phá lãnh thỏ (mở rộng phía Nam tới tận Đồng bằng sông Cửu Long); tiếp nhận thành công từ triều Tây Sơn trong công cuộc thống nhất Dang Trong vả

Đàng Ngoài, thông nhất đất nước Ngoài ra thì Nhà Nguyễn cũng vô cùng chú trọngtới việc mở khoa thi cử dé tuyên chọn nhân tài, tuy rằng quy định khoa cử có nhiềubat cập thé nhưng nhân tai dưới triều Nguyễn bước ra từ các khoa thi không hè it; vi

như 8 tiễn sĩ đầu tiên của triều Nguyễn (Nguyễn Ý, Lê Quang, Phan Hữu Tính, Hà

Tôn Quyên, Dinh Văn Phác, Vũ Đức Khuê, Phan Ba Dat và Trần Lê Hiệu Bên cạnh

đó có một điều cần phải công nhận rằng di sản dưới thời nhà Nguyễn có giá trị rất

Trang 13

lớn, nhất là di sản về kiến trúc có thé kế đến là cổ đồ Huế Phong cảnh nền thơ hữu tình của vùng đất cô đô cùng với việc ra sức xây dựng những công trình kiến trúc của vua Nguyễn đã góp phần tạo nên những di sản văn hóa cũng như kiến trúc đề lại cho

đời sau Nói về vẻ đẹp từ thiên nhiên cho đến vẻ đẹp kiến trúc xây dựng thì cần điểm

đến tác phâm New đề đỗ hội thi tập của vua Thiệu Trị Trong tác phâm vua đã viết tho và vẽ tranh đề vịnh hai mươi cảnh đẹp nhất trong kinh thành (Than kinh nhị thập

cảnh — 20 cảnh đẹp chốn Than kinh) Mặc dù theo thời gian cũng như biến chuyên

của lịch sử đã làm mai một, phá hủy đi phần nào những cảnh đẹp lúc bấy giờ hay

thậm chí là làm triệt tiêu đi những thắng cảnh ấy; thế nhưng vẫn không thê phú nhận

được công sức đóng góp di sản của triéu đình nhà Nguyễn đôi với văn hóa nước nhà.

Dat nước dưới thời nhà Nguyễn không hè phát triển ngược lại còn tệ hơn so với

những triéu đại trước Các vua triều Nguyễn thì chỉ có chú tâm vun vén cho dòng tộc chuyên quyền mà chăng thé làm gì cho dan khiến cho din chúng rơi vào thảm trạng

đói nghèo, khô sở vì những chính sách hà khắc; các vua lại ra sức truyền bá va dé cao

Tổng Nho, như Tự Đức đã dem “/0 điều huấn du” của vua Minh Mệnh dé soạn thành

“Thập điều điển ca” Chưa kê, khi lên ngôi, Gia Long đã trả thù nhà Tây Sơn man rg(với Bùi Thi Xuân, Trần Quang Diệu, ấu dé Nguyễn Quang Toản); mặc dù Gia Longlấy cớ rằng “trả thù chín đời” nhưng lòng đân vẫn không phục Chính vì những lẽ ấy

đã tạo nên mâu thuần giữa người cầm quyên và người bị trị: và như một lẽ tất yêu của

xã hội, khi mâu thuẫn đạt đến đỉnh điểm thì đấu tranh sẽ bùng nd Dat nước trước đó

đã trải qua nỗi đau chia cắt Dang Trong - Dang Ngoài thì chi qua một thời gian yênbình ngắn ngủi dưới triều đại Tây Son, đất nước lại tiếp tục lâm vào tình trạng nộichiến đã xảy ra liên miên với những cuộc dau tranh cúa nhân dân Chi trải qua bốn

triéu vua (Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Tri, Tự Đức), đất nước đã có hơn 300 cuộc khởi nghĩa nhân dan, nhất là đưới thời vua Minh Mệnh đã có tam 200 cuộc khởi nghĩa Những cuộc khởi nghĩa diễn ra lúc dau thì vừa và nhỏ nhưng dan phát trién lên to lớn

như của Lê Duy Khôi ở Gia Định (1833-1835), Lê Duy Lương ở Thanh Hóa

(1831-1833), Nùng Văn Vân ở Cao Bằng — Lạng Sơn (1833-1835) hay cuộc khởi nghĩa gâynguy hiểm đến triều đình của Phan Bá Vành ở Sơn Nam (1821-1827) Các cuộc khởi

Trang 14

nghĩa liên tục điển ra, lớn có nhỏ có chứng tỏ rằng thời kì xã hội khi ấy vô cùng rối

ren, vua quan không thé lay được lòng dân và càng chăng thé chăm lo cho dan chúng

đúng mực Chưa dừng lại mâu thuẫn trong nước với nhân dân, vua triều Nguyễn lại

tiếp tục đưa ra những chính sách ngoại giao độc đoán “bế quan tỏa cảng”, cam người

phương Tây vào truyền đạo; chính vì như vậy mà nhà Nguyễn đã góp phần không hề

nhỏ đến việc đánh mat dat nước vào tay Đề quốc Pháp

1.1.2 Tình hình văn học

Không giống với tình hình xã hội, văn học dưới thời nhà Nguyễn lại phát triển

cực thịnh với nhiều thành tựu vô cùng to lớn ở nhiều máng từ thơ ca tới văn phú Vớimục đích “chan hưng văn tri”, thời kỳ này đã được đánh giá là thời kỳ văn học thịnhvượng nhất cả về chữ Nôm lẫn chữ Hán khi mà không chỉ xuất hiện nhiều nha tho,

nhà văn mà các tác pham dé lại dén đời sau vô cùng đô sô và phong phú.

