1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Chế Định về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ r nmột cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý r ncông ty trong pháp luật việt nam và tham khảo kinh r nnghiệm từ hệ thống pháp luật anh – mỹ

66 1 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chế Định Về Trách Nhiệm Thực Hiện Quyền Và Nghĩa Vụ Một Cách Trung Thực, Cẩn Trọng Của Người Quản Lý Công Ty Trong Pháp Luật Việt Nam Và Tham Khảo Kinh Nghiệm Từ Hệ Thống Pháp Luật Anh – Mỹ
Tác giả Tấn Trúc Hạnh Doan
Người hướng dẫn Th.S. Nguyễn Thị Phương Thảo
Trường học Đại học quốc gia tp. hcm
Chuyên ngành Luật kinh tế
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2022
Thành phố tp. hcm
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 0,98 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (7)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (9)
  • 3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu (12)
    • 3.1. Mục đích nghiên cứu (12)
    • 3.2. Đối tượng nghiên cứu (13)
    • 3.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (13)
  • 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài (14)
    • 5.1. Về mặt khoa học (14)
    • 5.2. Về giá trị ứng dụng (15)
  • 6. Bố cục của khóa luận (15)
  • CHƯƠNG 1: NGHĨA VỤ TRUNG THỰC, CẨN TRỌNG CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH – MỸ (16)
    • 1.1. Cơ sở lý luận (16)
      • 1.1.1. Người quản lý công ty (16)
      • 1.1.2. Một số lý thuyết liên quan đến trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (17)
    • 1.2. Quy định pháp luật Anh – Mỹ về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (20)
      • 1.2.1. Tổng quan nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (20)
      • 1.2.2. Quy định pháp luật Anh – Mỹ về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (24)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ MỘT CÁCH TRUNG THỰC, CẨN TRỌNG CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ (36)
    • 2.1. Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách (36)
      • 2.1.1 Người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam (36)
      • 2.1.2. Hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (37)
      • 2.1.3. Quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (39)
    • 2.2. Một số bất cập trong việc áp dụng quy định và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (46)
      • 2.2.1. Cần xác định chức danh người quản lý công ty một cách bao quát (47)
      • 2.2.2. Cần xác định thực hiện công việc một cách trung thực, cẩn trọng là nghĩa vụ thay vì trách nhiệm (49)
      • 2.2.3. Bổ sung hướng dẫn cụ thể về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty (50)
      • 2.2.4. Đặt ra hành lang pháp lý nhằm áp dụng yếu tố trung thực, cẩn trọng gắn bó với người quản lý công ty cho đến khi công ty rơi vào tình trạng tài chính xấu (56)
      • 2.2.5. Tận dụng hiệu quả các biện pháp mềm trong quản trị doanh nghiệp (57)

Nội dung

Chính vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chế định về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty trong pháp luật Việt N

Tình hình nghiên cứu đề tài

Đến nay, trách nhiệm và nghĩa vụ của người quản lý công ty vẫn là một yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát quản trị doanh nghiệp Tuy nhiên, tài liệu lý luận về nghĩa vụ này tại Việt Nam vẫn chưa được trình bày một cách đầy đủ và chi tiết.

13 Nguyễn Ngọc Bích (2018), Mô hình quản trị công ty, Báo điện tử VnEconomy, https://vneconomy.vn/mo- hinh-quan-tri-trong-cong-ty-dai-chung.htm, truy cập ngày 15/10/2021

14 Hoàng Hải Yến (2020), Quản trị công ty niêm yết sở hữu gia đình tại Việt Nam – góc nhìn từ thực tiễn, Thông tin pháp luật dân sự, https://phapluatdansu.edu.vn/2020/04/08/15/19/quan-tri-cng-ty-nim-yet-so-huu- gia-dnh-tai-viet-nam-gc-nhn-tu-thuc-tien/, truy cập ngày 14/10/2021

Deborah A DeMott (1992) trong bài viết của mình đã khám phá trách nhiệm của các giám đốc về sự cẩn trọng và quy tắc phán quyết kinh doanh, với sự so sánh giữa các tiền lệ pháp lý của Mỹ và lựa chọn của Úc Mặc dù chủ đề này chỉ mới xuất hiện trong một số lượng nghiên cứu hạn chế, nhưng không thể phủ nhận rằng đang có sự thay đổi và tiến bộ đáng kể trong việc thảo luận về vấn đề này.

PGS.TS Bùi Xuân Hải đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu Luật Doanh nghiệp, đặc biệt là về vai trò của người quản lý Sự quan tâm của ông được thể hiện rõ qua các bài viết, trong đó nổi bật là tác phẩm "Người quản lý công ty theo luật doanh nghiệp".

Bài viết "Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam" được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007, là một trong những tác phẩm đầu tiên làm rõ mối quan hệ giữa người quản lý và công ty dựa trên lý thuyết đại diện Tác phẩm này phân tích quyền sở hữu và quyền quản lý công ty, đồng thời giới thiệu các mô hình công ty hiện đại trong bối cảnh kinh tế Việt Nam những năm 1990 Mặc dù nội dung đã cũ và dựa trên quy định non trẻ của Luật Doanh nghiệp thời điểm đó, bài viết vẫn để lại giá trị tham khảo quan trọng về lịch sử hình thành quy định điều chỉnh người quản lý Nó lý giải hành động tư lợi của các nhà quản lý và đề xuất các lý thuyết quản trị nhằm hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa các bên trong công ty Để cập nhật những thay đổi mới trong Luật Doanh nghiệp qua các phiên bản 2014 và 2020, bài nghiên cứu cũng đã tham khảo các tài liệu liên quan.

Giới hạn trách nhiệm của người quản lý công ty trong bối cảnh tham vấn chuyên gia tại Việt Nam và một số quốc gia khác được phân tích sâu sắc trong bài viết của tác giả Lê Ngọc Vân Nhi (2021) Bài viết nêu rõ tầm quan trọng của việc xác định rõ ràng trách nhiệm của người quản lý khi họ dựa vào ý kiến chuyên môn, từ đó góp phần bảo vệ quyền lợi của cả công ty và các bên liên quan Thông qua việc so sánh với các quy định quốc tế, tác giả cũng chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong cách thức áp dụng giới hạn trách nhiệm, giúp người đọc hiểu rõ hơn về khung pháp lý này.

17 Tại đây, người viết đã có sự cập nhật quy định hiện hành là Luật Doanh nghiệp

2020 trong phân tích người quản lý công ty Mặt khác, bài viết cũng có tham khảo

Bùi Xuân Hải (2007) trong tác phẩm "Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam" đã phân tích sâu sắc về các khía cạnh liên quan đến đại diện trong pháp luật công ty Tài liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan về các vấn đề pháp lý đang tồn tại trong hệ thống pháp luật công ty tại Việt Nam Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào liên kết: https://lib.hcmulaw.edu.vn/opac/wshowdetail.aspx?intItemID=188, truy cập ngày 10/12/2021.

