1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

87 3 2
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Đối Với Sản Phẩm Sáng Tạo Bởi Trí Tuệ Nhân Tạo
Tác giả Lê Thị Minh Nguyệt
Người hướng dẫn PGS. TS Nguyễn Thị Hồng Nhung
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Thể loại luận văn thạc sĩ luật học
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 0,95 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu (9)
  • 3. Mục đích nghiên cứu (13)
  • 4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu (13)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (14)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn (15)
  • 7. Bố cục của luận văn (15)
  • CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ XU HƯỚNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM SÁNG TẠO BỞI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRÊN THẾ GIỚI (17)
    • 1.1. Khái quát chung về trí tuệ nhân tạo (17)
      • 1.1.1. Lịch sử hình thành của trí tuệ nhân tạo (17)
      • 1.1.2. Khái niệm và phân loại trí tuệ nhân tạo (21)
        • 1.1.2.1. Khái niệm trí tuệ nhân tạo (21)
        • 1.1.2.2. Phân loại trí tuệ nhân tạo (23)
      • 1.1.3. Thành tựu sáng tạo của trí tuệ nhân tạo (25)
        • 1.1.3.1. Sáng tạo của AI trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học (26)
        • 1.1.3.2. Sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực sáng chế (30)
      • 1.2.2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo và tác giả là lập trình viên, chủ sở hữu trí tuệ nhân tạo (40)
      • 1.2.3. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo và tác giả là chính trí tuệ nhân tạo (44)
  • CHƯƠNG 2 BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM SÁNG TẠO BỞI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TẠI VIỆT NAM (46)
    • 2.1. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (46)
    • 2.2. Quy định pháp luật hiện hành và kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo tại Việt Nam (51)
      • 2.2.1. Tác giả của tác phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (52)
        • 2.2.1.1. Tác giả của tác phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (52)
        • 2.2.1.2. Tác giả của sáng chế sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (56)
      • 2.2.2. Điều kiện của sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (58)
        • 2.2.2.1. Điều kiện bảo hộ đối với tác phẩm được sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (58)
        • 2.2.2.2. Điều kiện bảo hộ đối với sáng chế được sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (65)
      • 2.2.3. Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo62 1. Vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm và quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (69)

Nội dung

Tuy nhiên, nhận định rằng đây là một vấn đề tất yếu phát sinh song song với thời đại hiện tại, do đó tác giả lựa chọn đề tài “BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM SÁNG TẠO BỞI TR

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Tại Việt Nam, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và báo chí Nhiều bài viết đã được công bố, bàn luận sâu về các khía cạnh pháp lý và thực tiễn liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh công nghệ AI phát triển mạnh mẽ.

Bài báo "Quyền tác giả đối với tác phẩm hình thành bởi trí tuệ nhân tạo" của tác giả Nguyễn Lương Sỹ, đăng trên Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn năm 2018, đã phân tích quá trình hình thành AI và các xu hướng pháp luật quốc tế liên quan đến tác phẩm do AI tạo ra Tác giả đã chia thành hai quan điểm chính: một là tác phẩm do AI sáng tạo thuộc về công chúng theo quan điểm của Hoa Kỳ và Canada; hai là tác giả của tác phẩm sáng tạo bởi AI là chủ sở hữu, người phát triển hoặc người sử dụng AI như Liên minh Châu Âu, Vương quốc Anh, Nam Phi và New Zealand Từ đó, tác giả đề xuất điều chỉnh quy định pháp luật liên quan đến khái niệm "tác phẩm" và "tác giả" nhằm bảo vệ quyền tác giả hiệu quả hơn.

Bài báo nêu rõ vấn đề bảo hộ quyền tác giả và đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến chủ thể và đối tượng bảo vệ Tuy nhiên, vẫn chưa có những chỉnh sửa cụ thể được đề xuất.

Bài nghiên cứu "Bảo hộ quyền sáng tạo của AI - thực trạng từ robot Sophia và kinh nghiệm cho Việt Nam" của Ngô Minh Tín và Trần Thị Thu Thảo, được trình bày tại Hội thảo về hành lang pháp lý của Luật Sở hữu trí tuệ vào ngày 06/01/2021, tập trung vào quyền sáng tạo của robot Sophia, robot đầu tiên được công nhận quyền công dân tại Saudi Arabia Nghiên cứu phân tích các quy định pháp luật và tranh chấp quốc tế liên quan đến sáng chế của AI, như vụ việc giữa Beijing Film Law Firm và Beijing Baidu Network Từ đó, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết bảo hộ quyền sáng tạo và đề xuất hai hướng đi cho Việt Nam trong việc phát triển khung pháp lý cho AI.

Việt Nam cần điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền tài sản và quyền sở hữu trí tuệ để chấp nhận bảo hộ quyền sáng tạo của AI, không yêu cầu sự sáng tạo phải đến từ con người Cần xây dựng cơ chế đặc thù nhằm bảo vệ các sáng tạo của trí tuệ nhân tạo.

AI có thể được xác định rõ ràng về quyền tác giả theo hai hướng: Thứ nhất, nếu AI được công nhận quyền công dân như Sophia, nó sẽ được bảo hộ như một công dân bình thường Thứ hai, cần xem xét bảo hộ sáng tạo của AI, đảm bảo quyền lợi cho những sản phẩm mà nó tạo ra.

AI thông qua chủ sở hữu AI

Nếu không chấp nhận bảo hộ quyền sáng tạo của AI, các nhà làm luật cần điều chỉnh Điều 2 và các quy định liên quan đến chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ Cụ thể, cần bổ sung quy định loại trừ bảo hộ quyền sáng tạo cho những công dân không phải là con người, đồng thời làm rõ các thuật ngữ như công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch.

Bài nghiên cứu đã nêu bật tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm sáng tạo do AI tạo ra, một vấn đề cấp thiết hiện nay Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ đưa ra hai lựa chọn cho xu hướng phát triển tại Việt Nam mà chưa đề xuất các biện pháp cụ thể để điều chỉnh quy định pháp luật liên quan.

Bài báo “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo” của Vũ Thị Hải Yến, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật năm 2020, nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm sáng tạo bởi AI Bài viết đưa ra khái quát về các tác phẩm do AI tạo ra và giải đáp ba câu hỏi quan trọng liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong bối cảnh công nghệ hiện đại.

Tác phẩm do AI tạo ra cần đáp ứng các tiêu chí bảo hộ bản quyền, bao gồm việc phải được thể hiện dưới hình thức cụ thể, là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ và có tính nguyên gốc.

Bảo hộ quyền tác giả cho các tác phẩm do AI tạo ra là cần thiết để bảo vệ công sức, nghiên cứu, đầu tư và tài chính đã bỏ ra trong quá trình sáng tạo Việc này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các nhà phát triển mà còn khuyến khích sự đổi mới và phát triển trong lĩnh vực công nghệ.

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do AI sáng tạo có thể được xem là một ngoại lệ, không yêu cầu sáng tạo tinh thần hay dấu ấn cá nhân như các tác phẩm văn học, nghệ thuật thông thường Chủ thể được công nhận là tác giả cho các tác phẩm này bao gồm người thu thập, lựa chọn nguồn dữ liệu đầu vào để đào tạo máy tính và các lập trình viên máy tính.

Bài báo "Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của trí tuệ nhân tạo" của tác giả Nguyễn Ngọc Hồng Dương, được đăng trên Tạp Chí Công Thương vào ngày 17/06/2022, cung cấp cái nhìn tổng quan về các tác phẩm do AI sáng tạo Bài viết cũng thảo luận về các điều kiện cần thiết để bảo hộ quyền tác giả cho những tác phẩm này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi cho các tác giả trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng.

AI được định nghĩa là sản phẩm của sự sáng tạo tinh thần, thể hiện dưới một hình thức cụ thể và mang tính nguyên gốc Tác giả nhấn mạnh rằng khi xây dựng khung pháp luật bảo hộ quyền tác giả cho AI, cần lưu ý hai điểm chính: đầu tiên là xác định rõ quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm do AI tạo ra, và thứ hai là đảm bảo rằng các quy định pháp lý phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ AI.

Tác giả được xác định là người cung cấp dữ liệu cho hoạt động của AI, trong khi các lập trình viên viết mã code để giúp AI tạo ra các tác phẩm.

Mục đích nghiên cứu

Bài luận này dựa trên nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành và xu hướng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, nhằm thực hiện hai mục đích nghiên cứu chính.

Luận văn này mang đến cái nhìn tổng quát về trí tuệ nhân tạo (AI) và những thành tựu sáng tạo hiện tại của nó, đồng thời làm rõ các xu hướng quốc tế hiện nay liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm do AI tạo ra.

Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra và phân tích các quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam liên quan đến vấn đề này Qua đó, tác giả đánh giá hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hiện tại và đề xuất những điều chỉnh, sửa đổi cần thiết để phù hợp với xu hướng phát triển pháp luật và nhu cầu thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu

Tác giả phân tích xu hướng quốc tế và quy định pháp luật liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra, tập trung vào các quốc gia như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Nam Phi, New Zealand và Việt Nam Việc so sánh giữa quy định pháp luật của các quốc gia này với Việt Nam được thực hiện vì Hoa Kỳ và Châu Âu đã có hướng xử lý cụ thể, trong khi Vương Quốc Anh và New Zealand đang phát triển các phương pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm sáng tạo từ AI Đặc biệt, Nam Phi là quốc gia duy nhất đã cấp bằng bảo hộ sáng chế cho trường hợp của tiến sĩ Stephen Thaler tính đến thời điểm hiện tại.

Phương pháp so sánh luật: tác giả sử dụng phương pháp này tại Mục 2.2 của

Chương 2 so sánh quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi AI giữa Vương Quốc Anh và New Zealand, hai quốc gia đã có những quy định sơ khai trong lĩnh vực này.

Trong Chương 2, tác giả áp dụng phương pháp tổng hợp để phân tích và so sánh các quy định pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra Qua việc kết hợp và thống nhất những quy định và xu hướng hiện tại, tác giả đề xuất các kiến nghị nhằm điều chỉnh và sửa đổi các quy định pháp luật liên quan, nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh phát triển công nghệ AI.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn

Luận văn là một nghiên cứu khoa học sâu sắc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra, kế thừa các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước Nó cũng tổng hợp xu hướng quốc tế và pháp luật của một số quốc gia liên quan đến vấn đề này Tác giả đưa ra nhận xét khách quan về tính áp dụng của xu hướng hiện tại và đề xuất điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành để bảo vệ đối tượng này hiệu quả hơn.

Tác giả hy vọng luận văn sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai nghiên cứu về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với sản phẩm sáng tạo từ trí tuệ nhân tạo (AI) Luận văn nhằm cung cấp thông tin đầy đủ và quan điểm kịp thời để đối phó với xu hướng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm do AI tạo ra, đồng thời thiết lập cơ chế bảo hộ hiệu quả và phù hợp với thực tiễn.

Bố cục của luận văn

Ngoài Phần Mở Đầu và Kết Luận, luận văn bao gồm 2 Chương với nội dung chính như sau:

Chương 1 trình bày tổng quan về trí tuệ nhân tạo (AI) và xu hướng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI tạo ra trên toàn cầu Sự phát triển nhanh chóng của AI đã đặt ra những thách thức mới trong việc xác định quyền sở hữu trí tuệ, khi mà các sản phẩm sáng tạo không còn chỉ do con người tạo ra Các quốc gia đang nỗ lực xây dựng khung pháp lý phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà phát minh và khuyến khích đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên số Việc hiểu rõ các xu hướng này là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của công nghệ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Chương 1 của luận văn cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử hình thành, khái niệm và phân loại trí tuệ nhân tạo (AI), cũng như những thành tựu mà AI đã đạt được Tác giả cũng phân tích xu hướng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo từ AI tại các quốc gia, thông qua việc xem xét các báo cáo, bản án và quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề này.

CHƯƠNG 2: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam

Trong Chương 2, luận văn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm sáng tạo do AI tạo ra Tác giả phân tích các quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam liên quan đến vấn đề này và đưa ra các đề xuất cụ thể để chỉnh sửa quy định, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc bảo hộ các đối tượng đặc biệt này.

KHÁI QUÁT VỀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ XU HƯỚNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM SÁNG TẠO BỞI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRÊN THẾ GIỚI

Khái quát chung về trí tuệ nhân tạo

1.1.1 Lịch sử hình thành của trí tuệ nhân tạo

Trong những năm đầu của thế kỷ 20, nền khoa học viễn tưởng lần đầu tiên giới thiệu khái niệm trí tuệ nhân tạo, sau đây gọi tắt là “ AI ”

Nhân vật "The Tin Man" là hình thức AI đầu tiên, xuất hiện trong bộ sách "Vùng đất hư cấu của xứ Oz" do tác giả L Frank Baum người Mỹ sáng tác vào năm 1900.

Sau sự xuất hiện của nhân vật "Người máy Maria" trong bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng "Metropolis" được sản xuất tại Đức vào năm 1927, hình ảnh của những nhân vật máy móc trong điện ảnh đã trở thành biểu tượng quan trọng.

Vào những năm 1950, khái niệm trí tuệ nhân tạo (AI) trở nên phổ biến và quen thuộc với con người, đặc biệt là các nhà khoa học Những nhà khoa học trẻ đã khám phá ra nhiều khả năng phát triển của AI, trong đó khả năng toán học do Alan Turing, một nhà khoa học đa ngành người Anh, đề xuất là một trong những khả năng tiêu biểu nhất Ông lập luận rằng con người có thể sử dụng thông tin có sẵn để thực hiện các nhiệm vụ phức tạp.

1 Cathy Lowne (2018), The Wonderful Wizard of Oz - novel by Baum, truy cập lần cuối ngày 25/12/2022, từ < https://www.britannica.com/topic/The-Wonderful-Wizard-of-Oz>

Robot Hall of Fame (2006) đã ghi nhận Maria, một ví dụ điển hình về khả năng phân tích và ra quyết định của robot Cô có khả năng giải quyết vấn đề tương tự như con người, cho thấy rằng máy móc cũng có thể thực hiện các nhiệm vụ phức tạp này.

Vào năm 1955, ba nhà khoa học Allen Newell, Cliff Shaw và Herbert Simon đã phát triển chương trình "Nhà lý thuyết logic" (Logic Theorist), nhằm mô phỏng kỹ năng giải quyết vấn đề của con người Chương trình này được tài trợ bởi DSRPAI (Dartmouth Summer Research Project on Artificial Intelligence) và được coi là chương trình AI đầu tiên Nó đã được giới thiệu tại hội nghị nghiên cứu mùa hè Dartmouth về AI vào năm 1956, nơi John McCarthy và Marvin Minsky tổ chức thảo luận về các vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo.

AI, nhưng đã góp phần tạo nên tiền đề và xúc tác cho công cuộc nghiên cứu AI trong hai mươi năm tiếp theo sau đó 4

Từ năm 1957 đến 1974, trí tuệ nhân tạo (AI) đã có sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ Trong giai đoạn này, máy tính ngày càng có khả năng lưu trữ thông tin nhiều hơn, nhanh hơn và với chi phí thấp hơn, đồng thời dễ dàng tiếp cận hơn với con người Bên cạnh đó, các thuật toán học máy cũng được cải thiện đáng kể, giúp nâng cao nhận thức của con người về việc lựa chọn thuật toán phù hợp để giải quyết các vấn đề của họ.

3 Rockwell Anyoha (2017), Can Machines Think?, Havard University - The Graduate

School of Arts and Sciences, truy cập lần cuối ngày 14/08/2022, từ

4 Rockwell Anyoha (2017), Can Machines Think?, Havard University - The Graduate

School of Arts and Sciences, truy cập lần cuối ngày 14/08/2022, từ

5 Rockwell Anyoha (2017), Can Machines Think?, Havard University - The Graduate

School of Arts and Sciences, truy cập lần cuối ngày 14/08/2022, từ

Vào thập niên 1980, John Hopfield và David Rumelhart đã giới thiệu các kỹ thuật "học sâu" (deep learning), cho phép máy tính học hỏi từ kinh nghiệm được cung cấp Đồng thời, Edward Feigenbaum cũng phát triển các hệ thống chuyên môn nhằm mô phỏng quá trình ra quyết định của các chuyên gia con người.

Trong những năm 1990 và 2000, AI đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là vào năm 1997 khi nhà vô địch cờ vua Gary Kasparov bị đánh bại bởi chương trình máy tính “IBM’s Deep Blue” Cùng năm đó, phần mềm nhận dạng giọng nói của Dragon Systems cũng được triển khai trên Windows Thêm vào đó, AI còn có khả năng nhận biết và thể hiện cảm xúc con người thông qua robot Kismet do Cynthia Breazeal phát triển.

Từ năm 2000 đến nay, trí tuệ nhân tạo (AI) đã phát triển mạnh mẽ và trở thành công cụ quan trọng trong công nghệ nhờ vào sự cải thiện khả năng tính toán Năm 2016, sự ra đời của robot Sofia do Công ty Hanson Robotics phát triển đã đánh dấu một bước tiến đáng kể trong lĩnh vực AI.

6 Rockwell Anyoha (2017), Can Machines Think?, Havard University - The Graduate

School of Arts and Sciences, truy cập lần cuối ngày 14/08/2022, từ

7 Rockwell Anyoha (2017), Can Machines Think?, Havard University - The Graduate

School of Arts and Sciences, truy cập lần cuối ngày 14/08/2022, từ

8 Farjana Akther (2022), Artificial Intelligence (AI) - Timeline of 2022 Update, Delwarit, truy cập lần cuối ngày 20/08/2022, từ < https://delwarit.com/blog/artificial-intelligence-ai- timeline>

AI đang được chú trọng phát triển tại Việt Nam, với ứng dụng mạnh mẽ trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp, giao thông và thương mại điện tử Công nghệ AI đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho đất nước Đặc biệt, trong lĩnh vực giao thông, ông Lê Hồng Việt, Giám đốc công nghệ của Tập đoàn FPT, cho biết FPT đang triển khai hệ thống giao thông thông minh tại Thành phố.

Hồ Chí Minh và xe tự hành cấp độ 3 do FPT phát triển đã kết nối một tuyến đường dài 3 km giữa văn phòng FPT Software tại khu công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội Xe tự hành này hoạt động dựa trên thuật toán tạo bản đồ 3D chính xác cao, sử dụng hệ thống quét và phân tích điểm ảnh nhạy để xác định vị trí và điều khiển xe trên diện tích rộng Hơn nữa, công nghệ AI được áp dụng để phát hiện vật cản trong bán kính hoạt động của xe.

9 Hanson Robotics, Sophia, truy cập lần cuối ngày 20/08/2022, từ < https://www.hansonrobotics.com/sophia/>

Phạm Thị Thu Hà (2019) đã nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) tại Việt Nam, phân tích thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và xu hướng phát triển trong lĩnh vực này Bài viết được đăng trên cổng thông tin điện tử của Học viện Cảnh sát Nhân dân và có thể truy cập tại địa chỉ , với thông tin được cập nhật lần cuối vào ngày 20/08/2022.

Phạm Thị Thu Hà (2019) đã nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) tại Việt Nam, tập trung vào thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và xu hướng phát triển trong lĩnh vực này Bài viết được đăng trên cổng thông tin điện tử của Học viện Cảnh sát Nhân dân và có thể truy cập tại địa chỉ , với lần truy cập cuối vào ngày 20/08/2022.

12 Phạm Trung (2021), Những ôtô điện tự hành do người Việt phát triển, Vnexpress – Ngày

Khoa học và Công nghệ Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 20/08/2022, từ https://vnexpress.net/nhung-oto-dien-tu-hanh-do-nguoi-viet-phat-trien-4279276.html

Trong lĩnh vực y tế tại Việt Nam, AI đã đóng góp quan trọng trong thời gian đại dịch COVID-19, đặc biệt qua các ứng dụng chuyển hình ảnh thành văn bản, giúp số hóa tờ khai và phiếu điều tra dịch tễ Phần mềm DrAid™, phát triển bởi VinBrain từ năm 2019, là phần mềm AI đầu tiên tại Việt Nam, hỗ trợ chẩn đoán bệnh phổi, tim và xương dựa trên X-quang chỉ trong 5 giây, kết hợp với xét nghiệm PCR, từ đó nâng cao độ chính xác và chuyển giao kiến thức cho các bác sĩ từ tuyến Trung ương đến cơ sở.

1.1.2 Khái niệm và phân loại trí tuệ nhân tạo

1.1.2.1 Khái niệm trí tuệ nhân tạo

Công nghệ AI đang trở thành một trong những công nghệ phát triển và ứng dụng phổ biến nhất hiện nay, với các lĩnh vực như nhận dạng khuôn mặt, xử lý giọng nói, ước tính đám đông, cùng với các hệ thống an ninh, bảo mật và pháp luật.

Thuật ngữ AI đã được John McCarthy đề cập lần đầu tiên vào những năm

BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM SÁNG TẠO BỞI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TẠI VIỆT NAM

Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra đang ngày càng trở nên cần thiết trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ Việc bảo vệ những sáng tạo này không chỉ khuyến khích đổi mới mà còn thúc đẩy sự phát triển của AI, từ đó mang lại nhiều lợi ích cho xã hội Ngược lại, nếu không cho phép bảo hộ các phát minh do AI tạo ra, doanh nghiệp có thể sẽ không tận dụng được tiềm năng của AI, ngay cả khi nó có khả năng vượt trội hơn con người trong việc giải quyết các vấn đề.

Vấn đề quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn chưa phát sinh thực tế, nhưng sẽ trở thành một vấn đề quan trọng trong tương lai Việc nghiên cứu lý thuyết và tham khảo pháp luật các quốc gia cũng như xu hướng quốc tế là rất cần thiết Hiện nay, sản phẩm sáng tạo của AI chủ yếu tập trung vào tác phẩm nghệ thuật, văn học, báo chí, chương trình máy tính và sáng chế Do đó, tác giả chú trọng vào việc bảo hộ tác phẩm và sáng chế do AI tạo ra.

Hiện nay, có ba xu hướng quốc tế trong việc tiếp cận vấn đề quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (AI) Thứ nhất, không bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm này Thứ hai, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và xác định AI là chủ sở hữu Cuối cùng, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với việc xác định AI là tác giả.

Thứ nhất, không bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

Xu hướng không bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành xu hướng nổi bật hiện nay, nhưng hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới vẫn chưa giải quyết vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm do AI tạo ra Do đó, nhiều quốc gia áp dụng các quy định truyền thống và từ chối bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho những sản phẩm sáng tạo này Tuy nhiên, theo tác giả, việc từ chối bảo hộ sẽ dẫn đến những vấn đề đáng chú ý trong tương lai.

Một là, vấn đề về xác định tác giả đối với sản phẩm được sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

Việc không bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo sẽ gây khó khăn trong việc xác định tác giả hoặc chủ thể có quyền đối với sản phẩm do AI tạo ra Theo quy định pháp luật hiện hành, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do họ sáng tạo, có thể thông qua các cơ chế như giao nhiệm vụ, hợp đồng, thừa kế, hoặc chuyển giao quyền.

Tác giả có quyền đặt tên cho tác phẩm bằng tên thật hoặc bút danh, và được nêu tên khi tác phẩm được công bố hoặc sử dụng Họ có quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, ngăn cản mọi hành vi sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc có thể gây tổn hại đến danh dự và uy tín Ngoài ra, tác giả có quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các hoạt động liên quan đến tác phẩm như làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn công khai, sao chép, phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao, và truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua các phương tiện truyền thông.

Điều 19, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, được ban hành vào ngày 29 tháng 11 năm 2005 và đã trải qua các lần sửa đổi bổ sung vào năm 2009, 2019 và 2022, quy định về việc sử dụng thông tin điện tử hoặc các phương tiện kỹ thuật khác trong việc cho thuê bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm điện ảnh và chương trình máy tính.

Tác giả sáng chế và chủ sở hữu sáng chế đều có những quyền nhân thân và quyền tài sản quan trọng Tác giả sáng chế có quyền được ghi tên trong Bằng độc quyền sáng chế, được nêu tên trong các tài liệu công bố về sáng chế, và nhận thù lao nếu không phải là chủ sở hữu Trong khi đó, chủ sở hữu sáng chế có quyền sử dụng sáng chế, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm việc sử dụng trái phép, và định đoạt các quyền liên quan đến sáng chế của mình.

Các quyền sở hữu trí tuệ được thiết lập nhằm bảo vệ công sức và sự sáng tạo của tác giả, khuyến khích họ tạo ra các tác phẩm và sáng chế có giá trị Nếu không có sự bảo hộ cho các tác phẩm do AI sáng tạo, sẽ khó xác định ai là người có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với những tác phẩm đó Điều này dẫn đến việc tác giả không thể thực hiện các quyền mà họ lẽ ra phải có đối với những tác phẩm mà họ đã đầu tư công sức sáng tạo.

Việc này cũng gây khó khăn trong việc xác định các hành vi vi phạm đối với tác phẩm và quyền lợi của tác giả sáng tạo.

82 Điều 20, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022

83 Điều 122, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022

84 Khoản 1 Điều 123, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022

Hai là, vấn đề xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

Trong thời đại công nghệ hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ thường xuyên bị xâm phạm, đòi hỏi sự bảo vệ pháp lý mạnh mẽ Pháp luật đã thiết lập các cơ chế nhằm bảo vệ quyền lợi của tác giả và chủ sở hữu sản phẩm sáng tạo trước các hành vi xâm phạm này.

Trong trường hợp không có bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho tác phẩm do AI tạo ra, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả sẽ không được bảo vệ trước các hành vi xâm phạm quyền tác giả Điều này có nghĩa là tác giả sáng chế và chủ sở hữu sáng chế không thể sử dụng các cơ chế pháp lý để bảo vệ sáng chế của mình khỏi việc sử dụng trái phép hoặc không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời.

Việc tác giả không được công nhận quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm của mình sẽ dẫn đến thiếu cơ chế bảo vệ, gây thiệt hại về thời gian, công sức và tài chính cho họ Hơn nữa, điều này còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và ý chí sáng tạo của tác giả và chủ sở hữu sản phẩm.

Khi sản phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của các sản phẩm khác, vấn đề trách nhiệm pháp lý trở nên phức tạp Chủ thể chịu trách nhiệm có thể là người phát triển hoặc sử dụng trí tuệ nhân tạo, tùy thuộc vào mức độ kiểm soát và sự can thiệp của họ trong quá trình sáng tạo Việc xác định rõ ràng trách nhiệm là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và đảm bảo tính công bằng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

85 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm

2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022

86 Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022

87 Điều 131 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022

Sản phẩm được tạo ra bởi AI có thể xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của các tác phẩm và sáng chế của người khác Việc không xác định rõ chủ thể quyền sở hữu sẽ dẫn đến khó khăn trong việc xác định trách nhiệm cho hành vi xâm phạm, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.

Quy định pháp luật hiện hành và kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo tại Việt Nam

Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa rõ ràng trong việc bảo hộ sản phẩm sáng tạo bởi AI, nhưng các nhà chức trách đã nhận thức được rằng hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ cần linh hoạt để khuyến khích đổi mới công nghệ.

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, sản phẩm sáng tạo bởi AI có thể được bảo hộ qua hai cơ chế: quyền tác giả cho tác phẩm và quyền sở hữu công nghiệp cho sáng chế Tác giả cho rằng việc áp dụng các cơ chế bảo hộ này là hợp lý Cụ thể, tác phẩm do AI tạo ra trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học và âm nhạc sẽ được bảo hộ dưới quyền tác giả, trong khi sáng chế do AI phát minh sẽ được bảo hộ theo quyền sở hữu công nghiệp.

Luật SHTT hiện hành cùng các văn bản sửa đổi đã quy định rõ ràng về bảo hộ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Luận văn này tập trung vào ba vấn đề pháp lý chính: thứ nhất, xác định chủ thể tác giả cho các tác phẩm và quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế do AI tạo ra; thứ hai, các điều kiện mà các tác phẩm hoặc sáng chế do AI sáng tạo cần đáp ứng để được bảo hộ quyền sở hữu.

Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm bảo vệ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với các sáng chế Việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm hay sáng chế do AI tạo ra cần được xem xét kỹ lưỡng Luận văn nghiên cứu và giải quyết các vấn đề pháp lý cụ thể dựa trên quy định hiện hành, từ đó đánh giá tính phù hợp và tương thích của pháp luật trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sáng tạo bởi AI, đồng thời đưa ra các đề xuất điều chỉnh cần thiết.

2.2.1 Tác giả của tác phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể có quyền Một vấn đề quan trọng cần xem xét là xác định ai là tác giả và được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm, cũng như quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế do AI tạo ra Do đó, bài viết sẽ phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về tác giả của tác phẩm và sáng chế, từ đó đánh giá tính phù hợp và đề xuất điều chỉnh để nâng cao khả năng áp dụng trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với sản phẩm sáng tạo từ AI.

2.2.1.1 Tác giả của tác phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Luật SHTT Việt Nam, quyền tác giả được bảo hộ cho tổ chức và cá nhân đối với các tác phẩm do họ sáng tạo hoặc sở hữu Khái niệm về tác giả được làm rõ tại khoản 1 Điều 13 của cùng luật này.

“Điều 13 Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả

1 Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều

37 đến Điều 42 của Luật này.”

Theo quy định tại Nghị định Số 22, tác giả được bảo hộ quyền tác giả chính là “người trực tiếp” sáng tạo ra tác phẩm Điều này được khẳng định rõ ràng tại khoản 1 Điều 6, nhấn mạnh vai trò của tác giả trong việc tạo ra tác phẩm.

Theo tác giả, việc duy trì quy định pháp luật truyền thống sẽ không đủ để bảo vệ quyền tác giả đối với các tác phẩm do AI sáng tạo Thuật ngữ “người trực tiếp” không phù hợp để xác định tác giả, dù là lập trình viên của AI hay chính AI Nếu xác định AI là tác giả, thì AI không thể được coi là một chủ thể có quyền tác giả.

Việc xác định tác giả của tác phẩm do AI tạo ra gặp khó khăn, bởi lập trình viên không thể được coi là tác giả do không trực tiếp sáng tạo nội dung Do đó, việc điều chỉnh quy định về xác định tác giả cho những tác phẩm này là cần thiết để phản ánh đúng thực tế.

Trong quá trình sản xuất nội dung bằng AI, con người cung cấp dữ liệu cho bộ nhớ của hệ thống Sau đó, AI sử dụng các thuật toán và tham số đã được lập trình để tạo ra tác phẩm Vì vậy, người cung cấp dữ liệu có thể được coi là tác giả của tác phẩm và có quyền được bảo hộ quyền tác giả đối với những sáng tạo do AI thực hiện.

Quan điểm này cũng phù hợp với quy định pháp luật của Vương Quốc Anh

Theo quy định tại Phần 9(3) của CDPA, đối với các tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc hoặc nghệ thuật do máy tính tạo ra, tác giả sẽ là người đã tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc hình thành tác phẩm Điều này mở ra khả năng áp dụng trong việc xác định chủ thể bảo hộ quyền tác giả cho các tác phẩm sáng tạo bởi trí tuệ nhân tạo (AI).

Hướng tiếp cận này cũng được thể hiện trong pháp luật New Zealand, theo đó, trong trường hợp các tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc hoặc nghệ thuật được tạo ra bằng máy tính, người thực hiện các sắp xếp cần thiết sẽ được công nhận là tác giả của tác phẩm đó.

Theo tác giả, để xác định ai là tác giả của tác phẩm sáng tạo bởi AI, cần bổ sung quy định rằng trong các tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc, nghệ thuật hay sáng chế được tạo ra từ máy tính, người sắp xếp và thực hiện quá trình tạo ra tác phẩm sẽ được xem là tác giả.

Cách tiếp cận này đặt ra vấn đề xác định ai sẽ được công nhận là tác giả của các tác phẩm và sáng chế do AI tạo ra, liệu là lập trình viên phát triển AI hay người sử dụng AI.

Ngày đăng: 28/12/2024, 08:26

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, ban hành ngày 23 tháng 01 năm 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
Tác giả: Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Năm: 2006
2. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị định Số 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan, ban hành ngày 23 tháng 01 năm 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định Số 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan
Tác giả: Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Năm: 2018
3. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13, ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015, sửa đổi bổ sung ngày 20 tháng 06 năm 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ Luật Hình sự số
Tác giả: Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Năm: 2015
4. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022;I.2. Văn bản pháp luật tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số
Tác giả: Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Năm: 2005
5. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 07 năm 1971 Sửa đổi ngày 28 tháng 09 năm 1979 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
6. Quốc hội Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Bộ luật Hoa Kỳ - Chuẩn luật Số 17, từ &lt; https://www.copyright.gov/title17/title17.pdf&gt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Hoa Kỳ - Chuẩn luật Số 17
7. Quốc hội Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Bộ luật Hoa Kỳ - Chuẩn luật Số 35, từ &lt; https://uscode.house.gov/&gt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Hoa Kỳ - Chuẩn luật Số 35

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN