Buổi thảo luận thứ hai: Giao dịch dân sựBài tập 1: Năng lực pháp luật dân sự của chủ thể trong xác lập giao dịch Câu 1: So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lự
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
Buổi thảo luận thứ một TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN Môn: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,
TÀI SẢN, THỪA KẾ Giảng viên: ThS Đặng Lê Phương Uyên.
Lớp: HC47A
Trang 2Buổi thảo luận thứ hai: Giao dịch dân sự
Bài tập 1: Năng lực pháp luật dân sự của chủ thể trong xác lập giao dịch
Câu 1: So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
Điều 117 BLDS 2015, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
1 Giao dịch dân sự có hiệu lựuc khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung không vi phạm điều mà pháp luật cấm không trái đạo đức xã hội;
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp được pháp luật quy định
Điều 122 BLDS 2005, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
1 GDDS có hiệu lực khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật không trái với đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
2 Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định
Điểm khác so với BLDS 2005
Thứ nhất, so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thay từ “người tham gia giao dịch” bằng từ “chủ thể”, điều đó thể hiện sự rõ ràng hoàn thiện về ngôn từ
Trang 3Thứ hai, BLDS 2005 chỉ yêu cầu chủ thể tham gia giao dịch có năng lực hành
vi dân sự, còn BLDS 2015 yêu cầu thêm là phải phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập Yêu cầu thêm là hợp lí, bởi vì, tất cả các giao dịch không phải có nội dung và mục đích giống nhau mà phụ thuộc vào từng giao dịch cụ thể Thứ ba, điều kiện GDDS có hiệu lực BLDS 2015 và BLDS 2005 khác nhau
về chủ thể
Tại điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS 2005, quy định người tham gia có năng lực hành vi dân sự còn BLDS 2015 thì chủ thể có năng lực pháp luật dân sự năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập Như vậy, việc bổ sung điều kiện quy định chủ thể có năng lực hành vi dân sự vừa có năng lực pháp luật dân sự thể hiện sự tiến bộ trong sửa đổi bổ sung luật nhận định đúng đắn về điều kiện cần và đủ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự Tuy nhiên việc bổ sung thêm điều kiện về năng lực pháp luật dân sự cũng dẫn đến bất cập là chỉ cần thiếu 1 trong 2 điều kiện thì giao dịch sẽ không được thực hiện
Thứ tư, Điều 117 BLDS 2015 đưa điều kiện tự nguyện lên trước điều kiện không vi phạm điều cấm điều này có nghĩa là BLDS 2015 đề cao tính tự nguyện trong giao dịch dân sự Nhận định đúng bản chất về pháp luật dân sự đó là sự tự nguyện tự do bình đẳng Giao dịch dân sự không thể phát sinh, thay đổi, chấm dứt dựa vào yếu tố pháp luật dân sự mà phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia.Yếu tố tự nguyện là yếu tố vô cùng quan trọng trong giao dịch dân sự, bởi lẽ
đó, sự thay đổi trên là hoàn toàn phù hợp
Những điểm mới trên cho thấy sự nhìn nhận toàn diện về những điều cơ bản phù hợp trong pháp luật dân sự Việt nam thể hiện một cách linh hoạt sáng tạo
Tóm tắt bản Án số 32/2018/DS-ST
Trang 4Vào năm 2004, vợ chồng nguyên đơn có mua phần đất diện tích 200m2 của bà Đ với giá 3000 USD và có lập giấy cho nền thổ cư vào ngày 31/5/2004 Ngày 2/6/2004 bà Đ tiếp tục bán cho nguyên đơn phần đất gắn liền với căn nhà mới xây với tổng diện tích là 1051, 8m2 với số tiền 4000 USD và có làm giấy nhường đất thổ cư Ngày 16/3/2011, bà Đ có làm giấy cam kết rằng đã bán cho nguyên đơn phần đất diện tích 1251,8m2 và bà chỉ đứng tên dùm, khi nào nguyên đơn về Việt Nam thì bà trả lại đất Tuy nhiên, các loại giấy tờ trên xét về hình thức thì không tuân thủ theo quy định của pháp luật, không được công chứng, chứng thực theo quy định tại Điều 127 Luật Đất đai năm 2003 và Điều
117 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên không phát sinh hiệu lực của hợp đồng Hơn nữa, căn cứ theo quy định Luật Đất đai 2003 và Điều 121 Luật Nhà ở 2005 thì ông Ph J T và L Th H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm ở Việt Nam vì không thỏa mãn các điều kiện về việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam Vậy các giao dịch trên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và do không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 Bộ luật Dân sự 2015 và căn
cứ theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 thì các đương sự phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
Tại phiên tòa nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bà Đ phải trả cho nguyên đơn giá trị nhà và đất là 550.000.000 đồng, nhưng tại phiên hòa giải 1/12/2017, hai bên thống nhất là bà Đ chỉ hoàn trả số tiền là 350.000.000 đồng
Quyết định của Tòa án, vô hiệu các giấy giao dịch: giấy cho nền đất thổ cư 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư 2/6/2004, và giấy cam kết ngày 16/3/2011 do
vi phạm điều cấm của pháp luật
Trang 5Buộc bà LKĐ hoàn trả cho ông J Ph T và bà A Th Ph số tiền 350.000.000 đồng
Câu 2: Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam?