Bài viết của Lê Ngọc Vân Nhi (2021) phân tích giới hạn trách nhiệm của người quản lý công ty khi tham vấn chuyên gia tại Việt Nam và so sánh với quy định của một số quốc gia trên thế giới Tác giả làm rõ sự khác biệt trong định nghĩa "người quản lý" giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Anh – Mỹ, đồng thời giải thích sự phát triển nghĩa vụ của người quản lý từ nghĩa vụ ủy thác và đề cập đến quy tắc Phán quyết kinh doanh trong việc xác định trách nhiệm Mặc dù bài viết chủ yếu liệt kê các quy định pháp luật và thiếu minh họa thực tế, nó vẫn cung cấp cái nhìn tổng quan về nghĩa vụ của người quản lý trong hệ thống pháp luật của cả hai quốc gia, tạo cơ sở cho nghiên cứu sâu hơn.

Tác giả đã tham khảo các nghiên cứu từ các chuyên gia quốc tế, đặc biệt là từ Anh và Mỹ, những quốc gia nổi bật với nền kinh tế năng động và khả năng xây dựng cũng như duy trì các doanh nghiệp lâu dài.

Nổi bật là tài liệu về quản trị công ty dưới góc độ luật học so sánh mang tên

The article "Comparative Analysis on Legal Regulation of the Liability of Members of the Management Organs of Companies," authored by Bernard Black, Brian Cheffins, Martin Gelter, Hwa-Jin Kim, Richard Nolan, Mathias Siems, and Linia Prava, was first published in 2008 as an ECGI Working Paper This work not only synthesizes and builds upon previous literature on corporate governance but also offers a comparative examination of governance models, the rights and duties of management officials, and the regulatory frameworks across various countries, including Russia and the UK.

Mỹ, Pháp, Đức, Ý, Hàn Quốc và các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu đã được nghiên cứu để làm rõ lịch sử hình thành chức danh người quản lý công ty và quan điểm của từng quốc gia Nghiên cứu giải thích tầm quan trọng của nghĩa vụ nhà quản lý trong bối cảnh doanh nghiệp còn mơ hồ về vấn đề này Bên cạnh đó, tác phẩm so sánh quy định về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng và hành động thiện chí của người quản lý ở các quốc gia, tạo cơ sở cho việc hệ thống các quy định trong nghiên cứu.

The 2008 ECGI Working Paper by Bernard Black, Brian Cheffins, Martin Gelter, Hwa-Jin Kim, Richard Nolan, Mathias Siems, and Linia Prava offers a comparative analysis of the legal regulation concerning the liability of company management members This study spans pages 30 to 35 and provides insights into how different jurisdictions approach the accountability of management organs within corporate structures.

Tuy nhiên, do tác phẩm đã được xuất bản từ lâu, cần cập nhật một số điều khoản liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý để phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.

Tiếp theo là công trình Loyalty's Core Demand: The Defining Role of Good Faith in Corporation Law do các tác giả Leo E Strine, Jr., Lawrence A

Hammermesh, R Franklin Balotti và Jeffrey M Gorris đã công bố một nghiên cứu quan trọng trong bài viết tại Harvard Law & Economics Discussion Paper số 630 năm 2009 và Widener Law School Legal Studies Research Tác phẩm này mang đến một cái nhìn mới mẻ về nghĩa vụ trung thực và mẫn cán của các nhà quản lý, nhấn mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa nghĩa vụ này với lòng trung thành và tính vô tư, phát sinh từ những đãi ngộ và mối quan hệ tích cực với công ty Các tác giả đã đề xuất một công cụ mới, bên cạnh tính chất bắt buộc của nghĩa vụ, nhằm khuyến khích các nhà quản lý thực hiện tốt trách nhiệm của mình Hơn nữa, nghiên cứu còn khai thác sâu sắc các quy định ràng buộc nhà quản lý tại bang Delaware và các án lệ nổi tiếng, tạo nền tảng cho cái nhìn sâu sắc hơn về quan điểm của tòa án trong hệ thống Thông Luật.

Các quốc gia với nền kinh tế phát triển và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp thường sở hữu kho tài liệu và án lệ phong phú Ngược lại, ở Việt Nam, lĩnh vực này vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác.

Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của người quản lý công ty, đồng thời kêu gọi việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm hướng dẫn và điều chỉnh vị trí này, từ đó tạo ra giá trị lớn hơn cho doanh nghiệp và xã hội trong tương lai.

(i) Đánh giá lý luận và thực tiễn giám sát người quản lý công ty tại các nước nói chung và tại Việt Nam nói riêng;

19 Leo Strine, Lawrence A Hamermesh, R Franklin Balotti & Jeffrey M Gorris (2009), Loyalty's Core Demand: The Defining Role of Good Faith in Corporation Law, Georgetown Law Journal, Vol 93, p 629,

2010, Widener Law School Legal Studies Research Paper No 09-13, Harvard Law and Economics Discussion Paper No 630

Để nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị công ty tại Việt Nam, cần quy định rõ trách nhiệm của người quản lý liên quan đến nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng Việc này sẽ giúp đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý, từ đó cải thiện hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài hướng đến làm rõ, nghiên cứu và phân tích các đối tượng sau:

(i) Người quản lý công ty tại các doanh nghiệp ở Việt Nam;

(ii) Quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện chế định về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty tại Việt Nam.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Do thời gian và dung lượng hạn chế, tác giả tập trung vào nghiên cứu quy định pháp luật về trách nhiệm trung thực và cẩn trọng của người quản lý công ty, không đề cập đến trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách tối ưu Bài viết cũng đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và cải thiện thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 và các tình huống bất lợi khác.

Đề tài nghiên cứu nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý công ty trong hai loại hình doanh nghiệp chủ yếu là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), với các quy định cụ thể trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam Ngoài ra, nghiên cứu cũng xem xét các bài học kinh nghiệm và án lệ từ phán quyết của tòa án theo hệ thống luật Anh - Mỹ, nhằm tìm ra những điểm tương đồng trong lĩnh vực doanh nghiệp.

Phương pháp nghiên cứu

Trong bài viết, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

Trong bài nghiên cứu này, tác giả phân tích các quy định pháp luật để hiểu rõ ý chí của nhà làm luật, đồng thời áp dụng án lệ liên quan Tác giả trình bày quan điểm thông qua hệ thống luận điểm và luận cứ, từ đó đưa ra tổng kết khách quan và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.

Phương pháp so sánh và đối chiếu được áp dụng để nghiên cứu các điểm tương đồng và khác biệt trong quy định pháp luật giữa các hệ thống luật liên quan Qua đó, tác giả có thể làm nổi bật những đặc thù trong quy định của từng hệ thống luật, từ đó thực hiện phân tích sâu sắc hơn trước khi đưa ra các kiến nghị tham khảo.

Phương pháp tổng hợp được áp dụng nhằm đưa ra những nhận định có căn cứ, thông qua việc tham khảo thông tin từ nhiều nguồn tài liệu luật học khác nhau, bao gồm ý kiến của các học giả pháp lý trong và ngoài nước Tác giả tiến hành tổng hợp các phân tích để rút ra kết luận, từ đó cung cấp thông tin khách quan và đa chiều cho vấn đề cần giải quyết.

Phương pháp bình luận là một trong những cách tiếp cận quan trọng, giúp tác giả đánh giá những điểm tích cực và những thách thức còn tồn tại trong quy định pháp luật và quyết định của cơ quan Qua đó, tác giả rút ra kinh nghiệm nhằm phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu được thực hiện thông qua nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau, chủ yếu là phương pháp nghiên cứu luật học so sánh Nghiên cứu này giải thích các quy phạm pháp luật, phân tích và áp dụng án lệ, đồng thời tham khảo tài liệu từ luật pháp quốc gia và quốc tế, cũng như dữ liệu học thuật và truyền thông.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Về mặt khoa học

Thứ nhất, đề tài đã được tác giả tham khảo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ

Đề tài này hệ thống hoá các khái niệm, cơ sở lý thuyết và quy định pháp luật quan trọng của pháp luật Anh – Mỹ và Việt Nam Kết quả của nghiên cứu sẽ hỗ trợ các nhà nghiên cứu pháp luật, luật học và nhà lập pháp trong việc hiểu rõ tình hình hiện tại, đồng thời cung cấp cái nhìn toàn diện về nghĩa vụ của người quản lý công ty Điều này sẽ tạo ra môi trường thảo luận để so sánh và đưa ra kiến nghị cho pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, đề tài nghiên cứu đã có sự cân nhắc đến tình hình đặc thù của Việt

Nam sẽ cung cấp các phân tích, đánh giá và khuyến nghị thiết thực nhằm tăng cường vai trò và trách nhiệm của người quản lý công ty tại đây.

Đề tài nghiên cứu không chỉ tổng hợp các nghiên cứu và lý thuyết trước đây, mà còn xem xét bối cảnh kinh tế, xã hội và hệ thống pháp luật hiện hành.

Việt Nam nhận thức rõ tầm quan trọng của vai trò nhà quản lý công ty, khi họ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động của doanh nghiệp Nhiều quốc gia đã xác định vị trí này là trọng tâm trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp.

Về giá trị ứng dụng

Đề tài này tập trung vào việc kiến nghị các giải pháp pháp lý và biện pháp mềm nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nghĩa vụ của người quản lý công ty Qua đó, nó cung cấp cái nhìn trực quan về vai trò quan trọng của người quản lý, giúp công chúng nhận thức rõ hơn về vị trí này Đồng thời, đề tài cũng chuẩn bị cho doanh nghiệp những tình huống xấu có thể xảy ra, từ đó giúp họ tránh được những thất thoát không cần thiết, góp phần mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và nền kinh tế – xã hội.

Bố cục của khóa luận

Nội dung chính của khóa luận được cấu trúc thành hai chương, bên cạnh các phụ lục như lời mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo và danh mục từ viết tắt.

Chương 1 sẽ khám phá nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng của người quản lý công ty trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, bao gồm khái niệm về người quản lý công ty, lịch sử hình thành và các học thuyết liên quan Bài viết cũng sẽ phân tích các quy định nổi bật hiện hành về nghĩa vụ này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện công việc một cách trung thực và cẩn trọng trong vai trò quản lý.

Chương 2 sẽ phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty, đồng thời so sánh với quy định tương tự trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ Qua việc làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt, tác giả sẽ đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục hạn chế trong việc áp dụng quy định này trong thực tiễn.

NGHĨA VỤ TRUNG THỰC, CẨN TRỌNG CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH – MỸ

Cơ sở lý luận

1.1.1 Người quản lý công ty

Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế và phát triển xã hội Nhân lực quản trị là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của công ty, vì để vận hành hiệu quả và thực hiện chiến lược cụ thể, cần có những cá nhân lãnh đạo theo sát kế hoạch đã đề ra.

Chặng đường phát triển các chức danh quản lý trong công ty đã phản ánh sự tiến bộ trong lịch sử pháp lý Các công ty đã hình thành các chức danh như giám đốc và thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) để lựa chọn những cá nhân có trách nhiệm quản lý Tuy nhiên, sự phát triển này chỉ thực sự hoàn thiện vào cuối thế kỷ 20.

Nhiều người vẫn chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của Hội đồng quản trị (HĐQT) trong công ty, thường cho rằng Đại hội đồng cổ đông là cơ quan tối cao và HĐQT chịu sự kiểm soát của cơ quan này Tuy nhiên, phán quyết của Tòa phúc thẩm trong vụ Automatic Self-Cleansing Filter Syndicate Co Ltd v Cuninghame vào năm 1906 đã chỉ ra rằng quyền lực giữa HĐQT và Đại hội đồng cổ đông phụ thuộc vào Điều lệ công ty Nếu quyền quản lý được trao cho HĐQT, thì Đại hội đồng cổ đông không thể can thiệp vào việc thực thi hợp pháp của các giám đốc Điều này cho thấy giám đốc có quyền độc lập trong việc quản lý công ty theo chức năng và nhiệm vụ được giao.

Vào đầu thế kỷ 21, quản trị công ty trở thành một vấn đề quan trọng sau hàng loạt vụ sụp đổ doanh nghiệp toàn cầu Sự chú ý này đã làm nổi bật vai trò của người quản lý công ty trong việc dẫn dắt doanh nghiệp hoặc tập đoàn phát triển trên thị trường Điều này cũng đồng nghĩa với việc đặt ra những nghĩa vụ cần thiết cho các nhà quản lý nhằm tăng cường sức mạnh cho công ty và giảm thiểu các rủi ro không đáng có.

20 Gower (1997), Principles of Modern Company Law, Sweet & Maxwell Ltd; 6Rev Ed edition, citing Isle of Wight Rly Co v Tahourdin (1884) LR 25 Ch D 320

21 Án lệ Automatic Self-Cleansing Filter Syndicate Co Ltd v Cuninghame (1906) 2 Ch 34

Pháp luật về người quản lý và hệ thống quản lý doanh nghiệp đã được phát triển bền vững và chi tiết Người quản lý trong công ty có thể mang nhiều danh xưng như Giám đốc, Tổng giám đốc, hoặc thành viên HĐQT, tùy thuộc vào cấu trúc quản lý và văn hóa doanh nghiệp của từng quốc gia Các quản lý không chỉ điều hành hoạt động hàng ngày mà còn hoạch định những chiến lược quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty.

1.1.2 Một số lý thuyết liên quan đến trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty

Kể từ khi quyền sở hữu và quyền quản lý trong doanh nghiệp được tách rời, người quản lý không còn là chủ sở hữu, dẫn đến việc cần thiết phải xác định quyền hạn cho các nhà quản lý Theo học thuyết của Tuân Tử từ phương Đông, “Nhân chi sơ tính bổn ác”, điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý hiệu quả và trách nhiệm trong tổ chức.

Theo McGregor 24, con người thường có xu hướng tư lợi, do đó cần có sự kiểm soát khi đảm nhận công việc liên quan đến lợi ích chung của tập thể.

Lý thuyết người đại diện (agency theory) cho rằng chức danh "quản lý" không chỉ là một công việc mà còn là một nghề, thu hút những cá nhân có năng lực phù hợp Trong quá trình quản lý, thường xảy ra xung đột giữa các bên liên quan Tư tưởng này được Adam Smith thể hiện rõ trong tác phẩm "Sự giàu có của các quốc gia", nơi ông chỉ ra những khía cạnh quan trọng của mối quan hệ giữa quản lý và các bên liên quan.

Là người quản lý tài chính cho người khác, chúng ta không thể mong đợi rằng họ sẽ chăm sóc và quản lý tiền bạc của chúng ta với sự cẩn thận và lo lắng như cách mà họ quản lý tài sản của chính mình.

22 OECD (2008), Using the OECD Principles of Corporate Governance - A Boardroom Perspective, p.15

23 Leslie Hannah (2007), The ‘Divorce’ of Ownership from Control from 1900 Onwards: Re-Calibrating Imagined Global Trends, Business History, 49(4): pp 404-410

Trong cuốn sách "The Human Side of Enterprise" xuất bản năm 1960, McGregor đã trình bày hai thuyết quản lý quan trọng: Thuyết X, mô tả những người lao động lười biếng và thiếu động lực, cần đến các biện pháp thưởng phạt để thúc đẩy hiệu suất làm việc; và Thuyết Y, nhấn mạnh vào những nhân viên có tinh thần trách nhiệm và đam mê công việc Ông cũng nhận định rằng con người là những sinh vật đầy khát khao và sẽ không bao giờ cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn.

25 Kent Baker and Ronald Anderson (2011), Corporate Governance: A synthesis of Theory, Research and

In her 2005 article, Usha Rodrigues discusses the shift from loyalty to conflict in the context of fiduciary duty at the officer level, highlighting the pervasive issue of negligence in corporate management This underscores the critical need for officers to navigate their responsibilities carefully, as financial mismanagement can lead to significant consequences for stakeholders.

Người quản lý công ty, khi được ủy thác, cần phải thể hiện rõ nghĩa vụ của mình đối với sự ủy thác và tín nhiệm đó, được gọi là "fiduciary duty".

Lý thuyết người quản gia (“stewardship theory”) được phát triển nhằm bảo vệ người quản lý công ty, cho rằng hoạt động của công ty không chỉ nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận mà còn tạo ra những giá trị cao quý như uy tín và địa vị Những giá trị này có thể khuyến khích người quản lý hành động vì lợi ích chung thay vì chỉ vì lợi ích cá nhân Lý thuyết này thể hiện niềm tin rằng, khi được tự do hành động, người quản lý sẽ cư xử như một người quản gia đối với công ty và tài sản mà họ quản lý Tuy nhiên, lý thuyết này cũng gặp phải nhiều ý kiến trái chiều do sự tin tưởng quá mức mà không có cơ sở đảm bảo, và mối quan hệ giữa công ty và người quản lý không hoàn toàn công bằng, có thể bị tác động bởi các yếu tố cảm xúc.

Với những phát hiện gần đây phù hợp với sự phát triển quản trị kinh doanh,

Quản lý hiệu quả đòi hỏi sự cân bằng giữa "cây gậy" và "củ cà rốt" Nhà quản lý không chỉ cần hoàn thành tốt nhiệm vụ mà còn phải đối mặt với những rào cản tâm lý trong quá trình thực hiện Lòng tham không phải là cảm xúc duy nhất dẫn dắt con người đi sai hướng; sự sợ hãi rủi ro và thiếu quyết đoán có thể làm suy yếu khả năng quản lý Khi nhà quản lý lo ngại về trách nhiệm cá nhân đối với các quyết định của mình, họ có xu hướng né tránh các rủi ro, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả công việc Do đó, việc kiềm chế lòng tham và xây dựng sự tự tin trong quyết định là rất cần thiết.

27 Adam Smith (1776), The Wealth of Nations: An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, London edition, p 6

28 Lymon P.Q Johnson & David Millon (2005), Recalling Why Corporate Officers are Fiduciaries, 46 Wm

29 Lex Donaldson & James H Davis (1991), Stewardship Theory or Agency Theory: CEO Governance and

Shareholder Returns, Australian Journal of Management, June, Vol 16 No 1, p.62

30 Án lệ Credit Lyonnais Bank Nederland, NV v Pathe Communications, Inc, Civil No 12150, Del Ch, Dec

31 Victoria Stace (2016), Directors’ liability in negligence to third parties: Challenging the assumption of responsibility approach, Oxford University Commonwealth Law Journal, p 186

Án lệ Unocal Corp v Mesa Petroleum Co (1985) đã chỉ ra rằng HĐQT có thể ưu tiên lợi ích cá nhân hơn là lợi ích của công ty và cổ đông, tạo nên "bóng ma" lo ngại trong quản trị doanh nghiệp Do đó, niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của nhà quản lý không còn đủ, mà luật pháp cần được áp dụng để đảm bảo rằng các nhà quản lý thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ lợi ích chung.

Quy định pháp luật Anh – Mỹ về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty

1.2.1 Tổng quan nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty theo pháp luật Anh – Mỹ

1.2.1.1 Người quản lý công ty theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ

Khác với Việt Nam, các văn bản pháp luật và án lệ về công ty ở Hoa Kỳ không sử dụng thuật ngữ "người quản lý công ty" mà thay vào đó là "thành viên HĐQT" và "các chức vụ điều hành" Trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, thành viên HĐQT được coi là người quản lý công ty Tương tự, luật pháp Vương quốc Anh và Úc cũng quy định như vậy, cụ thể theo Điều 250 của Đạo luật công ty Anh năm 2006 và Điều 9 của Đạo luật công ty Úc năm 2001, cùng với các nguyên tắc quản trị công ty.

Những người quản lý công ty theo hệ thống Luật Anh – Mỹ nói trên được phân loại gồm ba đối tượng sau: 43

(i) Nhóm người quản lý công ty chính thức như thành viên HĐQT

Ban giám đốc bao gồm hai nhóm chính: (i) Các giám đốc điều hành, được bổ nhiệm theo quy định pháp luật và quy chế công ty, còn được gọi là giám đốc de jure; và (ii) Các giám đốc không điều hành, thực hiện vai trò quản lý thực tế dù không có chức danh chính thức, được xem là giám đốc de facto.

(iii) Người quản lý giấu mặt (“shadow directors”) mà công ty không tiết lộ, qua điều tra mà phát hiện sự chi phối của họ với công ty

Người được bổ nhiệm theo quy định pháp luật và quy chế để trở thành giám đốc hoặc thành viên Hội đồng quản trị sẽ được coi là người quản lý công ty.

“de jure directors” Đây là hình thức quản lý được thừa nhận phổ biến, nhà quản

38 Model Business Corporation Act 2016 (MBCA), Chapter 8, § 8.01, § 8.30, § 8.40

39 Model Business Corporation Act 2016 (MBCA), § 8.01

40 Company Act 2006 – UK, Chapter 2, Part 2G.2, Article 250

42 Principles of Corporate Governance – OECD (2015), p 35, 49, 55

Theo Điều 43 của Luật Công ty 2006 tại Vương quốc Anh, việc bổ nhiệm giám đốc được thực hiện qua quyết định của chủ sở hữu và phải đăng ký theo quy trình pháp luật, điều này khẳng định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của họ Luật Mẫu Công ty Kinh doanh Hoa Kỳ 2016 quy định rằng mọi quyết định kinh doanh và hoạt động giám sát đều phải được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Quản trị Tương tự, Điều 282 của Đạo luật Công ty Anh cũng quy định rằng các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty phải được quản lý bởi các giám đốc.

Ngoài nhà quản lý chính thức, còn có những "de facto directors" - những người không được bổ nhiệm nhưng hành động như giám đốc thực thụ Họ thực hiện nhiệm vụ của giám đốc và có thể đưa ra quyết định, mặc dù tài liệu cần ký vẫn được chuyển đến giám đốc chính thức Nguyên nhân không mang danh nghĩa quản lý có thể do thiếu tiêu chuẩn, hết thời gian hợp đồng hoặc chưa có quyết định bổ nhiệm mới Những người này được xem là tấm lưới bảo vệ để phát hiện hành vi vi phạm trong công ty Ví dụ, nếu một giám đốc đã hết nhiệm kỳ nhưng vẫn tiếp tục điều hành, họ sẽ được coi là người quản lý thực tế và các hành vi của họ vẫn ràng buộc công ty Do đó, giám đốc này vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý và đối mặt với rủi ro như một người quản lý hợp pháp.

Cuối cùng, có những người mà chỉ thị và hướng dẫn của họ được thực hiện bởi người quản lý một cách chính thức Đây là một mạng lưới quan trọng giúp thu hút và kết nối những cá nhân này.

"Shadow directors" hay người quản lý trong bóng tối, là khái niệm pháp lý quan trọng trong luật Anh - Mỹ, được định hình qua phán quyết nổi tiếng của Thẩm phán Khái niệm này đề cập đến những cá nhân có ảnh hưởng lớn đến quyết định của một công ty mà không giữ chức vụ chính thức, từ đó đặt ra nhiều vấn đề về trách nhiệm pháp lý và minh bạch trong quản lý doanh nghiệp.

44 Model Business Corporation Act 2016 (MBCA), § 8.01

45 Company Act 2006 – UK, Chapter 1, Part 1.2A, Article 170

Trong vụ kiện của Công ty Hydrodam (Corby) Ltd., thẩm phán Millet J thuộc Tòa án Cấp cao xứ Anh và Wales đã phân loại ba nhóm nhà quản lý công ty và giải thích về khái niệm người quản lý giấu mặt Quản tài viên của Hydrodam đã cáo buộc các giám đốc của công ty mẹ Eagle Trust cho phép Hydrodam thực hiện các giao dịch sai trái Tuy nhiên, thẩm phán Millet J nhấn mạnh rằng để xác định các giám đốc công ty mẹ là người quản lý giấu mặt, cần phải chứng minh họ đã chỉ đạo và hướng dẫn HĐQT của công ty con, và các giám đốc thực sự của công ty con đã hành động theo chỉ đạo đó nhiều lần Phiên tòa cũng chỉ ra rằng người quản lý giấu mặt có thể tạo ra rủi ro lớn hơn cho công ty do việc xác định danh tính và phương thức quản lý của họ gặp khó khăn Vì vậy, việc quy định về người quản lý giấu mặt trong pháp luật là cần thiết để tòa án có thể xác định chính xác trách nhiệm và ngăn chặn tội phạm.

Pháp nhân có thể đóng vai trò là người quản lý giấu mặt của một công ty khác, và khi đảm nhận vai trò này, pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm tương tự như người quản lý thực tế Điều này có nghĩa là pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự và hình sự, cũng như có thể bị cấm quản lý nếu vi phạm nghĩa vụ của mình Theo quy định và thực tiễn xét xử, các tòa án trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ xác định người quản lý dựa trên chức năng và công việc thực tế, không chỉ dựa vào chức danh Do đó, ngay cả khi một người không được bổ nhiệm chính thức làm người quản lý, họ vẫn có thể bị tòa án xem là người quản lý và phải chịu trách nhiệm tương ứng.

Án lệ Re Hydrodan (Corby) Ltd., 2 BCLC 180 (1994) đã thiết lập tiêu chí để xác định người quản lý giấu mặt thông qua sự can thiệp của họ vào quá trình quản lý công ty Nếu một cá nhân tham gia vào các hoạt động như ủy nhiệm chi, vay mượn nhân danh công ty, can thiệp vào nội dung cuộc họp Hội đồng quản trị, hoặc quản lý hoạt động kinh doanh, họ có thể bị coi là chịu trách nhiệm như một nhà quản lý công ty.

47 Company Act 2006 – UK, Chapter 2, Part 2G.2, Article 251

48 Paul Cooper (2019), What Are the Consequences of Being a Shadow Director?, Legalvision, https://legalvision.com.au/what-are-the-consequences-for-shadow-directors/, truy cập ngày 15/10/2021

Theo Bùi Xuân Hải (2005), trong bài viết "Người quản lý công ty theo luật Doanh nghiệp 1999", quy định pháp luật có khả năng can thiệp vào nhiều trường hợp tranh chấp liên quan đến quản lý công ty trong thực tế.

1.2.1.2 Lịch sử hình thành nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty theo pháp luật Anh – Mỹ và hệ thống pháp luật hiện hành

Trong vụ tranh chấp nổi bật Cohen v Beneficial Indus Loan Corp., các nhà quản lý và giám đốc của Beneficial Indus Loan Corp đã lạm dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, gây thiệt hại cho công ty Các cổ đông thiểu số không dám khởi kiện vì lo ngại về chi phí pháp lý nếu vụ kiện thất bại Điều này đã dẫn đến việc các nhà làm luật nhận thấy rằng trách nhiệm pháp lý của nhà quản lý không chỉ dừng lại ở việc vi phạm pháp luật, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ trung thực, thiện chí và cẩn trọng theo chức danh quản lý của họ Do đó, họ đã khuyến khích cổ đông khởi kiện trong những trường hợp như vậy để bảo vệ quyền lợi của mình.

Trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, có nhiều đạo luật quan trọng quy định nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng của người quản lý công ty, bao gồm Đạo luật Mẫu Model Act (1974), Đạo luật Công ty Anh (2006), Luật Công ty Hoa Kỳ MBCA (2016) và Bộ trách nhiệm người quản lý công ty Hoa Kỳ (RMBCA), cùng với các luật cụ thể của từng bang như Delaware, Texas, California Hệ thống pháp luật này cũng chịu ảnh hưởng từ các học thuyết và nguyên tắc quản trị công ty Hoa Kỳ, trong đó có quy tắc “quy tắc phán đoán kinh doanh” tại Delaware Các quy tắc này vẫn được nhiều tòa án Anh – Mỹ áp dụng trong quá trình xét xử, và sẽ được làm rõ hơn trong phần tiếp theo.

50 Án lệ Cohen v Beneficial Indus Loan Corp 337 US 541 (1949

51 Robert Hamilton (1973), Business organizations, (Texas practice), West Pub Co, pp 712-718

52 Án lệ Cohen v Beneficial Indus Loan Corp 337 US 541 (1949), Án lệ Pepper v Litton 308 U.S 295

Vào năm 1939, Toà án Hoa Kỳ tối cao đã khẳng định rằng giám đốc giữ các vị trí ủy thác, do đó Hiến pháp Liên bang không thể cấm các tiểu bang ban hành luật yêu cầu những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về trách nhiệm, trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm giải trình đối với họ.

Trong phần 309(a) của Bộ luật Tập đoàn California, có 53 quy tắc phán đoán kinh doanh được hệ thống hóa, yêu cầu các giám đốc thực hiện nhiệm vụ với tinh thần “thiện chí” và “thận trọng” Điều này khuyến khích các giám đốc ra quyết định một cách tự tin, tương tự như những người ở vị trí tương tự, nhằm không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh cho công ty Nội dung này đã được củng cố qua các án lệ.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ MỘT CÁCH TRUNG THỰC, CẨN TRỌNG CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách

Phần này sẽ phân tích và so sánh các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty, đặc biệt là đối với người quản lý công ty TNHH và công ty cổ phần Qua đó, sẽ rút ra những khác biệt với chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty trong pháp luật Anh - Mỹ và đề xuất những kiến nghị phù hợp cho quy định pháp luật Việt Nam.

2.1.1 Người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam

Việc xác định đúng người quản lý công ty là rất quan trọng để nâng cao hiệu quả quản trị, bảo vệ quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan trong trường hợp xảy ra tranh chấp Theo Khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020, người quản lý công ty bao gồm những cá nhân có trách nhiệm điều hành và quản lý hoạt động của doanh nghiệp.

Người quản lý doanh nghiệp tư nhân và công ty bao gồm các chức danh như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc và các cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty.

So với pháp luật Anh – Mỹ, Luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành quy định giám đốc là một chức danh quản lý cụ thể, trong khi pháp luật Anh – Mỹ không phân biệt vị trí hay chức danh của người quản lý Luật Việt Nam cũng chỉ rõ các chức danh quản lý khác theo từng loại hình doanh nghiệp và cho phép bổ sung các chức danh theo quy định của Điều lệ Những người đảm nhận chức danh quản lý phải thực hiện đầy đủ vai trò và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật và quy chế nội bộ.

Theo Luật Doanh nghiệp, cá nhân giữ “chức danh quản lý khác” thường là kế toán trưởng, giám đốc tài chính hoặc giám đốc chuyên môn Tuy nhiên, họ chỉ phải tuân theo nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà quản lý khi Điều lệ công ty ghi nhận họ là quản lý Thực tế, Điều lệ thường không quy định khác, dẫn đến việc một số chức danh như trưởng phòng/ban, mặc dù có thẩm quyền lớn trong việc triển khai chiến lược, vẫn thường được xem là người lao động hơn là quản lý.

Pháp luật Việt Nam hiện chưa quy định về những nhà quản lý nắm thực quyền hay "nhà quản lý giấu mặt", điều này khác biệt so với quy định của pháp luật Anh – Mỹ Do đó, phạm vi điều chỉnh của Điều lệ và các quy định pháp luật liên quan đến quyền hạn và nghĩa vụ của người quản lý công ty tại Việt Nam sẽ bị giới hạn.

2.1.2 Hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty Đứng trước bối cảnh mở cửa kinh tế hội nhập sâu rộng, Việt Nam chứng kiến hàng loạt những quy định quan trọng được ban hành Theo dòng chảy đó, trách nhiệm của người quản lý công ty được đề cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam lần đầu tiên tại Luật Doanh nghiệp năm 1999 99 Với thực tiễn hoạt động doanh nghiệp chưa được ghi nhận nhiều, để thiết lập khung pháp lý đầu tiên cho pháp luật về quản trị công ty, các nhà lập pháp Việt Nam đã “vay mượn” các quy định về nghĩa vụ đối với thành viên HĐQT trong luật công ty Anh – Mỹ như trung thành, trung thực, cẩn trọng, mẫn cán 100 Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành cùng với Quy chế quản trị công ty tiếp tục kế thừa chế định này, đặc biệt làm rõ hơn trách nhiệm đối với thành viên HĐQT và giám đốc Cho đến nay, Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật này đã được đưa vào áp dụng trên thực tế, trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty được thể hiện rõ nét hơn Tuy nhiên, cũng giống như pháp luật Anh – Mỹ mà Việt Nam đang chịu ảnh hưởng, nghĩa vụ trung thành, trung thực, cẩn

Theo Nguyễn Hoàng Duy (2015), trong luận văn Thạc sĩ luật học của mình, tác giả đã phân tích nghĩa vụ của người quản lý công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam Nghiên cứu này được thực hiện tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, và đã chỉ ra những trách nhiệm quan trọng mà người quản lý cần tuân thủ để đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Theo Khoản 1 Điều 86 của Luật Doanh nghiệp 1999, các thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) có trách nhiệm thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình một cách trung thực và tận tâm, nhằm bảo vệ lợi ích của công ty cùng với các cổ đông.

Theo Lê Đức Nghĩa (2014), trong bài viết về trách nhiệm của "người quản lý" theo luật công ty Việt Nam, khái niệm về trách nhiệm này vẫn đang được khai thác một cách định tính mà chưa có tiêu chuẩn cụ thể để định lượng Điều này xuất phát từ việc các đức tính như trọng trách và sự mẫn cán thuộc về bản chất con người, khiến cho việc giải thích các nghĩa vụ pháp lý trong luật thành văn trở nên khó khăn.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định rằng người quản lý công ty phải thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng, khác với quy định về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng trong pháp luật Anh – Mỹ Các quy định này chủ yếu được thể hiện qua các văn bản pháp lý như Luật Kinh doanh 2020, Luật Chứng khoán 2019, Nghị định 155/2020/NĐ-CP và Thông tư 116/2020/TT-BTC, nhằm hướng dẫn quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng.

Trước hết là Luật Doanh nghiệp năm 2020:

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách trung thực và cẩn trọng, nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13.

Người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông công ty tổ chức phải thực hiện công việc một cách trung thực và cẩn trọng Theo quy định tại khoản 2 Điều 15, họ có trách nhiệm tham gia đầy đủ các cuộc họp Hội đồng thành viên và Đại hội đồng cổ đông, đồng thời thực hiện quyền và nghĩa vụ được ủy quyền với sự trung thực và cẩn trọng nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, thành viên và cổ đông mà họ đại diện.

Trong từng loại hình công ty, trách nhiệm của người quản lý được quy định rõ ràng với điều khoản “Thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm đảm bảo lợi ích tối đa của công ty.” Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải áp dụng nguyên tắc này một cách đồng nhất đối với tất cả các cá nhân giữ vị trí quản lý.

Có sự khác biệt rõ rệt trong cách vận hành và áp dụng pháp luật giữa Anh – Mỹ và Việt Nam Trong khi luật công ty Anh – Mỹ cho phép giải thích và lưu giữ các án lệ để giải quyết vấn đề, Việt Nam vẫn chưa quen với việc áp dụng án lệ, đặc biệt là trong quản trị công ty, dẫn đến khó khăn trong thực tiễn Vấn đề này sẽ được làm rõ tại mục 2.2 của bài nghiên cứu, liên quan đến quản lý Công ty TNHH một thành viên và Công ty TNHH hai thành viên trở lên.

Một số bất cập trong việc áp dụng quy định và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng của người quản lý công ty

Theo các tác giả, việc kiện tụng và các bản án liên quan đến vi phạm nghĩa vụ của người quản lý tại Việt Nam vẫn còn hiếm hoi Nguyên nhân chính là do nhiều người dân chưa nhận thức đúng về vai trò của nhà quản lý, thường nhầm lẫn giữa quản lý và chủ sở hữu công ty, dẫn đến việc không truy cứu trách nhiệm Hơn nữa, cổ đông và chủ sở hữu công ty cũng chưa hiểu rõ quyền lợi của mình trong việc bảo vệ tài sản thông qua khởi kiện người quản lý, mặc dù Luật Doanh nghiệp Việt Nam đã có những cải cách gần đây Bên cạnh đó, cơ cấu doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu là các công ty nhỏ và vừa hoặc công ty gia đình, do đó, mâu thuẫn và tranh chấp trong quản lý doanh nghiệp chưa phổ biến và chưa được phân tích sâu sắc.

Gần đây, pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến trong việc hoàn thiện nghĩa vụ của người quản lý công ty, đặc biệt là nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng Trước những bất cập trong việc áp dụng quy định hiện hành và kinh nghiệm từ pháp luật Anh – Mỹ, việc cải tiến các quy định về người quản lý công ty trở nên cần thiết hơn bao giờ hết Tác giả đã đưa ra những nhận xét và kiến nghị dựa trên một số tình huống nổi bật đã xảy ra trong thực tiễn.

2.2.1 Cần xác định chức danh người quản lý công ty một cách bao quát

Quy định pháp luật Anh – Mỹ về khái niệm người quản lý tập trung vào công việc thực tế và ảnh hưởng của cá nhân đối với công ty, không phụ thuộc vào chức danh Điều này giúp xác định rõ ràng trách nhiệm chủ thể Ngược lại, quy định tại Việt Nam lại chú trọng vào chức danh quản lý trong các loại hình doanh nghiệp, giúp xác định nhanh chóng quyền và nghĩa vụ của từng cá nhân Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn rủi ro bỏ sót những chức danh quản lý mới hoặc những người quản lý giấu mặt, những người này có thể có sức chi phối lớn và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho công ty.

Việt Nam đã chứng kiến nhiều trường hợp người quản lý giấu mặt, dẫn đến thiệt hại cho các nhà đầu tư, như vụ án Bầu Kiên Ông Nguyễn Đức Kiên, từng là phó chủ tịch hội đồng sáng lập ngân hàng ACB, nhưng hội đồng sáng lập không được pháp luật Việt Nam công nhận trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng Do đó, ông Kiên không nắm giữ chức danh quản lý chính thức nào tại ACB, mặc dù vẫn có vai trò quan trọng.

Bộ Công an đã xác định rằng từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 11 năm 2011, ông Kiên đã chỉ đạo các thành viên thường trực Hội đồng Quản trị (HĐQT) của Ngân hàng ACB thực hiện chủ trương ủy thác.

Bầu Kiên bị tuyên án 30 năm tù do liên quan đến việc ủy thác cho 19 nhân viên gửi gần 719 tỷ đồng vào Vietinbank với lãi suất vi phạm quy định HĐQT của ACB đã không cân nhắc kỹ lưỡng, dẫn đến việc toàn bộ số tiền này bị Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt, tạo nên vụ án lớn nhất trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam Mặc dù ông Kiên có vai trò quản lý giấu mặt và ảnh hưởng đến HĐQT, nhưng bản án không xác định trách nhiệm của ông như một người quản lý công ty do thiếu căn cứ pháp lý.

Kết quả cho thấy mặc dù bầu Kiên đã phải thi hành quyết định bản án do nhiều sai phạm tại ACB, nhưng vẫn tồn tại nghi vấn về việc có tội phạm nào bị bỏ sót hay không Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ hơn, áp dụng cho tất cả những người thực hiện chức năng quản lý, nhằm đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội và thu hồi các khoản lợi bị mất trong tương lai.

Theo tác giả, việc xác định người quản lý công ty nên dựa vào chức năng và công việc thực tế thay vì chỉ dựa vào chức danh, điều này có thể là một kinh nghiệm từ pháp luật Anh – Mỹ mà Việt Nam nên xem xét để sửa đổi khái niệm người quản lý trong Luật Doanh nghiệp 2020 Định nghĩa hiện tại tuy dễ hiểu nhưng thiếu tính khái quát và khả năng áp dụng thực tiễn Trong các trường hợp vi phạm, những người quản lý thực sự thường lợi dụng lỗ hổng pháp lý để đẩy trách nhiệm cho người khác Do đó, tác giả đề xuất bổ sung khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020.

Người quản lý doanh nghiệp bao gồm các vị trí như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, cùng với những cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định của Điều lệ công ty và những người thực hiện vai trò quản lý trong thực tế.

Tác giả mong muốn việc mở rộng khái niệm về người quản lý công ty sẽ giúp quy định này được áp dụng rộng rãi và phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp Điều này sẽ giúp phát hiện và ngăn chặn những hành vi lợi dụng của một số nhà quản lý, từ đó bảo vệ quyền lợi cho công ty và các nhà đầu tư, tránh bỏ sót tội phạm.

2.2.2 Cần xác định thực hiện công việc một cách trung thực, cẩn trọng là nghĩa vụ thay vì trách nhiệm

Khác với hệ thống pháp luật Anh – Mỹ và Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, Luật Doanh nghiệp hiện hành coi trung thực và cẩn trọng là "trách nhiệm" của nhà quản lý doanh nghiệp, thay vì chỉ là "nghĩa vụ" hay "bổn phận" Mặc dù nghĩa vụ và trách nhiệm thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng giữa chúng có sự khác biệt Theo Điều 274 Bộ luật Dân sự năm 2015, bên có nghĩa vụ phải thực hiện các hành động cụ thể như chuyển giao tài sản, thực hiện công việc hoặc không làm những việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền Việc vi phạm nghĩa vụ sẽ dẫn đến chế tài để răn đe và bù đắp thiệt hại Do đó, nghĩa vụ có thể được thiết lập trong các giao dịch dân sự và phù hợp với mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người quản lý.

Trách nhiệm là một khái niệm chưa được định nghĩa rõ ràng trong pháp luật Việt Nam Mặc dù không có định nghĩa chính thức, nhưng Điều luật liên quan vẫn đề cập đến các khía cạnh của trách nhiệm trong các lĩnh vực pháp lý khác nhau.

Theo Bộ luật dân sự 2015, trách nhiệm dân sự phát sinh khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự hoặc khi chủ thể không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự của mình, bao gồm việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nội dung nghĩa vụ Điều này cho thấy trách nhiệm dân sự sẽ được xác lập sau khi xảy ra sự kiện vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào đã được quy định trước đó.

Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà quản lý nhằm tối đa hóa lợi ích cho công ty liên quan đến khái niệm "trách nhiệm" Nhà quản lý có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu được ủy thác, tuy nhiên, "trách nhiệm" trong bối cảnh pháp lý theo Luật Doanh nghiệp được hiểu là trách nhiệm dân sự Luật Doanh nghiệp yêu cầu nhà quản lý thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực và cẩn trọng, nhưng điều này có thể gây khó khăn trong việc xác định vi phạm trách nhiệm và áp dụng chế tài khi nhà quản lý không thực hiện đúng nghĩa vụ, vì trách nhiệm chỉ được xác định khi có vi phạm.

Theo tác giả, cần xác định “trung thực” và “cẩn trọng” là một trong những

“nghĩa vụ” của người quản lý công ty, thay vì xem chúng như “trách nhiệm” theo quy định hiện hành trong Luật Doanh nghiệp (tại khoản 1 Điều 13, khoản 2 Điều

Việc xác định rõ ràng hai đức tính trung thực và cẩn trọng thành nghĩa vụ trong mối quan hệ đại diện, ủy thác giữa doanh nghiệp và nhà quản lý là rất quan trọng Điều này giúp các bên thiết lập quyền và bổn phận ngay từ đầu, đồng thời giúp nhà quản lý hiểu rõ trách nhiệm của mình từ khi bắt đầu thực hiện chức năng quản lý Bên cạnh đó, việc xác định nghĩa vụ một cách rõ ràng cũng giúp công chúng hiểu rõ hơn về chế định này, rút ngắn sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng so với các quốc gia khác.

Ngày đăng: 28/12/2024, 15:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Tiến Đạt (2009), Áp dụng án lệ - Nhu cầu tất yếu trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Áp dụng án lệ - Nhu cầu tất yếu trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Tác giả: Bùi Tiến Đạt
Năm: 2009
2. Bùi Xuân Hải (2005), Người quản lý công ty theo luật Doanh nghiệp 1999, Tạp chí khoa học pháp lý 4/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người quản lý công ty theo luật Doanh nghiệp 1999
Tác giả: Bùi Xuân Hải
Năm: 2005
3. Đỗ Minh Tuấn (2018), Một số vấn đề pháp lý về nghĩa vụ của người quản lý công ty, NXB Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề pháp lý về nghĩa vụ của người quản lý công ty
Tác giả: Đỗ Minh Tuấn
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2018
4. Hoàng Hải Yến (2020), Quản trị công ty niêm yết sở hữu gia đình tại Việt Nam – góc nhìn từ thực tiễn, Thông tin pháp luật dân sự, https://phapluatdansu.edu.vn/2020/04/08/15/19/quan-tri-cng-ty-nim-yet-so-huu-gia-dnh-tai-viet-nam-gc-nhn-tu-thuc-tien/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản trị công ty niêm yết sở hữu gia đình tại Việt Nam – góc nhìn từ thực tiễn
Tác giả: Hoàng Hải Yến
Năm: 2020
5. Lê Đức Nghĩa (2014), Trách nhiệm “người quản lý” theo luật công ty Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp,http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207848 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm “người quản lý” theo luật công ty Việt Nam
Tác giả: Lê Đức Nghĩa
Năm: 2014
6. Lê Ngọc Vân Nhi (2021), Giới hạn trách nhiệm của người quản lý công ty trong trường hợp tham vấn chuyên gia tại Việt Nam và một số nước trên thế giới, Báo điện tử Nghiên cứu lập pháp,http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210797/Gioi-han-trach-nhiem-cua- Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới hạn trách nhiệm của người quản lý công ty trong trường hợp tham vấn chuyên gia tại Việt Nam và một số nước trên thế giới
Tác giả: Lê Ngọc Vân Nhi
Năm: 2021
7. Nguyễn Hoàng Duy (2015), Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hoàng Duy
Năm: 2015
8. Nguyễn Minh Oanh (2010), Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội, mã số: LH-08-05/ĐHL Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Tác giả: Nguyễn Minh Oanh
Năm: 2010
9. Nguyễn Ngọc Bích (2018), Mô hình quản trị công ty, Báo điện tử VnEconomy, https://vneconomy.vn/mo-hinh-quan-tri-trong-cong-ty-dai-chung.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô hình quản trị công ty
Tác giả: Nguyễn Ngọc Bích
Năm: 2018
4. Nghị định 155/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán Khác
5. Thông tư 116/2020/TT-BTC hướng dẫn một số điều về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng tại nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán.Tài liệu khác Khác
10. Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2009), Hội đồng giám đốc trong pháp luật Mỹ tương đương cơ quan Hội đồng quản trong Công ty cổ phần tại Việt Nam Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w