1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Tư pháp Quốc tế

100 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tài Liệu Hướng Dẫn Ôn Tập Môn Tư Pháp Quốc Tế
Tác giả TS. Trương Thị Thanh Trúc, ThS. Nguyễn Ngọc Thảo Phương
Trường học Trường Đại Học Ngân Hàng Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tư Pháp Quốc Tế
Thể loại tài liệu hướng dẫn
Năm xuất bản 2024
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 1,09 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ (8)
    • 1.1 Khái niệm Tư pháp quốc tế (8)
      • 1.1.1 Đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế (8)
      • 1.1.2 Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế (9)
      • 1.1.3 Mối quan hệ giữa Tư pháp quốc tế và Công pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật (12)
      • 1.1.4 Lịch sử hình thành và phát triển của Tư pháp quốc tế (13)
    • 1.2 Nguồn của Tư pháp quốc tế (14)
      • 1.2.1 Khái niệm nguồn của Tư pháp quốc tế (14)
      • 1.2.2 Các loại nguồn của Tư pháp quốc tế (14)
    • 1.3 Một số học thuyết cơ bản về Tư pháp quốc tế (17)
    • 1.4 Chủ thể của Tư pháp quốc tế (17)
      • 1.4.1 Khái niệm chủ thể của Tư pháp quốc tế (17)
      • 1.4.2 Người nước ngoài (18)
      • 1.3.3 Pháp nhân trong Tư pháp quốc tế (24)
      • 1.4.4 Quốc gia – chủ thể đặc biệt trong Tư pháp quốc tế (28)
  • CHƯƠNG II. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT (31)
    • 2.1 Khái niệm xung đột pháp luật (31)
      • 2.1.1 Định nghĩa xung đột pháp luật (31)
      • 2.1.2 Nguyên nhân của xung đột pháp luật (31)
      • 2.1.3 Phạm vi xung đột pháp luật (32)
    • 2.2 Quy phạm xung đột (32)
      • 2.2.1 Khái niệm quy phạm xung đột (0)
      • 2.2.2 Cơ cấu quy phạm xung đột (33)
      • 2.2.3 Phân loại quy phạm xung đột (34)
    • 2.3 Giải quyết xung đột pháp luật (35)
      • 2.3.1 Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật (35)
      • 2.3.2 Một số kiểu hệ thuộc cơ bản giải quyết xung đột pháp luật (37)
  • CHƯƠNG III. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN QUỐC GIA TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI (47)
    • 3.1 Khái quát về thẩm quyền giải quyết của tòa án quốc gia đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài (47)
      • 3.1.1 Khái niệm thẩm quyền giải quyết của tòa án quốc gia đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài (47)
      • 3.1.2 Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của tòa án quốc gia đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài (47)
      • 3.2.1 Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam theo các Hiệp định Tương trợ tư pháp (49)
      • 3.2.2 Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (50)
  • CHƯƠNG IV. TỐ TỤNG DÂN SỰ QUỐC TẾ (53)
    • 4.1 Những vấn đề lý luận chung (53)
      • 4.1.1 Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế (53)
      • 4.1.2 Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế (53)
    • 4.2 Các nội dung cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế (54)
      • 4.2.1 Xác định địa vị pháp lý của chủ thể nước ngoài trong tố tụng dân sự quốc tế (54)
      • 4.2.2 Ủy thác tư pháp quốc tế (55)
      • 4.2.3 Công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài (56)
  • CHƯƠNG V. QUAN HỆ SỞ HỮU TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ (64)
    • 5.1 Khái niệm quyền sở hữu trong Tư pháp quốc tế (64)
    • 5.2 Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu (65)
      • 5.2.1 Nguyên tắc chung trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu (65)
      • 5.2.2 Các trường hợp ngoại lệ không sử dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản (66)
    • 5.3. Quốc hữu hóa (67)
      • 5.3.1. Khái niệm quốc hữu hóa (67)
      • 5.3.2 Hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa (67)
  • CHƯƠNG VI. QUAN HỆ HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ (70)
    • 6.1 Khái niệm hợp đồng trong Tư pháp quốc tế (70)
      • 6.1.1 Khái niệm về hợp đồng (70)
      • 6.1.2 Quan hệ hợp đồng do Tư pháp quốc tế điều chỉnh (70)
      • 6.1.3 Nội dung điều chỉnh của Tư pháp quốc tế đối với quan hệ hợp đồng (71)
    • 6.2 Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng (71)
      • 6.2.1 Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng (72)
      • 6.2.2 Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng (73)
      • 6.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (74)
    • 6.3 Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (75)
      • 6.3.1 Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo pháp luật Việt Nam (75)
  • CHƯƠNG VII. THỪA KẾ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ (0)
    • 7.1 Khái quát chung về thừa kế (80)
      • 7.1.1 Khái niệm về thừa kế (80)
      • 7.1.2 Quan hệ thừa kế do Tư pháp quốc tế điều chỉnh (80)
      • 7.1.3 Nội dung điều chỉnh của Tư pháp quốc tế đối với quan hệ thừa kế (81)
    • 7.2 Giải quyết xung đột về thừa kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (83)
      • 7.2.1 Giải quyết xung đột về thừa kế theo các Hiệp định Tương trợ tư pháp (83)
      • 7.2.2 Giải quyết xung đột về thừa kế theo pháp luật Việt Nam (84)
    • 7.3 Giải quyết di sản không người thừa kế trong Tư pháp quốc tế (85)
  • CHƯƠNG VIII. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ (0)
    • 8.1 Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình trong Tư pháp quốc tế (88)
      • 8.1.1 Khái niệm hôn nhân (88)
      • 8.1.2 Khái niệm về hôn nhân và gia đình trong Tư pháp quốc tế (88)
    • 8.2 Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn (89)
      • 8.2.1 Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn (89)
      • 8.2.2 Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (90)
      • 8.2.3 Thẩm quyền đăng ký kết hôn (91)
    • 8.3 Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn (92)
      • 8.3.1 Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên (92)
      • 8.3.2 Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo pháp luật Việt Nam (92)
    • 8.4 Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng (93)
      • 8.4.1 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên (93)
      • 8.4.2 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo pháp luật Việt Nam (93)
    • 8.5 Quan hệ giữa cha mẹ và con cái (0)
      • 8.5.1 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ giữa cha mẹ và con cái theo các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên (94)
      • 8.5.2 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ giữa cha mẹ và con cái theo pháp luật Việt Nam (94)
    • 8.6 Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (95)
      • 8.6.1 Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (95)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ MỤC TIÊU BÀI HỌC Qua bài học, người học có khả năng: Hiểu biết về đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế; Nhận diện được yếu

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Khái niệm Tư pháp quốc tế

1.1.1 Đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế

Mỗi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh riêng, bao gồm các nhóm quan hệ xã hội mà các quy phạm pháp luật điều chỉnh Tư pháp quốc tế, với tư cách là một ngành luật độc lập, cũng sở hữu đối tượng điều chỉnh riêng biệt.

Sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia là một thực tế khách quan, tạo ra mối quan hệ đa dạng không chỉ giữa các quốc gia mà còn giữa các cá nhân và pháp nhân Các quan hệ này được điều chỉnh bởi Công pháp quốc tế, trong khi các quan hệ pháp lý giữa công dân, cơ quan và tổ chức của các quốc gia được quản lý bởi Tư pháp quốc tế Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài, cũng như quan hệ tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Tư pháp quốc tế của hầu hết các quốc gia xác định “yếu tố nước ngoài” dựa trên ba tiêu chí chính: sự tham gia của người nước ngoài, pháp nhân hoặc tổ chức từ nước ngoài; tài sản liên quan đến quan hệ dân sự tại nước ngoài; và căn cứ để thiết lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó diễn ra ở nước ngoài.

Trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, "yếu tố nước ngoài" được xác định rõ ràng trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng, bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, và Luật Nuôi con nuôi.

Bộ luật Dân sự năm 2015 định nghĩa quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ trong đó ít nhất một bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài Ngoài ra, quan hệ này cũng có thể xảy ra giữa công dân hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng có căn cứ xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt tại nước ngoài hoặc đối tượng của quan hệ đó nằm ở nước ngoài.

Nhìn chung, “yếu tố nước ngoài” trong các quan hệ dân sự gồm các trường hợp sau:

Chủ thể của quan hệ hôn nhân và gia đình liên quan đến ít nhất một bên là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài Theo Khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hiểu là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam sống lâu dài tại nước ngoài Trong các mối quan hệ này, người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ đóng vai trò là "yếu tố nước ngoài".

Về đối tượng: Tài sản liên quan đến quan hệ dân sự ở nước ngoài

Về sự kiện pháp lý: Căn cứ xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài

1.1.2 Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế

Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là các biện pháp mà quy phạm pháp luật tác động lên quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh Trong Tư pháp quốc tế, phương pháp điều chỉnh bao gồm những cách thức mà quy phạm pháp luật ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài Đối tượng điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ dân sự quốc tế, do đó, phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế cần xem xét cả các quy định của luật dân sự.

1 Khoản 2 Điều 464 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

2 Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

3 Khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010

Theo Khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, có hai phương pháp điều chỉnh đặc thù: phương pháp xung đột và phương pháp thực chất Phương pháp xung đột là một trong những phương pháp quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến luật pháp giữa các quốc gia.

Phương pháp xung đột là phương pháp áp dụng các quy phạm xung đột nhằm điều chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc tế

Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật đặc thù của Tư pháp quốc tế, không quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ Tư pháp quốc tế, mà chỉ xác định hệ thống pháp luật nào được áp dụng Ví dụ, năng lực lập di chúc phải tuân theo pháp luật của quốc gia nơi người lập di chúc là công dân (Khoản 1 Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015) Do đó, phương pháp xung đột còn được gọi là phương pháp gián tiếp.

Phương pháp xung đột là phương pháp gắn chặt với sự ra đời và phát triển của

Tư pháp quốc tế là phương pháp điều chỉnh chính trong việc quản lý các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Sự tồn tại của yếu tố nước ngoài dẫn đến việc có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng áp dụng cho một quan hệ pháp luật cụ thể Sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và kỹ thuật lập pháp giữa các quốc gia khiến cho hệ thống pháp luật có thể mâu thuẫn Do đó, cần xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự, và quá trình này được thực hiện thông qua quy phạm xung đột.

Tuy nhiên, phương pháp xung đột có nhược điểm cơ bản sau:

Các quy phạm xung đột không trực tiếp xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ Tư pháp quốc tế, mà chỉ dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật của một quốc gia cụ thể Để giải quyết mối quan hệ này, cần căn cứ vào nội dung quy phạm pháp luật trong hệ thống mà quy phạm xung đột đã chỉ dẫn Khi áp dụng pháp luật nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền sẽ phải đối mặt với những vấn đề phức tạp như xác định và giải thích nội dung pháp luật nước ngoài.

Việc áp dụng quy phạm xung đột không phải lúc nào cũng xác định rõ hệ thống pháp luật cần áp dụng, mà có thể dẫn đến tình huống phải tham chiếu ngược trở lại, hoặc đến pháp luật của nước thứ ba, cũng như việc bảo lưu trật tự công cộng.

Quy tắc giải quyết xung đột giữa các quốc gia thường khác nhau, dẫn đến nhiều khó khăn cho các bên liên quan và cơ quan có thẩm quyền khi xử lý tranh chấp Phương pháp thực chất trong giải quyết xung đột là cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong quá trình này.

Phương pháp thực chất là cách áp dụng các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh quan hệ trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế Các quy phạm này quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia Có hai loại quy phạm pháp luật thực chất: quy phạm thực chất thống nhất và quy phạm thực chất thông thường.

Quy phạm thực chất thống nhất là những quy định được xác lập trong các điều ước quốc tế hoặc được các quốc gia công nhận như tập quán quốc tế Ví dụ điển hình bao gồm các quy phạm trong Incoterms và Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế.

Nguồn của Tư pháp quốc tế

1.2.1 Khái niệm nguồn của Tư pháp quốc tế

Nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm các hình thức chính thức thể hiện các quy tắc pháp lý được nhà nước công nhận, có giá trị pháp lý để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn Đây là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế, chứa đựng và biểu hiện các quy tắc cần thiết cho việc áp dụng pháp luật quốc tế.

Nguồn của Tư pháp quốc tế rất phong phú và đa dạng, bao gồm điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, tập quán quốc tế và án lệ từ thực tiễn tòa án và trọng tài Khi giải quyết một tình huống Tư pháp quốc tế, việc xác định loại nguồn áp dụng là rất quan trọng Một đặc điểm cơ bản của nguồn Tư pháp quốc tế là tính quốc tế, được thể hiện qua các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.

“Tính quốc gia”: Thể hiện bởi nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm pháp luật của mỗi quốc gia

1.2.2 Các loại nguồn của Tư pháp quốc tế

Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của quan hệ hợp tác quốc tế đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể về số lượng các điều ước quốc tế, biến chúng thành một trong những nguồn luật chính của Tư pháp quốc tế Thực tiễn cho thấy, trong nhiều lĩnh vực và mối quan hệ cụ thể, các quy phạm của điều ước quốc tế đóng vai trò chủ đạo trong việc điều chỉnh các quan hệ trong Tư pháp quốc tế.

So với luật quốc gia, điều ước quốc tế có nhiều ưu điểm hơn trong việc điều chỉnh quan hệ Tư pháp quốc tế nhờ vào việc hình thành từ thỏa thuận giữa các quốc gia, tạo ra quy phạm thống nhất và quy phạm xung đột đồng bộ Sự áp dụng đồng nhất của các quy phạm này giúp giải quyết vấn đề trong Tư pháp quốc tế một cách thuận lợi và nhanh chóng Để điều chỉnh quan hệ Tư pháp quốc tế, nhiều quốc gia đã ký kết hàng loạt điều ước quốc tế đa phương và song phương.

Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế đa phương quan trọng như Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Công ước Lahaye về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp, và Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài Gần đây, Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Công ước Lahaye năm 1965 về tống đạt giấy tờ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại cũng đã được ký kết Ngoài ra, Việt Nam còn ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương như Hiệp định Tương trợ Tư pháp về dân sự, Hiệp định thương mại song phương, và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, nhằm thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế.

Việt Nam có thể áp dụng các điều ước quốc tế đa phương mà nước này không phải là thành viên để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nếu các bên liên quan lựa chọn những điều ước này làm luật áp dụng.

Pháp luật quốc gia là nguồn cơ bản của Tư pháp quốc tế, bao gồm cả văn bản quy phạm pháp luật và luật bất thành văn như tập quán và án lệ Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu giữa các thể nhân và pháp nhân Do đó, các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc tế.

Tùy thuộc vào từng quốc gia, quy phạm Tư pháp quốc tế có thể được quy định trong một đạo luật riêng biệt như Luật Tư pháp quốc tế của Nhật Bản, Thái Lan, Ba Lan, và Anbani, hoặc được phân tán trong các văn bản pháp luật liên quan đến dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, và lao động như ở Pháp, Đức và Hà Lan.

Việt Nam hiện chưa có một đạo luật riêng biệt về Tư pháp quốc tế, mà các quy phạm pháp luật liên quan được phân tán trong nhiều văn bản pháp lý như Luật Hiến pháp, Luật Hàng hải, Luật Thương mại, Luật Hôn nhân và Gia đình, và Luật Nuôi con nuôi Tuy nhiên, chỉ những quy phạm điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài mới được coi là nguồn của Tư pháp quốc tế.

6 Điều 665 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam quy định rằng trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các bên tham gia sẽ tuân theo các quy định của điều ước quốc tế liên quan.

Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành qua thời gian dài, được công nhận và áp dụng rộng rãi bởi nhiều quốc gia Nó đóng vai trò quan trọng trong cả Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và hàng hải Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thường được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước hoặc các điều ước quốc tế Tuy nhiên, khi không có quy định cụ thể trong các văn bản này, tập quán quốc tế có thể được áp dụng nếu các bên có thỏa thuận hoặc được quy định bởi điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc gia.

Phụ thuộc vào tính chất và giá trị hiệu lực của tập quán quốc tế mà có thể chia thành các loại sau:

Tập quán mang tính chất nguyên tắc là những quy tắc cơ bản, nền tảng, bao trùm, đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập chủ quyền và bình đẳng giữa các quốc gia, đồng thời có giá trị bắt buộc chung cho tất cả các quốc gia.

- Tập quán quốc tế mang tính chất chung: Là tập quán được nhiều nước thừa nhận và áp dụng rộng rãi mọi nơi trên thế giới

Tập quán mang tính chất khu vực đề cập đến những phong tục và quy định đặc trưng được áp dụng tại từng khu vực, quốc gia, hoặc thậm chí là tại các cảng biển và sân bay cụ thể của mỗi nước.

1.2.2.4 Án lệ Án lệ là một loại nguồn khá phổ biến ở các nước tư bản Án lệ có ý nghĩa thiết thực trong việc phát triển hệ thống luật pháp trong nước của các nước này Án lệ là các bản án hoặc quyết định của tòa án mà trong đó thể hiện các quan điểm của thẩm phán đối với các vấn đề pháp lý có tính chất quyết định trong việc giải quyết các vụ việc nhất định và mang ý nghĩa giải quyết đối với các quan hệ tương ứng trong tương lai Ở các quốc gia theo hệ thống Common Law, án lệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Việt Nam thừa nhận án lệ là một loại nguồn pháp luật

Theo Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên có quyền lựa chọn áp dụng tập quán quốc tế nếu phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 664 Tuy nhiên, nếu việc áp dụng tập quán quốc tế gây ra hậu quả trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, thì pháp luật Việt Nam sẽ được ưu tiên áp dụng.

Một số học thuyết cơ bản về Tư pháp quốc tế

- Nền tảng của các học thuyết Tư pháp quốc tế: Luật La Mã

- Mầm móng tư pháp quốc tế thời trung cổ: Trường phái chú thích

- Học thuyết Dumoulin ở Pháp thế kỷ XVI: Trường pháo quy chế

- Học thuyết lễ nhượng quốc tế ở Hà Lan thế kỷ XVII

- Học thuyết lãnh thổ của Anh - Mỹ thế kỷ XĨ-đầu thế kỷ XX

- Học thuyết luật quốc tế chung của Fryderyk Karl Von Savigni (1779-1861)

- Học thuyết dân tộc của Pasquale Stanislao Mancini )1817-1880

- Một số học thuyết về Tư pháp quốc tế giữa thế kỷ XX 8

Chủ thể của Tư pháp quốc tế

1.4.1 Khái niệm chủ thể của Tư pháp quốc tế

Chủ thể quan hệ pháp luật là những bên tham gia vào quan hệ pháp luật và có quyền, nghĩa vụ pháp lý theo quy định Trong quan hệ pháp luật quốc gia, các cá nhân và tổ chức cần có năng lực chủ thể để tham gia Năng lực chủ thể bao gồm hai yếu tố: năng lực pháp luật, tức khả năng có quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý theo quy định, và năng lực hành vi, tức khả năng xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý thông qua hành vi của mình.

Chủ thể của Tư pháp quốc tế là những thực thể độc lập tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, sở hữu đầy đủ quyền và nghĩa vụ, đồng thời có khả năng chịu trách nhiệm pháp lý cho những hành vi mà chính mình thực hiện.

Chủ thể của Tư pháp quốc tế có dấu hiệu cơ bản sau:

- Tham gia trực tiếp vào các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế

- Có ý chí độc lập, không lệ thuộc vào các chủ thể khác trong quan hệ Tư pháp quốc tế

- Có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định được bảo hộ theo các quy định của Tư pháp quốc tế

- Có khả năng độc lập gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định đối với những hành vi do mình gây ra

8 Xem thêm: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Hồng Đức, tr.77-102

Chủ thể của Tư pháp quốc tế bao gồm cá nhân, tổ chức và quốc gia Trong chương này, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu các chủ thể đặc thù như người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài và quốc gia.

Sự xuất hiện của công dân nước ngoài trên lãnh thổ của một quốc gia là kết quả của nhiều nguyên nhân lịch sử khác nhau Hiện tượng này không chỉ liên quan đến công dân của quốc gia đó mà còn bao gồm công dân từ các quốc gia khác, tạo nên một thực tế khách quan Do đó, việc nghiên cứu khái niệm “người nước ngoài” trở nên cần thiết và đã được phát triển trong lĩnh vực khoa học pháp lý cả ở Việt Nam và trên thế giới.

Khái niệm người được ngoài được hiểu theo hai nghĩa như sau:

Nghĩa hẹp: người nước ngoài là thể nhân nước ngoài, bao gồm những người không có quốc tịch của nước nơi mà họ đang cư trú

Nghĩa rộng: người nước ngoài dùng để chỉ thể nhân, pháp nhân nước ngoài, và thậm chí trong một số trường hợp là quốc gia nước ngoài

Theo pháp luật Việt Nam, người nước ngoài được định nghĩa là những cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam, bao gồm cả những người có quốc tịch nước ngoài và những người không có quốc tịch.

Có nhiều cách khác nhau để phân loại người nước ngoài dựa trên các tiêu chí khác nhau

Theo cơ sở quốc tịch, người nước ngoài được phân loại thành hai nhóm: người có quốc tịch nước ngoài, tức là những người mang ít nhất một quốc tịch nước ngoài, và người không có quốc tịch.

Dựa vào nơi cư trú, phân thành: Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại nước ngoài

Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được phân loại theo thời hạn cư trú thành hai nhóm chính: người nước ngoài thường trú và người nước ngoài tạm trú Người nước ngoài thường trú là công dân đến từ các quốc gia khác, có quyền lưu trú lâu dài tại Việt Nam.

Theo Khoản 5 Điều 3 của Luật Quốc tịch năm 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được xác định là công dân nước ngoài, bao gồm cả những người không có quốc tịch đang thường trú hoặc tạm trú tại đây.

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, được sửa đổi bổ sung năm 2019, quy định rằng người nước ngoài là những cá nhân có giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch, có quyền nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và cư trú tại Việt Nam Điều này bao gồm cả những người không quốc tịch có nhu cầu sinh sống, làm ăn lâu dài tại Việt Nam và những người nước ngoài tạm trú trong nước.

Theo quy chế pháp lý, người nước ngoài được phân thành ba nhóm: (i) Người nước ngoài có quy chế ngoại giao và các quy chế tương tự; (ii) Người nước ngoài theo các Hiệp định riêng lẻ, không thuộc quy chế ngoại giao, như chuyên gia, thực tập sinh, và nhà đầu tư; và (iii) Người nước ngoài không thuộc hai nhóm trên, chịu sự điều chỉnh chủ yếu bởi pháp luật của nước sở tại mà không được hưởng các chế độ pháp lý đặc biệt.

1.4.2.3 Địa vị pháp lý của người nước ngoài a Cơ sở pháp lý quy định địa vị pháp luật dân sự của người nước ngoài

Giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người nước ngoài là vấn đề quan trọng trong Tư pháp quốc tế Người nước ngoài đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống pháp luật quốc tế, do đó, việc xác định địa vị pháp lý của họ không thể thiếu việc phân tích các thuộc tính pháp lý này Sự hiểu biết về năng lực pháp luật và năng lực hành vi giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người nước ngoài trong các mối quan hệ pháp lý quốc tế.

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi xác định quyền năng của các chủ thể trong quan hệ pháp luật Để giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài, nhiều quốc gia quy định rằng người nước ngoài có năng lực pháp luật tương đương với công dân nước sở tại, trừ một số ngoại lệ trong hệ thống pháp luật riêng hoặc các điều ước quốc tế Về năng lực hành vi dân sự, hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch, trong khi hệ thống pháp luật Anh – Mỹ lại dựa vào nguyên tắc luật nơi cư trú.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài được xác định dựa trên pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, họ có năng lực pháp luật dân sự tương đương với công dân Việt Nam Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài cũng được xác định theo pháp luật của quốc gia mà họ là công dân.

Theo Điều 673 Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi thực hiện giao dịch tại Việt Nam được xác lập theo pháp luật Việt Nam Trong trường hợp pháp luật Việt Nam tham chiếu đến luật của quốc gia nơi công dân nước ngoài cư trú, thì pháp luật áp dụng cho người không quốc tịch sẽ là pháp luật của quốc gia nơi họ đang sinh sống; nếu không có nơi cư trú, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng Điều này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng quy chế pháp lý cho người nước ngoài tại Việt Nam.

Quy chế pháp lý áp dụng cho một đối tượng bao gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ mà Nhà nước dành cho đối tượng đó trong các quan hệ pháp luật cụ thể, cùng với cơ chế pháp luật đảm bảo thực thi các quyền và nghĩa vụ này Đối với người nước ngoài, quy chế pháp lý dân sự là các quy định về quyền và nghĩa vụ mà quốc gia sở tại cung cấp khi họ tham gia vào các quan hệ dân sự, đồng thời có cơ chế pháp luật đảm bảo việc thực thi các quyền và nghĩa vụ này.

XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT

Khái niệm xung đột pháp luật

2.1.1 Định nghĩa xung đột pháp luật Để điều chỉnh các mối quan hệ xảy ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia thì pháp luật của chính quốc gia đó sẽ được áp dụng Tư pháp quốc tế có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Do đó, các quan hệ này không chỉ chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của một quốc gia nhất định mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật của quốc gia khác nhau Các quốc gia lại có những quy định mâu thuẫn, đối lập với nhau dẫn đến xung đột pháp luật Như vậy, xung đột pháp luật là trạng thái hai hay nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhất định

Để giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, cần lựa chọn một hệ thống pháp luật phù hợp Việc chọn luật phải dựa trên các nguyên tắc nhất định, không chỉ dựa vào ý chí của tòa án có thẩm quyền hay hoàn toàn phụ thuộc vào mong muốn của các bên liên quan.

2.1.2 Nguyên nhân của xung đột pháp luật

Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thường liên quan đến ít nhất hai quốc gia và không chỉ tuân theo pháp luật của một quốc gia Về lý thuyết, mỗi quan hệ xã hội liên quan đến nhiều quốc gia sẽ có tương ứng nhiều hệ thống pháp luật áp dụng để giải quyết Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia dẫn đến sự bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế.

Pháp luật của các quốc gia khác nhau trong việc xử lý các vấn đề cụ thể do sự khác biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên và quan điểm lập pháp Những đặc trưng của hệ thống pháp luật cũng góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách giải quyết các vấn đề này.

Các quốc gia đều nỗ lực áp dụng pháp luật của mình trong các mối quan hệ liên quan đến công dân, cơ quan và tổ chức Tuy nhiên, việc chỉ quy định các quy phạm thông thường trong pháp luật nội địa không đủ để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Điều này đòi hỏi phải tuân theo nguyên tắc có đi có lại, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức tại quốc gia khác.

2.1.3 Phạm vi xung đột pháp luật

Xung đột pháp luật có thể xuất hiện trong mọi lĩnh vực quan hệ, bao gồm dân sự, hành chính và hình sự, không chỉ giới hạn trong các quan hệ dân sự Ví dụ, khi công dân Việt Nam ra nước ngoài, họ có thể gặp phải những vấn đề pháp lý phức tạp liên quan đến các quy định và luật pháp của quốc gia khác.

Du lịch tại Việt Nam có thể gặp rủi ro khi một số du khách, như công dân Anh, có hành vi vi phạm pháp luật, chẳng hạn như tội giết người hoặc gây ảnh hưởng xấu đến môi trường Tuy nhiên, luật pháp Việt Nam rất nghiêm ngặt trong việc áp dụng các quy định hành chính và hình sự theo lãnh thổ, do đó không có quy phạm xung đột và pháp luật nước ngoài không được áp dụng trong các trường hợp này.

Lĩnh vực sở hữu trí tuệ không gặp phải xung đột pháp luật vì quyền sở hữu trí tuệ chỉ được bảo vệ trong phạm vi lãnh thổ nhất định Nếu một sản phẩm hoặc tác phẩm xuất hiện tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ đó chỉ được bảo hộ trong lãnh thổ Việt Nam, trừ khi có điều ước quốc tế điều chỉnh khác.

Quy phạm xung đột

2.2.1 Khái niệm quy phạm xung đột

Quy phạm xung đột xác định luật pháp của quốc gia nào sẽ được áp dụng để giải quyết các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong những tình huống cụ thể.

Quy phạm xung đột không trực tiếp xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp lý, mà chỉ chỉ định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng Tính chất của quy phạm xung đột là “dẫn chiếu”, vì nó xác định hệ thống pháp luật có thẩm quyền để giải quyết một quan hệ cụ thể.

Để giải quyết các quan hệ pháp lý quốc tế, cơ quan có thẩm quyền cần dựa vào hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột chỉ định Quy phạm xung đột xác định các quy tắc nhằm xác định hệ thống pháp luật quốc gia áp dụng cho các quan hệ tư pháp quốc tế Chẳng hạn, vấn đề thừa kế sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của quốc gia mà người để lại di sản có quốc tịch tại thời điểm qua đời.

Theo Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của quốc gia nơi bất động sản đó tọa lạc.

2.2.2 Cơ cấu quy phạm xung đột

Cơ cấu của quy phạm pháp luật quốc gia thông thường bao gồm ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài Trong đó:

Giả định là yếu tố quan trọng trong việc xác định các tình huống, hoàn cảnh và điều kiện có thể xảy ra trong đời sống xã hội, từ đó quy phạm pháp luật sẽ tác động đến những chủ thể cụ thể.

Quy định là những hướng dẫn về cách ứng xử mà các cá nhân hoặc tổ chức cần thực hiện trong các tình huống cụ thể được đề cập trong phần giả định.

Chế tài là các biện pháp trừng phạt mà các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với những chủ thể vi phạm pháp luật, tức là không tuân thủ các quy định đã được đề ra.

Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật có tính chất điều chỉnh gián tiếp, không giải quyết trực tiếp vấn đề mà chỉ xác định luật của nước nào sẽ áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Cấu trúc của quy phạm xung đột gồm hai bộ phận chính.

Phần phạm vi: Là phần chỉ ra những quan hệ xã hội nào được quy phạm xung đột đó điều chỉnh

Phần hệ thuộc: Là phần chỉ ra hệ thống pháp luật cần được áp dụng đối với các quan hệ xã hội do phần phạm vi nêu ra

Năng lực lập di chúc, cũng như quyền thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc, được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm thực hiện các hành động này, theo quy định tại Khoản 1 Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Năng lực lập di chúc, cũng như việc thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc, được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm thực hiện các hành động này.

Thừa kế có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thuộc khác nhau, theo Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015 Cụ thể, quyền thừa kế được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người để lại di sản có quốc tịch trước khi qua đời, trong khi việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia nơi bất động sản đó tọa lạc Điều này cho thấy rằng trong lĩnh vực thừa kế, có hai hệ thuộc quan trọng cần lưu ý: quốc tịch của người để lại di sản và vị trí của bất động sản.

Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của quốc gia mà họ có quốc tịch, theo quy định tại Khoản 1 Điều 673 và Khoản 1 Điều 674 Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều này cho thấy rằng một hệ thuộc luật quốc tịch có thể được áp dụng để điều chỉnh nhiều phạm vi khác nhau, cụ thể là trong việc xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân.

2.2.3 Phân loại quy phạm xung đột

Trong khoa học Tư pháp quốc tế có rất nhiều cách phân loại quy phạm xung đột dựa vào các căn cứ khác nhau

+ Căn cứ vào nguồn, quy phạm xung đột bao gồm:

Quy phạm xung đột thống nhất là những quy định mà các quốc gia thống nhất thông qua các điều ước quốc tế hoặc bằng cách công nhận các tập quán quốc tế.

Quy phạm xung đột trong nước là các quy tắc pháp lý mà các quốc gia thiết lập để hướng dẫn các cơ quan có thẩm quyền và các bên tham gia quan hệ tư pháp quốc tế trong việc lựa chọn luật áp dụng cho các mối quan hệ này.

+ Căn cứ vào hình thức biểu hiện thì quy phạm xung đột gồm:

Quy phạm xung đột một chiều: Là quy phạm xung đột chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước cụ thể

Quy phạm xung đột hai chiều đề cập đến khả năng áp dụng pháp luật trong nước hoặc pháp luật nước ngoài để điều chỉnh một quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể.

+ Căn cứ vào tính chất của quy phạm xung đột, quy phạm xung đột gồm:

Giải quyết xung đột pháp luật

2.3.1 Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

Có hai phương pháp chủ yếu để giải quyết xung đột pháp luật, đó là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất

Phương pháp xung đột là cách thức áp dụng quy phạm xung đột nhằm giải quyết xung đột pháp luật Phương pháp này đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử Tư pháp quốc tế và vẫn giữ vai trò chính thống cho đến ngày nay Ngành luật này, được biết đến từ khoảng thế kỷ XVII, đã được gọi là luật xung đột ngay từ những ngày đầu hình thành.

Hiện nay, một số quốc gia như Anh và Mỹ vẫn sử dụng đồng thời hai thuật ngữ "luật xung đột" (Conflict of Law) và "tư pháp quốc tế" (Private International Law).

Phương pháp xung đột được xây dựng trên hệ thống quy phạm xung đột của quốc gia, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phải lựa chọn pháp luật liên quan đến yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên Việc lựa chọn này dựa trên quy định của các quy phạm xung đột Phương pháp xung đột hiện đang được áp dụng rộng rãi trong Tư pháp quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập và duy trì trật tự pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự quốc tế.

Hạn chế của phương pháp xung đột:

- Không đảm bảo được một quyết định nhất quán đối với một vụ việc nếu tòa án của các nước khác nhau giải quyết

- Là phương pháp trừu tượng, bởi phải có chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực pháp luật mới có thể hiểu được

Phương pháp xung đột không ngừng được cải tiến và pháp điển hóa trong bối cảnh quốc tế, đồng thời cũng được bổ sung và hoàn thiện trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia.

Phương pháp thực chất là phương pháp áp dụng quy phạm pháp luật thực chất để giải quyết xung đột pháp luật

Quy phạm thực chất là quy định pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ Tư pháp quốc tế Khi giải quyết mối quan hệ cụ thể, cơ quan có thẩm quyền và các đương sự chỉ cần dựa vào nội dung quy phạm thực chất mà không cần chọn luật áp dụng Việc xây dựng và áp dụng các quy phạm này trở thành một phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả để giải quyết xung đột pháp luật.

Hiện nay, nhiều quốc gia đang hướng tới việc ký kết các điều ước quốc tế nhằm xây dựng quy phạm thực chất thống nhất, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế Một số ý kiến cho rằng cần tập trung vào việc xây dựng các quy phạm này để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, giúp giảm thiểu vấn đề xác định pháp luật áp dụng Tuy nhiên, việc này gặp khó khăn do lợi ích và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia khác nhau Trên thực tế, các điều ước quốc tế chủ yếu tập trung vào quy phạm trong lĩnh vực thương mại để điều chỉnh quan hệ tài sản, nhưng vẫn chưa bao quát hết các quan hệ này Do đó, mặc dù xây dựng quy phạm thực chất là một phương pháp giải quyết xung đột pháp luật hiệu quả, nhưng nó chỉ là một trong nhiều phương pháp và không thể hoàn toàn thay thế phương pháp xung đột.

Quy phạm thực chất bao gồm hai loại: quy phạm thực chất thống nhất và quy phạm thực chất thông thường

Quy phạm thực chất thống nhất là những quy định mà các bên tham gia đã thỏa thuận và thống nhất trong các điều ước quốc tế, hoặc được công nhận trong các tập quán quốc tế.

Kể từ những năm 1920, nhiều điều ước quốc tế đa phương đã được ký kết và thực hiện, quy định các quy phạm thực chất, đánh dấu một xu hướng tích cực trong Tư pháp quốc tế Một số điều ước quan trọng bao gồm Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Đồng thời, trong các điều ước quốc tế song phương, các quốc gia cũng đã xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất nhằm giải quyết xung đột pháp luật giữa họ.

Các quy phạm thực chất thống nhất được ghi nhận trong tập quán quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và hàng hải Incoterms, với các phiên bản qua các năm, là bộ quy tắc nổi tiếng và được áp dụng rộng rãi nhất trong lĩnh vực này.

Quy phạm thực chất thông thường là các quy định pháp luật quốc gia nhằm điều chỉnh quan hệ Tư pháp quốc tế Phương pháp này có ưu điểm trong việc giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý, nâng cao tính hiệu quả và khả thi của luật pháp, đồng thời loại bỏ sự khác biệt và mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia.

2.3.2 Một số kiểu hệ thuộc cơ bản giải quyết xung đột pháp luật

Trong Tư pháp quốc tế, kiểu hệ thuộc được hiểu là các quy tắc chung để chọn luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Hiện nay, có một số hệ thuộc cơ bản, trong đó có hệ thuộc luật nhân thân (Lex personalis).

Hệ thuộc luật nhân thân là một trong những hệ thuộc luật cơ bản, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định luật áp dụng cho các quan hệ pháp luật liên quan đến cá nhân Nó được sử dụng để xác định năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của các bên đương sự; quy định về tình trạng mất tích hoặc tử vong của một người; điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, bao gồm điều kiện kết hôn, ly hôn, nghi thức kết hôn, cũng như quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng; và quy định về thừa kế đối với di sản bất động sản.

Hệ thuộc luật nhân thân có hai dạng:

Luật quốc tịch, hay Lex nationalis, được hiểu là hệ thống pháp luật quốc gia áp dụng cho công dân của quốc gia đó Hầu hết các quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa sử dụng luật quốc tịch để quy định về nhân thân Ví dụ, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của quốc gia mà họ có quốc tịch (Khoản 1 Điều 673 Bộ luật Dân sự năm 2015) Tương tự, năng lực lập di chúc, cũng như việc thay đổi và hủy bỏ di chúc, phải tuân theo pháp luật của quốc gia nơi người lập di chúc là công dân (Khoản 1 Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Luật nơi cư trú (Lex domicilii) là luật của quốc gia nơi đương sự sinh sống, thường được áp dụng trong các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ Hệ thống này quy định rằng quy chế nhân thân, như giám hộ, sẽ được xác định theo pháp luật của quốc gia nơi người được giám hộ cư trú, theo Điều 682 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp ngoại lệ không áp dụng kiểu hệ thuộc luật nhân thân:

+ Đương sự không quốc tịch, áp dụng luật nơi cư trú Ví dụ: Khoản 1 Điều 672

Bộ luật Dân sự năm 2015

Đối với đương sự có nhiều quốc tịch, nếu họ cư trú tại một trong các quốc gia mà họ có quốc tịch, thì luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng Ngược lại, nếu không cư trú tại bất kỳ quốc gia nào trong số đó, luật áp dụng sẽ là luật của quốc gia có mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân Điều này được quy định tại Khoản 2 Điều 672 Bộ luật Dân sự năm 2015 Bên cạnh đó, còn có kiểu hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân (Lex societatis).

Hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân được hiểu là áp dụng pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN QUỐC GIA TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Khái quát về thẩm quyền giải quyết của tòa án quốc gia đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

có yếu tố nước ngoài

3.1.1 Khái niệm thẩm quyền giải quyết của tòa án quốc gia đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế là quyền hạn của tòa án tư pháp một quốc gia trong việc giải quyết các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài.

Xung đột về thẩm quyền xét xử tại nhiều quốc gia liên quan đến việc xác định thẩm quyền, quy trình xét xử và công nhận, thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài Cách hiểu này rất rộng và thuật ngữ này đồng nhất với khái niệm tố tụng dân sự quốc tế hiện đang được áp dụng tại Việt Nam.

Xung đột về thẩm quyền xét xử trong lĩnh vực pháp lý là tình trạng xảy ra khi hai hoặc nhiều cơ quan tư pháp từ các quốc gia khác nhau đều có quyền giải quyết một vụ án dân sự liên quan đến yếu tố nước ngoài.

3.1.2 Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của tòa án quốc gia đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Để xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của mình, tòa án phải dựa vào các quy tắc, dấu hiệu được pháp luật trong nước hoặc điều ước quốc tế mà mình là thành viên quy định

Có nhiều quy tắc và dấu hiệu giúp xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của tòa án tư pháp trong từng vụ việc cụ thể Dưới đây là các quy tắc và dấu hiệu thường được áp dụng trong thực tiễn tư pháp quốc tế.

Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế dựa trên quốc tịch của các bên đương sự là một quy tắc quan trọng Theo quy tắc này, tòa án của một quốc gia có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu một hoặc nhiều bên đương sự là công dân của quốc gia đó Đây là căn cứ phổ biến nhất để xác định thẩm quyền của tòa án trong các vụ việc dân sự liên quan đến yếu tố nước ngoài, đặc biệt tại các quốc gia xây dựng quy phạm xung đột dựa trên luật quốc tịch.

Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế theo dấu hiệu nơi cư trú của bị đơn:

Theo quy định, tòa án quốc gia có thẩm quyền xử lý các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài khi bị đơn cư trú tại quốc gia đó Đây là một nguyên tắc cơ bản được hầu hết các quốc gia công nhận để xác định thẩm quyền xét xử Quy tắc này đặc biệt quan trọng trong các vụ việc liên quan đến quan hệ thương mại quốc tế.

Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế được xác định dựa trên sự hiện diện của bị đơn hoặc tài sản của bị đơn tại quốc gia đó Theo quy định này, tòa án của một quốc gia có quyền xét xử các vụ việc dân sự liên quan đến yếu tố nước ngoài nếu bị đơn hoặc tài sản của họ có mặt tại quốc gia đó Quy tắc này được áp dụng phổ biến trong các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.

Tòa án quốc gia có thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự liên quan đến yếu tố nước ngoài nếu vật tranh chấp hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia đó Quy định này thường được áp dụng chủ yếu đối với các tài sản bất động sản đang tranh chấp.

Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế có thể được xác định dựa trên nơi thường trú của nguyên đơn, nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi thi hành án, nếu có mối quan hệ nào đó giữa vụ tranh chấp và lãnh thổ của nước có tòa án tiếp nhận đơn kiện.

3.2 Xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án Việt Nam được xác định dựa trên các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, theo các quy tắc đã thống nhất trong các điều ước đó Trong trường hợp không có điều ước quốc tế, thẩm quyền này sẽ được xác định theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

3.2.1 Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam theo các Hiệp định Tương trợ tư pháp

Trong các tranh chấp liên quan đến việc hạn chế và tuyên bố mất năng lực hành vi, quy tắc quốc tịch được ưu tiên áp dụng Ngoài ra, một số Hiệp định cũng quy định rằng quy tắc quốc tịch áp dụng cho các trường hợp hủy bỏ việc tước hoặc hạn chế năng lực hành vi, tuyên bố một người mất năng lực hành vi, cũng như phục hồi hoặc thay đổi năng lực hành vi của công dân.

Trong các tranh chấp liên quan đến việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, quy tắc quốc tịch thường được ưu tiên áp dụng Trong một số trường hợp cụ thể, một số quốc gia có thể thỏa thuận áp dụng quy tắc nơi cư trú của nguyên đơn.

Trong các tranh chấp về quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng, cần áp dụng quy tắc về nơi thường trú chung hoặc nơi thường trú cuối cùng của họ, kết hợp với quy tắc quốc tịch của các bên liên quan.

Trong các tranh chấp liên quan đến quan hệ giữa cha mẹ và con, việc giải quyết cần kết hợp giữa quy tắc quốc tịch và quy tắc nơi cư trú của các bên liên quan.

TỐ TỤNG DÂN SỰ QUỐC TẾ

Những vấn đề lý luận chung

4.1.1 Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế

Tố tụng dân sự quốc tế là quy trình giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến yếu tố nước ngoài, đồng thời đảm bảo việc thi hành các bản án và quyết định của tòa án trong các vụ án này.

Tố tụng dân sự quốc tế là quá trình xét xử liên quan đến tòa án của một quốc gia cụ thể, trong đó các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thường được xử lý theo quy định pháp luật tố tụng của quốc gia đó.

Các vụ án dân sự trong tố tụng dân sự quốc tế liên quan đến các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Trong tố tụng dân sự quốc tế, sự tham gia của cá nhân, pháp nhân và nhà nước nước ngoài là điều phổ biến Những chủ thể này có địa vị tố tụng khác biệt so với các chủ thể trong quan hệ tố tụng thông thường.

4.1.2 Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế

Tố tụng dân sự quốc tế là một phần quan trọng của Tư pháp quốc tế, do đó cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của lĩnh vực này Ngoài ra, tố tụng dân sự quốc tế còn có những nguyên tắc riêng biệt, đặc thù, phản ánh tính chất và yêu cầu của các vụ việc liên quan đến tranh chấp giữa các quốc gia.

- Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, an ninh quốc gia của nhau

- Nguyên tắc tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp của nhà nước nước ngoài và những người được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của các bên tham gia tố tụng

- Nguyên tắc có đi có lại, cùng có lợi

- Nguyên tắc luật tòa án

Các điều ước quốc tế về tố tụng dân sự quốc tế quy định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của nhau Những điều ước này bao gồm các thỏa thuận song phương và đa phương, xác định thẩm quyền xét xử và địa vị tố tụng của công dân giữa các nước Ngoài ra, các quốc gia còn hợp tác trong lĩnh vực ủy thác tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống tố tụng dân sự quốc tế.

Điều ước quốc tế song phương bao gồm các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa các quốc gia, nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến tố tụng dân sự quốc tế Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại và Hiệp định đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý các vấn đề cụ thể trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế.

Điều ước quốc tế đa phương đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế, với các hiệp định nổi bật như Công ước Lahaye năm 1954, quy định về các vấn đề tố tụng dân sự quốc tế, và Công ước năm 1956, liên quan đến việc tống đạt hồ sơ tư pháp cùng các tài liệu không mang tính chất tố tụng dân sự và thương mại cho tòa án nước ngoài.

Các nội dung cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế

4.2.1 Xác định địa vị pháp lý của chủ thể nước ngoài trong tố tụng dân sự quốc tế

Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, cũng như chi nhánh và văn phòng đại diện tại Việt Nam được quy định rõ ràng theo Điều 465 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Điều này bao gồm các tổ chức quốc tế và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, cùng với các quy định cụ thể liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của họ trong quá trình tố tụng.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của người nước ngoài được quy định tại Điều 466 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Điều này xác định quyền và khả năng tham gia vào các hoạt động tố tụng dân sự của người nước ngoài tại Việt Nam.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của các cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh và văn phòng đại diện tại Việt Nam được quy định tại Điều 466 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Điều này bao gồm các tổ chức quốc tế và cơ quan đại diện của họ tại Việt Nam, cũng như các nhà nước nước ngoài.

4.2.2 Ủy thác tư pháp quốc tế a Khái niệm

Khi thực hiện các hành vi tố tụng như thu thập chứng cứ hay tống đạt giấy tờ triệu tập ở nước ngoài, cơ quan tư pháp có thẩm quyền của Việt Nam cần có sự chấp thuận từ quốc gia nơi các hành vi này diễn ra, dựa trên ủy thác tư pháp quốc tế Ủy thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản từ cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài để thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Quốc gia có quyền tối cao trong lãnh thổ của mình, đặc biệt là trong việc thực hiện quyền tài phán Do đó, hoạt động ủy thác tư pháp cần tuân theo những nguyên tắc nhất định Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc thực hiện hoạt động ủy thác tư pháp phải đảm bảo các nguyên tắc này.

Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia là rất quan trọng Điều này bao gồm việc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đồng thời duy trì sự bình đẳng và hợp tác cùng có lợi giữa các quốc gia.

Việc thực hiện ủy thác tư pháp cần tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc có đi có lại trong uỷ thác tư pháp áp dụng ngay cả khi chưa có Điều ước quốc tế, nhưng phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.

Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm việc tống đạt giấy tờ, hồ sơ và tài liệu liên quan, triệu tập người làm chứng và người giám định, thu thập và cung cấp chứng cứ, cùng với các yêu cầu tương trợ tư pháp khác Để thực hiện ủy thác tư pháp, cần tuân thủ trình tự thủ tục nhất định.

Đối với các ủy thác tư pháp mà Tòa án Việt Nam yêu cầu thực hiện từ nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam cần lập hồ sơ ủy thác và gửi đến Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp sẽ ghi nhận vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và sau đó chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.

25 Khoản 1 Điều 6 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007

Theo Điều 10 của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, bên cạnh việc thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp cho Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp còn có trách nhiệm chuyển văn bản đó đến cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nơi đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự.

Khi nhận ủy thác tư pháp từ cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, Bộ Tư pháp Việt Nam sẽ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền trong nước thực hiện Nếu hồ sơ không hợp lệ, Bộ Tư pháp sẽ trả lại cho cơ quan nước yêu cầu kèm theo lý do cụ thể Sau khi thực hiện ủy thác, cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam sẽ thông báo kết quả cho Bộ Tư pháp, và Bộ sẽ chuyển văn bản đó đến cơ quan nước yêu cầu theo quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao.

Trong trường hợp ủy thác tư pháp không thể thực hiện hoặc quá thời hạn yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp Thông báo này phải nêu rõ lý do để Bộ Tư pháp có thể thông báo lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu.

4.2.3 Công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài

4.2.3.1 Công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài a Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài ở các nước

Công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là quá trình mà tòa án của một quốc gia thừa nhận tính hợp pháp của các quyết định liên quan đến vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Điều này có nghĩa là các quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định trong bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài sẽ được công nhận và thực thi tương tự như các bản án, quyết định của tòa án trong nước.

QUAN HỆ SỞ HỮU TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Khái niệm quyền sở hữu trong Tư pháp quốc tế

Quyền sở hữu vừa là phạm trù kinh tế vừa là phạm trù pháp lý

Phạm trù kinh tế đề cập đến hình thức sở hữu, phản ánh các quan hệ sản xuất xã hội, phương thức chiếm hữu và phân phối trong từng hình thái kinh tế - xã hội cụ thể Nó cũng thể hiện các mối quan hệ xã hội nhất định trong bối cảnh kinh tế.

Quyền sở hữu được hình thành từ quá trình xác lập và vận động của các quyền năng kinh tế đối với tài sản, và được pháp luật điều chỉnh thành các quyền năng pháp lý.

Quyền sở hữu là một chế định trung tâm trong pháp luật dân sự của các quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ sở hữu Pháp luật quy định các hình thức sở hữu, nội dung quyền sở hữu, căn cứ xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền sở hữu, cũng như các hình thức bảo hộ quyền sở hữu.

Nếu quan hệ sở hữu chỉ phát sinh trong lãnh thổ của một quốc gia, pháp luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng Tuy nhiên, khi quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, nó sẽ phải tuân theo ít nhất hai hệ thống pháp luật khác nhau Mỗi hệ thống pháp luật có những quy định riêng về quyền sở hữu, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Điều này dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật, một đặc thù của Tư pháp quốc tế.

Quyền sở hữu trong Tư pháp quốc tế đề cập đến các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, trong đó ít nhất một bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài Điều này cũng áp dụng khi tất cả các bên đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, nhưng các hoạt động liên quan đến việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quyền sở hữu diễn ra ở nước ngoài Hơn nữa, trường hợp đối tượng của quan hệ sở hữu nằm ở nước ngoài cũng thuộc phạm vi này.

Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu

5.2.1 Nguyên tắc chung trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu

Các quốc gia thường áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản hoặc nơi có đối tượng quyền sở hữu để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu Một số quốc gia như Áo, Tây Ban Nha, Ai Cập và Brazil đã có cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu từ trước thế kỷ XIX Cụ thể, luật nơi có tài sản được áp dụng cho bất động sản, trong khi luật nhân thân của người sở hữu được áp dụng cho động sản.

Vai trò của luật nơi có tài sản:

- Luật nơi có tài sản quy định nội dung của quyền sở hữu tài sản, điều kiện phát sinh, chuyển dịch và chấm dứt quyền sở hữu

Khi nghiên cứu quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, cần giải quyết vấn đề về quyền sở hữu động sản khi chuyển dịch sang quốc gia khác Pháp luật các quốc gia quy định rằng quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản vẫn được pháp luật của nước sở tại thừa nhận và bảo hộ Nội dung quyền sở hữu, bao gồm khả năng và mức độ thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, phải được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản.

Xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển

Tài sản đang trong quá trình vận chuyển, được gọi là res in transitu, là những tài sản quá cảnh qua nhiều lãnh thổ quốc gia Quá cảnh đề cập đến việc vận chuyển hàng hóa hoặc hành khách qua lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia để đến một nước thứ ba hoặc qua vùng biển quốc tế Việc xác định quyền sở hữu đối với hàng hóa đang vận chuyển là một vấn đề phức tạp, vì tài sản không cố định mà liên tục di chuyển giữa các quốc gia hoặc trên lãnh thổ quốc tế.

Theo Khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản đang trong quá trình vận chuyển có thể bị điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật khác nhau Khi xảy ra tranh chấp, tài sản có thể nằm ở một quốc gia không có mối liên hệ pháp lý chặt chẽ, gây khó khăn trong việc giải quyết.

Hiện nay, các quốc gia thường áp dụng một trong các hệ thống pháp luật để xác định quyền sở hữu tài sản trong quá trình vận chuyển.

- Pháp luật của nước nơi gửi đi tài sản

- Pháp luật của nước nơi nhận tài sản

- Pháp luật của nước nơi phương tiện vận tải mang quốc tịch (trong lĩnh vực giao thông vận tải bằng đường biển hoặc đường không)

- Pháp luật của nước nơi có trụ sở của tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

- Pháp luật của nước nơi đang có tài sản

- Pháp luật của nước do các bên lựa chọn

Pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thống luật của quốc gia nơi tài sản được chuyển đến hoặc hệ thống luật đã được lựa chọn để xác định quyền sở hữu đối với tài sản trong quá trình vận chuyển.

Định danh tài sản là quá trình xác định liệu tài sản đó thuộc loại động sản hay bất động sản Tuy nhiên, các khái niệm "động sản" và "bất động sản" chưa được thống nhất trong pháp luật của nhiều quốc gia, dẫn đến xung đột pháp lý về việc xác định tài sản Việc phân loại chính xác tài sản là động sản hay bất động sản là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài.

Các quốc gia thường áp dụng hệ thống luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến việc định danh tài sản Tại Pháp, hệ thống này được thực hiện thông qua luật tòa án để xác định quyền sở hữu tài sản.

5.2.2 Các trường hợp ngoại lệ không sử dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản

Trong lĩnh vực hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế, quan hệ sở hữu và các quan hệ tài sản được xác định dựa trên hệ thuộc luật nơi đăng ký phương tiện vận tải, hệ thuộc luật quốc kỳ, hoặc luật nơi đăng ký hợp đồng Điều này tạo ra sự rõ ràng và minh bạch trong việc xác định quyền sở hữu và trách nhiệm pháp lý liên quan đến các phương tiện vận tải.

Các quan hệ sở hữu trí tuệ phải tuân theo quy định của pháp luật quốc gia nơi mà đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo vệ.

Theo Khoản 2 Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền sở hữu đối với động sản trong quá trình vận chuyển sẽ được xác định theo pháp luật của quốc gia nơi động sản đó được chuyển đến, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên liên quan.

Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó bị giải thể: sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân

Các quan hệ về tài sản liên quan đến các tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài

Các quan hệ sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển

Các quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các đạo luật về quốc hữu hóa.

Quốc hữu hóa

5.3.1 Khái niệm quốc hữu hóa

Quốc hữu hóa trong Tư pháp quốc tế đề cập đến việc quốc hữu hóa tài sản có yếu tố nước ngoài, bao gồm hai trường hợp chính: (i) quốc hữu hóa tài sản thuộc sở hữu của người nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia thực hiện quốc hữu hóa; (ii) quốc hữu hóa tài sản của công dân nước ban hành luật quốc hữu hóa nhưng tài sản đó nằm ở nước ngoài Ví dụ tiêu biểu là việc Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez vào năm 1956 và Liên Bang Nga quốc hữu hóa các ngân hàng vào năm 1917.

Quốc hữu hoá có các đặc điểm sau:

+ Hành vi mang tính quyền lực Nhà nước của quốc gia có chủ quyền, bắt buộc bên bị quốc hữu hóa phải tuân thủ vô điều kiện

+ Đây là biện pháp kinh tế xã hội mang tính chất chung

+ Tài sản bị quốc hữu hóa không phân biệt là của công dân, pháp nhân nước mình hay nước ngoài

+ Đối với tài sản thuộc sở hữu của công dân nước ngoài, thông thường quốc gia tiến hành theo nguyên tắc “đãi ngộ quốc gia”

+ Nhà nước quyết định mức bồi thường khi quốc hữu hoá

5.3.2 Hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa Đa số các quốc gia đều thừa nhận các đạo luật quốc hữu hóa mang tính trị ngoại lãnh thổ (có hiệu lực ở nước ngoài) Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn tư pháp của mỗi quốc gia đều có lý giải và vận dụng khác nhau về vấn đề này, từ đó đã dẫn đến xung đột pháp luật trong vấn đề quốc hữu hóa

Hiệu lực của quốc hữu hóa thường bị giới hạn đối với tài sản hoặc chủ thể nước ngoài khi không được công nhận bởi quốc gia đó Tòa án thường viện dẫn lý do bảo lưu công cộng để từ chối thi hành các đạo luật quốc hữu hóa Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực này, nhiều quốc gia ký kết hiệp định song phương nhằm công nhận hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa của nhau.

Hãy chọn phương án đúng:

1 Quốc hữu hóa trong Tư pháp quốc tế là việc quốc hữu hóa tài sản có yếu tố nước ngoài, điều đó được thể hiện trong trường hợp nào sau đây?

A Quốc hữu hóa tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân nước ban hành luật quốc hữu hóa và tài sản đó đang nằm ở nước ngoài

B Quốc hữu hóa các tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước nước ngoài, nhưng tài sản đó đang nằm trên lãnh thổ quốc gia ban hành luật quốc hữu hóa

C Quốc hữu hóa tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân nước ban hành luật quốc hữu hóa và tài sản đó đang nằm trên lãnh thổ quốc gia ban hành luật quốc hữu hóa

D Tất các các phương án đều đúng

2 Trường hợp nào sau đây thuộc trường hợp ngoại lệ không áp dụng kiểu hệ thuộc luật nơi có vật trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài?

A Quyền sở hữu trí tuệ

C Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản

D Việc chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản

3 Kiểu hệ thuộc nào quan trọng và được áp dụng phổ biến để giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến nội dung quyền sở hữu, xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản trong các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài?

4 Kiểu hệ thuộc luật nơi có vật được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào sau đây?

B Quan hệ sở hữu về tàu biển

C Năng lực chủ thể giao kết hợp đồng

D Tất cả các phương án đều đúng

5 Trường hợp nào sau đây pháp luật Việt Nam cho phép các bên tham gia thoả thuận chọn luật áp dụng?

A Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển

B Hình thức của di chúc

C Năng lực pháp luật của người nước ngoài

D Quốc tịch của pháp nhân.

QUAN HỆ HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Khái niệm hợp đồng trong Tư pháp quốc tế

6.1.1 Khái niệm về hợp đồng

Hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Nó không chỉ tạo ra quyền và nghĩa vụ mà còn đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch dân sự, thương mại và lao động.

6.1.2 Quan hệ hợp đồng do Tư pháp quốc tế điều chỉnh

Hiện nay, mối quan hệ hợp đồng giữa cá nhân và pháp nhân ngày càng mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đã dẫn đến sự đa dạng của các loại hợp đồng, bao gồm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng đầu tư và hợp đồng nhượng quyền.

Hợp đồng trong Tư pháp quốc tế được định nghĩa là hợp đồng có yếu tố nước ngoài, và để xác định yếu tố này, mỗi quốc gia có những quy định riêng Thông thường, các quốc gia dựa vào một số dấu hiệu nhất định để nhận diện yếu tố nước ngoài trong các hợp đồng thuộc Tư pháp quốc tế.

Quốc tịch hoặc nơi cư trú của cá nhân và nơi có trụ sở của pháp nhân là yếu tố quan trọng để xác định tính chất nước ngoài trong các quan hệ hợp đồng Pháp luật các quốc gia dựa vào dấu hiệu này để giải quyết xung đột pháp luật, bởi Tư pháp quốc tế chủ yếu điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng giữa các bên có quốc tịch khác nhau Việc khác quốc tịch của các bên trong quan hệ hợp đồng có ảnh hưởng lớn đến việc áp dụng pháp luật và giải quyết tranh chấp.

Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc lựa chọn pháp luật áp dụng có thể dẫn đến sự tồn tại của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh quan hệ hợp đồng, gây ra xung đột pháp luật trong thực tiễn áp dụng.

Khi hợp đồng được ký kết ở nước ngoài, nó được xem là có yếu tố nước ngoài, ngay cả khi các bên tham gia có cùng quốc tịch Điều này có nghĩa là sự kiện pháp lý diễn ra tại một quốc gia khác sẽ ảnh hưởng đến tính chất và hiệu lực của hợp đồng.

Khi hợp đồng có đối tượng ở nước ngoài, quan hệ hợp đồng này sẽ chịu sự điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, do có sự tham gia của ít nhất hai hệ thống pháp luật, bao gồm luật quốc tịch và luật nơi có tài sản.

Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có định nghĩa rõ ràng về hợp đồng có yếu tố nước ngoài Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, yếu tố nước ngoài được xác định khi ít nhất một bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài, hoặc khi tất cả các bên đều là công dân và pháp nhân Việt Nam nhưng các hoạt động liên quan đến hợp đồng diễn ra tại nước ngoài Hợp đồng có yếu tố nước ngoài cũng có thể xảy ra khi đối tượng của quan hệ hợp đồng nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam.

6.1.3 Nội dung điều chỉnh của Tư pháp quốc tế đối với quan hệ hợp đồng

Khi nghiên cứu về hợp đồng có yếu tố nước ngoài, Tư pháp quốc tế chỉ tập trung điều chỉnh vào ba nhóm vấn đề chủ yếu:

Tòa án quốc gia có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có yếu tố nước ngoài khi nguyên đơn khởi kiện tại tòa án quốc gia Điều này liên quan đến việc xác định quyền hạn giải quyết xung đột và các yêu cầu liên quan đến quan hệ hợp đồng.

Hệ thống pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài nhằm xử lý xung đột pháp luật liên quan đến hợp đồng.

Ba là, công nhận thi hành bản án, quyết định của toà án nước ngoài, phán quyết của trọng tài tòa án nước ngoài tại Việt nam.

Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng

Luật pháp của các quốc gia thường đánh giá tính hợp pháp của một hợp đồng dựa trên ba yếu tố chính: hình thức, nội dung và các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng Vì vậy, xung đột pháp luật liên quan đến tính hợp pháp của hợp đồng là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng.

Khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về các xung đột pháp luật liên quan đến hình thức, nội dung và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng Để giải quyết những xung đột này, bên cạnh việc tuân thủ hệ thống pháp luật quốc gia, các quốc gia còn ký kết và tham gia các điều ước quốc tế nhằm thiết lập các nguyên tắc xác định tính hợp pháp cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Trong các điều ước quốc tế song phương, luật nơi ký kết hợp đồng thường được áp dụng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng Đối với các hợp đồng liên quan đến bất động sản, luật nơi có tài sản sẽ được áp dụng Để xác định năng lực ký kết hợp đồng của các bên, luật quốc tịch của các bên chủ thể sẽ được sử dụng.

Trong các điều ước quốc tế đa phương, nguyên tắc tự do lựa chọn của các bên tham gia giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để xác định tính hợp pháp của hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

6.2.1 Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng

Hình thức hợp đồng là cách thức ghi nhận nội dung đã thỏa thuận giữa các bên Các hình thức hợp đồng phổ biến bao gồm hợp đồng miệng (bằng lời nói), hợp đồng thông qua hành vi, và hợp đồng bằng văn bản, trong đó một số hợp đồng văn bản cần được chứng nhận hoặc chứng thực.

Các quốc gia có quy định khác nhau về hình thức hợp đồng, dẫn đến xung đột pháp luật trong lĩnh vực này Việc giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến hình thức hợp đồng yêu cầu xác định hệ thống pháp luật áp dụng để đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng đó.

Các quốc gia Đông Âu giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng bằng cách ưu tiên áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng hoặc nơi thực hiện hợp đồng Nếu hợp đồng được ký kết ở một quốc gia và thực hiện ở quốc gia khác, luật nơi giao kết vẫn được sử dụng để đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng Tuy nhiên, nếu hợp đồng không hợp pháp tại quốc gia nơi giao kết, luật của quốc gia nơi thực hiện hợp đồng có thể được áp dụng, miễn là tòa án nơi giải quyết tranh chấp xác định rằng hình thức hợp đồng không vi phạm quy định pháp luật của họ.

Hầu hết các quốc gia Bắc Âu, Tây Âu và châu Mỹ áp dụng hệ thống luật nơi giao kết hợp đồng Nếu hợp đồng bị xem là bất hợp pháp về hình thức theo luật nơi giao kết, nhưng lại hợp pháp theo luật nhân thân của các bên hoặc theo luật của tòa án nơi xét xử tranh chấp, thì hợp đồng vẫn giữ giá trị pháp lý.

6.2.2 Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng

Nội dung hợp đồng bao gồm tất cả các điều khoản mà các bên tham gia đã thỏa thuận, xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của từng bên trong giao kết.

Các điều khoản của hợp đồng được chia thành ba nhóm:

Điều khoản cơ bản là những yếu tố xác định nội dung chủ yếu của hợp đồng và là những điều không thể thiếu cho từng loại hợp đồng Nếu không đạt được thỏa thuận về các điều khoản này, hợp đồng sẽ không thể được ký kết.

Điều khoản thông thường là những quy định pháp luật đã được thiết lập trước, và nếu các bên không thỏa thuận về những điều khoản này khi ký kết hợp đồng, thì coi như đã đồng ý tuân theo các quy định đó Những điều khoản này không ảnh hưởng đến quá trình giao kết hợp đồng, mà còn giúp giảm bớt những thủ tục không cần thiết cho các bên trong quá trình ký kết.

Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên có thể tự thỏa thuận để cụ thể hóa nội dung hợp đồng và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện Các bên tham gia hợp đồng có quyền lựa chọn và thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của mình Để đảm bảo tính hợp pháp của nội dung hợp đồng, pháp luật nhiều quốc gia thường ưu tiên áp dụng hệ thống luật lựa chọn, cho phép các bên chọn luật qua một hoặc nhiều điều khoản trong hợp đồng hoặc thông qua thỏa thuận riêng trước hoặc sau khi ký kết hợp đồng chính.

Khi lựa chọn luật thông qua một điều khoản trong hợp đồng, điều khoản đó có giá trị pháp lý độc lập, nghĩa là sự tồn tại và hiệu lực của nó không phụ thuộc vào sự tồn tại và hiệu lực của hợp đồng.

Pháp luật của nhiều quốc gia đều thừa nhận quyền tự do lựa chọn luật của các bên trong hợp đồng, dựa trên nguyên tắc tự do giao kết và tự do xác định nội dung hợp đồng.

Khi các bên trong hợp đồng không thống nhất về luật áp dụng, luật sẽ được xác định dựa trên nhiều yếu tố như nơi giao kết hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng, hoặc luật của bên bán Luật có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng thường là luật của nước nơi bên thực hiện nghĩa vụ chính cư trú hoặc có trụ sở Đối với hợp đồng liên quan đến bất động sản, luật áp dụng sẽ là luật của nước nơi bất động sản đó tọa lạc.

Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

6.3.1 Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo pháp luật Việt Nam

Giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến tư cách pháp lý của các bên tham gia hợp đồng là rất quan trọng Đối với cá nhân, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự được xác định theo luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch Đối với người nước ngoài thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của họ sẽ tuân theo luật Việt Nam Trong trường hợp cá nhân không có quốc tịch hoặc có nhiều quốc tịch, năng lực pháp lý sẽ được xác định dựa trên các quy định cụ thể trong luật.

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và các vấn đề pháp lý liên quan được xác định theo luật quốc tịch của pháp nhân đó Quốc tịch của pháp nhân được quyết định dựa trên luật của quốc gia nơi pháp nhân được thành lập, đặc biệt trong trường hợp pháp nhân nước ngoài.

Theo Điều 673 và Điều 674 Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được xác định theo quốc tịch của họ, với người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực như công dân Việt Nam, trừ khi có quy định khác Năng lực hành vi dân sự cũng được xác định theo pháp luật của quốc gia mà cá nhân có quốc tịch, nhưng nếu người nước ngoài thực hiện giao dịch tại Việt Nam, năng lực hành vi của họ sẽ theo quy định của pháp luật Việt Nam Ngoài ra, việc xác định cá nhân mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam.

* Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng

Tư pháp quốc tế Việt Nam quy định rằng hình thức hợp đồng được xác định dựa trên pháp luật áp dụng cho hợp đồng, bao gồm luật do các bên thỏa thuận và luật của quốc gia có mối quan hệ gắn bó nhất Tuy nhiên, nếu hình thức hợp đồng không phù hợp với luật áp dụng nhưng lại tương thích với pháp luật nơi giao kết hoặc pháp luật Việt Nam, thì hình thức đó vẫn có giá trị pháp lý tại Việt Nam Điều này có nghĩa là chỉ cần hình thức hợp đồng phù hợp với một trong các hệ thống pháp luật nêu trên, nó sẽ được công nhận về mặt pháp lý tại Việt Nam.

Theo Luật Hàng không dân dụng năm 2006, hình thức hợp đồng liên quan đến quyền của tàu bay phải tuân theo quy định của quốc gia nơi hợp đồng được ký kết.

* Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng

Pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thống luật lựa chọn để giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến nội dung hợp đồng Khi các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng, pháp luật của quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng sẽ được sử dụng.

Theo đó, những trường hợp Khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định không được thỏa thuận chọn luật áp dụng gồm:

Trong trường hợp hợp đồng liên quan đến bất động sản, pháp luật áp dụng cho việc chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản bất động sản, cũng như cho thuê và sử dụng bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, là pháp luật của quốc gia nơi bất động sản tọa lạc.

Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quốc tịch và năng lực pháp lý của pháp nhân, cụ thể: quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật nơi thành lập; năng lực pháp luật dân sự, tên gọi, đại diện, tổ chức, giải thể và trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ được quy định theo pháp luật của quốc gia có quốc tịch Đặc biệt, đối với pháp nhân nước ngoài thực hiện giao dịch tại Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự của họ sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam.

Theo Khoản 7 Điều 683 Bộ Luật Dân sự năm 2015, hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật áp dụng Nếu hình thức hợp đồng không phù hợp với pháp luật áp dụng nhưng lại tương thích với pháp luật của nơi giao kết hoặc pháp luật Việt Nam, thì hình thức đó vẫn được công nhận tại Việt Nam.

35 Khoản 2 Điều 4 Luật Hàng không dân dụng năm 2006

Theo Khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng của mình, ngoại trừ những trường hợp được quy định tại các Khoản 4, 5 và 6 của điều này.

Trong trường hợp các bên trong hợp đồng lao động hoặc hợp đồng tiêu dùng lựa chọn pháp luật, nếu lựa chọn đó ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động hoặc người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam, thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng.

Các bên có quyền thỏa thuận thay đổi pháp luật áp dụng cho hợp đồng, tuy nhiên, việc thay đổi này không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba đã được hưởng trước đó, trừ khi bên thứ ba đồng ý với sự thay đổi này.

Khi các bên không thỏa thuận về luật áp dụng, luật sẽ được xác định dựa trên quốc gia có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng Tư pháp quốc tế Việt Nam quy định một số trường hợp cụ thể về luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất tại Khoản 2 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015.

+ Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập, nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa;

Pháp luật áp dụng cho hợp đồng dịch vụ cư trú phụ thuộc vào quốc gia nơi cá nhân cung cấp dịch vụ hoặc nơi thành lập của pháp nhân.

Pháp luật áp dụng cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào nơi cư trú của cá nhân nhận quyền hoặc nơi thành lập của pháp nhân.

THỪA KẾ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Khái quát chung về thừa kế

7.1.1 Khái niệm về thừa kế

Thừa kế là quá trình chuyển giao tài sản từ người đã qua đời cho những người còn sống, được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật dân sự Chế định này không chỉ quy định cách thức chuyển nhượng tài sản theo di chúc hoặc theo trình tự nhất định, mà còn xác định quyền và nghĩa vụ của người thừa kế, cùng với các phương thức bảo vệ quyền lợi của họ.

7.1.2 Quan hệ thừa kế do Tư pháp quốc tế điều chỉnh

Thừa kế là một chế định quan trọng trong luật dân sự và tư pháp quốc tế, có mối liên hệ chặt chẽ với quyền sở hữu Quyền thừa kế không chỉ liên quan đến việc để lại tài sản mà còn ảnh hưởng đến việc chuyển quyền sở hữu từ người để thừa kế sang người thừa hưởng Chỉ những đối tượng thuộc quyền sở hữu mới có thể tham gia vào quá trình thừa kế và hưởng thừa kế.

Pháp luật về thừa kế ở các quốc gia khác nhau phụ thuộc vào các chế độ sở hữu và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán và tôn giáo.

Trong lĩnh vực thừa kế, quan hệ phát sinh trong phạm vi quốc gia nào sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của quốc gia đó Khi quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, tức là có ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài hoặc việc thực hiện quan hệ thừa kế diễn ra ở nước ngoài, thì sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế Tại Việt Nam, yếu tố nước ngoài được xác định theo Bộ luật Dân sự năm 2015, bao gồm cả cá nhân, pháp nhân và quốc gia nước ngoài, hoặc các bên tham gia là công dân và pháp nhân Việt Nam nhưng liên quan đến tài sản thừa kế ở nước ngoài.

Xung đột pháp luật trong lĩnh vực thừa kế thường được giải quyết thông qua pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế, tuy nhiên, hiện tại, pháp luật quốc gia vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc này.

7.1.3 Nội dung điều chỉnh của Tư pháp quốc tế đối với quan hệ thừa kế

* Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là quá trình chuyển giao tài sản từ người đã mất cho những người sống sót theo hàng thừa kế, với điều kiện và trình tự được quy định bởi pháp luật Trong trường hợp này, không có sự chỉ định từ người để lại di sản, mà chỉ có sự can thiệp của nhà nước thông qua các quy định pháp luật để giải quyết vấn đề thừa kế Đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, các quốc gia áp dụng những nguyên tắc khác nhau để điều chỉnh.

Các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ coi thừa kế là phương thức chuyển giao tài sản, với các quy phạm pháp luật tập trung vào hành vi tác động đến từng tài sản trong quá trình này Di sản thừa kế được chia thành hai loại: động sản và bất động sản Đối với bất động sản, áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản, trong khi đối với động sản, áp dụng hệ thuộc luật của người để lại di sản tại nơi cư trú cuối cùng Việc định danh tài sản sẽ tuân theo pháp luật của quốc gia nơi có tài sản đó.

Các nước Tây Âu coi thừa kế là mối quan hệ nhân thân giữa người để lại di sản và người thừa kế Pháp luật tập trung vào yếu tố nhân thân của người để lại di sản, xem di sản như một khối tài sản duy nhất, không phân chia thành động sản và bất động sản Để giải quyết xung đột pháp luật, hệ thuộc áp dụng là luật nhân thân của người để lại di sản, cụ thể là luật quốc tịch.

37 Khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 khác nhau

* Thừa kế theo di chúc

Thừa kế theo di chúc là quá trình chuyển nhượng tài sản của người đã khuất cho những người còn sống, dựa trên quyết định của người đó được ghi trong di chúc Hình thức thừa kế này thể hiện ý chí cá nhân trong việc chuyển giao tài sản sau khi qua đời Di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương, do đó cần tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và quy định riêng về di chúc.

Các quốc gia có quy định khác nhau về điều kiện có hiệu lực của di chúc, bao gồm hình thức di chúc, năng lực của người lập di chúc và quyền hủy bỏ di chúc.

+ Về hình thức của di chúc

Các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa quy định ba hình thức di chúc chính: Di chúc viết tay, do người để lại di sản tự viết, ký và xác nhận; di chúc được lập dưới sự chứng kiến và xác nhận của công chứng viên; và di chúc được lập một cách bí mật, với yêu cầu bảo vệ từ cơ quan công chứng.

Các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ chỉ công nhận một hình thức di chúc chính thức, không cho phép người lập di chúc tự do lựa chọn Di chúc phải được lập bằng văn bản, có chữ ký của người lập hoặc người được chỉ định, kèm theo sự chứng kiến của ít nhất hai người nếu người lập di chúc vắng mặt Đặc biệt, di chúc không nhất thiết phải được viết bởi chính người lập di chúc, mà có thể do người được ủy quyền thực hiện.

+ Về năng lực lập di chúc

Hầu hết các quốc gia quy định rằng cá nhân đủ 18 tuổi có đủ năng lực để lập di chúc Tuy nhiên, Pháp cho phép người chưa thành niên từ 16 tuổi có quyền lập di chúc để định đoạt một nửa tài sản của mình Để xác định quyền thừa kế theo di chúc trong các mối quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, các quốc gia trên thế giới áp dụng những nguyên tắc khác nhau.

Các nước trong hệ thống Anh-Mỹ quy định rằng đối với di sản là động sản, năng lực hành vi lập di chúc và hình thức của di chúc tuân theo luật nơi cư trú cuối cùng của người lập di chúc hoặc nơi có tài sản Tại các nước Tây Âu, năng lực hành vi lập di chúc cũng được xác định theo luật nơi cư trú cuối cùng hoặc nơi có tài sản Hình thức của di chúc được xác định theo các hệ thuộc như luật nơi có tài sản, luật quốc tịch của người lập di chúc, hoặc luật nơi cư trú của họ Nếu người lập di chúc không tuân thủ quy định về hình thức của các hệ thống pháp luật nhưng thỏa mãn yêu cầu của luật nơi lập di chúc, thì di chúc đó vẫn được coi là hợp pháp.

Tại các nước Đông Âu, tính hợp pháp của di chúc, cũng như năng lực lập và hủy bỏ di chúc, được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người để lại di sản là công dân tại thời điểm lập di chúc Ngoài ra, đối với vấn đề hình thức của di chúc, có thể áp dụng cả luật của nơi lập di chúc.

Giải quyết xung đột về thừa kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

7.2.1 Giải quyết xung đột về thừa kế theo các Hiệp định Tương trợ tư pháp Để điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, ngoài việc quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia, Việt Nam còn ký kết các điều ước quốc tế (Hiệp định Tương trợ tư pháp) Đa số các Hiệp định này ghi nhận việc phân di sản thừa kế thành động sản và bất động sản Động sản thì áp dụng luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế còn đối với bất động sản thì áp dụng luật nơi có bất động sản đó

Quyền thừa kế theo pháp luật được xác định dựa trên quốc tịch của người để lại tài sản và vị trí của tài sản thừa kế Cụ thể, quyền thừa kế động sản tuân theo pháp luật của quốc gia nơi người để lại tài sản là công dân tại thời điểm qua đời Trong khi đó, quyền thừa kế bất động sản phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia nơi tài sản bất động sản tọa lạc Ví dụ, các điều khoản trong Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các quốc gia như Bulgaria, Séc, và Hungary quy định rõ ràng về vấn đề này.

Thừa kế theo di chúc được quy định theo các Hiệp định Tương trợ tư pháp, trong đó tính hiệu lực của di chúc sẽ được thống nhất để giải quyết xung đột pháp luật.

Năng lực lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được xác định theo quy định pháp luật của quốc gia nơi người lập di chúc là công dân vào thời điểm thực hiện các hành động này.

Hình thức di chúc được xác định theo pháp luật của quốc gia nơi người lập di chúc là công dân tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm qua đời Di chúc sẽ được coi là hợp lệ nếu đáp ứng các yêu cầu pháp lý của quốc gia nơi lập di chúc Ví dụ, Điều 38 của Hiệp định Tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Lào quy định về vấn đề này.

7.2.2 Giải quyết xung đột về thừa kế theo pháp luật Việt Nam

Thừa kế theo pháp luật tại Việt Nam được điều chỉnh bởi Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015, nơi quy định cách giải quyết các xung đột pháp luật liên quan đến thừa kế Tất cả các vấn đề pháp lý về thừa kế sẽ được xử lý theo những quy định cụ thể trong điều luật này.

Theo Điều 680 Bộ luật Dân sự 2015, luật áp dụng để giải quyết xung đột di sản là luật quốc tịch của người để lại di sản tại thời điểm qua đời Do đó, đối với bất động sản, di sản sẽ tuân theo luật quốc tịch của người đã mất, nhưng việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản cần phải tuân thủ pháp luật của địa phương nơi có bất động sản đó.

Thừa kế theo di chúc trong các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam được điều chỉnh bởi nguyên tắc luật quốc tịch, nhằm xác định tính hiệu lực của di chúc và năng lực chủ thể của người lập di chúc, cũng như quyền thay đổi hoặc hủy di chúc.

Theo quy định pháp luật, hình thức di chúc sẽ tuân theo luật của quốc gia nơi di chúc được lập Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng cho phép áp dụng hình thức di chúc nếu nó phù hợp với quy định của Việt Nam.

Theo Điều 38 của Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào, di chúc của công dân của các nước ký kết sẽ được công nhận là hợp pháp nếu đáp ứng các điều kiện sau: phù hợp với pháp luật của nước nơi thực hiện di chúc hoặc pháp luật của nước mà người để lại di sản là công dân tại thời điểm lập di chúc hoặc khi người đó qua đời.

Theo Khoản 1 Điều 681 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được xác định dựa trên pháp luật của quốc gia nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm thực hiện các hành động này Ngoài ra, còn xem xét nơi cư trú của người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc hoặc khi người lập di chúc qua đời, cùng với quốc gia nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế liên quan đến bất động sản.

Giải quyết di sản không người thừa kế trong Tư pháp quốc tế

Di sản không người thừa kế là tài sản mà không có người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật Điều này cũng áp dụng khi có người thừa kế nhưng họ không đủ điều kiện để nhận di sản hoặc đã từ chối quyền hưởng di sản đó.

Theo quy định của pháp luật ở nhiều quốc gia, khi di sản không có người thừa kế, di sản đó sẽ thuộc về Nhà nước Tuy nhiên, cách thức áp dụng quy định này có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật của các nước.

- Pháp luật một số nước như Nga, Hungari, Tây Ban Nha, Italia… Nhà nước hưởng di sản thừa kế với tư cách là người thừa kế

Pháp luật tại Anh, Mỹ, Pháp và nhiều quốc gia khác quy định rằng nhà nước có quyền sở hữu di sản vô chủ, coi đây là tài sản không có chủ sở hữu cụ thể Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu đối với các tài sản này nhằm quản lý và bảo vệ chúng.

Pháp luật các nước có sự khác biệt trong việc xử lý di sản không người thừa kế có yếu tố nước ngoài, đặc biệt khi công dân một quốc gia cư trú và qua đời tại quốc gia khác, để lại di sản không có người thừa kế trên lãnh thổ đó hoặc tại một quốc gia thứ ba Một số quốc gia quy định rằng Nhà nước sẽ là người thừa kế di sản không có người thừa kế.

Nếu một quốc gia thiết lập hệ thống quy phạm xung đột dựa trên quy tắc luật quốc tịch, di sản sẽ được chuyển giao cho Nhà nước nơi người để lại di sản thừa kế có quốc tịch.

Nếu một quốc gia xây dựng hệ thống quy phạm xung đột dựa trên quy tắc luật cư trú, di sản sẽ được chuyển giao cho Nhà nước nơi người để lại di sản thừa kế cư trú tại thời điểm qua đời Đối với những quốc gia quy định Nhà nước hưởng di sản không có người thừa kế dựa trên quyền chiếm hữu tài sản vô chủ, di sản đó sẽ được chuyển giao cho Nhà nước nơi tài sản thừa kế hiện đang tồn tại.

Theo Khoản 2 Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp không có người thừa kế, sẽ áp dụng Điều 680 của cùng bộ luật này Ngoài ra, việc phân biệt giữa tài sản là động sản và bất động sản được quy định tại Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam tham gia, vấn đề di sản không người thừa kế được quy định rõ ràng: di sản động sản sẽ được giao cho quốc gia ký kết nơi công dân để lại di sản qua đời, trong khi di sản bất động sản thuộc về quốc gia nơi có bất động sản đó Việc phân loại tài sản thành động sản hay bất động sản được xác định theo pháp luật của quốc gia nơi di sản tồn tại.

Hãy chọn phương án đúng:

1 Khoản 1 Điều 42 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Belarut quy định:

Quan hệ pháp luật về thừa kế động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của quốc gia mà người để lại di sản là công dân tại thời điểm qua đời Quy phạm pháp luật này thuộc lĩnh vực Tư pháp quốc tế, liên quan đến việc xác định luật áp dụng cho các tranh chấp về thừa kế tài sản trong bối cảnh có yếu tố nước ngoài.

C Quy phạm tố tụng dân sự quốc tế

D Tất cả các đáp án đều đúng

2 Anh A là công dân Việt Nam, sinh sống ổn định tại Lào Khi anh A chết, anh A để lại di sản là một ô tô tại Lào Anh A không để lại di chúc và những người thừa kế của anh A đều sinh sống tại Việt Nam Theo Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào thì pháp luật nước nào được áp dụng để định danh di sản thừa kế của anh A?

A Pháp luật Việt Nam vì anh A là công dân Việt Nam

B Pháp luật Việt Nam vì những người thừa kế đều sinh sống tại Việt Nam

C Pháp luật Lào vì di sản thừa kế tại Lào

D Pháp luật do những người thừa kế thoả thuận lựa chọn

3 Khoản 1 Điều 41 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Belarut quy định:

Công dân của một Bên ký kết có quyền thừa kế tài sản và các quyền khác trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, theo quy định của pháp luật hoặc di chúc, trong trường hợp người để lại thừa kế qua đời với các điều kiện và mức độ tương tự như công dân của Bên ký kết đó Quy phạm pháp luật này thuộc lĩnh vực Tư pháp quốc tế.

C Quy phạm tố tụng dân sự quốc tế

4 Anh A là công dân Belarut, sinh sống ổn định tại Việt Nam Khi anh A chết, anh A để lại di sản là bất động sản tại Việt Nam Anh A không để lại di chúc và anh A không có người thừa kế theo pháp luật Theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Belarut thì di sản không người thừa kế này sẽ thuộc về nhà nước nào? Vì sao?

A Nhà nước Việt Nam vì anh A sinh sống ổn định tại Việt Nam

B Nhà nước Việt Nam vì di sản là bất động sản tại Việt Nam

C Nhà nước Belarut vì di sản là động sản và anh A là công dân Belarut

D Nhà nước Belarut vì anh A là công dân Belarut

5 Theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015, kiểu hệ thuộc nào sau đây được sử dụng để định danh di sản?

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình trong Tư pháp quốc tế

Hôn nhân là một hiện tượng xã hội quan trọng, thể hiện sự liên kết giữa nam và nữ Từ góc độ pháp lý, hôn nhân được định nghĩa là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi họ đã chính thức kết hôn.

Gia đình là một tổ chức xã hội bao gồm nhiều cá nhân gắn bó với nhau qua hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, với mục tiêu hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần Gia đình cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dạy thế hệ trẻ, nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước và xã hội Về mặt pháp lý, gia đình được định nghĩa là tập hợp những người có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, tạo ra các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

8.1.2 Khái niệm về hôn nhân và gia đình trong Tư pháp quốc tế

Quan hệ hôn nhân và gia đình là một lĩnh vực phức tạp, vừa mang tính pháp luật vừa có tính xã hội, đặc biệt nhạy cảm Trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ, các mối quan hệ này không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn có yếu tố quốc tế rõ rệt.

Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được hiểu khác nhau ở các quốc gia trên thế giới Lý luận và thực tiễn của Tư pháp quốc tế cho thấy rằng quan điểm về vấn đề này rất đa dạng và phụ thuộc vào văn hóa, pháp luật và phong tục tập quán của từng quốc gia.

41 Khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

42 Khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 trong ba trường hợp sau:

Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân của một quốc gia với người nước ngoài được công nhận, không phân biệt việc các quan hệ này hình thành trong hay ngoài lãnh thổ của quốc gia đó.

- Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại một lãnh thổ một nước

- Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân một nước với nhau phát sinh tại nước ngoài

Pháp luật Việt Nam xác định "yếu tố nước ngoài" trong hôn nhân và gia đình dựa trên ba tiêu chí chính: thứ nhất, chủ thể phải là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thứ hai, căn cứ để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ phải theo pháp luật nước ngoài và phát sinh tại nước ngoài; thứ ba, tài sản liên quan phải nằm ở nước ngoài.

Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn

8.2.1 Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn

Kết hôn là sự xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ theo quy định của pháp luật, bao gồm các điều kiện và hình thức kết hôn Xung đột pháp luật về kết hôn thường liên quan đến các điều kiện và nghi thức kết hôn khác nhau giữa các quốc gia Để giải quyết những xung đột này, các quốc gia đã xây dựng quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật quốc gia và trong các điều ước quốc tế.

Pháp luật các quốc gia quy định các điều kiện kết hôn chủ yếu liên quan đến độ tuổi và các trường hợp cấm kết hôn Độ tuổi kết hôn là một yếu tố quan trọng và được quy định khác nhau ở mỗi quốc gia Ví dụ, một số quốc gia có độ tuổi tối thiểu khác nhau cho việc kết hôn, điều này ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các cặp đôi.

Tại Tây Ban Nha và Chile, độ tuổi kết hôn là 14 đối với nam và 12 đối với nữ, trong khi ở Hà Lan và Pháp, độ tuổi này là 18 cho nam và 16 cho nữ Nhiều quốc gia cũng đặt ra điều kiện cấm kết hôn giữa những người có quan hệ họ hàng gần; chẳng hạn, Pháp, Mỹ và Thụy Sỹ cấm kết hôn trong phạm vi ba đời, trong khi Anh và Bulgaria áp dụng quy định cấm trong phạm vi bốn đời.

Theo Khoản 25 Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, người vợ góa hoặc ly dị phải chờ một khoảng thời gian nhất định trước khi tái hôn, và cần sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ nếu người kết hôn chưa đủ tuổi thành niên Để giải quyết các xung đột pháp luật liên quan đến điều kiện kết hôn, nhiều quốc gia áp dụng hệ thuộc luật nhân thân của các bên, trong khi một số quốc gia khác dựa vào luật quốc tịch hoặc luật nơi cư trú Ví dụ, Mỹ và Ucraina áp dụng luật tại nơi tiến hành kết hôn.

Pháp luật các quốc gia quy định nghi thức kết hôn khác nhau dựa trên bản chất giai cấp, văn hóa và phong tục tập quán Có ba loại nghi thức kết hôn chính: kết hôn dân sự, kết hôn tôn giáo và kết hôn hỗn hợp Để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức kết hôn, các quốc gia thường áp dụng hệ thuộc luật nơi diễn ra hôn lễ Tuy nhiên, một số quốc gia có quy định bổ sung, như công dân Pháp phải thông báo kết hôn ngoài lãnh thổ để được công nhận hợp pháp Ở Đức, nếu nghi thức kết hôn không tuân thủ pháp luật nơi diễn ra nhưng phù hợp với quy định của quốc gia có công dân tham gia, hôn nhân đó vẫn có giá trị pháp lý Tương tự, tại Anh và Mỹ, nếu nghi thức không phù hợp với nơi tổ chức nhưng đáp ứng yêu cầu của pháp luật quốc gia nơi một trong các bên cư trú, hôn nhân vẫn được công nhận hợp pháp.

8.2.2 Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên a Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn theo pháp luật Việt Nam

Khi kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, cả hai bên cần tuân thủ pháp luật của quốc gia mình về điều kiện kết hôn Nếu hôn lễ diễn ra tại cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam, người nước ngoài cũng phải tuân theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Đối với người nước ngoài không có quốc tịch hoặc có nhiều quốc tịch, điều kiện kết hôn cũng cần được xem xét theo quy định pháp luật tương ứng.

Theo Khoản 1 Điều 126 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú tại Việt Nam phải được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn.

Kết hôn tại Việt Nam phải được đăng ký và thực hiện theo nghi thức của pháp luật, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là Ủy ban nhân dân, thực hiện Ngoài ra, việc giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến kết hôn cũng cần tuân theo các Hiệp định Tương trợ tư pháp.

Về điều kiện kết hôn, hầu hết các trường hợp áp dụng hệ thống luật quốc tịch của các bên liên quan để giải quyết xung đột pháp luật Thêm vào đó, một số Hiệp định còn quy định rằng người nước ngoài cần tuân thủ pháp luật của quốc gia nơi diễn ra lễ kết hôn.

Về hình thức kết hôn: Xung đột pháp luật được giải quyết bằng pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết hôn

8.2.3 Thẩm quyền đăng ký kết hôn

Việc kết hôn phải được đăng kí và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định của pháp luật Việt Nam 46

Thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định bởi pháp luật hộ tịch hiện hành.

Thẩm quyền đăng ký kết hôn tại Việt Nam thuộc về Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, việc đăng ký kết hôn sẽ được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên.

Khi công dân Việt Nam kết hôn với công dân nước láng giềng cư trú tại khu vực biên giới, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi công dân Việt Nam sinh sống sẽ thực hiện việc đăng ký kết hôn.

45 Khoản 2 Điều 126 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

46 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

47 Khoản 1 Điều 123 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

48 Khoản 2 Điều 7 Luật Hộ tịch năm 2014

49 Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014

50 Khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch năm 2014 thuộc về cơ quan đại diện của Việt Nam 51

Trình tự và thủ tục đăng ký kết hôn sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cụ thể là Nghị định 123/2015/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch.

Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn

Để giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn, các quốc gia áp dụng nhiều hệ thống luật khác nhau, bao gồm luật quốc tịch, luật nơi cư trú của các bên đương sự, và luật tòa án Cụ thể, Pháp áp dụng luật nơi cư trú chung của vợ chồng, và nếu không có nơi cư trú chung, sẽ áp dụng luật quốc tịch của cả hai bên, đồng thời cho phép bảo lưu trật tự công cộng Tại Đức, luật quốc tịch của người chồng được áp dụng vào thời điểm xin ly hôn Ở Anh và Mỹ, luật nơi cư trú của đương sự được sử dụng, trong khi các nước Đông Âu thường dựa vào luật quốc tịch của vợ chồng, hoặc luật nơi cư trú chung nếu họ không cùng quốc tịch.

8.3.1 Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên

Khi hai vợ chồng cùng quốc tịch, luật quốc tịch của họ sẽ được áp dụng Nếu hai vợ chồng khác quốc tịch nhưng cư trú tại một quốc gia có ký kết, việc ly hôn sẽ được giải quyết theo pháp luật của quốc gia đó Trong trường hợp hai vợ chồng không cùng cư trú tại một quốc gia ký kết khi nộp đơn ly hôn, luật của quốc gia nơi tiếp nhận đơn sẽ được áp dụng.

8.3.2 Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo pháp luật Việt Nam

Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, cũng như giữa các công dân nước ngoài cư trú tại Việt Nam, được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam Nếu một bên là công dân Việt Nam không cư trú tại Việt Nam khi yêu cầu ly hôn, thì việc ly hôn sẽ tuân theo luật của quốc gia nơi có nơi cư trú chung của vợ chồng Trong trường hợp không có nơi cư trú chung, luật Việt Nam sẽ được áp dụng.

Khi ly hôn, việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài tuân thủ luật của nước nơi có bất động sản 53

51 Điều 53 Luật Hộ tịch năm 2014

52 Khoản 1, 2 Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

53 Khoản 3 Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nước ngoài và theo pháp luật nước ngoài thì cũng được công nhận ở Việt Nam 54

Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng

8.4.1 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên Đa số các Hiệp định Tương trợ tư pháp đều thống nhất quy định nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo thứ tự sau: Luật của nước mà vợ chồng là công dân -> luật của nước nơi vợ chồng đang thường trú hoặc luật của nước nơi thường trú chung cuối cùng của vợ chồng -> luật của nước ký kết nơi có tòa án nhận đơn kiện của họ (ví dụ Điều 24 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Ba Lan, Điều 32 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Hungari)

Một số Hiệp định Tương trợ tư pháp quy định nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng theo thứ tự ưu tiên: trước tiên là luật nơi cư trú chung của vợ chồng, tiếp theo là luật quốc tịch chung, và cuối cùng là luật nơi cư trú chung cuối cùng Ví dụ điển hình cho nguyên tắc này có thể thấy trong Điều 26 của Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào, cùng với Điều 25 của Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga.

8.4.2 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo pháp luật Việt Nam

Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật nước nào cho quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng có yếu tố nước ngoài Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 122 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, pháp luật điều chỉnh quan hệ này có thể là pháp luật Việt Nam Đối với chế độ tài sản theo thỏa thuận và việc giải quyết hậu quả của nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam cùng các luật liên quan.

54 Xem Điều 37 đến Điều 39 Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch.

55 Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, tr.504

56 Điều 130 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, hầu hết các Hiệp định ưu tiên nguyên tắc luật quốc tịch của trẻ Một số Hiệp định khác áp dụng pháp luật của quốc gia nơi cha, mẹ và con cùng cư trú Tuy nhiên, các Hiệp định này cũng quy định trường hợp cha, mẹ, con không cùng nơi cư trú, lúc này nguyên tắc luật quốc tịch hoặc luật nơi cư trú của trẻ sẽ được áp dụng, như được nêu trong Điều 28 của Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga và Điều 29 của Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào.

Vấn đề xác định cha, mẹ, con được giải quyết dựa trên nguyên tắc luật quốc tịch của người con khi sinh ra, giúp giải quyết xung đột pháp luật trong các Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các quốc gia khác.

Việt Nam đã ký kết 28 Hiệp định Tương trợ tư pháp với Mông Cổ và Điều 27 Hiệp định Tương trợ tư pháp với Cuba Một số Hiệp định thừa nhận nguyên tắc luật của bên ký kết mà công dân là con cái, như Khoản 1 Điều 24 Hiệp định Tương trợ tư pháp với Bulgaria Đặc biệt, Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào thừa nhận nguyên tắc luật của nước ký kết nơi trẻ em cư trú tại thời điểm yêu cầu xác định quan hệ.

Về vấn đề cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, hầu hết các Hiệp định đều nhất quán áp dụng nguyên tắc luật của nước mà người yêu cầu cấp dưỡng là công dân Tuy nhiên, một số Hiệp định lại lựa chọn áp dụng hệ thuộc luật khác.

8.5.2 Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ giữa cha mẹ và con cái theo pháp luật Việt Nam

Cơ quan đăng ký hộ tịch Việt Nam có thẩm quyền xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp không có tranh chấp giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, cũng như giữa các công dân Việt Nam với nhau, miễn là ít nhất một bên liên quan là công dân Việt Nam.

57 Khoản 1 Điều 29 Hiệp Định tương Trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào

Theo Khoản 4 Điều 28 của Hiệp Định Tương Trợ Tư Pháp giữa Việt Nam và Mông Cổ, khi kiện đòi con đã thành niên trợ cấp nuôi dưỡng cha mẹ, pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật của Bên ký kết nơi người yêu cầu cấp dưỡng thường trú Tại Việt Nam, điều này được quy định theo pháp luật về hộ tịch.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con, quy định pháp luật áp dụng theo nơi cư trú của người yêu cầu cấp dưỡng Nếu người yêu cầu không có nơi cư trú tại Việt Nam, thì sẽ tuân theo pháp luật của quốc gia mà họ là công dân.

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến trên toàn thế giới, với các quy định pháp luật khác nhau về độ tuổi, thủ tục và quyền lợi của người nhận nuôi và con nuôi Sự khác biệt này dẫn đến xung đột pháp luật trong các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Để giải quyết vấn đề này, pháp luật các quốc gia thường áp dụng luật nhân thân của người nhận con nuôi hoặc con nuôi Tại Việt Nam, việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, như Công ước Lahaye năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi.

8.6.1 Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

Vào ngày 18 tháng 7 năm 2011, Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN, phê chuẩn Công ước Lahaye số 33, ký ngày 29 tháng 5 năm 1993, nhằm bảo vệ trẻ em và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.

Việt Nam tham gia Công ước Lahaye năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, thể hiện rõ quan điểm của nhà nước về việc trẻ em nên được sống trong môi trường gia đình gốc và tại nước gốc của mình Chỉ trong trường hợp không thể tìm được một môi trường sống hạnh phúc và yêu thương tại gia đình gốc hoặc nước gốc, mới xem xét đến việc cho trẻ em làm con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương, bao gồm Hiệp định tương trợ tư pháp, nhằm quản lý và hỗ trợ các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Những hiệp định này không chỉ tạo cơ sở pháp lý vững chắc mà còn thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi dưỡng trẻ em.

59 Khoản 1 Điều 128 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Theo Khoản 1 Điều 129 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc nhận nuôi con nuôi phải tuân thủ luật pháp của quốc gia mà người nhận nuôi có quốc tịch Nếu cha mẹ nuôi không cùng quốc tịch, thì phải tuân thủ quy định pháp luật hiện hành của cả hai quốc gia liên quan.

8.6.2 Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định cụ thể trong Luật Nuôi con nuôi năm 2010 a Về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi

Pháp luật về nhận nuôi con nuôi tại các quốc gia khác nhau quy định những điều kiện riêng biệt, bao gồm độ tuổi, khả năng kinh tế, và khoảng cách tuổi tác giữa người nhận nuôi và trẻ được nhận nuôi.

Luật áp dụng cho người nhận nuôi con nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài thường trú tại Việt Nam bao gồm cả quy định của pháp luật Việt Nam và luật nơi thường trú của người nhận nuôi Đối với công dân Việt Nam, việc nhận người nước ngoài làm con nuôi phải tuân thủ song song hai hệ thống pháp luật: quy định của Việt Nam về điều kiện nhận nuôi và quy định của nước nơi người được nhận nuôi thường trú.

Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trẻ em được nhận làm con nuôi phải dưới 16 tuổi, nhưng nếu là cha dượng, mẹ kế, hoặc người thân như cô, cậu, dì, chú, bác, độ tuổi có thể từ 16 đến dưới 18 tuổi Nhà nước khuyến khích nhận nuôi trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Hãy chọn phương án đúng:

1 Cơ sở pháp lý nào để xác định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài?

A Khoản 2 Điều 464 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

B Điều 2 Khoản 663 Bộ luật Dân sự năm 2015

C Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014

61 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi năm 2010

62 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010

2 Anh A và chị B là người không quốc tịch, đều cư trú tại Việt Nam Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì vụ việc ly hôn giữa anh A và chị B có yếu tố nước ngoài không?

A Không có yếu tố nước ngoài vì anh A và chị B đều cư trú tại Việt Nam

B Có yếu tố nước ngoài vì căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 464 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

C Có yếu tố nước ngoài vì căn cứ vào Điểm a Điều 2 Khoản 663 Bộ luật Dân sự năm

D Tất cả các phương án đều sai

3 Kiểu hệ thuộc luật nhân thân được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào sau đây?

B Quan hệ thừa kế liên quan đến di sản thừa kế là bất động sản

C Quan hệ hợp đồng có đối tượng là bất động sản

4 Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là dấu hiệu xác định “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự nào?

A Quan hệ hôn nhân và gia đình

5 Anh A và chị B là công dân Hàn Quốc, cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam từ năm 2015 Đến năm 2021, do mâu thuẫn phát sinh trong đời sống vợ chồng, anh A đã nộp đơn yêu cầu xin ly hôn trước Tòa án Việt Nam Sau khi anh A nộp đơn xin ly hôn, chị B về định cư tại Hàn Quốc Trong trường hợp trên, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết ly hôn cho anh A và chị B không? (Biết rằng giữa Việt Nam và Hàn Quốc không có điều ước quốc tế điều chỉnh về thẩm quyền)

A Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết

B Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vì anh A đã nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án Việt Nam

C Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết nếu chị B có tài sản ở Việt Nam

1 Quốc hội (2006), Luật Hàng không dân dụng năm 2006, Hà Nội

2 Quốc hội (2007), Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Hà Nội

3 Quốc hội (2008), Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, Hà Nội

4 Quốc hội (2010), Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Hà Nội

5 Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hà Nội

6 Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch năm 2014, Hà Nội

7 Quốc hội (2014), Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, sửa đổi bổ sung năm 2019, Hà Nội

8 Quốc hội (2015), Bộ luật Hàng hải năm 2015, Hà Nội

9 Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội

10 Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội

11 Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

12 Chính phủ (2015), Nghị định 123/2015/NĐ- CP hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch

13 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia năm 2004

14 Công ước Lahaye ngày 15/04/1958 về công nhận và thi hành các quyết định về cấp dưỡng trả

15 Công ước Lahaye ngày 15/04/1958 về thẩm quyền theo hợp đồng đối với các vụ việc về mua bán ngoại thương các động sản

16 Công ước New York ngày 20/06/1956 về trích tiền cấp dưỡng người nước ngoài

17 Công ước Lahaye ngày 01/03/1954 về các vấn đề tố tụng dân sự

18 Công ước Lahaye ngày 20/04/1966 về công nhận và thi hành các án dân sự và thương mại nước ngoài cùng với Nghị định thư bổ sung

19 Công ước của các nước EEC ngày 27/09/1968 về thẩm quyền quốc tế, về công nhận và thi hành án dân sự và thương mại

20 Công ước của các nước EEC ngày 16/05/1972 về quyền miễn trừ quốc gia

21 Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi.

Ngày đăng: 29/12/2024, 14:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
25. Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2010), Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư pháp quốc tế Việt Nam
Tác giả: Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2010
26. Ngô Hữu Phước, Ngô Đức Phương (2014), Các Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và nước ngoài, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và nước ngoài
Tác giả: Ngô Hữu Phước, Ngô Đức Phương
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2014
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Tư pháp quốc tế
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb. Tư pháp
Năm: 2022
28. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Tư pháp quốc tế
Tác giả: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2021
23. Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế Khác
24. Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và một số quốc gia. C. Giáo trình, sách, tài liệu khác Khác