Ông J Ph T và bà L Th Ph là người Việt Nam ở nước ngoài nhập quốc tịch
Mỹ thì theo quy định Luật Đất Đai năm 2003 và Điều 121 của Luật Nhà ở năm
2005, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam thỏa mãn các điều kiện sau: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người có công có đóng góp với đất được nhà hoạt động văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban thường vụ quốc hội quy được sở hữu nhà
ở tại Việt Nam: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ Do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam
Câu 3: Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với
bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?
Tại phần quyết định, Tòa án căn cứ dựa trên các chứng cứ cùng với điều, khoản tại Luật đất đai 2013, Luật nhà ở 2014, Luật dân sự 2015 và Nghị quyết số 326/216/UBTVQH14 tuyên bố vô hiệu giấy cho giấy nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004 và giấy cam kết ngày 16/3/2011 của ông
T và bà H với bà Đ vì vi phạm điều cấm của pháp luật và do không tuân thủ quy định về hình thức
Trang 6Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ thể) về căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?
Căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu là hợp lý Vì Toà án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật về giao dịch dân sự với người có quốc tịch nước ngoài được quy định tại Luật nhà ở 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở 2015
Bài tập 2: Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức
Tóm tắt án :
Năm 2007, ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ, không nhận thức được Ngày 08/02/2010, vợ ông Hội là bà Hương tự ý bán căn nhà cho vợ chồng ông Hùng - bà Trinh Ngày 09/02/2010, ông Minh phát hiện cán bộ địa chính đến nhà
và bảo ông Hội điểm chỉ vào hợp đồng mua bán nhà Ngày 10/08/2010, Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự và ngày 29/10/2010, ông Hội chết Nay, chị Ánh - con cả ông Hội, yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng mua bán giữa ông Hội, bà Hương và vợ chồng ông Hùng Tại bản
án sơ thẩm, Tòa án đã chấp nhận yêu cầu của chị Ánh là hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Hội và vợ chồng ông Hùng Vợ chồng ông Hùng đã kháng cáo lên Tòa án và tại bản án phúc thẩm, Tòa án lại chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Hùng, công nhận hợp đồng mua bán giữa vợ chồng ông Hội và vợ chồng ông Hùng Cuối cùng, cả bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm bị hủy toàn bộ
Câu 1: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức
và từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
Trang 7Thực chất từ năm 2007, ông Hội bị tai biến nên phải nằm liệt một chỗ khiến ông không còn khả năng nhận thức được
Từ ngày 07/5/2010, Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự
Câu 2: Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự Vì bà Hương chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Hùng vào ngày 08/02/2010, mà trong khoảng thời gian đó, ông Hội chỉ không còn nhận thức được chứ chưa được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
Câu 3: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội là vô hiệu Vì thời điểm xác lập giao dịch thì thực chất ông Hội đã bị tai biến, nằm liệt một chỗ, không nhận thức được, dù chưa bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự Vậy nên, ông Hội không có khả năng xác lập giao dịch một cách hoàn toàn tự nguyện Do đó, hợp đồng giao dịch này đã vi phạm điều kiện về sự tự nguyện của chủ thế tham gia giao dịch dân sự, cho nên hợp đồng giao dịch vô hiệu Cơ
sở pháp lý: Điểm b, khoản 1 Điều 117 BLDS 2015
Câu 4: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết?
Bản án số 01/2006/DSST ngày 21/02/2006 Xét Tòa án Nhân dân huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái
Trang 8Tóm tắt án:
Ông Cường và bà Bính có diện tích đất 288m2 chuyển nhượng cho anh Thăng (con riêng của bà Bính) là một phần trong tổng diện tích mà mẹ ông Cường để lại sau khi chết (không có di chúc) Thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất trên là ngày 20/01/2004
Tại biên bản giám định pháp y tâm thần của tổ chức giám định pháp y tâm thần tỉnh đã kết luận: ông Cường bị mắc “loạn thần do sử dụng rượu” Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004 với biểu hiện của căn bệnh là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều khiển hành vi của mình Trên cơ sở kết luận giám định như trên, ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày 01/01/2004 Khi đó bà Bính là vợ ông Cường nên trong mọi giao dịch dân sự, bà phải tham gia với tư cách là người giám hộ để đại diện cho ông Cường, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ông Cường theo quy định của BLDS Nhưng trên thực tế trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, bà Bính đã không tham gia giao kết với tư cách là người giám hộ của ông Cường, không đăng ký giám hộ mà tham gia ký kết hợp đồng như một chủ thể sở hữu tài sản với chính con riêng của bà là anh Thăng Như vậy trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, ông Cường không hề có người giám hộ và không có ai đăng ký việc giám hộ cho ông theo quy định điều 58 và
62 BLDS
quyền sử dụng đất với ông Cường là mất năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi
Trang 9dân sự Và bà Bính là người không có quyền định đoạt, xử lý tài sản là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng mà không có sự tham gia của người đại diện cho ông Cường Vì vậy đã làm phát sinh một hợp đồng với các giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ do vi phạm quy định tại điều 133 BLDS Vì vậy cần căn cứ vào quy định tại khoản 2 điều 137 BLDS để hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên và buộc anh Thăng trả lại 288 mét vuông đất thổ cư cho ông Cường và người đại diện là anh Hưng
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ
sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên khi hủy bản án sơ thẩm là hợp lý vì thời điểm xảy ra giao dịch hợp đồng ông Hội vẫn còn sống và chưa được xác định là người mất năng lực hành vi dân sự (căn cứ vào khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 về xác định một người mất năng lực hành
vi dân sự) Tức giao dịch vẫn được thực hiện bởi chủ thể có nhận thức nên việc người không liên quan là bà Đặng Thị Ngọc Ánh khởi kiện là vô lý
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên khi hủy bản án phúc thẩm là hợp lý vì: tuy thời điểm xảy ra giao dịch hợp đồng ông Hội vẫn còn sống và chưa được xác định là người mất năng lực hành vi dân sự (căn
cứ vào khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 về xác định một người mất năng lực hành vi dân sự), nhưng căn cứ vào Điều 117 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, nó đã vi phạm vào khoản b, tức sự tự nguyện của ông Hội -một người không nhận thức được hành vi của mình Nên căn cứ vào Điều 122 và Điều 128, việc Tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của vợ chồng bà Bùi Thị
Tú Trinh và thừa nhận hợp đồng mua bán nhà là vô lý
Trang 10Câu 6: Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó có bị vô hiệu không? Vì sao?
Nếu trường hợp giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó không bị vô hiệu, vì giao dịch đó chỉ làm phát sinh quyền sở hữu căn nhà của ông Hội (Căn cứ pháp lý: điểm b, khoản 2, Điều 125 Bộ Luật dân
sự 2015)
Bài tập 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối
Tóm tắt án số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/8/2010:
Vợ chồng ông Nguyễn Danh Đô và bà Phạm Thị Thu đã bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp, TP.HCM cho bà Trần Thị Phố, ngày 25/3/2004 đã được công chứng chứng thực và hoàn thành thủ tục sang tên Các bên đều thừa nhận giá mua bán căn nhà là 330 lượng vàng, bà Phố trả trước 230 lượng vàng, còn 100 lượng vàng chưa thanh toán Nhưng anh Nguyễn Thế Vinh - con bà Phố lại thỏa thuận với vợ chồng ông Đô hoán nhượng cho bà Thu sở hữu, sử dụng ½ diện tích nhà, đất tại thửa 2352, phường An Lợi Đông, quận 2 TP.HCM và bà Phố không phải trả 100 lượng vàng còn lại Tại thời điểm giao dịch hoán nhượng, UBND TP.HCM đã có quyết định về việc thu hồi đất và giao đất xây dựng khu đô thị mới và quyết định về đền bù, hỗ trợ tái định cư Ông Đô và bà Thu không được thông báo biết tình trạng về căn nhà là xây dựng trái phép nên không được đền bù và thửa đất không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư Mặt khác, thỏa thuận hoán nhượng không có chữ ký của ông Đô nên thỏa thuận hoán nhượng giữa anh Vinh và bà Thu là vô hiệu
Câu 1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo BLDS 2005 và BLDS 2015.
Trang 11Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối là khi trong lúc giao dịch xuất hiện hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó (Cơ sở pháp lý: Điều 127
Bộ luật Dân sự 2015)
Câu 2: Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý một bên cố tình không cung cấp thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng
đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối?
Trong Quyết định 521, Tòa án nhận thấy tại thời điểm giao dịch hoán nhượng thì Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có quyết định số 1997/QĐ-UB ngày 10/05/2002 (về việc thu hồi đất và giao đất xây dựng khu đô thị mới) và Quyết định số 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002 (về đền bù, hỗ trợ tái định cư) Việc anh Vinh và những người liên quan không thông báo cho ông Đô,
bà Thu biết về tình trạng nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù là có sự gian dối Mặt khác, tại bản “Thỏa thuận hoán nhượng” không có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cùng bà Thu cho bà Phố Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu bị vô hiệu và phải được giải quyết theo Điều 132 BLDS
Câu 4: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ anh/chị biết.