Văn học gắn liền với thời đại, dùng văn học dé thé hiện thời đại vậy nên khi đứng trước sự biên thiên của lịch sử, trước những thay đôi của thời đại đã tạo ra rất nhiều trào phái, luỗng văn học mới Văn học mang chủ nghĩa nhân đạo được phát triển thịnh hành nhất, bởi lẽ chính sự trong nước rồi ren, phiên hà là cho lòng dân t

oán hận; đứng trước thời thế chuyền van liên tục từ cuộc chiến Dang Trong - Dang

Ngoài của chúa Trịnh — chúa Nguyễn, lại chịu sự áp bức của triều đình hậu Lê thối nát; chỉ mới trải qua may chục năm yên bình đưới triều Tây Sơn thì nhân dân lại tiếp tục phải đưới ách thống trị có hủ của triều đình nhà Nguyễn đã khiến cho lòng dân oán hận vì sưu cao thuế nặng, vì chính sách cai trị không hợp lòng dân; vì tam cương ngũ thường bị đạp đô, con người bị chà đạp không thương tiếc: vì cái xã hội rồi ren

như thể, nhà thơ nhà văn đã hướng ngòi bút về thực tế, viết nên những câu văn câuthơ đánh vào xã hội Tiêu biểu có thé kê đến là tác phẩm Phản thúc ước của Nguyễn

Hàm Ninh, Doc da của Cao Bá Quát, Da Vii cam tác của Phạm Nguyễn Du, Không

chỉ ở thơ, ở phú và ngay cả truyện thơ Nôm cũng không nằm ngoài dòng chảy của

văn học với sự góp mặt của nhiều tác phẩm tiêu biểu như Nhi độ mai điển ca, Pham

Trân Cúc Hoa

Trang 15

Không chi phê phán hay chê trách xã hội phong kiến lúc bay giờ, văn học vẫn

tiếp nhận luỗng tư tưởng ca ngợi giai cấp thống trị - triều đình nhà Nguyễn lúc bay

giờ với nhiều tác phẩm khác nhau: Nev chế tiểu bình tặc khấu thi tập của vua Minh

Mệnh, Dai Nam quốc sử diễn ca, Dưới thời nhà Nguyễn, cảm hứng thi ca lan truyền

đi khắp noi, nhiều danh xưng cũng được xuất hiện cho cả vương hau, công chúa chứ

không riêng gì các thi sĩ; ví dư “Tam Khanh nhà Nguyễn” bao gồm ba công chúa nhà

Nguyễn có tự là “Khanh”: Nguyệt Đình (tự Trọng Khanh), Mai Am (tự Thúc Khanh), Tĩnh Hòa (tự Quý Khanh); các vị vua nhà Nguyễn như Minh Mệnh, Thiệu Trị cũng

làm rất nhiều bai thơ, đều dé lại bài ngự chế hay vua Tự Đức nỗi tiếng trên diễn đàn

văn học.

Thế nhưng, xét trong tình hình thực tế xã hội lúc bay giờ, việc có nhiều nha thơ,

nhà văn chi chú trọng đến mang văn chương như vậy cũng không thực sự là hay đối

với vận mệnh nước nhà Các cuộc khởi nghĩa diễn ra liên miễn, nhân dan đói khô lam

than mà lại chú tâm quá nhiều vào thơ văn từ vua chúa đến quan lại, mà phần nhiều

lại là thơ ngự chẻ ca ngợi công đức thiên triều; há chăng phải chuyện cười hay sao?

Nhưng nếu xét trên phương diện khoa cử, học thuật thì cũng có những thành tựu đáng

ghi nhận Gần như chưa có triều đại nào tô chức khoa thi đều đặn như nhà Nguyễn.

Đặc biệt, thời Tự Đức còn mở thêm cả “An khoa” dé tuyên chọn nhân tài Trên thiđàn lúc bấy giờ cũng không ít người đã khăng định được vị trí của mình trong dòngchảy văn học dân tộc Do vậy, đến vua Tự Đức cũng phải thốt lên: “Van như Siêu,Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Duong” (Đỗ Bằng Đoàn & Đỗ Trọng

Hẻ, 1962)

1.2 Tác giả đóng góp

1.2.1 Nguyễn Hàm Ninh

a Cuộc doi

Nguyễn Hàm Ninh J3 (1808 — 1867) tự là Thuận Chi "i hiệu Tinh Trai

*$2% và Nhâm Son 71, người ở làng Phù Ninh Sau nay ông dời đến làng Trung

Ái, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là làng Trung Thuan, xã Quang Lưu,

Trang 16

huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) Ông xuất thân từ gia đình nhà nông nghèo nhưng gia đình vẫn gang sức cho anh em ông đi hoc, vậy nên ba anh em ông đều đỗ

dat Em trai ông là Nguyễn Hàm Trực (vốn tên là Nguyễn Hàm Nghỉ, nhưng sau vì

kj hay nên đôi thành Nguyễn Hàm Trực) đỗ cử nhân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị nguyên niên (1841), được bỏ ra làm tri huyện huyện Hưng Nguyên Em trai còn lại của ông

là Nguyễn Hàm Trạch cũng đỗ tú tài năm Bính Ngọ, năm Thiệu Trị thứ 6 (1846).

Năm Kỷ Sửu, Minh Mệnh thứ 10 (1829) Nguyễn Hàm Ninh đỗ Tú Tài: đến

năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) vào khoa thi Tân Mão, ông đỗ thủ khoa kỳ thi Hương

ở trường Thừa Thiên Ông làm quan qua ba đời vua Minh Mệnh — Thiệu Trị — Tự

Đức với nhiều chức vụ khác nhau Ngay sau khi đỗ thủ khoa, Nguyễn Hàm Ninh

được giữ lại dạy học ở Quốc tử giám; năm 1833 thì được phái đi làm Tri huyện Lục

Ngạn (Bắc Giang), nhưng làm được một thời gian ngắn thì về quê chịu tang cha; đến năm 1836, ông được triều đình mời ra làm Quốc học độc thư day cho Thái tử Nguyễn

Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Tri sau này) lam được một thời gian vì gièm pha

phải thôi việc, tới năm 1838 đang làm Chủ sự Phủ Tôn Nhân vì mắc lỗi mà vua Minh

thuyền buôn Tây Dương bắt 10 ngày, Thiệu Tri qué rằng ông đã làm mat quốc thé

nên bị phạt cách chức, phát vãng đến 2 thành Điện Hai, An Hải (Đà Nẵng) làm sung

quan; thé nhưng chỉ sau vai ngày ông đã được cử làm Trai đàn hiệu lực tại chùa Thiên

My; cùng trong năm 1847, Nguyễn Hàm Ninh được phục chức Han lâm viện Trước

tác làm trong sở Tu thư Tự Đức nguyên niên, ông cáo lão về quê, ông hành nghé bốcthuốc chữa bệnh và cả dạy học, sau đó mat năm 1868, thọ 60 tuôi

b Sự nghiệp văn học

Trang 17

Sinh thời, ông là người tài cao, là bạn thân của Cao Bá Quát và Tùng Thiện

Vương Mién Thâm, ông còn làm thơ cũng với “Tam Khanh”; tai tho ca của ông vốn

nức tiếng nơi Kinh kì Tác phẩm của ông dé lại rat nhiều cả ở chữ Hán lẫn chữ Nom,tuy nhiên theo thời gian thì nhiều tác phẩm đã bị mat đi Tác phẩm chữ Nôm của ông

được tương truyền rang, ông sáng tác rat nhiều tho, văn và cả hát nói bang chữ Nom

thé nhưng đã bị mat mát, hiện chỉ có thé biết được có những tác phẩm là: Mhớ ơn vua(viết theo thê hát nói, gôm 13 câu, thé hiện lòng biết on của Nguyễn Ham Ninh tới

hai vị vua là Minh Mệnh và Thiệu Trị), Tức cảnh ở chợ Trời Sơn Tây (bài thơ theo

thê thất ngôn bát cú, thé hiện cảnh ở chợ Trời Sơn Tây và cũng là cảnh mua bán danh

lợi ở đời), Phan thức ước (gồm 111 câu viết theo lỗi biên ngẫu, chống lại bản Thúc ước mà bọn quan địa phương đã soạn, bên cạnh đó phơi bảy tội ác, lật tây bộ mặt gia

dối của bọn quan lại ấy) Tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Hàm Ninh gồm các tập thơnhư: Tĩnh Trai thi sao, Nhâm Sơn thi tập (hay Tĩnh Trai thi tập), Tĩnh Trai tiểu thao

trích sao, Dược sue ngáu đề.

Tài năng của ông được gắn với nhiều giai thoại, bởi lẽ tính cách khang khái, tài

năng xuất khâu thành thơ của ông mà ông được nhân dân ưu ái kê lại bằng giai thoại.Thế nhưng những giải thoại ấy vẫn còn đang được nghiên cứu vẻ tính đúng sa bởi lẽ

có nhiều giai thoại không khớp thời gian (như giai thoại “Xi khiết thiệt” xảy ra khi

ông đã cáo quan vẻ quê) hay còn nhằm lẫn nhân vật trong giai thoại (như giai thoạisửa câu đối “Tir năng thừa phụ nghiệp/ Than khá báo quân ân vẫn còn tranh cãi rằng

người sửa là Nguyễn Hàm Ninh hay Cao Bá Quát) Nhìn chung, những giai thoại

xoay quanh Nguyễn Hàm Ninh cũng chỉ để chứng tỏ thêm rằng ông là một người tàihoa, thông minh, nhanh nhạy Thơ văn của ông đa phân viết về tâm sự của riêng ông

về đất nước, về người dân và cả những phê phán của ông đối với thời đại Đại Nam

Chính biên Liệt truyện có đoạn nói về tài năng thơ ca của Nguyễn Hàm Ninh như sau:

“Hàm Ninh lay văn học nỗi tiếng, mà số thì lạ, hé thăng quan là bị miễn khứ: về thơ

Trang 18

văn thời tram tinh hùng mạnh khi dé nén khí phô trương và sở trường vẻ lỗi ngũ ngôn.

Thương Sơn công vẫn thường khen”!

1.2.2 Lý Văn Phức

a, Cuộc đời

Lý Văn Phức 4 # Z(1785 - 1849) tự là Lân Chi $2, hiệu là Khắc Trai 75 8Ý.

lai còn có hiệu khác là Tô Xuyên Ong là người làng Hỗ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận,

phủ Hoài Đức, tinh Hà Nội (nay là phường Bưởi, quận Tây H6, thành phố Hà Nội).Nhà ông vốn là gốc ở thôn Tây Hương, huyện Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh

Phúc Kiến; có làm quan đưới triều Minh, sau này nhà Minh bị Mãn Thanh lật đô thì

chạy lánh nạn về Hỗ Khẩu Nhà họ Lý kế thé làm quan, đặc biệt dưới thời nhà Lê thì

đa phần làm quan võ; chỉ tới ông nội Lý Văn Phức là Lý Khắc Đôn đậu Hương tiền

thì mới theo nghiệp Nho Đến bố ông không đậu ra lam quan nhưng ba anh em nha ông đều đậu Hương tiến.

Lý Văn Phức đi thi khoa Dinh Mão (1804) nhưng không đỗ phải đến năm Gia

Long thứ 18, ông mới đậu Minh Mệnh nguyên niên, ông được tu bồ làm Hàn Lam

biên tu, làm việc tại Quốc sử quán Làm quan qua nhiều năm, Lý Văn Phức đã được vua Minh Mệnh thăng lên chức Thu Ta tham tri Hộ bộ Thẻ nhưng vào năm Minh Mệnh thứ 10 đã bị phế chức vì nhận hồi lộ hơn 100 lượng bạc cùng dé thỉnh hộ bon buôn giảo quyệt Liêu Ninh Thái và Đỗ Huy Tùng trong mưu vụ trưng thuế cửa quan của Bắc Thành).

Vua Minh Mệnh sau này đã cho ông chuộc tội bằng cách đi sứ đến Tiêu Tây

Dương (Benagle, An D6) vào năm 1930, trong chuyến đi này ông đã sáng tác ra tácphẩm Tây hành kiến văn luc bằng chữ Hán Từ đó trở đi trên quan lộ của Lý VănPhức hầu như đều gắn với những chuyên công cán khắp nơi Như vào năm Minh

Mệnh thứ 12 thì được vua phái đi theo Vệ úy Lê Thuận Tĩnh đưa bọn người Thanh

trở về nước Sau đó được vua cất nhắc lại chức Chánh cửu pham thư lai ở Nội vu phủ;

' Theo Quốc sử quần triều Nguyễn (1993) Dai Nam chink biên liệt truyện, nhị tập (Quyền 26 — Quyền 46)

tr.154.

? Theo Quốc sử quan triều Nguyễn (2004) Đại Nam thực lục chính biên, tập 2, tr.903.

Trang 19

<

được vua cử đi sứ nhiều nơi như Lữ Tống (đảo lớn nhất trong quần đảo Philippines)

vào năm 1932, trong chuyến đi nay ông đã làm bài thơ Vọng kién vạn lý Trưởng Sa

(Hoang Sa); năm 1933, ông lại được cử đi Quảng Đông va Tân Gia Ba (Singapore),

sau khi đi hai chuyến đi trên, ông đã soạn hai tập thơ băng chữ Hán Việt hành thi thảo

và Việt hành tc ngâm; năm Minh Mệnh thứ 15, Ly Van Phức nhận lệnh vua hộ tông

bộ biên tỉnh Quang Châu vẻ nước vì bị dạt thuyền vào vùng Thanh Hóa; ông lại tiếptục được cử đi Áo Môn (Macau) sau chuyền đi ông đã viết tập thơ Kinh hải tục ngâmbằng chữ Han; Thiệu Trị nguyên niên, Lý Văn Phức được thăng lên chức Lễ bộ Hữu

tham tri sung chức Chánh sứ, mũ áo được cấp thêm một bậc sang Yên Kinh

báo tang vua Minh Mệnh.

Đến năm Thiệu Trị thứ 3, Lý Văn Phức được bé nhiệm làm Chủ khảotrường thi Hương Nghệ An Năm Thiệu Trị thứ 7, vì xử lý không thỏa đáng vụviệc 2 chiếc thuyền của nước Phật Lan Tây (Pháp) đậu ở cửa biển Đà Nẵng vua giận nói rằng Lý Văn Phức “làm mat quốc thé” nên giáng chức bi day đilàm quân ở dinh Kỳ võ Tự Đức nguyên niên đã cho lệnh khôi phục các viên

quan bị cách chức, Lý Văn Phức được khởi phục làm Hàn lâm viện Thị độc,

sau được thăng lên làm Quang Lộc tự khanh rồi mat khi đang tại chức, , truy

thụ Hữu Thị Lang bộ Lễ

Trên con đường làm quan của Lý Văn Phức, ông được cử đi sứ nhiều nơi va

trong những lần đi sứ ấy, có một lần đáng được kể đến Vào năm Minh Mệnh thứ 12,

Ly Văn Phức được cử sang Trung Quốc dé áp giải nhóm người Tran Thanh bị bão

đánh đạt thuyền vào vùng biển nước ta Khi đến cảng thị Phúc Kiến, Lý Văn Phức

thay dé biển “An Nam quốc di sứ quan” thì nhất định không vào: “Nước ta không

phải là man di, nên ta không vào chỗ nay” khiến cho quan sở tại là Hoàng Trạch Trung phải tới xin lỗi và đề lại bảng là “Viet Nam quốc sứ quán công quán”, khi này ông mới chịu vào Nhưng sau đó, Lý Văn Phức đã viết Di biện treo ngay trước cửa

để thé hiện rằng người Việt Nam không phải phường man di qua lịch sử, văn hóakhiến người Thanh phải né phục; Giáo sư Nguyễn Đông Chi đã dé lại lời nhận xét:

Trang 20

“So với bai Biện di thuyết của Nguyễn Tu Gian sau này (1868), tác phẩm của ôngPhức có sức tác động mạnh hơn, nhất là đoạn cuỗi”? Có thé thay được tinh than yéunước của Ly Van Phức thé hiện mạnh mẽ tinh than dân tộc cũng được nâng cao khi

ông đứng trên đất nước khác, một quốc gia mạnh mẽ được gọi là “Thién triều” ma không hè sợ hai, ngược lại còn lớn giọng khang định người Việt Nam, quốc gia Việt

Nam hoàn toàn độc lập.

b Sự nghiệp van hoc

La một trong những nhà thơ nôi tiếng ở thé kỉ XIX, ông đẻ lại khối lượng thơ

văn đô sộ không chỉ là chit Hán mà còn ở mặt chữ Nom, không riêng gì thơ ma con

kể đến truyện thơ, phú Có thê thấy rằng, gia tài văn học của Lý Văn Phức rất phongphú, thấy được con người Lý Văn Phức hết mực tài hoa Tác phẩm của ông tới giờchưa có thong kê chính thức, tác phẩm chữ Hán của ông có những tập thơ gắn vớicác chuyến đi sứ như: Tay hành kiến văn lục, Tây hành thi thảo, Tiên hành lữ hoài,

Man hành tạp vịnh, Việt hành thi thao, Việt hành tục ngâm, Chu Nguyên tạp vịnh,

Kinh hải tục ngâm, Hoàng hoa tạp vinh thảo; bên cạnh đó ông còn nhiều tập thơ văn

viết chung với các bạn bè, quan lại cả Việt Nam và Trung Quốc; phú chữ Hán Nghĩ

Vô Danh công tự thuật phú; tập sách bằng chữ Hán: Sứ trình chí lược thảo, Sứ trình

quát yếu biên Như đã nói, tác phẩm bằng chữ Nôm cúa ông cũng không hè kém cạnh

tác phẩm chữ Hán Các tác phâm chữ Nôm của ông hướng tới nề nếp, đạo đức Nho

gia nhiều hơn: Bát Phong Lưu truyện (Bài thơ trường thiên thẻ lục bát viết năm Giáp

Ngọ 1934, kê về ông Lưu Bat Phong — tức Lý Văn Phức); Mhj thập tử hiểu điển ca

(truyện thơ gdm 24 câu chuyện về 24 nhân vật hiểu hạnh theo quan điểm Nho gia,

được viết năm 1835 khi tác giả đi sứ ở Quảng Đông); các truyện thơ Nôm như: Nhj

Độ Mai diễn ca, Truyện Tây sương, Kiều Lê tân truyện; các tác phầm chữ Nôm khác:

Tự thuật kí, Phụ châm tiện lãm, Thiên tự văn diễn ca, Chu hồi trở phong thân, Hoa

trình tiện lãm khúc.

> Viện Văn học (1981), Van học Việt Nam trên những chăng đường chẳng phòng kiển Trung Quốc xâm lược.

NXB Khoa học Xã hội, trŠ37

Trang 21

Có một điểm đặc sắc trong sáng tác của Lý Văn Phức khi ông đi công cán là ông luôn song hành cả tác phẩm chữ Hán cùng tác phim chữ Nôm Ví như đã có Tây

hành kiến văn ky lược (chữ Hán) thì lại có Tay hải hành châu phú (chữ Nôm); có

Nghĩ V6 Danh công tự thuật phú (chữ Han) thì lại có Tự thuật phú (chữ Nôm), Đề

có thê thấy được không chỉ tài hoa của Lý Văn Phức mà qua đó còn thấy được tỉnh

than din tộc của ông, ding chữ Hán để sáng tác nhưng cũng không quên chữ Nom,Quốc ngữ lúc bay giờ Tuy gốc gác từ Phúc Kiến, Trung Quốc nhưng đối với Việt

Nam ông luôn thể hiện tình yêu quê hương, tỉnh thần tự tôn dân tộc cao độ nhất là

khi ông được cử đi sứ rât nhiêu nước khác nhau.

1.2.3 Nguyễn Trung Mậu

a Cuộc đời

Nguyễn Trung Mậu Jj⁄⁄‡##(1785 — 1846) hiệu là Dam Hiên, người thôn Vân

Tập xã Thái Xá huyện Đông Thành tinh Nghệ An Năm Gia Long thứ 6 (khoa thi

Dinh Mão, 1807), ông đỗ Hương cống cùng ông nội là Nguyễn Trung Doãn, sau được

bồ làm Tri huyện Hoằng Hóa Dưới thời Minh Mệnh Nguyễn Trung Mậu được đồilàm Tri huyện Yên M6; sau gan 10 năm làm Tri huyện thi ông được điệu làm Đốc

học Bình Định Sau đó triệu về làm Viên ngoại lang Hộ bộ, năm Minh Mệnh thứ 10

thì đôi làm Lang trung Hộ bộ Những năm tiếp theo, Nguyễn Trung Mậu liên tục được đôi bô làm Hữu thị lang Công bộ Tả thị lang Công bộ rồi lên Hữu tham tri Công bộ, đến năm Minh Mệnh thứ 14 được đôi bé làm Hữu tham tri bộ Binh Năm

Minh Mệnh thứ 17 được giao ân triện bộ Binh rồi đôi bỏ làm Tả tham tri Cùng năm,

Nguyễn Trung Mậu xin về tang mẹ, vua thương tình gia cảnh ông nghèo nên ban 200

quan tiền và dụ rằng: “Lam con thờ cha mẹ, cốt ở tình, lễ hợp nghi, không nên ở nhà

lâu mới là hiểu” (tr.1044, tập 4) Sau khi hết phép nghỉ tang, ông quay về Kinh thì được bồ làm Ta tham tri bộ Binh Năm Minh Mệnh thứ 18, vì Phan Bá Đạt phải tội

cắt chức, Nguyễn Trung Mau được vua ban kiêm quan an triện hai viện là Đô sat va

Hàn lâm Cùng năm, Nguyễn Trung Mậu được thăng làm Thượng thư bộ Hộ, vẫn

kiêm quản viện Hàn lâm và Tuy thông chính, nhưng qua năm sau liền bị đôi làm Thị

Trang 22

lang bộ Công rồi giao ấn triện bộ Công cho ông Năm Minh Mệnh thứ 21, lại thăng

Nguyễn Trung Mậu làm Thượng thư bộ Công nhưng sung Cơ mật viện đại thần.

Thiệu Trị nguyên niên, Nguyễn Trung Mậu được cử làm Thượng thư bộ Công,

sau đó được sắc làm phó khảo kì thi Hội Cùng năm, ông dang thư dán kín cho Thiệu Trị trình bày 6 điều như sau:

“1) Sai khiến có thời (sửa dip đường sá); 2) Hoãn việc hình phạt (chỉ cho lấy

rượu làm lễ vào những địp quan trọng như ma chay, giỗ chạp, tiết lễ hoặc có việc

vui mừng); 3) Nhắc rõ lại lệnh cam đẻ vít mam mong kẻ gian (đặt người khán thủ dé theo dõi những kẻ phạm tội); 4) Nghiêm phòng bị để cho dân yên ở (xét

kiện hợp lý dé din có điều kiện làm ăn); 5) Khuyến khích và khen thưởng dé khích lệ dan giàu (những người giàu giúp đỡ người túng thiểu trong lúc khó khan, hoạn nạn); 6) Hoan nợ riêng dé thư cho kẻ nghèo ting” Ý

Vua đọc xong thì khen ngợi thưởng cho 3 tam sa, 1 súc lụa và lựa chọn mot vài việc

đã tâu đẻ thi hành Năm Thiệu Trị thử 2, khi tế lễ vua Thục An Duong Vương vi làmtrái ý vua mà Nguyễn Trung Mậu bị phạt giáng cap, tới năm Thiệu Trị thứ 3 thì lại

cho Nguyễn Trung Mậu làm Thượng thư bộ LỄ, sung chức Dai thần viện Cơ mật.

Năm Thiệu Trị thứ 6, Nguyễn Trung Mậu mất ở tuổi 62, làm quan 40 năm, liêm khiết

trong sạch nên khi mat, ông được phong tặng Hiệp biện Dai học sĩ; được vua ban cho

“2 cây gam Trung Quốc 3 cây sa mau, vải lụa mỗi thứ 15 tam, 400 quan tiên, 1 bộ

triều phục, lại cho tế 1 tuần"

Nguyễn Trung Mậu được vua Thiệu Trị nhận định là một vị quan thanh liém, chính trực Vậy nên khi vẻ chịu tang mẹ, vua Minh Ménh đã đưa thêm tiền cho ông

về quê Và cả khi được vua Minh Mệnh hỏi về lí do ông đã làm quan 10 năm nhưng

không được cat nhắc, phải chăng do bị thù oán gì chăng: thể mà Nguyễn Trung Mậu

* Theo Quốc sử quần triều Nguyễn (1993) Đại Nam chính biên tiệt truyện „ nhị tập (Quyên đầu — quyền 25),

tr.342).

* Theo Quốc sử quan triều Nguyễn (1993) Đại Nam thực luc, tập 6, tr.342 Ha Nội: NXP Giáo dục.

Trang 23

chi trả lời rằng “Nơi than làm việc, công việc đơn gián, không có công trạng gi khác

thường, cho nên chậm thăng đó thôi!”

Nguyên Trung Mậu là người có tài về nhiều mặt, vì thé mà ông được thăng chức

cả ở bộ Công, bộ Binh và bộ LỄ Ông cũng thường được vua giao công việc như sửa

đóng thuyền mành vào năm Minh Mệnh thứ 13; hay việc xây dựng: điện Thái Hòa,

cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn vào năm Minh Mệnh thứ 14; núi Thuận vào năm Minh

Mệnh thứ 21; công trình Thuận Sơn vào năm Thiệu Trị thứ nhất; sửa điện Hiểu Tư vào năm Thuận Trị thứ 3: việc tế lễ: cầu đảo ở đèn Thai Dương phu nhân vào năm

Minh Mệnh thứ 21, lễ tế vua Thục An Dương Vương vào năm Thiệu Trị thứ 2, làm

lễ an vị sau khi trùng tu Văn miéu vào năm Thiệu Trị thứ 3 Không chỉ thé ông còn

được giao trọng trách viết sách: biên soạn bộ Thực lục về Liệt thánh vào năm Minh

Mệnh thứ 14, ông làm Toản tu; làm tap Ngoc điệp vào năm Thuận Tri thứ 5, N guyén

Trung Mậu làm phó Tông tài Lễ có chép rằng, người chịu tang ba năm thì mệnh vuakhông đến cửa, vậy mà Nguyễn Trung Mậu được vua Minh Mệnh vời ra làm việc

sớm hơn hạn nghỉ khi ông vẻ chịu tang mẹ, điều đó có thé thay rằng Nguyễn Trung

Mậu có tài và rất được vua trọng dụng.

b Sự nghiệp văn hoc

Nguyễn Trung Mậu không nỗi tiếng vé mặt văn thơ, tác phẩm của ông có thé

kể đến là Dam Hiên tập (văn) nhưng không được nhắc nhiều trong giới văn học, bên

cạnh đó còn nhiều công trình về sử học được ông làm chung với Quốc sử quán triều

Nguyễn Ngoài ra ông còn 10 bai thơ vịnh cảnh được chép lại trong tập Danh biên

tập lực bằng chữ Hán Vì Nguyễn Trung Mậu đa tài nên tài năng của ông được vua

trọng dụng qua nhiều phương điện chứ không riêng gi thơ van, vậy nên tác phẩm của

ông đề lại không nhiều nhưng cũng đủ đề thấy được tài năng của ông

5 Theo Quốc sử quán triều Nguyễn (2007) Đại Nam thir: luc, tập 3, tr672 Hà Nội: NXB Giáo dục.

Trang 24

1.3 Tác phẩm Danh biên tập luc và 20 bài thơ vịnh cảnh kinh đô

Vẻ tình hình văn bản, tác phâm Danh biên tập lục hiện được lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nom mang ký hiệu A.369, gồm 53 tờ, 116 trang, khổ 21x31em,

chép thơ, văn, biểu, tau của vua tôi triều Nguyễn như: Vua Minh Mệnh, Nguyễn

Trung Mau, Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức, Trong phan thơ vịnh thập cảnh kinh thành có 40 bài thơ của 4 tác giả Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức, Nguyễn Trung

Mậu Trương Quốc Dụng Trong quá trình nghiên cứu văn bản: đây là văn bản chép

tay vậy nên có những trường hợp thường thay sau Trường hợp thiểu chữ ở bài Tam phong sáp vân của Lý Văn Phức, vì chưa đủ tài liệu dé can thiệp nên chúng tôi không nghiên cứu văn ban này mà cần có thêm nguồn tài liệu dé bô sung ở những công trình sau nay, Trường hợp xóa chữ đảo chữ ở nhiều bai, như Thanh trì hương luyện —

Nguyễn Ham Ninh (trường hợp chữ “ham” xóa chữ đã chép sai), Trai dũ tịch hà - Lý

Văn Phức (trường hợp chữ “kính” xóa chữ đã chép sai), Thủy các hà phong — Ly Văn

Phức (trường hợp đảo chữ: trùng tang — tang trùng) Như đã nói, vì day là văn bản

chép tay nên những lỗi trên không thẻ tránh khỏi, nên chúng tôi đã lựa chọn những

văn bản không gây tranh cãi, khó hiểu quá nhiều về mặt văn bản đề nghiên cứu chính

Vé van đề tính xác thực của văn ban, do thời gian cũng như năng lực có hạn nên

chúng tôi không thẻ xác định chính xác 20 bai thơ có đúng là của những tác giả đã đề cập đến hay không Chúng tôi lựa chọn tin tưởng và nghiên cứu hoàn toàn trên văn

bản đã xác định được, nếu có thẻ thì sau này sẽ có được công trình nghiên cứu khác

tìm được tính xác thực của văn bản.

Về nội dung van bản, phần thơ vịnh cảnh kinh đô được dé cập đến dựa theo luận

văn Thạc sĩ Hán Nôm “Tim hiểu thơ chữ Hán cia Nguyễn Ham Ninh” của tác giả

Nguyễn Thị Bích Đảo thì đây là tập thơ vua quan nhà Nguyễn đưới triều vua Minh Mệnh Nhưng theo tác giả Nguyễn Văn Phương qua công trình “Khảo cứu tác phẩm New dé do hội thi tập #5/#J4#‡# #7 thì dựa trên tác phẩm trong New dé đồ hội thi tập của vua Thiệu Trị, cảnh tại đất kinh đô được xác định là hai mươi cảnh đẹp (Nhị

thập thần kinh — Hai mươi cảnh đẹp dat thần kinh): Trùng Minh Viễn Chiếu (cảnh ởlầu Minh Viễn trong Tử Cam thành Huế); Vĩnh Thiệu Phuong Văn (cảnh ở vườn

Trang 25

Thiệu Phương trong Tử Cam thành Hué); Tịnh Hồ Ha Hứng (cảnh ở hồ Tịnh Tam

trong Kinh thành Huế): Ngự Viên Đắc Nguyệt (cảnh ở vườn Ngự trong Tử Cam thành

Huế); Cao Các Sinh Lương (cảnh ở hồ Nội Kim thủy trong Hoàng thành Huế):

Trường Ninh Thùy Điều (cảnh ở cung Trường Ninh trong Hoàng thành Huế); Thường

Mậu Quan Canh (cảnh ở vườn Thường Mậu trong Kinh thành Huế); Vân Sơn Thắng

Tích (cảnh ở chùa Thánh Duyên trên núi Thúy Vân); Thuận Hải Qui Phàm (cảnh ở

cửa biên Thuận An); Hương Giang Hiểu Phiếm (cảnh ở sông Hương): Bình Lãnh

Đăng Cao (cảnh ở núi Ngự Bình); Linh Quán Khánh Vận (cảnh ở quán Linh Hựu

trong Kinh thành Huế): Thiên Mụ Chung Thanh (cảnh ở chùa Thiên Mụ); TrạchNguyên Tao Lộc (cảnh ở đầu nguồn sông Hương); Hải Nhi Quan Ngư (cảnh ở phá

Hà Trung); Giác Hoàng Phạm Ngữ (cánh ở chùa Giác Hoàng trong Kinh thành Huệ); Huỳnh Tự Thư Thanh (cảnh ở trường Quốc Từ Giảm); Dong Lâm Duc Điều (cảnh ở

rừng Đông Lâm huyện Hương Thủy): Tây Lãnh Thang Hoằng (cảnh suối nước nóng

huyện Hương Trả) Mỗi một cảnh đẹp sẽ có những chùm bài thơ khác nhau, qua thời

gian dai day biến động thì các cảnh đẹp trên đa số đã bị tàn phá hoặc biến mat hoàn

toàn Dựa vào từng chim tho của 20 cảnh đẹp chén kinh thành va văn bản hiện có

đang nghiên cứu thì chúng tôi xác định rằng 20 bải thơ vịnh cảnh kinh thành mà

chúng tôi khảo cứu, chú giải của các nhà thơ Lý Văn Phức, Nguyễn Hàm Ninh,

Nguyễn Trung Mậu thuộc phân vịnh cảnh tại vườn Thường Mậu trong Kinh thành

Huế Trong tập thơ New đề đồ hội thi tập thì ở vườn Thường Mậu, vua Thiệu Trị đã

viết ra 10 bài thơ dé vịnh 10 địa điểm tại nơi đây là: Cao lâu thắng thưởng (lầu Ki

An); Quang ha dam văn (Chi Thiện đường); Hiên lan hoa lộ; Trai đũ tịch hà (Tâm

Trai): Sơn đình mai vũ (đình Lục Hợp ở núi Tam Thọ); Thủy các hà phong (gác

Thông Minh); Thanh trì hương luyện (nhà Trừng Thanh); Song kiều giá nguyệt (haicây cau Quang Phong, Té Nguyét); Tam phong sáp vân

Trang 26

Tiểu kết chương 1

"Danh biên tập lục” là tập ghi chép thơ, văn, biểu, tấu của vua quan triều

Nguyễn: vua Minh Mệnh, Nguyễn Ham Ninh, Lý Văn Phức, Tuy nhiên tác phẩm

này tới bây giờ vẫn chưa được nghiên cứu nhiều Trong phạm vi nghiên cứu của đề tai, chúng tôi đã tập trung vào 20 bài thơ trên tông số 40 bài thơ vịnh cảnh kinh đô của bốn tác giả là Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức, Nguyễn Trung Mậu và Trương Quốc Dụng.

Vẻ văn bản, hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Viện Hán Nôm mang ký hiệu

A.369, gồm 53 tờ, 116 trang, khô 2Ix3lcm Vi la văn bản chép tay nên văn bản cónhững lỗi thường gặp như: chép thiếu chữ, chép sai chữ, đảo chữ ở một số bài mà

chúng tôi đã đề cập.

Về tác gia, cả ba tác giả Nguyễn Hàm Ninh, Lý Văn Phức, Nguyễn Trung Mậu

đều làm quan dưới triều Nguyễn và đặc biệt là dưới ba triều vua: Gia Long — MinhMệnh - Thiệu Trị Cả ba tác giả đều là vị quan có tài, làm đến chức cao trong triều

đình và được vua trọng dụng Khác với Lý Văn Phức và Nguyễn Hàm Ninh đều có

dau an trên diễn dan văn học thì Nguyễn Trung Mậu không được nhắc nhiều, ông có

công chép nhiều sách sử cho triều đình và chi dé lại một tập thơ (hiện đã mat) Lý Văn Phức nội danh là một “cay bút ngoại giao” qua những lần đi công cán ở nước

ngoài, bên cạnh đó ông còn góp mặt không ít ở mảng truyện thơ Nôm Việt Nam.

Nguyễn Hàm Ninh cũng không kém cạnh với những tập thơ cả về chữ Hán lẫn chữ

Nôm của mình.

Vẻ tác phẩm, 20 bài thơ vịnh cảnh kinh đô được chúng tôi lựa chọn thông qua

khảo cứu gồm có 8 bài của tác giả Nguyễn Hàm Ninh ( Cao lâu thắng thưởng, Quảng

ha đàm văn, Sơn đình mai vũ, Hiền lan hoa lộ, Trai đủ tịch hà, Thuy các hà phong,

Lương tạ tình ba, Tam phong sáp vân), 9 bài của tác gia Lý Văn Phức (Cao lâu thang

thương Quang hạ dam van, Hiện lan hoa lộ, Trai aii tịch ha, Sơn đình mai vũ Thúy

các hà phong, Thanh trì hương luyện, Lương tạ tình ba, Song kiêu giá nguyệt) và 3

Trang 27

bài của tác giả Nguyễn Trung Mậu ( Cao lâu thưởng thắng Trai đã tịch hà, Lương tạ

tình ba).

Trang 28

Chương 2:

PHIÊN AM, CHÚ GIẢI 20 BÀI THƠ VỊNH CANH KINH ĐÔ TRONG

“DANH BIEN TAP LUC”

2.1 Nguyén Ham Ninh

2.1.1 Cao lâu thắng thưởng — 22628

Trang 29

Van lý son hà quy ngọc di

Cứu tiêu tinh đầu bang quỳnh lan

Gia hòa mãn da hoàng van hợp Tích thụ thiên chương thay mac đoản

Huấn chính thánh ân trường nhụ mộHoàng tình nguyên bat tại du quan?

Dịch nghĩa:

NGAM CẢNH ĐẸP NƠI LẦU CAO

Lau cao chất ngất lên đến tận may xanh

Vẻ đẹp đất trời mở rộng ra theo tứ phía

Van dam son hà (đều) thu vào ô cửa ngọc

Các vì sao trên chín tầng mây như gần bên lan can ngọc

Lúa tốt day đông tựa như những dang mây vàng hợp lại Hàng cây cô thụ nghìn vẻ trông như bức màn xanh vây quanh

Thực thì chính sự thì ân điên thánh triều von đã được ái mộ từ

lâu

Tinh cảm của hoảng dé vốn không phải xem xét đâu xa

Chú giải:

1 Tiết niét #8: chất ngất

Trang 30

2 Mich B - Quan #Ÿ: Trong van bản viết tay, chỗ này về tự dang

giống chit" mich Fi" ( xem Phụ lục 1, trang 83) Nhưng như vậy, mặc dù

với chữ "mich &", câu thơ vẫn có nghĩa, nhưng xét toàn cục, bài thơ sẽ bị

lạc vận Do vậy chúng tôi cho rằng, chữ này có thẻ là do chữ Quan #@ viết

đơn mà thành xét về vận điệu và ngữ nghĩa, chữ quan phù hợp hơn

2.1.2 Quảng hạ đàm văn- Mi lð RIC

Trang 31

Ki kinh triệu đối tịch trùng môn

Tịnh ki minh song tiểu ngữ ôn

Thượng hạ cô kim thiên tử học

Tu tẻ bình trị! thánh nhân ngôn

Kim thanh ngọc chắn chiêu thần tảoNgư được điên phi? kiến đạo nguyênThụ thy’ nhất trung tâm pháp tại

Thach CừŠ cô sự bat tu luận

Dịch nghĩa:

ĐÀM LUẬN VĂN CHƯƠNG NƠI NHÀ LỚN

Từng mấy lần được triều vào hỏi về việc mở mang điện đàiNơi bản sạch cửa sáng lời nói tiếng cười nghe sao mà thanh nhã

Từ xưa đến nay đều phải theo cái học của người thiên tử

Tu té bình trị theo những lời dạy của bậc thánh nhân

Vàng ngân ngọc ánh làm cho điện đài trở nên sáng sủa

Cá nhảy chim bay thấy được cội nguồn của đạo

Mọi mỗi quan hệ đều lấy theo chữ “trung”, tâm pháp vẫn

thường đều như thể

(Còn như) Chuyện cũ Thạch Cừ đâu đáng phải bàn luận đến

Chú giải:

Trang 32

%E5%B9%B3).

2 Ngư dược dién phi 88 84 chỉ sự tự do tự tại Bắt nguồn tử

bai thơ “Dai Nhã — Hạn Lộc” trong Kinh Thi :* #Ÿ#ŠJ RK, MHP

"-“Diều hau bay ngang trời cá bơi về nguồn.” (Truy xuất từ:

%E9%A3%9E).

3 Thu thụ #22: mọi mỗi quan hệ

4 Tâm pháp (7%: Tiếng nhà Phật, chi cách truyền đạo bằng tam lòng, chớ không phải bằng lời giảng.

5 Thạch Cừ #38: Tức gác Thạch Cừ (43 l#J) là nơi cat giữ kho

sách thời Tây Hán ở phía Bắc cung Vị Ương Nơi đây do Tiêu Hà xây

dựng, do dùng đá làm đường dan nước nên nơi đây được gọi là Thạch Cừ.

Dưới thời Hán Tuyên Đề có câu chuyện giảng luận ngũ kinh tại gác Thạch

Trang 33

VER) ks he ee eG fy BE

Ft Fes Yb EMA IK

Phiên âm:

HIẾN LAN HOA LỘ

Nhất thiên hãng giới tích hàn canh

Ki đóa hoa chi ki phiền quỳnh

Toái ngọc linh lung ngưng liễu trọng

Viên châu thác lạc điểm hà khinh

Lưu ly song ngoại quýnh sơ tản

Phi thúy liêm tiền nguyệt chính minh

Tiên chuong! mạc tu dam Hán sử

Cứu thiên? cao trach* phô hoàn doanh

Dịch nghĩa:

SƯƠNG RƠI TRÊN KHÓM HOA LAN TRƯỚC HIÊN

Sương móc đây trời rả rích rơi suốt đêm lạnh

Trang 34

Bao nhiêu đóa hoa tựa như bay nhiêu phiến ngọc

Những hạt sương li ti như vụn ngọc long lanh ngưng đọng trên

cành khiến nhành liễu thêm nặng

Những giọt sương như hạt ngọc đọng trên lá sen nhẹ tênh

Phía bên ngoài cửa sô ngọc ánh sáng vừa mới tản ra

Phía trước rèm phi thay trăng đương sáng rd Nơi đài Tiên chưởng chớ nên bàn luận sử Hán

Ơn trạch từ chín tầng trời phd rộng khắp mọi nơi

Chú giải:

1 Tiên chưởng 3£: Han Vũ đề vì muỗn bat tử, tại Kiến Chương

điện, Thần Minh đài mà xây nên tượng tiên bằng đồng tên Thừa Lộ Bànvới mong muốn hứng sương từ trên trời sau này Thừa Lộ Bàn được gọi

là Tiên chưởng (Truy xuất từ:

https://baike.baidu.com/item/%E4%BB %99 %E6%8E%8C/8757964).

2 Cửu thiên 7X: Chin phương trời, tức trung ương, tứ phương

và tứ ngung Ở đây cũng có thê chỉ vua.

3 Cao trạch JF: On huệ.

2.1.4 Trai di tịch hà - S492

đi we TR #6 Es

Trang 35

Túc tĩnh thư trai vẫn triều xa

Tây phong yém ái tịch đương tà

Thủy tương phủng khuyết thiên đoan cam

Tản tác dao song ngũ sắc hoa

Vũ hậu dư huy tê viễn tụ

Thiên biên nhất mat điểm quy nhaMinh triêu hựu bang hồng luân ảnh

Phân chiều thanh quang thập vạn gia

Dịch nghĩa:

NGAM RANG CHIEU NƠI CUA SO THU’ PHÒNG

Trang 36

Ven trời mat hút chút ảnh nhỏ của cánh nhạn bay về

Vào buôi sớm mai lại nương theo bóng đỏ của mặt trời Phóng chiếu ánh sáng quang dang đến khắp mọi nhà

Sơn đình mai vũ — L'|##‡@šỹ

dụ BoA A

ZN ee LL SE AT A lãi

FED MART 0

Trang 37

fA

Phiên âm:

SON ĐÌNH MAI VU!

Lục Hợp” sơn đình diện diện khai

Ngau hoa đường bạn tạm bồi hồi

Du vân mặc tong thiên phong vũ

Khinh ao hoàng quân ngũ nguyệt mai Sang nhập viên lâm hàm túc nhuận

Lương hồi ki điệm thất viêm ai

Cứu trùng úy mãn tam nông” vọng

Chỉ nhật vũ cao‘ phô bát cai

Dịch nghĩa:

NGAM MƯA MAI BEN SƠN ĐÌNH

Sơn đình Lục hợp, các mặt đều mở ra

Bên mé ao sen (lòng) còn đang ngơ ngân

Mây ùn ùn lặng lẽ đưa mưa tới muôn đình núi

Cái nóng nhẹ (mà) làm úa vàng hết may khóm hoa mai tháng

nam

Hơi mat lùa vào từ khóm cây trong vườn khiến cả căn phòng

mat mẻ

Trang 38

Hơi lạnh luồn vào (nơi) ban ghé, chiếu tre làm mat đi bụi nóng

Ơn đức của vua đã làm yên ủy hết những ước vọng của người

3 Tam nông chi người dân.

4 Va cao AYA chỉ ơn trạch (giống Cao trạch AFB).

Trang 39

Thúy cái đình đình phiên nhục tịch

Hồng tiêu niều niéu dang tình lanLãng thần nhược mính hương du viễn

Cao xứ phí khâm hạ điệc hàn

Phiên vật hoảng nhân đông tạo hóa

Huân huyền lạc đữ vạn phương đàn

Dịch nghĩa:

HƯƠNG SEN BÊN THỦY CÁC

Gió quyện hương sen thôi lên lan can ngọc Nơi bức rém châu đốt lên nền tram thơm

Long xanh ngay ngắn phat phới trước chiếu lụa nhiều màuDai lua đỏ 1a lướt bồng bênh bên sóng nước trong xanh

Trang 40

Budi sớm pha trả hương càng bay xa

Ở chỗ cao này dù có mặc thêm áo thì mùa hè vẫn lạnhChiếc quạt này tự như ơn đức của vua sánh ngang tạo hóa

Khúc nhạc thái thòa bắt nhịp cùng tiếng đàn của muôn phương

Ngày đăng: 12/01/2025, 04:22

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN