1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi theo bộ luật dân sự năm 2015

91 7 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Bộ luật dân sự năm 2015
Tác giả Mai Thị Bình
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Thể loại luận văn thạc sĩ luật học
Năm xuất bản 2023
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 1,07 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do lựa chọn đề tài (10)
  • 2. Tình hình nghiên cứu (11)
  • 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài (12)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (13)
  • 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 6. Kết cấu của luận văn (14)
  • CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI (15)
    • 1.1. Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (15)
      • 1.1.1. Khái niệm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (15)
        • 1.1.1.1. Khái niệm năng lực hành vi dân sự (15)
        • 1.1.1.2. Khái niệm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (17)
        • 1.1.1.3. Điều kiện để xác định người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (20)
      • 1.1.2. Đặc điểm của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Bộ luật dân sự năm 2015 (26)
      • 1.1.3. Ý nghĩa và sự cần thiết trong quy định về bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Bộ luật dân sự năm 2015 (30)
    • 1.2. Bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Bộ luật dân sự năm 2015 (33)
      • 1.2.1. Quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (33)
        • 1.2.1.2. Quyền tài sản của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành (37)
      • 1.2.2. Chủ thể bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (38)
        • 1.2.2.1. Người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành (39)
        • 1.2.2.2. Điều kiện để giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (41)
        • 1.2.2.3. Giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (43)
      • 1.2.3. Các phương thức bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (44)
        • 1.2.3.1. Chỉ định người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (44)
        • 1.2.3.2. Giám hộ theo sự lựa chọn của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (46)
      • 1.2.4. Giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi xác lập (46)
      • 1.2.5. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có khó khăn (49)
      • 1.2.6. Hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (50)
  • CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI (53)
    • 2.1.1. Thực trạng và những tồn tại bất cập về điều kiện dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần để tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (54)
    • 2.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần để tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành (60)
    • 2.2. Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành (62)
      • 2.2.1. Thực trạng pháp luật và những bất cập về giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (62)
      • 2.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (66)
    • 2.3. Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề không có người đại diện tham gia tố tụng cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (68)
      • 2.3.1. Thực trạng pháp luật và những bất cập về vấn đề không có người đại diện (68)
      • 2.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự để bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (72)
    • 2.4. Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về việc xác định mức độ “không đủ” trong năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (73)
      • 2.4.1. Thực trạng pháp luật và những bất cập về việc xác định mức độ “không đủ” trong năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (73)

Nội dung

Cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất nă

Lý do lựa chọn đề tài

Trong giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đang tăng cường các chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế Mỗi công dân đều có quyền và nghĩa vụ trong việc xây dựng đất nước, hoàn thiện chính sách pháp luật và nâng cao đời sống Ý thức thượng tôn pháp luật là yếu tố then chốt để xây dựng một xã hội văn minh, nơi mọi người có điều kiện phát triển tốt nhất Pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật dân sự, điều chỉnh các quan hệ dân sự hàng ngày giữa con người và tổ chức, dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự do ý chí Mỗi cá nhân được bảo vệ bởi Hiến pháp và pháp luật, với quy định rõ ràng về năng lực hành vi dân sự trong Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 và 2015 Quy định mới về "khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi" trong BLDS 2015 giúp bảo vệ tốt hơn cho những người yếu thế trong các quan hệ xã hội và dân sự.

Tình hình nghiên cứu

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là một chủ thể mới được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, khác với các quy định của BLDS năm 2005 và 1995 Hiện nay, nghiên cứu về chủ thể này cùng các chế định liên quan vẫn còn hạn chế, với ít công trình chuyên sâu về quyền lợi của họ Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là của Đỗ Thị Hậu (2014) với đề tài “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật Việt Nam”, trong đó tác giả đã phân tích thực trạng áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam.

Nguyễn Vũ Hoàng (2017) trong bài viết “Điểm mới của BLDS năm 2015 về hiệu lực của giao dịch dân sự” đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại số 88 ngày 15/5/2018, đã nghiên cứu các quy định liên quan đến hiệu lực của giao dịch dân sự theo Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 Bài viết tập trung phân tích những điểm mới và tác động của các quy định này đối với các giao dịch dân sự, từ đó làm rõ vai trò quan trọng của BLDS trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự.

2015, trong đó có chủ thể là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Nguyễn Thị Lan (2017) trong bài viết "Một số điểm mới về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2015" đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại số 88 ngày 15/5/2018, đã phân tích và đánh giá những điểm mới trong Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 Bài viết nhấn mạnh việc khắc phục những thiếu sót của BLDS năm 2005 liên quan đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân, đặc biệt là việc bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Trần Thị Diệu Hương (2019) trong bài viết “Bảo vệ người yếu thế trong pháp luật dân sự Việt Nam”, đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp số 6 (382), đã phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế trong xã hội Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho nhóm đối tượng này, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

Tố tụng dân sự năm 2015 đã thiết lập cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng "yếu thế" trong giao dịch dân sự Điều này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho những người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi, mà còn hỗ trợ những người gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi Qua đó, hệ thống pháp luật góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của tất cả các chủ thể liên quan trong các giao dịch dân sự.

Nguyễn Thị Hà (2021) trong luận văn thạc sĩ "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật Việt Nam" đã khái quát những vấn đề cơ bản về năng lực hành vi dân sự trong pháp luật dân sự Tác giả phân tích các quy định liên quan đến năng lực hành vi dân sự thông qua thực tiễn một số vụ việc cụ thể, từ đó chỉ ra những bất cập hiện có Cuối cùng, tác giả đưa ra các đề xuất và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.

Tác giả đã tham khảo nhiều công trình nghiên cứu có giá trị khoa học cho luận văn, bao gồm: Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016) với tác phẩm "Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015", Nguyễn Ngọc Điện (2020) với "Giáo trình luật dân sự (tập 1), tái bản lần thứ 6", và Tuấn Đạo Thanh (chủ biên) (2017) với "Bình luận một số quy định trong BLDS năm 2015" Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo các bài báo và tạp chí liên quan để bổ sung cho nghiên cứu của mình.

Các nghiên cứu hiện có đã giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo vệ người yếu thế, đặc biệt là những người mất năng lực hành vi dân sự và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn diện về việc bảo vệ quyền lợi của những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, đặc biệt dưới hình thức luận văn, luận án Điều này tạo cơ sở và lý do cho tác giả lựa chọn đề tài này.

Bài luận văn tốt nghiệp của tôi tập trung vào việc "Bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi" theo Bộ luật dân sự năm 2015 Nghiên cứu này nhằm làm rõ các quy định pháp lý liên quan đến quyền lợi của những người gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng tự chủ, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi cho nhóm đối tượng này trong xã hội.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục đích của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp luật về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cùng với cơ chế bảo vệ quyền lợi của họ Nghiên cứu quy định pháp luật bảo vệ quyền của nhóm đối tượng này nhằm chỉ ra những bất cập trong thực tiễn áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 kể từ ngày 01/01/2017.

Tác giả đề xuất điều chỉnh các quy định pháp luật để hoàn thiện hơn, nhằm đảm bảo bản chất của quan hệ dân sự được thiết lập trên nền tảng bình đẳng, thỏa thuận và tự do ý chí giữa các bên.

Nhiệm vụ của đề tài là xác định một cách khoa học các bất cập trong việc áp dụng quy định liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Từ đó, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.

Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài, tác giả đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng xuyên suốt trong luận văn, với Chương 1 tập trung làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Chương 2 đánh giá mức độ hợp lý và khả thi của pháp luật Việt Nam đối với nhóm người này Cuối cùng, luận văn tổng hợp các vấn đề để đưa ra kiến nghị sửa đổi và bổ sung nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi trong Bộ luật Dân sự năm 2015.

Phương pháp so sánh được sử dụng để làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định pháp luật liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi giữa các Bộ luật dân sự (BLDS) trước đây và BLDS năm 2015.

Phương pháp bình luận giúp làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và quy định pháp luật hiện hành liên quan đến các quyết định và phán quyết của Tòa án, nhằm bảo vệ quyền lợi của những người gặp khó khăn trong nhận thức và kiểm soát hành vi.

Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI

Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Mọi cá nhân từ khi sinh ra đều được bảo vệ bởi gia đình, xã hội và pháp luật, với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử trong Bộ luật Dân sự (BLDS) Tuy nhiên, sự khác biệt về sinh học, thể chất và trí lực giữa các cá nhân khiến một số người trở nên dễ bị tổn thương Do đó, các nhà làm luật đã xây dựng quy định về năng lực hành vi dân sự phù hợp với từng cá nhân, đặc biệt là những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, điều này được bổ sung trong BLDS năm 2015.

1.1.1 Khái niệm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1.1.1.1 Khái niệm năng lực hành vi dân sự

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, chủ thể đóng vai trò quan trọng, được hiểu là con người với ý thức và ý chí, tương tác với thế giới khách quan Chủ thể cũng là yếu tố hình thành các quan hệ pháp luật, bao gồm cá nhân và tổ chức, gắn liền với quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ được thực hiện đúng đắn và hợp pháp, mỗi bên tham gia cần đáp ứng các điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật.

Theo BLDS năm 2015, năng lực chủ thể chưa được định nghĩa cụ thể, nhưng có thể hiểu rằng đây là những khả năng pháp lý hoặc hành vi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

Theo Hoàng Phê (1996), không phải cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào các quan hệ dân sự, mà chỉ khi được pháp luật trao quyền, họ mới trở thành chủ thể của giao dịch Điều kiện cần thiết để tham gia là năng lực pháp luật, cho phép mỗi cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự như nhau Do đó, để tự mình tham gia vào các giao dịch dân sự, mỗi bên cần có đủ khả năng và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình Khái niệm cá nhân được hiểu là một cơ thể sống với những thuộc tính và năng lực riêng biệt, có thể nhận diện và phân biệt với người khác Khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, yếu tố đầu tiên cần xem xét là năng lực chủ thể của cá nhân.

Hầu hết các bộ luật dân sự (BLDS) trên thế giới không định nghĩa khái niệm năng lực hành vi Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận khái niệm này trong BLDS năm 2005 và tiếp tục trong BLDS năm 2015 tại Điều 19, nêu rõ rằng: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự".

Hành vi được hiểu là những phản ứng và cách cư xử bên ngoài của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, bao gồm sự kết hợp giữa ý chí và lý trí Ý chí thể hiện mong muốn thực hiện hành vi để đạt được mục đích, trong khi lý trí là khả năng giải thích và đánh giá các sự kiện Chỉ khi cá nhân có đủ cả hai yếu tố này, họ mới có khả năng kiểm soát hành vi của mình và chịu trách nhiệm cho những hành động đã thực hiện.

Khi tham gia vào các quan hệ dân sự, mỗi cá nhân cần sử dụng năng lực hành vi của bản thân để xác lập và thực hiện các giao dịch.

Bài viết của Cao Thị Hà (2017) trình bày những điểm mới về năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự năm 2015 Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường chính trị Lê Duẩn, Quảng Trị và có thể truy cập qua đường link https://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/Nghien-cuu-trao-doi/nhung-diem-moi-ve-nang-luc-hanh-vi-dan-su-cua-ca-nhan-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015-194.html Thông tin được cập nhật vào ngày 12/3/2023.

3 Tưởng Duy Lượng (2018), “Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự trong Bộ luật dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22 (374)/Kỳ 2

4 Công ty Luật ACC, Năng lực chủ thể là gì? Những điều cần biết, truy cập tại: accgroup.vn/nang-luc-chu-the- la-gi/, ngày truy cập: 05/07/2023

5 Đỗ Thị Hậu (2014), NLHVDS của cá nhân theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tr.9

6 Thanh Yến (2018), Từ điển Tiếng Việt, NXB Dân trí, tr.65

Luật nhấn mạnh rằng yếu tố “bằng hành vi của mình” là cốt lõi để xác định năng lực hành vi của một người trong các giao dịch dân sự Để điều khiển hành vi, cá nhân cần có nhận thức về nhu cầu và điều kiện của bản thân, như trong trường hợp mua điện thoại di động, nơi người mua phải hiểu rõ thông tin về sản phẩm và các điều khoản liên quan Nhận thức này ảnh hưởng đến cách mà con người tương tác và thực hiện hành vi trong các mối quan hệ xã hội Năng lực hành vi của cá nhân thường được xác định dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức; chỉ khi đạt đến độ tuổi nhất định, người đó mới có thể hiểu rõ ý nghĩa và hậu quả của hành vi của mình Do đó, nhận thức cao hơn sẽ tương ứng với năng lực hành vi dân sự cao hơn, trong khi năng lực pháp luật dân sự có từ khi sinh ra, năng lực hành vi chỉ phát sinh khi cá nhân đạt được độ tuổi và khả năng thực hiện hành vi.

Năng lực hành vi dân sự là điều kiện đủ để cá nhân tham gia trực tiếp vào các quan hệ pháp luật, bên cạnh năng lực pháp luật là điều kiện cần Pháp luật không chỉ trao quyền cho cá nhân mà còn đặt ra tiêu chuẩn về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ Do đó, năng lực hành vi dân sự được định nghĩa là khả năng xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự thông qua hành vi của mình khi đạt độ tuổi nhất định, có trí tuệ bình thường và tự chịu trách nhiệm về hành vi đó.

1.1.1.2 Khái niệm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Hành vi dân sự của mỗi cá nhân được hình thành khi đạt đến một độ tuổi nhất định và phát triển một cách bình thường Điều này cho thấy sự phát triển tâm lý và xã hội là yếu tố quan trọng trong việc hình thành hành vi của con người.

Theo Nguyễn Ngọc Điện (2020), con người trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, với sự thay đổi về tâm sinh lý tương ứng với độ tuổi Theo quy định pháp luật, trẻ em dưới 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự, trong khi những người từ 6 đến dưới 18 tuổi có năng lực nhưng chưa đầy đủ, và người từ 18 tuổi trở lên thì có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Đối với những người có năng lực hành vi dân sự nhưng gặp khó khăn trong nhận thức, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 đã quy định về trường hợp mất năng lực và hạn chế năng lực hành vi BLDS năm 2015 bổ sung thêm quy định về người có khó khăn trong nhận thức, cụ thể tại Điều 23, khoản 1, cho phép Tòa án tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần.

Theo quy định pháp luật, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi phải là người thành niên, tức là từ đủ 18 tuổi trở lên, như quy định tại khoản 1 Điều 20 BLDS năm 2015 Điều này tạo cơ sở để xác định khả năng nhận thức của cá nhân, với 18 tuổi được xem là cột mốc hợp lý Tương tự, BLDS Trung Quốc cũng quy định tại Điều 17 rằng người từ 18 tuổi trở lên là người đã thành niên Cần làm rõ khái niệm “năng lực hành vi dân sự đầy đủ,” vì các BLDS trước đây chưa định nghĩa rõ ràng thuật ngữ này Theo từ điển tiếng Việt, “đầy đủ” có nghĩa là “có đủ tất cả, không thiếu thứ gì so với yêu cầu.”

Cổng thông tin pháp luật Trung Quốc cung cấp thông tin chi tiết về Bộ Luật dân sự Trung Quốc, đặc biệt là Quy tắc chung quyển I (2020) Độc giả có thể truy cập tài liệu này qua địa chỉ: https://vi.chinausticeobserver.com/law/x/civil-code-of-china-part-i-general-principles-.

Năng lực hành vi dân sự đầy đủ, theo Điều 19 BLDS năm 2015, được định nghĩa là khả năng của cá nhân trong việc xác lập và thực hiện tất cả các quyền, nghĩa vụ dân sự Người từ 18 tuổi trở lên được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ khi họ bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi do tình trạng thể chất hoặc tinh thần Những người đủ 18 tuổi nhưng gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi vẫn có năng lực hành vi dân sự, nhưng không đạt mức bình thường như những người khác Ranh giới giữa người có khó khăn trong nhận thức và người mất năng lực hành vi dân sự được xác định rõ ràng, giúp phân biệt giữa các trường hợp khác nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.

Bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Bộ luật dân sự năm 2015

vi theo Bộ luật dân sự năm 2015

1.2.1 Quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thường không đủ khả năng nhận thức nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn năng lực hành vi dân sự Sự phân biệt này giữa người có năng lực hành vi đầy đủ và người mất năng lực hành vi cho thấy rằng người có khó khăn là những cá nhân có năng lực hành vi không đủ Tính “không đủ” này không chỉ thể hiện sự khác biệt mà còn góp phần xác định các quyền cơ bản của họ theo quy định của pháp luật.

1.2.1.1 Quyền nhân thân của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Quyền nhân thân là khái niệm pháp lý lần đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 1995, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cá nhân như một chủ thể độc lập trong xã hội Đến nay, thuật ngữ này vẫn được sử dụng và được pháp luật công nhận là một chế định đặc biệt, không thể chuyển nhượng cho người khác, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ với từng cá nhân.

Theo Điều 24 BLDS năm 2015, quyền nhân thân được định nghĩa là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển nhượng cho người khác, trừ khi có quy định khác trong luật Quyền nhân thân thể hiện tư cách chủ thể của cá nhân trong các quan hệ xã hội và là quyền bất khả xâm phạm mà mỗi người có ngay từ khi sinh ra Theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013, quyền con người và quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong những trường hợp cần thiết liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đạo đức, và sức khỏe cộng đồng Điều này được cụ thể hóa trong khoản 2 Điều 2 BLDS năm 2015.

Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự được quy định bởi Đặng Thị Lưu (2019) trong bài viết trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử Theo đó, quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế khi có lý do chính đáng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe cộng đồng.

Mỗi cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật đều phải có tính độc lập pháp lý, điều này là cơ sở để công nhận họ là chủ thể của quyền và nghĩa vụ Tính độc lập pháp lý được thể hiện qua những quyền cơ bản như quyền có họ, tên; quyền tự do cư trú; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; và quyền khai sinh, khai tử Những quyền này gắn liền với từng cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, trừ khi pháp luật có quy định khác.

Quyền nhân thân là quyền không thể tách rời khỏi mỗi cá nhân, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định vị trí của con người trong các quan hệ pháp luật Do đó, việc xâm phạm quyền nhân thân của bất kỳ cá nhân nào là không cho phép, nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong thực thi pháp luật Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân riêng, nhưng tất cả đều được pháp luật bảo vệ một cách đồng đều khi các giá trị này bị xâm phạm Qua phân tích, quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự (BLDS) có một số đặc điểm nổi bật.

Thứ nhất, quyền mang tính cá nhân tuyệt đối

Mỗi cá nhân từ khi sinh ra đã sở hữu những giá trị nhân thân đặc trưng, không phân biệt giới tính, độ tuổi hay địa vị xã hội Quyền nhân thân gắn liền với từng cá nhân và không thể chuyển nhượng cho người khác Quyền này thuộc về chủ thể và chỉ có thể được thực hiện bởi chính họ, hoặc trong một số trường hợp theo quy định pháp luật, có thể chuyển giao cho người khác Vì quyền nhân thân là đặc quyền cá nhân, nó không thể trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán, trao đổi hay tặng cho.

Thứ hai, quyền mang tính chất phi tài sản

Quyền nhân thân là quyền không thể định giá bằng tiền, điều chỉnh các mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cá nhân cụ thể Những giá trị nhân thân chính là đối tượng của quyền này, thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa cá nhân và các quyền lợi liên quan.

Rất tiếc, không tìm thấy trang này liên quan đến bài viết của Kim Loan (2018) về "Ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự" trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử Thông tin có thể đã không còn khả dụng hoặc đã bị xóa.

25 Nguyễn Thị Quế Anh (2011), “Một số vấn đề về bảo vệ các giá trị nhân thân trong pháp luật dân sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 213- 220

Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự, theo Đặng Thị Lưu (2019), đề cập đến các giá trị xã hội và tinh thần như danh dự, bí mật đời tư, tên gọi và hình ảnh Quyền này khác với quyền tài sản, vì không thể định giá bằng tiền và không thể trao đổi ngang giá Quyền nhân thân là quyền độc lập, tuyệt đối và được pháp luật cũng như Nhà nước tôn trọng và bảo vệ Đối với những người gặp khó khăn trong nhận thức, Bộ luật Dân sự có các quy định để bảo vệ quyền nhân thân của họ.

Theo quy định, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi sẽ được chỉ định người giám hộ bởi tòa án Việc trở thành người đại diện pháp luật cũng phải do tòa án quyết định, không tự động được công nhận Căn cứ theo khoản 2 Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy trình này được quy định rõ ràng.

Việc xác lập và thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, và người có khó khăn trong nhận thức phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật Điều này nhấn mạnh rằng những cá nhân gặp khó khăn trong việc nhận thức và làm chủ hành vi cần có sự đồng ý của người đại diện pháp luật để thực hiện quyền nhân thân Đây là trường hợp loại trừ trong cơ chế giám hộ, vì khi tòa án chỉ định người giám hộ, họ sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ theo quy định pháp luật Nếu tòa án không xác định quyền đại diện cho người được giám hộ, người giám hộ sẽ không có quyền này, theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Theo đó, Tòa án sẽ chỉ ra những quyền của người giám hộ trong số các quyền được quy định tại khoản 1 của Điều luật này

Việc một người giám hộ có quyền đại diện và thực hiện các giao dịch dân sự cho người gặp khó khăn trong nhận thức sẽ được Tòa án xác định và ghi rõ trong quyết định của mình Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 của Bộ luật Dân sự năm 2015, điều này càng được làm rõ hơn.

Trong giáo trình Luật Dân sự, Nguyễn Ngọc Điện (2020) nhấn mạnh rằng người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật khi tham gia vào các giao dịch dân sự Điều này tạo ra mâu thuẫn giữa việc nhận thức không đủ và cơ chế chỉ định người giám hộ, vì người có khó khăn vẫn có khả năng nhận thức nhưng không đầy đủ Hơn nữa, quyền đại diện của người giám hộ phải được Tòa án xác định, không phải mặc định Mặc dù có những mâu thuẫn trong quy định, việc yêu cầu sự đồng ý của người đại diện là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của nhóm người này, những người có thể không thể thể hiện ý chí do các vấn đề sức khỏe Do đó, các giao dịch liên quan đến quyền nhân thân của họ có thể bị vô hiệu nếu không có sự đồng ý của người đại diện Khi Tòa án xác định người giám hộ, họ sẽ trở thành người đại diện theo pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Quyền nhân thân của các chủ thể trong quan hệ pháp luật, đặc biệt là những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, là quyền gắn liền với mỗi cá nhân mà không có sự phân biệt Họ có quyền tự định đoạt và thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền nhân thân Tuy nhiên, đối với những người này, việc xác lập và thực hiện các quan hệ dân sự cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật để bảo vệ quyền lợi của họ và tránh làm cho giao dịch dân sự trở nên vô hiệu.

1.2.1.2 Quyền tài sản của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI

Thực trạng và những tồn tại bất cập về điều kiện dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần để tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Để tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cần đáp ứng các điều kiện như người đó là người thành niên, có thể do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức nhưng chưa mất năng lực hành vi dân sự Việc có yêu cầu từ chính người đó hoặc từ người có quyền lợi liên quan, cùng với kết luận giám định pháp y tâm thần là yếu tố quyết định Tòa án cần đánh giá toàn diện dựa trên sự hỗ trợ của y học để đưa ra quyết định chính xác Kết luận giám định pháp y tâm thần là căn cứ quan trọng để xác định mất năng lực hành vi dân sự Hiện nay, Tòa án thường dựa chủ yếu vào các kết luận y học mà không xem xét các điều kiện khác, do đó cần có cơ chế ràng buộc trong giám định pháp y để đảm bảo tính pháp lý cho các quyết định của Tòa án, với các kết luận phản ánh đúng thực trạng của người bệnh và có giá trị tin cậy cao.

Để minh chứng cho thực trạng các kết luận giám định pháp y tâm thần còn thiếu rõ ràng, tác giả sẽ trình bày một số vụ việc cụ thể, nhằm nêu bật những vấn đề tồn tại trong các kết luận này.

Vụ án dân sự số 10/2022/QĐST-DS, được TAND thành phố P, tỉnh Gia Lai ban hành vào ngày 27/9/2022, liên quan đến yêu cầu tuyên bố một cá nhân gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi.

40 Quyết định số: 10/2022/QĐST-DS ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai, về việc:

Yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực pháp lý Việc xác định tình trạng này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân trong các giao dịch và quyết định pháp luật Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào liên kết sau: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1111819t1cvn/chi-tiet-ban-an, ngày truy cập 13/06/2023.

Ông Nguyễn T (sinh năm 1947) yêu cầu Tòa án tuyên bố con trai ông, Nguyễn Văn L (sinh năm 1975), là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Anh L hiện cư trú tại thành phố P, tỉnh Gia Lai, và đã mắc bệnh từ lâu, cần điều trị liên tục Tình trạng sức khỏe của anh L có lúc cải thiện nhưng cũng có lúc xấu đi, hiện chỉ có thể tham gia vào một số công việc nhẹ nhàng Anh L đã ly hôn với vợ Bùi Thị S từ năm 2011 và có hai con là Nguyễn Thị Anh Đ và Nguyễn Văn L1 Hiện tại, anh sống cùng em gái Nguyễn Thị Thu H tại phường Diên H, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 203/KLGĐ ngày 30/8/2022 từ Trung tâm Pháp y tâm thần Khu vực Tây N, anh Nguyễn Văn L được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt thể không biệt định, hiện đang ở giai đoạn thuyên giảm (F20.3 - ICD10) Kết luận cũng chỉ ra rằng anh có hạn chế về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

Tòa án huyện P, tỉnh Gia Lai đã quyết định tuyên bố anh Nguyễn Văn L là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, dựa trên đơn yêu cầu của cha ruột anh L, ông Nguyễn T, cùng với kết luận giám định pháp y tâm thần số 203/KLGĐ ngày 30/8/2022 Quyết định này tuân thủ các điều kiện theo Bộ luật Dân sự năm 2015, trong đó ông Nguyễn T là người có quyền và nghĩa vụ liên quan do mối quan hệ huyết thống Anh L, đã đủ 18 tuổi, có biểu hiện bệnh lý thần kinh kéo dài, cần điều trị liên tục và chỉ có thể thực hiện những công việc nhẹ nhàng Kết luận giám định nêu rõ anh L có hạn chế trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, nhưng không rõ ràng về mức độ khó khăn trong nhận thức Điều này đặt ra câu hỏi về tính chính xác và đầy đủ của kết luận giám định trong việc xác định tình trạng pháp lý của anh L Việc nêu rõ trong kết luận giám định là rất quan trọng để đảm bảo sự nhất quán với quy định pháp luật và tránh nhầm lẫn trong các trường hợp tương tự.

Vụ việc thứ hai: Quyết định số 03/2017/QĐDS – ST ngày 07/07/2017 của

TAND huyện Kuin, tỉnh Đắk Lắk về tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi 41

Bà Lê Thị Bích H đã nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, trong đó có sự tham gia của chị Lê Thị Lệ T và ông Lê Đức T, liên quan đến việc trưng cầu giám định đối với chị Lê Thị Lệ T vào ngày 14/6/2017.

Lệ T, sinh năm 1992, là con của ông T và bà H Từ khi sinh ra, chị Lệ T gặp khó khăn trong phát triển, đến 3 tuổi mới biết đi, 4 tuổi mới biết nói và đến 5 tuổi mới phát hiện có dấu hiệu chậm phát triển, khả năng học tập và lao động kém Mặc dù chị có khả năng tự chăm sóc bản thân như ăn uống và vệ sinh cá nhân, nhưng vẫn cần sự hỗ trợ từ người thân Hiện nay, chị đã là người trưởng thành và đang nhận trợ cấp người khuyết tật hàng tháng từ chính quyền địa phương Việc yêu cầu giám định sức khỏe của chị phù hợp với quy định pháp luật về tố tụng dân sự và đúng thẩm quyền của Tòa án Do đó, vào ngày 15/06/2017, TAND huyện Kuin, tỉnh Đắk Lắk đã ban hành quyết định trưng cầu giám định số 01/2017/QĐ – TCGĐ, yêu cầu Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên thực hiện giám định tình trạng sức khỏe và bệnh tật của chị Lê Thị Lệ T.

Bản án số 03/2017/QĐDS – ST ngày 07/07/2017 của Tòa án nhân dân huyện Kuin, tỉnh Đắk Lắk, tuyên bố về việc công nhận người có khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi Quyết định này có thể được truy cập tại địa chỉ: https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-032017qddsst-ngay-07072017-ve-tuyen-bo-nguoi-co-kho-khan-trong-nhan-thuc-lam-chu-hanh-v-.

Vào ngày 15/6/2017, Tòa án đã ra quyết định dựa trên bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 48/KLGĐTC của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên đối với chị T Kết luận y học cho thấy chị T bị bệnh chậm phát triển tâm thần mức độ vừa, cần được theo dõi và điều trị Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, chị T có hạn chế trong cả hai lĩnh vực này.

Vào ngày 26/6/2017, bà H, mẹ của chị L, đã nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị L gặp khó khăn trong khả năng nhận thức và làm chủ hành vi Dựa trên Điều 23 BLDS 2015, kết luận giám định pháp y tâm thần từ khu vực Tây Nguyên và đề nghị của Viện Kiểm Sát huyện Kuin, Tòa án đã xem xét và chấp nhận yêu cầu này, đồng thời chỉ định người giám hộ cho chị L và xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ theo Điều 378 BLTTDS.

Chị T, hiện đang sống chung với bố mẹ là ông T và bà H, được xác nhận là chưa có gia đình và đang nhận trợ cấp xã hội hàng tháng cho người khuyết tật Theo quy định pháp luật về giám hộ, Tòa án đã chỉ định ông T và bà H làm người giám hộ cho chị T, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của họ đối với chị T Tòa án cũng chấp nhận yêu cầu của bà H tuyên bố chị T là “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” kể từ ngày quyết định có hiệu lực.

Người giám hộ có quyền sử dụng tài sản của người được giám hộ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, thanh toán chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản, và đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp Đồng thời, người giám hộ cũng có nghĩa vụ chăm sóc và đảm bảo việc điều trị bệnh cho người được giám hộ, quản lý tài sản của họ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được giám hộ.

Trong vụ việc của chị Lệ T, mặc dù chị nhận trợ cấp người khuyết tật hàng tháng, nhưng mẹ chị, bà L, đã yêu cầu tuyên bố chị T là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần Tuy nhiên, Tòa án đã không xem xét đầy đủ các yếu tố khác mà chỉ dựa vào yêu cầu của bà L và kết luận giám định, dẫn đến việc tuyên bố này chưa phù hợp Kết luận giám định không rõ ràng về mức độ khó khăn trong nhận thức của chị T, gây ra sự thiếu toàn diện trong đánh giá của Tòa án Để xác định năng lực của một người, cần có sự hỗ trợ từ các kết luận giám định pháp y tâm thần từ các cơ quan chuyên môn Do đó, việc nâng cao năng lực và cải tiến trang thiết bị trong các cơ sở giám định, cũng như đảm bảo quy trình giám định tuân thủ quy định là rất cần thiết Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc trưng cầu giám định và hướng dẫn các bên liên quan để đảm bảo kết quả giám định đáng tin cậy, làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần để tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành

Để khắc phục tình trạng Tòa án phụ thuộc quá nhiều vào kết luận giám định pháp y tâm thần trong việc xác định người có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phân định rõ ràng ranh giới của tính "không đủ" năng lực hành vi Những giải pháp này sẽ giúp tránh nhầm lẫn với các trường hợp khác và cải thiện quy trình giải quyết các vấn đề dân sự liên quan.

Kết luận giám định pháp y tâm thần cần nêu rõ tình trạng của người bị yêu cầu và phải chính xác với thực tế bệnh lý Khi có những điểm chưa rõ, Tòa án có thể yêu cầu trung tâm cung cấp văn bản làm rõ tình trạng bệnh lý và năng lực hành vi của họ, đặc biệt là về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi Hiện nay, Tòa án dựa vào kết luận y học để ra quyết định, do đó, các kết luận cần rõ ràng để thể hiện tình trạng của người bệnh và mối quan hệ nhân quả giữa bệnh lý và khả năng nhận thức Điều này là yếu tố quan trọng giúp Tòa án ra quyết định chính xác, bảo vệ quyền lợi cho người bị yêu cầu.

Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục giám định Tòa án phải tuân thủ quy định liên quan khi trưng cầu giám định, đảm bảo các kết luận phản ánh thực tế khách quan và có độ tin cậy cao Các cơ quan giám định cần nâng cao năng lực và kiểm định chất lượng trang thiết bị Cần có quy định thống nhất trong các kết luận giám định, đặc biệt đối với những người gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, nhằm tránh tình trạng kết luận không đồng nhất giữa các tổ chức và đảm bảo tính chính xác trong quyết định của Tòa án.

Tòa án cần hướng dẫn rõ ràng về độ tuổi và điều kiện của người nộp đơn yêu cầu, nhằm giúp người dân hiểu rõ quy trình pháp lý Việc nộp đơn không đúng quy định có thể xảy ra khi người ký đơn không đủ năng lực nhận thức hoặc không có quyền lợi liên quan nhưng vẫn giả mạo để nộp đơn Khi tiếp nhận đơn yêu cầu, Tòa án cần yêu cầu giám định pháp y tâm thần và hướng dẫn cụ thể về quy trình để đảm bảo kết luận giám định chính xác Các phán quyết của Tòa án đối với nhóm người có khó khăn trong nhận thức phải dựa trên quy định pháp luật, kết luận chuyên môn và quan sát khách quan từ người phán xử Để nâng cao tính công tâm và chính xác trong xét xử, cần xây dựng án lệ từ các bản án của Tòa địa phương, bao quát đầy đủ các yếu tố pháp lý liên quan.

Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành

và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

2.2.1 Thực trạng pháp luật và những bất cập về giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Giám hộ là cơ chế pháp lý áp dụng cho những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp và hỗ trợ trong việc chăm sóc hàng ngày Đối tượng chính thường là người cao tuổi và người khuyết tật Theo BLDS năm 2015, những người này có quyền thực hiện giao dịch dân sự, trừ khi luật yêu cầu sự đồng ý của người đại diện Chế định giám hộ được quy định từ Điều 46 đến Điều 63, trong đó Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ và quy định quyền, nghĩa vụ của họ theo Điều 57 và 58 Người giám hộ không tự động trở thành đại diện của người được giám hộ nếu không có sự chỉ định của Tòa án, và trong quyết định cần nêu rõ vai trò của người giám hộ để tránh nhầm lẫn trong việc thực hiện quyền hạn.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLDS năm 2015, giám hộ có thể được thực hiện thông qua các hình thức cử, chỉ định hoặc theo quy định của pháp luật, trong đó người có khó khăn trong nhận thức cần có sự đồng ý nếu có khả năng thể hiện ý chí Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi của họ, cho phép họ nhận thức về tình trạng của mình và quyết định về việc giám hộ Tuy nhiên, nếu họ không thể thể hiện ý chí, họ phải tuân theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều này có thể dẫn đến việc một số người giám hộ lợi dụng quyền lực để xâm phạm quyền lợi của người được giám hộ Để hạn chế tình trạng này, Điều 51 BLDS năm 2015 quy định về việc giám sát người giám hộ, yêu cầu sự đồng ý của người được giám hộ trong việc cử người giám sát Nếu giám sát liên quan đến quản lý tài sản, người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ Người thân thích của người được giám hộ bao gồm vợ, chồng, cha, mẹ, con, và nếu không có, có thể là ông, bà, anh, chị, em, hoặc các thành viên khác trong gia đình như bác, chú, cậu, cô, dì.

BLDS năm 2015 đã quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn về cơ chế giám sát việc giám hộ, bổ sung quyền và nghĩa vụ cho người giám sát Một điểm mới nổi bật là yêu cầu người giám sát phải thực hiện thủ tục đăng ký giám sát tại UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ Tuy nhiên, Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa quy định cụ thể về thủ tục này, dẫn đến sự lúng túng cho công chức Tư pháp – Hộ tịch khi tiếp nhận yêu cầu Bộ Tư pháp đã ban hành công văn hướng dẫn tạm thời, nhưng điều này vẫn gây khó khăn và tranh chấp, buộc các bên phải nhờ đến Tòa án giải quyết, ảnh hưởng đến lợi ích của họ Ngoài ra, cần sửa đổi quy định liên quan đến giám sát việc giám hộ tài sản của người được giám hộ theo khoản 1 Điều 51 BLDS năm 2015.

2015, người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người

Theo Công văn số 470/HTQTCT-QT ngày 02 tháng 6 năm 2017 của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, việc giám hộ hiện nay gặp nhiều khó khăn do các thủ tục hành chính rườm rà, đặc biệt là đối với những người yếu thế Điều này khiến cho việc xác lập giám hộ trở nên phức tạp hơn, làm giảm cơ hội cho những người gặp khó khăn trong nhận thức và hành vi được hưởng quyền lợi từ cơ chế giám hộ Để minh chứng cho quan điểm này, chúng ta sẽ xem xét vụ tranh chấp về đăng ký giám sát giám hộ giữa Nguyên đơn là Bà Trần Thị H và Bị đơn là Bà Đỗ Thị U, được TAND thành phố Hồ Chí Minh giải quyết.

Cha mẹ bà H là ông Trần Văn O (sinh năm 1925, chết năm 2016) và bà Đỗ Thị

N (sinh năm 1933, chết năm 2005) Ông O và bà N có tất cả 05 người con gồm: (1)

Bà Trần Thị H, sinh năm 1954; (2) Bà Trần Thị V, sinh năm 1956; (3) Ông Trần Văn

T, sinh năm 1958; (4) Bà Đỗ Thị U, sinh năm 1961; (5) Bà Đỗ Thị Thanh L, sinh năm 1967 Trong số các anh chị em trên có bà Đỗ Thị Thanh L bị thiểu năng từ nhỏ, không thể tự chăm sóc bản thân Bà L không có chồng con Trước và sau khi cha chết, bà L vẫn sống tại tại địa chỉ số 02 đường, Đường A, cư xá Đ, Phường B, Quận

C, Thành phố Hồ Chí Minh Các anh chị em khác khi trưởng thành đều ra ở riêng Sau khi ông O chết (năm 2016) thì bà L ở một mình, bà H và bà U là người đem cơm cho bà L ăn hằng ngày Tiền nuôi bà L là từ tiền thuê căn nhà số 02 Đường A, cư xá Đ, Phường B, Quận C và tiền hỗ trợ của địa phương cho người tàn tật đều do bà U nhận nên sau đó bà H không chăm sóc bà L nữa Vào ngày 29 tết nguyên đán năm

Năm 2018, bà U đã tự ý đưa bà L về nhà mà không tham khảo ý kiến của các anh chị em Hiện tại, bà Trần Thị H không còn khả năng giám hộ cho bà L do tuổi tác, vì vậy đã yêu cầu Tòa án chỉ định bà Trần Thị V hoặc ông Trần Văn T làm người giám hộ cho bà Đỗ Thị Thanh L Bà V, đã nghỉ hưu, có con trưởng thành, nhà ở ổn định và có kiến thức về y tế và chăm sóc bệnh nhân, từng làm y tá tại bệnh viện.

175 Còn ông Trần Văn T cũng có nhà riêng và có người phụ nữ ở chung nhà nên bà

V và ông T có đủ điều kiện để chăm sóc và giám hộ cho bà L

Bà Trần Thị H đã khởi kiện yêu cầu Tòa án chỉ định bà Trần Thị V hoặc ông Trần Văn T làm người giám hộ cho bà Đỗ Thị Thanh L Ông Trần Văn T, với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, đã đề nghị Tòa án cử ông làm người giám hộ cho bà L và yêu cầu quyết định hai người giám sát việc giám hộ trong số ba anh chị em, bao gồm ông.

Bản án 492/2020/DS-PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến việc tranh chấp giám hộ, trong đó quy định rằng bà V và bà U sẽ làm giám sát việc giám hộ nếu một trong ba người được Tòa án chỉ định làm giám hộ Ông T, đại diện theo ủy quyền của bà H, cũng đồng ý với yêu cầu của ông T Theo Bản án số 398/2019/DSST ngày 10/9/2019 của TAND quận G, Tòa án đã chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Văn T, chỉ định bà Trần Thị V và ông Trần Văn T làm người giám sát việc giám hộ theo quy định pháp luật Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã giữ nguyên bản án sơ thẩm chỉ định bà Trần Thị V và ông Trần Văn T làm người giám sát việc giám hộ.

Trong vụ việc này, bà H và bà U là người giám hộ bà L, nhưng phát sinh mâu thuẫn khi bà U nhận tiền trợ cấp mà không thông báo cho bà H, dẫn đến việc bà H từ bỏ trách nhiệm chăm sóc bà L Bà H đã yêu cầu Tòa án chỉ định ông T và bà V làm người giám hộ thay thế do tuổi tác và khả năng chăm sóc hạn chế, nhưng Tòa án không chấp nhận Để đảm bảo việc giám hộ hiệu quả, Tòa án cần đánh giá khả năng giám hộ của ông T và bà V, xem xét lý do bà H từ bỏ trách nhiệm và điều kiện chăm sóc của họ Tác giả đề xuất rằng ông T và bà V nên được chỉ định làm người giám hộ thay vì chỉ giám sát, nhằm bảo vệ quyền lợi của bà L và ngăn chặn việc lạm dụng quyền giám hộ.

Để bảo vệ quyền lợi của người có khó khăn trong nhận thức, việc thiết lập cơ chế giám hộ và giám sát các quyền, nghĩa vụ của người giám hộ là cần thiết Cần thắt chặt điều kiện của người giám hộ và nâng cao giá trị đạo đức trong quá trình giám sát Tòa án cần quy định rõ chi phí cho người giám hộ để hạn chế tranh chấp và tình trạng bỏ việc giữa chừng Giám sát phải trung thực, khách quan, kịp thời phát hiện hành vi sai trái của người giám hộ ảnh hưởng đến quyền lợi của người được giám hộ Quy định này tạo ra cơ chế thống nhất trong việc áp dụng, dựa trên Bộ luật Dân sự năm 2015, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gặp khó khăn trong nhận thức, ngăn chặn việc xâm phạm và lạm dụng tài sản.

2.2.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về cơ chế giám hộ và giám sát đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi Theo quy định hiện hành, các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của nhóm người này phải có sự đồng ý của người giám hộ hoặc đại diện Tuy nhiên, nếu Tòa án không chỉ định người đại diện, cần có quy định thống nhất để người giám hộ cũng là người đại diện Điều này sẽ tạo sự nhất quán trong pháp luật, bảo vệ quyền lợi cho người có khó khăn trong nhận thức Hiện tại, cơ chế chỉ định người giám hộ còn thiếu rõ ràng về “điều kiện cần thiết” và trách nhiệm của họ khi tự ý bỏ ngang nhiệm vụ Do đó, cần định lượng thuật ngữ này và đưa vào văn bản hướng dẫn để áp dụng chính xác Ngoài ra, cần quy định chế tài cho người giám hộ không thực hiện nhiệm vụ, cho phép Tòa án xóa bỏ người giám hộ vi phạm và chỉ định người khác thay thế.

Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết của hướng dẫn về việc đăng ký giám sát giám hộ cho những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về việc này, nhưng Luật Hộ tịch lại thiếu quy định cụ thể về thủ tục giám sát, gây lúng túng trong thực hiện Do đó, tác giả đề xuất cần ban hành quy định xác định rõ cơ chế chỉ định người giám sát giám hộ

Bài viết này trình bày các giải pháp liên quan đến giám hộ và cử người giám sát việc giám hộ, nhằm nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành và thực trạng bất cập Các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp luật trong tương lai bao gồm việc chi tiết hóa và làm rõ các quy định, bổ sung các điều khoản diễn giải, từ đó giúp quá trình áp dụng luật chính xác hơn Điều này cũng nhằm hạn chế những rủi ro không đáng có, khi người giám hộ và người giám sát lợi dụng người được giám hộ, xâm phạm quyền nhân thân và tài sản của họ.

Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề không có người đại diện tham gia tố tụng cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

2.3.1 Thực trạng pháp luật và những bất cập về vấn đề không có người đại diện tham gia tố tụng cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Hiện nay, một trong những vấn đề nổi bật liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là sự thiếu vắng người đại diện tham gia tố tụng cho họ trong các vụ án tranh chấp tại Tòa án.

Cơ chế giám hộ và đại diện theo pháp luật được áp dụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng khi những người này trở thành đương sự trong các vụ việc pháp lý khác, họ thường không có người đại diện để tham gia tố tụng, dẫn đến việc quyền lợi của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Pháp luật quy định rằng con người có thể rơi vào tình trạng khó khăn trong nhận thức do các yếu tố "thể chất" và "tinh thần" Tuy nhiên, mức độ nào của các yếu tố này dẫn đến việc không đủ khả năng nhận thức mà không mất năng lực hành vi dân sự vẫn chưa được làm rõ, gây khó khăn trong áp dụng Luật Người khuyết tật năm 2010 đã định nghĩa và liệt kê các đối tượng khuyết tật, trong đó người khuyết tật về thần kinh, tâm thần, trí tuệ rõ ràng ảnh hưởng đến khả năng nhận thức Đặc biệt, yếu tố "thể chất" như khuyết tật vận động, nghe, nói, nhìn cũng được công nhận có tác động đến nhận thức Vấn đề đặt ra là cách mà yếu tố thể chất ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, ví dụ như người mù không thể nhìn thấy sẽ bị ảnh hưởng đến nhận thức ra sao Nếu một người có tình trạng thể chất như vậy không được xác định có khó khăn trong nhận thức trong vụ án dân sự, họ sẽ không có người đại diện tham gia tố tụng, dẫn đến bất bình đẳng trong quan hệ tố tụng dân sự Cần thiết lập hướng dẫn chi tiết để áp dụng phù hợp với luật chuyên ngành, qua đó tác giả sẽ giới thiệu ba vụ việc thực tiễn để minh chứng cho những bất cập này.

Ông Nguyễn Hồng Q bị bỏng nặng do phóng điện từ đường dây điện cao thế 35KV, dẫn đến việc cắt cụt hai cánh tay và chân trái, với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 92% Bà C đại diện cho ông Q khởi kiện Công ty Điện lực TN yêu cầu bồi thường thiệt hại, nhưng TAND thành phố TN xác định bà C không phải là người đại diện hợp pháp, yêu cầu ông Q tự đứng đơn khởi kiện Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định ảnh hưởng của khuyết tật vận động đến nhận thức của ông Q, nếu ông Q được coi là có khó khăn trong nhận thức, thì việc bà C khởi kiện là đúng theo quy định tại Điều 189.

Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cá nhân chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức có thể được đại diện hợp pháp để khởi kiện Điều này cho phép đại diện hợp pháp tự mình hoặc nhờ người khác nộp đơn khởi kiện mà không cần phải sửa đổi đơn.

Bản án số 34/2022/DS-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, ban hành ngày 05/05/2022, liên quan đến vụ việc "Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" Để tìm hiểu thêm về nội dung bản án, bạn có thể truy cập vào trang web https://congbobanan.toaan.gov.vn/, ngày truy cập: 03/07/2023.

Vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sử dụng đất" do bà Lò Thị A làm nguyên đơn đã được TAND thành phố Đ thụ lý và xét xử theo Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2020/DS-ST ngày 01/9/2020 Tuy nhiên, Bản án dân sự phúc thẩm số 03/2021/DS-PT ngày 08/01/2021 của TAND tỉnh Điện Biên đã hủy bản án sơ thẩm với nhiều lý do, trong đó có việc bà Lò Thị A, người bị câm điếc bẩm sinh và thuộc diện khuyết tật nặng, đã được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng nhưng vẫn có giấy ủy quyền cho ông Lò Văn Q, được xác nhận bởi chính quyền địa phương.

Các văn bản này không đáp ứng quy định pháp luật, và Tòa án cấp sơ thẩm đã không mời người phiên dịch theo Điều 20, khoản 3 Điều 69 của BLTTDS năm 2015, cũng như không chỉ định người giám hộ theo Điều 23 của BLDS năm 2015 Điều này dẫn đến sự khác biệt trong đánh giá của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm về ảnh hưởng của yếu tố “thể chất” đối với nhận thức của đương sự, gây khó khăn trong việc làm chủ hành vi.

Vụ án tranh chấp thừa kế tài sản số 47 liên quan đến ông Y (sinh năm 1945), cư trú tại ấp SCA, xã PĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, với bà Huỳnh Thị M (sinh năm 1985) là bị đơn TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án theo Bản án Phúc thẩm số 250/2022/DS-PT vào ngày 22/04/2022 Ông Huỳnh Minh Ph (sinh năm 1981) cũng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này.

Ông Ph, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, hiện đang sống tại thị xã TB, tỉnh Tây Ninh, và có người giám hộ là bà Trần Thị Ch1, sinh năm 1947 Tại phiên xét xử phúc thẩm, bà Trần Thị Ch1 đã xin vắng mặt.

Cụ Lê Thị T4 và cụ Huỳnh Văn Th4 có 05 người con chung, bao gồm ông Y, bà Huỳnh Thị Kim V và ông Huỳnh Văn H2, người đã qua đời.

Năm 2002, ông Huỳnh Văn H3 kết hôn với bà Võ Thị R và có bốn người con: Huỳnh Văn Ch, Huỳnh Văn Th, Huỳnh Thị Ng và Huỳnh Thị Ng1 Ông Huỳnh Văn H3 qua đời vào năm 2010, để lại vợ là bà Trần Thị Ch1 cùng sáu người con, bao gồm Huỳnh Thị H (hay còn gọi là Huỳnh Thị Kim H).

Bản án số 03/2021/DS-PT, được ban hành ngày 08/01/2021 bởi TAND tỉnh Điện Biên, liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất Chi tiết có thể được tìm thấy tại [thuvienphapluat.vn](https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-032021dspt-ngay-08012021-ve-tranh-chap-quyen-su-dung-dat-182831), ngày truy cập là 03/07/2023.

Bản án số 250/2022/DS-PT, được ban hành vào ngày 22/04/2022 bởi TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, liên quan đến vụ "Tranh chấp thừa kế tài sản" Chi tiết về bản án có thể được tìm thấy tại trang web Thư viện pháp luật.

Thị Y1 (Huỳnh Thị Kim Y1), Huỳnh Thị Kim A, Huỳnh Thị Kim Th1, Huỳnh Minh

Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về việc xác định mức độ “không đủ” trong năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

2.4.1 Thực trạng pháp luật và những bất cập về việc xác định mức độ

Năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức có một đặc điểm quan trọng là mức độ “không đủ” trong khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, khác với người mất năng lực hành vi Người đủ 18 tuổi có năng lực hành vi đầy đủ, nhưng nếu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, họ có thể bị tuyên là mất năng lực hành vi dân sự Trong khi đó, người có khó khăn trong nhận thức vẫn có năng lực hành vi nhưng chưa đến mức mất Ranh giới giữa người có năng lực đầy đủ, người có khó khăn và người mất năng lực là rất mong manh, dẫn đến nhầm lẫn trong xác định tình trạng năng lực Việc phân biệt này phụ thuộc vào kết luận giám định pháp y tâm thần, nhưng thực tế có những người không thể biểu đạt cảm xúc dù vẫn có nhận thức, như người câm, điếc, hoặc người cao tuổi bị suy giảm trí nhớ Sai lầm trong xác định tình trạng năng lực có thể dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ Nếu một người bị tuyên là mất năng lực, tất cả giao dịch của họ phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện, trong khi người có khó khăn trong nhận thức chỉ cần người giám hộ được Tòa án chỉ định.

Một ví dụ điển hình liên quan đến việc yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự là Quyết định số 32/2022/QĐST-DS ngày 29/12/2022 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh Quyết định này đề cập đến một người có chứng nhận khuyết tật nặng, thể hiện sự quan tâm của pháp luật đối với quyền lợi và tình trạng của những người khuyết tật trong xã hội.

Theo yêu cầu của anh Trần Văn Q, anh là con ruột của ông Trần Văn T, người bị yêu cầu trong vụ việc này Cả cha mẹ anh Q đều được xác nhận khuyết tật tâm thần nặng bởi Ủy ban nhân dân xã Thanh Điền, Huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh Hiện tại, anh Q sống cùng cha mẹ và yêu cầu tuyên bố ông Trần Văn T mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết tranh chấp đất đai Mặc dù kết luận giám định pháp y từ Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy cha anh có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, nhưng do vẫn còn giấy xác nhận khuyết tật tâm thần nặng, anh Q giữ nguyên yêu cầu giải quyết việc dân sự.

Ông T đang được yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, trong khi bà N, vợ ông T và mẹ của các con ông, được yêu cầu tuyên bố gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Tuy nhiên, kết luận giám định pháp y tâm thần cho thấy ông T có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã xem xét các tài liệu và chứng cứ trong hồ sơ, đồng thời căn cứ vào đơn yêu cầu của anh T và kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 6044/KLGĐ ngày 30/11/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo kết luận của các chuyên gia y tế, ông Trần Văn T có tâm thần bình thường và đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi Do đó, TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã bác bỏ yêu cầu của anh Q về việc tuyên bố ông Trần Văn T mất năng lực hành vi dân sự.

Vụ việc của ông T cho thấy ông đã được Ủy ban nhân dân xã Thanh Điền xác nhận là người khuyết tật tâm thần nặng Tuy nhiên, Tòa án lại chỉ dựa vào kết luận giám định pháp y tâm thần để không chấp nhận yêu cầu của anh Q, mà không xem xét đầy đủ các yếu tố liên quan đến năng lực hành vi dân sự của ông T Việc Tòa án không làm rõ lý do xác nhận khuyết tật của Ủy ban và các biểu hiện bệnh lý của ông T là một thiếu sót nghiêm trọng Nếu áp dụng Luật Người khuyết tật năm 2010, cần xem xét lại liệu ông T có thực sự là người khuyết tật hay không Tòa án cần cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm mức độ nhận thức của ông T, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.

Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết về Luật Người khuyết tật, trong đó định nghĩa khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác và trí tuệ.

Quyết định số 32/2022/QĐST-DS ngày 29/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tuyên bố ông T là người mất năng lực hành vi dân sự do khuyết tật tâm thần nặng Theo Nghị định 28/2012/NĐ-CP, ông T gặp rối loạn về trí nhớ, cảm xúc và hành vi, dẫn đến việc không tự kiểm soát các hoạt động sinh hoạt cá nhân Mặc dù có những biểu hiện bất thường, ông T vẫn có khả năng nhận thức, do đó không thể áp dụng các điều luật cho người mất năng lực hành vi Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật, bao gồm việc chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng và tiếp cận dịch vụ công cộng Tòa án cần xem xét toàn diện năng lực hành vi của ông T và các quy định pháp luật liên quan, kết hợp với kết luận giám định pháp y tâm thần để đưa ra quyết định chính xác và khách quan.

Để làm rõ thực trạng bất cập trong việc xác định mức độ "không đủ" nhận thức của người cao tuổi, đặc biệt là những người bị lú lẫn hoặc mất trí nhớ, cần lưu ý rằng họ thường cần sự chăm sóc nhưng lại bị tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự Điều này được thể hiện qua Quyết định số 178/2022/QĐST-VDS ngày 28/7/2022 của TAND Quận B, Thành phố H, trong đó có những trường hợp cụ thể về việc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

Bà Nguyễn Thị Trà H, con của ông Nguyễn T (sinh năm 1936), cho biết ông T trước đây vẫn khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, nhưng từ khoảng một năm trở lại đây, sức khỏe ông đã suy giảm, đi lại chậm chạp Gần đây, ông có dấu hiệu của tuổi già như mất trí nhớ, tính tình cáu kỉnh, tay chân run và không thể tự chăm sóc bản thân Kết luận giám định sức khỏe tâm thần số 112/KLGĐ ngày 08/6/2022 của Viện pháp y tâm thần Trung ương xác nhận ông Nguyễn T bị bệnh Alzheimer, với mã số F00, dẫn đến mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Ông T có biểu hiện của bệnh tuổi già như lúc nhớ, lúc quên, cáu kỉnh và không thể đi lại, cần người khác chăm sóc Chị H xác nhận ông vẫn có nhận thức dù có lúc không nhớ Có hai khả năng: ông T có thể bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc chỉ gặp khó khăn trong nhận thức Nếu xác định ông T thuộc trường hợp khó khăn trong nhận thức, hệ quả pháp lý sẽ khác so với mất năng lực hoàn toàn Mặc dù ông có tình trạng thể chất và tinh thần ảnh hưởng đến hành vi, ông vẫn có ý thức và nhận thức về các vấn đề xung quanh Các triệu chứng như lú lẫn, tính tình cáu gắt là do bệnh lý tuổi già, nhưng ông vẫn thể hiện nhận thức, điều này dẫn đến sự cáu gắt của ông Tòa án đã dựa vào kết luận giám định pháp y để tuyên bố ông T bị mất năng lực hành vi dân sự.

Quyết định số 178/2022/QĐST-VDS của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố H tuyên bố ông T mất năng lực hành vi dân sự, dẫn đến việc các giao dịch dân sự của ông sẽ được thực hiện bởi người đại diện theo pháp luật, cụ thể là chị H, người giám hộ đương nhiên của ông T Theo Điều 57 và Điều 58 BLDS năm 2015, chị H có nghĩa vụ đại diện cho ông T trong các giao dịch dân sự, bao gồm cả các giao dịch liên quan đến tài sản Trong trường hợp ông T chỉ gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, quyền và nghĩa vụ của người giám hộ sẽ do Tòa án quy định Người giám hộ không tự động trở thành đại diện theo pháp luật trừ khi được Tòa án chỉ định, và quyền quản lý tài sản của ông T sẽ do Tòa án quyết định dựa trên quy định tại Điều 59 BLDS năm 2015.

Việc xác định mức độ “không đủ” trong năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức là yếu tố quan trọng, dễ gây nhầm lẫn cho người yêu cầu và Tòa án Ranh giới giữa có năng lực và mất năng lực hành vi dân sự rất khó phân định Do đó, việc hoàn thiện và quy định cụ thể, rõ ràng trong các điều luật là cần thiết để đảm bảo thực thi hiệu quả, chính xác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

2.4.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về việc xác định mức độ “không đủ” trong năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Việc xác định mức độ "không đủ" trong năng lực hành vi dân sự của những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là một vấn đề cấp thiết, xuất phát từ những bất cập trong thực tiễn Để hoàn thiện pháp luật, cần có các quy định cụ thể và hướng dẫn chi tiết nhằm xác định rõ ràng mức độ năng lực hành vi của nhóm đối tượng này Trong bối cảnh đất nước phát triển, việc bảo đảm các quyền cơ bản cho con người, như đã ghi nhận trong Hiến pháp, là rất quan trọng Hệ thống pháp luật hoàn thiện và áp dụng hiệu quả sẽ không chỉ mang lại quyền lợi cho người dân mà còn thúc đẩy sự tiến bộ pháp luật của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngày đăng: 28/12/2024, 11:33

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
9. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (2017), Công văn số 470/HTQTCT-QT v/v trả lời nghiệp vụ hộ tịch, quốc tịch, ban hành ngày 02 tháng 6 năm 2017.Tài liệu khác: Sách, báo, tạp chí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn số 470/HTQTCT-QT v/v trả lời nghiệp vụ hộ tịch, quốc tịch
Tác giả: Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
Năm: 2017
10. Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015
Tác giả: Đỗ Văn Đại (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
Năm: 2016
11. Nguyễn Ngọc Điện (2020), Giáo trình Luật Dân sự - tập 1, Khoa Luật trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Dân sự - tập 1
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điện
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2020
12. Nguyễn Hợp Toàn (2012), Giáo trình Pháp luật đại cương, Khoa Luật trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Trường Đại học Kinh tế quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Pháp luật đại cương
Tác giả: Nguyễn Hợp Toàn
Nhà XB: NXB Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Năm: 2012
13. Tuấn Đạo Thanh (chủ biên) (2017), Bình luận một số quy định trong BLDS năm 2015, NXB. Tư pháp Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận một số quy định trong BLDS năm 2015
Tác giả: Tuấn Đạo Thanh (chủ biên)
Nhà XB: NXB. Tư pháp Hà Nội
Năm: 2017
14. Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học BLDS 2015, NXB Tư pháp, tr.121-122 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học BLDS 2015
Tác giả: Nguyễn Minh Tuấn
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2016
15. Cao Thị Hà (2017), Những điểm mới về NLHVDS của cá nhân theo BLDS năm 2016, Trường chính trị Lê Duẩn, Quảng Trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những điểm mới về NLHVDS của cá nhân theo BLDS năm 2016
Tác giả: Cao Thị Hà
Năm: 2017
18. Đỗ Thị Hậu (2014), NLHVDS của cá nhân theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tr.9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: NLHVDS của cá nhân theo pháp luật Việt Nam
Tác giả: Đỗ Thị Hậu
Năm: 2014
19. Bùi Thị Thu (2020), NLHVDS của người chưa thành niên theo quy định của BLDS năm 2015, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế - Luật, Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: NLHVDS của người chưa thành niên theo quy định của BLDS năm 2015
Tác giả: Bùi Thị Thu
Năm: 2020
20. Nguyễn Thị Hà (2021), NLHVDS của cá nhân theo pháp luật Việt Nam, luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: NLHVDS của cá nhân theo pháp luật Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Hà
Năm: 2021
21. Nguyễn Thị Quế Anh (2011), “Một số vấn đề về bảo vệ các giá trị nhân thân trong pháp luật dân sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 213- 220 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về bảo vệ các giá trị nhân thân trong pháp luật dân sự
Tác giả: Nguyễn Thị Quế Anh
Năm: 2011
22. Hồng Hải (2016), “Có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân giám sát việc giám hộ”, Tạp chí điện tử kiểm sát, truy cập tại: https://kiemsat.vn/co-the-thoa-thuan-cu-ca-nhan-phap-nhan-giam-sat-viec-giam-ho-46141.html, ngày truy cập:06/07/2023 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân giám sát việc giám hộ
Tác giả: Hồng Hải
Năm: 2016
37. Cổng thông tin pháp luật Trung Quốc – CO, BLDS Trung Quốc: Quy tắc chung quyển I (2020), truy cập tại địa chỉ:https://vi.chinausticeobserver.com/law/x/civil-code-of-china-part-i-general-principles-20200528, ngày truy cập: 04/07/2023 Link
38. Lê Huyền (2021), Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân?, truy cập tại https://luathoanganh.vn/hoi-dap-luat-dan-su/nang-luc-chiu-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-cua-ca-nhan-lha5550.html, ngày truy cập 28/9/2022 Link
39. Trà Đình Huân (2020), Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, truy cập tại:https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/giai-phap-nang-cao-chat-luong-hieu-qua-cong-tac-xay-dung-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat.htm, ngày truy cập:30/8/2022 Link
40. Tô Thị Phương Dung, Lê Minh Trường (2021), Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, truy cập tại:https://luatminhkhue.vn/nguoi-co-kho-khan-trong-nhan-thuc-lam-chu-hanh-vi.aspx, ngày truy cập: 25/9/2022 Link
41. Công ty Luật Quốc tế DSP (2022), NLHVDS theo BLDS năm 2015, truy cập tại: https://dsplawfirm.vn/nang-luc-hanh-vi-dan-su-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015/,ngày truy cập: 04/07/2023 Link
42. Phạm Thị Ngọc – Công ty Luật TNHH Viethink và Nhóm Tác giả, Vướng mắc về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo BLDS 2015 và kiến nghị hoàn thiện, truy cập tại: http://vietthink.vn/1428/print-article.html; ngày truy cập: 04/07/2023 Link
43. Đinh Thùy Dung (2021), Giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, truy cập tại:https://luatduonggia.vn/giao-dich-dan-su-do-nguoi-co-kho-khan-trong-nhan-thuc-lam-chu-hanh-vi/, ngày truy cập: 06/07/2023 Link
44. Bộ Tư pháp (2018), Người yếu thế trong quan hệ hợp đồng - Nhận diện để bảo đảm tính khả thi trong quy định của pháp luật, truy cập tại:https://mo.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-don-vi-thuoc-bo.aspx?ItemID=3109, ngày truy cập: 04/07/2023 Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN