1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tiểu luận - môi trường kinh doanh - đề tài - DOANH NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH Ở VIỆT NAM

14 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Doanh Nghiệp Và Môi Trường Kinh Doanh Ở Việt Nam
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Môi Trường Kinh Doanh
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2011
Thành phố Việt Nam
Định dạng
Số trang 14
Dung lượng 86,35 KB

Nội dung

Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích si

Trang 1

Tiểu luận: MÔI TRƯỜNG KINH DOANH

Đề tài:

DOANH NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH

Ở VIỆT NAM



=

Trang 2

I, MỤC LỤC

1 Khái niệm:……….4

a Doanh nghiệp Việt Nam……….4

b Môi trường kinh doanh……… 4

2 Tổng quan về doanh nghiệp và môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2011và đầu năm 2012:……….5

a Tình hình các doanh nghiệp:……… 5

b Môi trường kinh doanh:……….6

Thế giới bất định………6

Tình hình trong Việt Nam……… 7

3 Phân tích mối quan hệ giữa doanh nghiệp và môi trường kinh doanh:……… 8

a Doanh nghiệp ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh:……… 8

b Môi trường kinh doanh tác động đến doanh nghiệp:……….9

Môi trường vĩ mô………10

Môi trường vi mô………11

Môi trường nội bộ……… 12

4 Những khó khăn và thuận lợi, giải pháp:……….12

a Những khó khăn và thuận lợi………12

b Giải pháp……… 13

TÀI LIỆU THAM KHẢO……… 14

Trang 3

II, NỘI DUNG

1 Khái niệm:

a Doanh nghiệp Việt Nam:

Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng

ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh

Là một chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động kinh tế theo một kế hoạch nhất định nhằm tìm kiếm lợi nhuận Trên thực tế doanh nghiệp được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cửa hàng, nhà máy, xí nghiệp, hãng,…

Cũng theo định nghĩa Luật doanh nghiệp , được ban hành 29/11/2005 của Việt Nam giải thích,

DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi Như vậy doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận

Bên cạnh đó, ta cũng cần tìm hiễu thêm về khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN),

vì đây là thành phần chiếm số lượng lớn (hơn 95%) trong tổng số DN đăng kí tại Việt Nam Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật Việt Nam cho rằng khái niệm DNVVN và sau đó là khái niệm DN nhỏ và cực nhỏ (DNNVCN) được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam và đang là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua Định nghĩa

về DNVVN và DNNVCN rõ ràng phải dựa trước tiên vào quy mô doanh nghiệp, thông thường là tiêu chí về nhân công, vốn đăng kí, doanh thu,… và các tiêu chí này thay đổi tùy theo quốc gia

và chương trình phát triển khác nhau

Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước mình Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP

Trang 4

ngày 30/6/2009 của Chính phủ, qui định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến dưới 200 người lao động được coi là Doanh nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là Doanh nghiệp vừa

b Môi trường kinh doanh:

Môi trường liên quan tới những thể chế hay lực lượng bên ngoài tổ chức DN có ảnh hưởng đến hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh của tổ chức DN thì được gọi là môi trường kinh doanh Là các yếu tố ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ các bước và quá trình của quản trị chiến lược Do đó chất lượng của quản trị chiến lược phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết các điều kiện môi trường, mà trong đó DN đang phải chịu sự tác động Có 3 loại môi trường chủ yếu sau:

 Môi trường tổng quát (vĩ mô):

Bao gồm những yếu tố, những lực lượng bên ngoài tổ chức có ảnh hưởng mạnh mẽ nhưng không trực tiếp đến tổ chức Có 5 nhóm yếu tố:

 Các yếu tố kinh tế (lãi suất ngân hàng, chu kỳ kinh tế, lạm phát,…);

 Các yếu tố về chính trị, pháp luật (luật pháp, qui định, chính sách của nhà nước, thể chế chính trị,…);

 Các yếu tố xã hội (xu hướng nhân chủng học, tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, quan điểm mức sống, công luận, dư luận );

 Các yếu tố tự nhiên (ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên, thời vụ,…);

 Các yếu tố kỹ thuật (công nghệ mới, giai đoạn bảo hòa trong chu kỳ sống của sản phẩm, công nghệ sinh học, người máy, thông tin liên lạc,…);

 Môi trường tác nghiệp (vi mô):

Bao gồm các yếu tố trong ngành và là các yếu tố ngoại cảnh đối với doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành sản xuất kinh doanh đó Có 5 yếu tố:

 Đối thủ cạnh tranh

 Người cung cấp

 Khách hàng

 Đối thủ mới tiềm ẩn

 Sản phẩm thay thế

 Môi trường nội bộ: Môi trường bên trong bao gồm các nguồn lực về con người, tài chính, công nghệ, sản phẩm, giá, kênh phân phối, xúc tiến quảng cáo của doanh nghiệp Ngoài

ra còn có văn hóa doanh nghiệp

2 Tổng quan về doanh nghiệp và môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2011và đầu năm 2012:

a Tình hình các doanh nghiệp:

Trong năm 2011 và đặc biệt là quý I năm 2012, các chỉ số về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng xấu đi, đặc biệt là chỉ số về lợi nhuận, doanh số, hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng máy móc và số lượng lao động Tỷ lệ các doanh nghiệp tạm ngừng sản xuất và giải thể trong năm 2011 và quý I năm 2012 chiếm 8,4% (trong đó ngừng sản xuất chiếm 4,3% và giải thể là 4,1%)

Theo Bộ Tài chính trong 4 tháng đầu năm 2012 tình hình doanh nghiệp vẫn khó khăn, hàng tồn kho và chi phí tài chính tăng cao Khó khăn tập trung chủ yếu ở những ngành như xây dựng; bất động sản; công nghiệp chế biến, chế tạo (ô tô, xe máy, sắt, thép, cơ khí, thuỷ sản, dệt may );

Trang 5

chăn nuôi, sản xuất lâm nghiệp; dịch vụ, ăn uống; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước; doanh nghiệp vừa và nhỏ…

Bảng 1: Tổng quan về tình hình doanh nghiệp năm 2012

Các loại hình Số lượng (doanh nghiệp) Vốn (triệu đồng)

Công ty TNHH một thành viên 19,861 171,324,580

(Theo: Sở Kế hoạch và Đầu tư tp Hồ Chí Minh)

Tăng trưởng GDP quý I năm 2012 chỉ đạt 4%, đây là mức thấp nhất kể từ năm 2004 (ngoại trừ quý I năm 2009) Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm tăng thấp Chỉ số tồn kho tại thời điểm 1-4 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 32,1%, mức tăng tương đối cao so với cùng kỳ các năm trước Kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh ở các mặt hàng như: linh kiện phụ tùng ô tô; xăng dầu; linh kiện xe máy; nguyên phụ liệu cho sản xuất, xuất khẩu (vải, bông, sợi dệt…) Qua đó ta thấy ở nước ta, do năng lực canh tranh của các doanh nghiệp còn thấp, nên trong điều kiện khó khăn như hiện nay thì việc các doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc giải thể tăng cao là điều dễ hiểu.Với số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động, giải thể và phá sản, đã kéo theo tình trạng nợ đọng thuế tăng, doanh thu giảm, chỉ số tài chính giảm, thu thuế nội địa và thu hải quan giảm… Hầu hết các ngành kinh tế đều có doanh thu giảm so với cùng kỳ Khả năng thanh toán lãi vay của đa số các ngành đều giảm so với năm 2010

Mặt khác, về triển vọng kinh doanh trong năm 2012: có tới 68,5% số doanh nghiệp có kế hoạch tiếp tục duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, 31,5% sẽ thu hẹp quy mô kinh doanh và một bộ phận trong số này có thể sẽ phải ngừng hoạt động hoặc giải thể) Trong quý I/2012, vẫn có hơn 18.700 doanh nghiệp mới được thành lập Các con số này cho thấy, mặc dù bối cảnh kinh tế rất khó khăn và sự lạc quan có phần giảm sút, nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ vẫn duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, một bộ phận doanh nghiệp có khả năng mở rộng quy mô Kết quả khảo sát còn cho thấy, các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn đánh giá cao triển vọng trung và

Trang 6

dài hạn của nền kinh tế và tin rằng Chính phủ đang có những bước đi đúng hướng Họ xác định chịu đựng khó khăn trong ngắn hạn để kiềm chế lạm phát là cần thiết để có được một môi trường kinh tế vĩ mô tốt hơn trong tương lai Hơn nữa, áp lực trong khó khăn cũng là cơ hội để tái cấu

trúc, nâng cao năng lực  cạnh tranh và một bộ phận doanh nghiệp đang làm tốt việc này

Hiện nay, theo phản ánh, tình hình chung của các doanh nghiệp là rất khó khăn Mà khó khăn lớn

nhất đó là: chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao ( chủ yếu do chi phí nguyên nhiên vật liệu và giá vốn cao) và khó khăn về thị trường tiêu thụ thu hẹp (do sức mua giảm mạnh), lượng hàng tồn

kho lớn và tập trung chủ yếu ở một số ngành như bất động  sản, xây dựng và vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, chế tạo,thương mại, vận tải kho bãi… Trong bối cảnh đó, cộng đồng doanh nghiệp mong muốn các nỗ lực điều hành chính sách của Chính phủ tập trung vào việc

giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, cũng như hỗ trợ giải quyết vấn đề thị trường đầu ra song song với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và tạo niềm tin cho doanh nghiệp.

b Môi trường kinh doanh:

Thế giới bất định:

Từ năm 2000 đến nay, kinh tế thế giới luôn trải qua nhiều biến động Bắt đầu từ sự phá sản của WorldCom năm 2003, Mardoff với vụ lừa đảo lịch sử 65 tỷ USD năm 2005, và lớn nhất là khủng hoảng tín dụng Mỹ năm 2007, kéo theo sự sụp đổ của đế chế Lehman Brothers, cùng khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 Bước sang năm 2010, tuy ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng vẫn còn tiểm ẩn nhiều biến động, điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ tương tự

và bong bóng tài sản ở Trung Quốc

Trong các thể chế tài chính, thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi phản ánh một cách rõ ràng nhất những biến động của nền kinh tế, chính vì vậy việc am hiểu tình hình kinh tế là rất quan trong, giúp nhà đầu tư có chiến lược đúng đắn Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển, mặc dù không bị ảnh hưởng trực tiếp từ sự sụp đổ của hệ thống tài chính thế giới, nhưng với việc gia nhập WTO, trở thành một phần không thể tách rời của kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn phải chịu những hậu quả gián tiếp nặng nề từ suy thoái kinh tế Mọi biến động của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây có mối tương quan chặt chẽ với biến động kinh tế thế giới TTCK Việt Nam cũng luôn song hành cùng với những thay đổi của nền kinh tế trong nước và quốc tế Hiện nay, cuộc khủng hoảng nợ công từ các nước thuộc Liên minh châu Âu kéo dài đã và đang tiếp tục là quả bom nổ chậm treo trên đầu nền kinh tế thế giới trong khi kinh tế Mỹ tiếp tục trì trệ, kinh tế Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác trong thời gian gần đây được dự báo

sẽ chậm hẳn lại Bà Christine Lagarde, người đứng đầu quỹ Tiền tệ thế giới (IMF), tổng kết tính nghiêm trọng của tình hình khi phát biểu trong tuần rồi rằng “Kinh tế thế giới đang ở trong trạng thái hiểm nghèo”

Việc kinh tế thế giới có rơi vào một cuộc suy thoái (kép) không, đang phụ thuộc rất nhiều vào việc cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu được xử lý như thế nào Trong khi đó, những nhà kinh tế có quan điểm bi quan như ông Nouriel Roubini thì cho rằng một cuộc suy thoái ở các nước sử dụng đồng euro chắc chắn sẽ diễn ra Ông cũng cho rằng nền kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu bứt phá và sẽ bị ảnh hưởng dây chuyền từ châu Âu, trong khi mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc đang lộ rõ những điểm yếu khi giá bất động sản bắt đầu rớt mạnh, tác động tiêu cực đến các nhà phát triển, đầu tư và nguồn thu của chính phủ

Tình hình trong Việt Nam:

Trang 7

Tại Việt Nam, nhiều nhà kinh tế có chung quan điểm là tình hình kinh tế thế giới trong năm 2012

sẽ xấu hơn năm 2011 Trong bối cảnh đó, Việt Nam lại bị đánh giá là dễ tổn thương nhất trong nhóm năm nền kinh tế đang lên khác tại khu vực Đông Nam Á

Một nghiên cứu mới đây của HSBC về rủi ro lan truyền trong trường hợp xảy ra một cuộc suy thoái kép trên thế giới đánh giá kinh tế Việt Nam dễ tổn thương vì tình trạng mất cân bằng cán cân thanh toán vãng lai, lạm phát cao, cân đối sổ sách doanh nghiệp yếu trong khi thâm hụt tài khoá cao và hệ thống ngân hàng có nhiều vấn đề

Bên cạnh đó, kết quả của một loạt những xếp hạng và thăm dò do các tổ chức nghiên cứu kinh tế

và thị trường thực hiện gần đây, đều cho thấy niềm tin của doanh nghiệp với môi trường kinh doanh đang bị giảm sút nghiêm trọng Khó khăn về việc tiếp cận nguồn vốn, lạm phát cao, cùng nhiều vấn đề cố hữu khác khiến cho môi trường kinh doanh trong năm 2011 trở nên ngột ngạt với giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhà kinh tế Võ Trí Thành miêu

tả việc doanh nghiệp bị phá sản trong thời gian qua bằng hình ảnh “xác doanh nghiệp trôi đầy sông Hồng, sông Mekong”

Từ đó ta có thể thấy rằng lạm phát tăng, rủi ro tín dụng và hoạt động ngân hàng, những vấn đề liên quan đến chính sách và điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ là ba rào cảnh đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2011 và kể cả năm tới Do đó làm cho năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2011 bị tụt 6 bậc so với năm 2010 Cũng cần nói thêm là chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đánh giá khá toàn diện, nó bao gồm

3 chỉ số trụ cột: chỉ số cơ bản, chỉ số nâng cao hiệu quả, và chỉ số về đổi mới và độ tinh vi trong kinh doanh Trong đó, chỉ số đổi mới và độ tinh vi trong kinh doanh của nước ta tụt hạng mạnh nhất, đứng thứ 53 năm 2010 nhưng lùi xuống thứ 75 năm 2011 Chỉ số này phản ánh chất lượng của mạng lưới kinh doanh, công nghiệp hỗ trợ, chất lượng điều hành và chiến lược của các doanh nghiệp, Chỉ số nâng cao hiệu quả cũng sụt giảm mạnh: từ vị trí thứ 57 trong danh sách các nước xếp hạng xuống vị trí thứ 66

Đồ thị 1 So sánh các chỉ số chính của năng lực cạnh tranh quốc gia.

Trang 8

Nguồn: WEF (2011), The Global Competitiveness Report 2011-2012, World Economic Forum.

Năm 2011 được đánh giá là năm khó khăn đối với nền kinh tế nói chung và đối với khối doanh nghiệp nói riêng Tỷ lệ lạm phát tăng cao, lãi suất tăng cao và thị trường ngoại hối bấp bênh làm tăng chi phí sản xuất, tạo khó khăn cho doanh nghiệp khi tiếp cận vay vốn bằng cả nội tệ và ngoại tệ Đây là các vấn đề nảy sinh trong năm 2011 Cũng còn có rất nhiều vấn đề khác tồn đọng từ lâu trong nền kinh tế và làm cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thủ tục hành chính, chất lượng cơ sở hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ,

Tuy nhiên, tỷ lệ các doanh nghiệp lạc quan vào môi trường kinh doanh trong tương lai

2012-2013 tăng lên đáng kể, nhưng với các điều kiện kèm theo cho các quyết sách của Chính phủ: đó

là kiên trì thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ và Kết luận 02 của Bộ Chính trị

3 Phân tích mối quan hệ giữa doanh nghiệp và môi trường kinh doanh:

a Doanh nghiệp ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh:

Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi mà môi trường kinh doanh có nhiều biến động khó lường và ảnh hưởng đến DN, thì các DN của giử một số vai trò nhất định và có ảnh hưởng ngược lại với môi trường xung quanh Trong đó ta phải kể đến các DNVVN và DNNVCN vì đầy là thành phần chiếm số đông (hơn 95%) trong nền kinh tế của đất nước Trong khi các DN lớn đa phần là thuộc quyền sở hữu của nhà nước thường kinh doanh trong các ngành trọng tâm như: điện, dầu mỏ,…

và các DN lớn tư nhân thì chỉ chiếm số lượng nhỏ Các DN nhà nước được ví như những “anh cả đỏ” vì là trụ cột chính của nền kinh tế đất nước thường tác động xấu đến nền kinh tế do những đầu tư sai lầm thì các DNVVN thì lại có tác động ngược lại

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ Việt Nam (VINASME), có đến 96% doanh nghiệp đăng ký ở Việt Nam là DNVVN Khối này tạo ra đến 40% tổng sản phẩm quốc nội, tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới mỗi năm, chủ yếu mang lại lợi ích đặc biệt cho nguồn lao động chưa qua đào tạo Nên có thể nói DNVVN giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế vì đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể Bên cạnh đó việc ổn định và làm cho nền kinh tế năng động cũng được coi là ảnh hưởng của thành phần DN này Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNVVN là những nhà thầu phụ cho các DN lớn, nếu như ở một thời điểm nào đó nền kinh tế xảy ra các biến cố thì việc điều chỉnh hợp đồng phụ tại các thời điểm này cho phép nền kinh tế

có được sự ổn định Vì thế, có thể nói các DNVVN là các thanh giảm sốc cho nền kinh tế Để có được điều trên thì các DN này phải có được sự năng động trong việc đối phó với các biến động của nền kinh tế, đó chính là đặc điểm nổi bật về quy mô nhỏ

Mặt khác, ta thấy rằng ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới thì các DN lớn thường tập trung ở những thánh phố lớn, những nơi tập trung đông dân cư và kinh tế trọng yếu phát triển, trung tâm kinh tế của đất nước nên bỏ qua những nơi khác như thành phố nhỏ, nông thôn, vùng sâu vùng xa,… Điều đó đã tạo sự chênh lệch lớn về tốc độ phát triển, mức sống,… của người dân và nền kinh tế của nơi đó dẫn đến hình thành dòng chảy người di cư từ những nơi khác đến các thành phố lớn Khi đó, nó sẽ tạo ra gánh nặng cho các thành phố này về nhu cầu việc làm, giáo dục,… hơn thế nữa sự chênh lệch về trình dộ phát triển kinh tế sẽ ngày càng xa hơn Với bản chất quy

mô nhỏ lẻ và đặc tình phân bố rải rác thì các DNVVN lại có mặt ở khắp các địa phương, đặc biệt

là các vùng sâu vùng xa, vùng chưa phát triển Do đó, góp phần đảm bảo công ăn việc làm cho người dân địa phương, đặt biệt là các đối tượng có trình độ và tay nghề thấp, nhờ thế vừa giải quyết tình trạng thất nghiệp vừa góp phần giảm dòng ngưới chuyển về thành phố tìm việc làm

Trang 9

Nên các DNVVN được coi là trụ cột của địa phương vì những đóng góp quan trọng vào ngân sách, vào sản lượng và tạo việc làm để ổn định nền kinh tế ớ địa phương

Trong nhiều năm tới, dù khối DNVVN được đánh giá vẫn là động cơ chạy chính cho nền kinh tế Việt Nam Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tế, là khối này cũng chỉ phát triển mạnh trong những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận khiêm tốn, công nghệ thấp do không có lợi thế về quy mô (tiềm lực tài chính, địa bàn hoạt động, thị phần…) mà thường tập trung vào các vấn đề như lựa chọn mục tiêu kinh doanh phù hợp với khả năng, ổn định, củng cố thị phần đã có hay phát triển thị trường từng bước và có chọn lọc khâu, điểm đột phá thuận lợi nhất Tuy nhiên, các DNVVN vẫn phải tự vận động và liên kết để hợp tác kinh doanh mà thiếu vắng vai trò rõ nét của chính sách nhà nước và thường phải tự “gồng” mình với những biến động kinh tế Để hiểu rõ hơn vấn

đề này ta sẽ xem xét phần tiếp sau

b Môi trường kinh doanh tác động đến doanh nghiệp:

Với bố cảnh tình hình kinh tế hiện nay của nước ta đang tạo ra những khó khăn cho các DN, thì việc đưa ra những quyết định chiến lược đúng đắn cho mình là điều không dễ, vì nó quyết định đến sự sống còn của các DN Khi đó, các DN cần nhận biết hai yếu tố khác khi phân tích các ảnh hưởng của môi trường Thứ nhất là, tính phức tạp của môi trường được đặc trưng bởi một loạt các yếu tố có ảnh hưởng đến các nổ lực của DN Môi trường càng phức tạp thì càng khó đưa ra các quyết định hữu hiệu Thứ hai là, tính biến động của môi trường, bao hàm tính năng động hoặc mức độ biến đổi trong điều kiện môi trường liên quan Trong một môi trường ổn định mức

độ biến đổi có thể tương đối thấp và có thể dự đoán được Môi trường biến động đặc trưng bởi những vấn đề diễn ra nhanh chóng và khó mà dự báo trước được Tính phức tạp và biến động của môi trường đặc biệt hệ trọng khi tiến hành phân tích các điều kiện môi trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp vì cả hai đều là yếu tố ngoại cảnh đối với DN

Mục đích nghiên cứu xác định và hiểu rõ các điều kiện môi trường liên quan là để làm rõ các yếu

tố môi trường nào có nhiều khả năng ảnh hưởng đến các việc ra quyết định của DN, đang tạo ra

cơ hội hay đe dọa đối với DN

Môi trường vĩ mô:

Như đã tìm hiểu trong phần khái niệm thì các yếu tố của môi trường vĩ mô gồm: các yếu tố kinh

tế, yếu tố chính trị và pháp luật, yếu tố công nghệ, yếu tố tự nhiên và cuối cùng là yếu tố môi trường quốc tế (vì Việt Nam đã gia nhập WTO) Mỗi yếu tố vĩ mô đều có thể ảnh hưởng độc lập đến tổ chức hoặc trong mối liên kết với các yếu tố khác

Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh Chẳng hạn như lãi suất và xu hướng lãi suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng tới xu thế của tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư, do vậy sẽ ảnh hưởng tới họat động của các doanh nghiệp Lãi suất tăng sẽ hạn chế nhu cầu cầu vay vốn để đầu tư mở rộng họat động kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp Ngoài ra khi lãi suất tăng cũng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, do vậy cũng sẽ làm cho nhu cầu cầu tiêu dùng giảm xuống Khi đó, hệ quả của việc này chính là cung sẽ lớn hơn cầu, làm cho các DN sẽ bị tồn kho hàng hóa cộng với việc lãi suất vay cao sẽ làm cho các DN khốn đốn trong việc trả nợ vay có thể dẫn đến phá sản nếu nhưng tình trạng này kéo dài

Bên cạnh đó, mức độ lạm phát cao hay thấp cũng có ảnh hưởng đến tốc độ đầu tư vào nền kinh

tế Khi lạm phát quá cao sẽ không khuyến khích tiết kiệm và tạo ra những rủi ro lớn cho sự đầu

Trang 10

tư của các doanh nghiệp, sức mua của xã hội cũng bị giảm sút và làm cho nền kinh tế bị đình trệ Trái lại, thiểu phát cũng làm cho nền kinh tế bị đình trệ Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải

có tác dụng khuyến khích đầu tư vào nền kinh tế, kích thích thị trường tăng trưởng Lạm phát được kỳ vọng sẽ giảm do vài nguyên nhân: cung tiền trong năm 2011, ước tính khoảng 10 - 12%,

là mức thấp kỷ lục và sẽ không tạo ra sức ép tiền tệ cho 2012 Kinh tế tiếp tục suy giảm nên không tạo nhiều sức ép lên lạm phát, mặc dù chỉ số lạm phát sẽ còn tuỳ thuộc vào việc liệu giá điện có tăng nhiều, lương có tăng và Chính phủ có muốn tung ra gói kích cầu nào không

Yếu tố pháp luật và chính trị cũng có ảnh hưởng ngày càng lớn đến các hoạt động của DN, bao gồm hệ thống các quan điểm,đường lối chính sách của chính phủ,… như thế có thể nói yếu tố này đại diện cho hoạt động chính phủ Như vậy hoạt động của chính phủ cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho DN Thí dụ, một số chương trình của chính phủ (như biểu thuế hàng ngoại nhập cạnh tranh, chính sách miễn giảm thuế) tạo cho doanh nghiệp cơ hội tăng trưởng hoặc cơ hội tồn tại Ngược lại, việc tăng thuế trong một ngành nhất định nào đó có thể đe dọa đến lợi nhuận của doanh nghiệp

Ngoài ra cũng cần phải kể đến các yếu tố khách quan khác như: yếu tố xã hôi, tự nhiên hay kĩ thuật công nghệ cũng đều có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh doanh của DN Trong môi trường văn hóa, các nhân tố nổi lên giữ vai trò đặc biệt quan trọng là tập quán, lối sống, tôn giáo Các nhân tố này được coi là "hàng rào chắn" các hoạt động giao dịch thương mại Thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu, vì ngay cả trong trường hợp hàng hóa thực sự có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó được họ chấp nhận Chính thị hiếu, tập quán người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng dân tộc và phản ánh yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo của từng địa phương, từng quốc gia Bên cạnh đó, Tất cả các doanh nghiệp cần phân tích rộng rãi các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến doanh nghiệp, như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi giải trí, chuẩn mực đạo đức và quan điểm về mức sống, cộng đồng kinh doanh và lao động nữ

Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên, đất đai, sông biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên rừng biển, sự trong sạch của môi trường nước, không khí, Tác động của các điều kiệu tự nhiên đối với các quyết sách trong kinh doanh

từ lâu đã được các doanh nghiệp thừa nhận Trong rất nhiều trường hợp, chính các điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố rất quan trọng để hình thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ Và cuối cùng là yếu tố công nghệ, Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và đe dọa đối với các doanh nghiệp Những áp lực và đe dọa từ môi trường công nghệ có thể là: sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm truyền thống của ngành hiện hữu Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện tại bị lỗi thời và tạo ra áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh

Môi trường tác nghiệp (vi mô):

Môi trường tác nghiệp bao gồm các yếu tố trong ngành và là các yếu tố ngoại cảnh đối với doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành kinh doanh đó Có 5 yếu tố cơ bản là: đối thủ cạnh tranh, người mua, người cung cấp, các đối thủ mới tiềm ẩn và sản phẩm thay thế

Ngày đăng: 28/12/2024, 09:07

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w