Quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vân đê về xác địnhtài sản riêng của vợ, chồng, xác định tại sản riêng đối với hôn nhân thực tế, bảo về quyên và lợi ich hop pháp của một bên
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài "Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong chế độ tài sản theo Luật định và những vướng mắc trong thực tế" nhằm làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến việc xác định tài sản riêng của vợ chồng Đề tài sẽ tập trung vào việc xác định tài sản riêng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cũng như việc áp dụng các quy định này trong giải quyết tranh chấp tài sản riêng giữa vợ chồng trong thực tiễn xét xử.
Toa an; Những quy định còn bat cập, chưa phi hợp với thực tế và kiến nghị hoản thiện các chế định về tai san riêng của vơ, chong.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vu cụ thé sau:
Nghiên cứu này làm rõ cơ sở lý luận về các khái niệm tài sản, quyền sở hữu tài sản và tài sản riêng, đồng thời xác định tài sản riêng của vợ chồng trong bối cảnh phát triển của pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới Qua đó, nghiên cứu khẳng định ý nghĩa, tính tất yếu và cần thiết của các quy định liên quan đến việc xác định tài sản riêng của vợ chồng.
Nghiên cứu và làm rõ một cách hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tài sản riêng của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Nghiên cứu và làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng của vợ chồng tại các Tòa án, phân tích một số bản án cụ thể, nhằm đánh giá ưu điểm và kết quả đạt được từ việc áp dụng các quy định pháp luật Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra những điểm bất cập, chưa hợp lý và chưa khoa học trong các quy định này, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định xác định tài sản riêng của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
MỘT SÓ VAN DE LÝ ' LUẬN VE VIỆC X XÁC ĐỊNH TÀI
Khái niệm về tài sản và quyền sở hữu tài sản
Tài sản là khái niệm đa dạng, được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau Theo nghĩa thông thường, tài sản là dạng của cải, vật chất hữu hình, có hình dáng và kích thước cụ thể, được con người sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng Về mặt pháp lý, tài sản liên quan đến quyền sở hữu của chủ thể nhất định, có thể là vật hoặc quyền mà chủ sở hữu nắm giữ Khái niệm tài sản đã được mở rộng, bao gồm cả vật chất và quyền tài sản, có thể hiện hữu dưới dạng hữu hình hoặc vô hình, mang lại lợi ích cho người sở hữu Bộ Luật Dân sự 2015 không đưa ra định nghĩa cụ thể về tài sản, nhưng Điều 105 đã liệt kê tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản Vật được xem là tài sản khi tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình, chiếm hữu một phần không gian và mang lại giá trị cho con người thông qua việc sử dụng trong đời sống, sản xuất hoặc kinh doanh Tiền được coi là dạng tài sản đặc biệt, là thước đo giá trị cho các tài sản khác.
Giấy tờ có giá là tài sản mang tính chất "quyền tài sản", được sử dụng như công cụ thanh toán đa năng và định giá các loại tài sản khác Tuy nhiên, không phải mọi giấy tờ có giá đều được coi là tài sản; chỉ những giấy tờ ghi nhận quyền tài sản của một chủ thể cụ thể, có thể chuyển nhượng quyền sở hữu cho chủ thể khác, mới được công nhận là tài sản Quyền tài sản có tính chất trừu tượng, có thể được thiết lập trên vật hữu hình như giấy chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ hoặc thông qua các chứng cứ hữu hình như văn bản xác nhận giá trị tài sản Quyền tài sản chỉ được coi là tài sản khi ghi nhận chủ thể sở hữu, có giá trị bằng tiền và có khả năng chuyển giao trong giao dịch dân sự.
Quyền sở hữu tài sản được hiểu là khả năng thực hiện mọi hành vi theo ý chí và quy định pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 không định nghĩa trực tiếp quyền sở hữu mà chỉ liệt kê các quyền, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt Quyền chiếm hữu là một phần của quyền sở hữu, theo Điều 170, chủ thể có quyền nắm giữ và chi phối tài sản Cả cá nhân và pháp nhân đều có thể quản lý, nắm giữ tài sản, dù là chủ sở hữu hay không Người không phải là chủ sở hữu có thể thực hiện quyền chiếm hữu tài sản hợp pháp hoặc không hợp pháp Khi quyền chiếm hữu bị xâm phạm, chủ sở hữu có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết hoặc đề nghị cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và hưởng lợi từ tài sản (Điều 189) Chủ sở hữu và các chủ thể khác có thể khai thác tài sản dựa trên nhu cầu sinh hoạt, sản xuất và kinh doanh Quyền định đoạt tài sản cho phép chủ sở hữu quyết định về việc phân phối tài sản, bao gồm chuyển giao quyền sở hữu, tiêu hủy hoặc chuyển nhượng tài sản (Điều 192).
Trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản Những tài sản này gắn liền với quyền sở hữu của vợ chồng, được hình thành qua hôn nhân hợp pháp Vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, dù là tài sản chung hay riêng Quyền sở hữu tài sản là một yếu tố khách quan trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình.
Khái niệm tài sản riêng và xác định tài sản riêng của vợ, ching
Pháp luật Hôn nhân và Gia đình tại Việt Nam quy định rõ về chế độ tài sản của vợ chồng, xác định tài sản chung và tài sản riêng, cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với từng loại tài sản Những quy định này không chỉ định hướng hành vi ứng xử của vợ chồng mà còn tạo cơ sở pháp lý để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ, bảo đảm đời sống chung và sự tham gia vào các quan hệ pháp luật khác Chế độ tài sản của vợ chồng đã trải qua nhiều thay đổi qua các thời kỳ lịch sử Trong trường hợp hôn nhân tồn tại, vợ chồng có quyền thỏa thuận lựa chọn chế độ tài sản; nếu không, chế độ tài sản sẽ được xác định theo luật định, trong đó bao gồm tài sản chung, tài sản riêng và khả năng nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
Trong thời kỳ hôn nhân, tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản được tăng thêm riêng, thừa kế riêng, tài sản chia riêng và các tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ chồng, cũng như các loại tài sản khác theo quy định của pháp luật Việc xác định tài sản riêng phù hợp với quyền sở hữu tư nhân trong Hiến pháp năm 2013 và quyền sở hữu tài sản cá nhân theo luật Dân sự Điều này đảm bảo sự bình đẳng giữa vợ chồng về quyền và nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản trong hôn nhân, đồng thời không xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bên nào, các thành viên trong gia đình hoặc bên thứ ba.
Tài sản riêng của vợ chồng là một chế định pháp lý quan trọng, điều chỉnh các quan hệ tài sản thuộc quyền sở hữu của từng bên trong hôn nhân Tài sản này được tách biệt với tài sản chung và cho phép vợ hoặc chồng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại Chủ thể sở hữu tài sản riêng là một bên trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp Tuy nhiên, tài sản riêng cũng có những giới hạn về căn cứ xác định, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cũng như các thỏa thuận liên quan đến tài sản riêng, mà nếu không tuân thủ có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Xác đính tai sản riêng của vo, chông: Theo cách hiểu thông thường
Xác định tài sản riêng của vợ, chồng là quá trình nghiên cứu và phân tích các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 để đưa ra kết quả rõ ràng và chính xác về tài sản nào thuộc sở hữu riêng của mỗi bên Việc này không chỉ giúp áp dụng pháp luật một cách thống nhất mà còn nâng cao hiệu quả trong việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
1.2 Ý nghĩa cửa việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Việc xác định tài sản riêng của vợ chồng là rất quan trọng trong việc hoàn thiện chế độ tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Điều này không chỉ giúp vợ chồng định hướng hành vi và thực thi các quy định pháp luật mà còn bảo vệ quyền lợi của họ cũng như quyền lợi của bên thứ ba trong các quan hệ tài sản trong thời kỳ hôn nhân Do đó, việc xác định tài sản riêng của vợ chồng là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Bài viết này nhằm mục đích làm rõ và cụ thể hóa các nguyên tắc về quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được quy định trong Hiến pháp Việt Nam, cụ thể là Khoản 2 Điều 32 của Hiến pháp năm 2013, cũng như trong Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều này thể hiện sự bảo đảm của pháp luật đối với quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân, đồng thời phản ánh hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong chế độ tài sản riêng là một quy định quan trọng được ghi nhận từ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 và đã được điều chỉnh qua các phiên bản Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và 2014 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã cụ thể hóa căn cứ và các loại tài sản thuộc tài sản riêng, cũng như quyền và nghĩa vụ riêng của vợ chồng, tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh vấn đề tài sản riêng trong quan hệ hôn nhân Điều này giúp xác định rõ ràng chủ thể của các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản riêng, cho phép vợ chồng chủ động sử dụng tài sản riêng của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại Nhờ vậy, môi trường pháp lý ổn định được tạo ra, giúp vợ chồng tham gia tích cực vào các quan hệ kinh tế và xã hội, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Các quy định pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình xác định và sử dụng tài sản Trong bối cảnh hiện nay, hầu hết các quan hệ pháp luật đều liên quan đến tài sản, và các giao dịch dân sự thường xoay quanh đối tượng này, dẫn đến các tranh chấp liên quan Do đó, việc xác định rõ ràng chủ thể tranh chấp, tài sản tranh chấp, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, bao gồm cả bên thứ ba, là cần thiết để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể giải quyết các tranh chấp một cách hiệu quả.
Trong mối quan hệ hôn nhân, vợ chồng có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt liên quan đến tài sản chung và tài sản riêng Tài sản chung cho phép cả hai thực hiện các giao dịch dân sự nhằm phục vụ lợi ích chung và đáp ứng nhu cầu gia đình, với trách nhiệm liên đới trong các giao dịch này Ngược lại, tài sản riêng cho phép mỗi bên chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý muốn mà không cần sự đồng ý của bên còn lại, đồng thời không phải chịu trách nhiệm liên đới Việc xác định rõ ràng tài sản riêng của vợ chồng là cần thiết để xác lập các quyền và nghĩa vụ, góp phần vào việc duy trì trật tự trong giao dịch dân sự.
Cơ sở pháp lý bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba trong giao dịch dân sự liên quan đến tài sản riêng của vợ chồng được quy định bởi Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và Bộ luật Dân sự 2015 Việc xác định tài sản riêng giúp bên thứ ba nhận diện chủ thể của giao dịch, từ đó phòng ngừa rủi ro Điều này bao gồm việc xem xét các yêu cầu và điều kiện cần thiết, chẳng hạn như thỏa thuận về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung, việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, và chế độ tài sản áp dụng giữa vợ chồng, cũng như việc thông báo cho bên thứ ba và các bên liên quan về lựa chọn chế độ tài sản.
Việc quy định pháp luật về các loại tài sản riêng góp phần hạn chế các quan hệ hôn nhân gia đình không được thiết lập dựa trên các yếu tố tư nguyện, tinh cảm, và tiến bộ Điều này giúp đảm bảo mục đích tốt đẹp của việc xác lập quan hệ hôn nhân, bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình của nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
1.3 Xác định tài sản riêng của vợ, chông trong pháp luật Việt Nam
Chế định hôn nhân và gia đình chịu ảnh hưởng sâu sắc từ đời sống kinh tế xã hội, và các quy định về tài sản của vợ chồng đã thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử Đặc biệt, các quy định liên quan đến việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng đã được điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển của xã hội.
1.3.1 Xác định tài sản riêng trong cô luật Việt Nam
Xã hội phong kiến chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tư tưởng Nho giáo, thể hiện qua các giá trị văn hóa như lễ nghi, trọng nam khinh nữ, và các nguyên tắc tam tòng tứ đức Những tư tưởng này đã định hình cách ứng xử và vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội, dẫn đến sự phân chia rõ rệt về quyền lực và trách nhiệm giữa nam và nữ.
Trong gia đình, người chồng được xem là trụ cột, là "cái nóc của ngôi nhà", trong khi người vợ phải theo sát chồng, phục vụ và đáp ứng mọi nhu cầu của gia đình Mọi quyết định liên quan đến tài sản và sinh hoạt đều do người chồng quyết định, và pháp luật không quy định rõ ràng về tài sản chung hay riêng của vợ chồng Điều này thể hiện rõ vai trò và vị trí của người chồng trong gia đình.
Trong giai đoạn có Quốc Triều hình luật (1470-1497) và Hoàng Việt luật lệ (1985), pháp luật đã đề cập đến vấn đề tài sản trong các quy định về hôn nhân và gia đình, như phù vật, phu tông điển sản, thê diên sản và tân tảo điển san Các quy định này liên quan đến việc chia tài sản của vợ chồng khi một bên qua đời Tuy nhiên, các quy định về tài sản không phải là chế định pháp lý riêng biệt mà đóng vai trò quan trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình Mọi tài sản hình thành trước và trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, không phân biệt bản chất và nguồn gốc, và được dành cho con cái, trong khi người vợ không có "thực quyền".
1.3.2 Xác định tài sản riêng của vợ, chong trong thời kỳ Pháp thuộc
Xác định tài sản riêng của vợ, chong trong pháp luật Việt Nam
Khi xác lập giao dịch dân sự liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng, các giao dịch này cần tuân thủ quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cùng Bộ luật Dân sự 2015 Việc xác định tài sản riêng giúp bên thứ ba nhận diện chủ thể giao dịch, từ đó giảm thiểu rủi ro Cần xem xét các yêu cầu và điều kiện liên quan đến tài sản, bao gồm việc có thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung hay không, có chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, và chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn áp dụng có được thông báo cho bên thứ ba hay các bên liên quan hay không.
Việc quy định pháp luật về các loại tải sản riêng không chỉ hạn chế các quan hệ hôn nhân gia đình dựa trên yếu tố tư nguyện mà còn đảm bảo mục đích tốt đẹp của việc xác lập quan hệ hôn nhân Điều này góp phần bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình của nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
1.3 Xác định tài sản riêng của vợ, chông trong pháp luật Việt Nam
Chế định hôn nhân và gia đình chịu ảnh hưởng lớn từ đời sống kinh tế xã hội, và các quy định về tài sản của vợ chồng đã thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử Đặc biệt, các quy định liên quan đến việc xác định tài sản riêng của vợ chồng đã được điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển của xã hội.
1.3.1 Xác định tài sản riêng trong cô luật Việt Nam
Xã hội phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, thể hiện qua các giá trị lễ nghi và quan niệm trọng nam khinh nữ Những nguyên tắc như tam tòng tứ đức đã định hình vị trí và vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội, dẫn đến sự phân biệt giới tính và các chuẩn mực xã hội khắt khe.
Trong gia đình, người chồng được xem như "cái nóc của ngôi nhà", với vai trò chủ đạo trong việc quyết định mọi vấn đề liên quan đến tài sản và quản lý gia đình Người vợ, khi kết hôn, phải tuân theo chồng, thể hiện sự phục tùng và gắn bó với nhu cầu của gia đình Mọi mong muốn của người vợ đều phụ thuộc vào ý chí của chồng và con cái Pháp luật không quy định rõ ràng về tài sản chung hay riêng của vợ chồng, khiến người chồng trở thành người nắm quyền quyết định trong các vấn đề tài chính của gia đình.
Trong giai đoạn Quốc Triều hình luật (1470-1497) và Hoàng Việt luật lệ (1985), pháp luật đã đề cập đến vấn đề tài sản trong các quy định về hôn nhân và gia đình Các khái niệm như phù vật (động sản), phu tông điển sản, thê diên sản, và tân tảo điển san (bất động sản) được nêu rõ, cùng với những trường hợp chia tài sản khi một trong hai vợ chồng qua đời Tuy nhiên, các quy định về tài sản không được coi là chế định pháp lý riêng biệt, mà đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình Tất cả tài sản hình thành trước và trong thời kỳ hôn nhân đều được xem là tài sản chung của vợ chồng, không phân biệt bản chất hay nguồn gốc, và được dành cho con cái, trong khi người vợ không có “thực quyền” đối với tài sản này.
Xác định tài sản riêng của vợ, chong trong thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc chứng kiến đất nước Việt Nam bị chia thành ba miền, mỗi miền áp dụng một bộ luật riêng để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân, gia đình và tài sản của vợ chồng Miền Bắc áp dụng Bộ luật Dân sự 1931, miền Trung theo Bộ luật Dân sự 1936, và miền Nam sử dụng tập Dân luật gian yêu năm 1883.
Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ quy định về chế độ tài sản ước định, cho phép vợ chồng tự do lập ước riêng, nhưng không được trái với phong tục, quyền và lợi ích của người chồng Nếu không có ước riêng, pháp luật sẽ điều chỉnh tài sản theo chế độ công đồng toàn sản Khi kết hôn, tài sản riêng của vợ chồng sẽ tự động trở thành tài sản chung nếu không có thỏa thuận Khi hôn nhân chấm dứt, tài sản sẽ được chia theo thỏa thuận nếu có, hoặc theo tình trạng có con chung hay không Dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ bảo đảm quyền sở hữu tài sản riêng của vợ sau khi hôn nhân chấm dứt, trong khi Dân luật giản yếu Nam kỳ không quy định về chế độ tài sản của vợ chồng mà giải quyết qua án lệ.
1.3.3 Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong giai đoạn 1954-1975
Trong giai đoạn này, miền Nam Việt Nam dưới chế độ chính trị nguy quyền đã điều chỉnh các vấn đề về hôn nhân và gia đình thông qua Luật Gia đình năm 1959, Sắc luật số 15/64 và Bộ dân luật năm 1972 Các văn bản này quy định chế độ tài sản ước định, cho phép vợ chồng ký kết hôn ước thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn Nếu không có hôn ước, chế độ tài sản sẽ được xác định theo quy định của pháp luật, trong đó vợ chồng có tài sản chung và tài sản riêng Tài sản chung bao gồm các động sản có trước và trong thời kỳ hôn nhân, cùng hoa lợi từ tài sản chung, trong khi tài sản riêng là những tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên khi kết hôn hoặc tài sản nhận được trong thời kỳ hôn nhân So với pháp luật giai đoạn trước, giai đoạn này đã ghi nhận chế độ cộng đồng tài sản, thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lập pháp.
1.3.4 Xác định tài sản riêng của vợ, chông theo hệ thống pháp luật HN&GD ở nước ta tir Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay
Sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, yêu cầu thiết lập một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả các quan hệ về văn hóa.
Giai đoạn từ 1945-1950, theo sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam vẫn áp dụng Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và Dân luật Giản yếu Nam kỳ để điều chỉnh các quan hệ về hôn nhân và gia đình.
Năm 1950, chính phủ ban hành Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5 và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11 nhằm điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình Các sắc lệnh này ghi nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đồng thời quy định về tài sản chung.
Vào ngày 29/12/1959, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình Luật này không công nhận chế độ tài sản ước định hoặc theo thỏa thuận, do đó, vợ chồng chỉ có tài sản chung và có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước khi kết hôn Cụ thể, Điều 15 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 quy định rằng "Vợ chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và trong thời gian hôn nhân" Pháp luật không thừa nhận vợ, chồng có tài sản riêng.
Vào ngày 29/12/1986, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 12 đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ về hôn nhân và gia đình Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 đã đưa ra nhiều điểm mới, trong đó lần đầu tiên thừa nhận quyền sở hữu tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng.
Phạm vi tài sản chung và tài sản riêng trong hôn nhân được quy định rõ ràng Tài sản chung bao gồm các tài sản được tạo ra và thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân, cũng như tài sản thừa kế hoặc được tặng cho chung (Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 1986) Ngược lại, tài sản riêng của vợ hoặc chồng là những tài sản có trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân Người sở hữu tài sản riêng có quyền quyết định về việc nhập hay không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng.
Theo Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, tài sản riêng của vợ và chồng được tách biệt và độc lập so với tài sản chung, không bị giới hạn bởi động sản hay bất động sản, bao gồm toàn bộ tài sản theo quy định của pháp luật Quy định này phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 1980 về quyền sở hữu tài sản riêng của công dân, thể hiện sự bình đẳng, linh hoạt và chủ động của vợ chồng trong việc sử dụng tài sản.
Ngày 09/6/2000, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, quy định các quan hệ hôn nhân và gia đình Luật này ghi nhận quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng, bao gồm tài sản có trước khi kết hôn, tài sản thừa kế, tài sản được tặng cho riêng, và tài sản được chia riêng trong thời kỳ hôn nhân cùng với đồ dùng tư trang cá nhân (Khoản 1 Điều 32) Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng, cho phép họ chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng, đồng thời yêu cầu sử dụng tài sản riêng để thanh toán các nghĩa vụ tài chính của bản thân.
Ngày 09/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, ghi nhận chế độ tài sản chung với nhiều quy định cụ thể, phù hợp với thực tiễn Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định hai loại chế độ tài sản của vợ chồng: chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo luật định, đánh dấu lần đầu tiên hệ thống pháp luật ghi nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận (từ Điều 47 đến Điều 50) Vợ chồng có quyền thỏa thuận về tài sản riêng, điều này cho phép xác định tài sản riêng không chỉ dựa vào quy định của pháp luật mà còn dựa vào sự thỏa thuận giữa các bên Các thỏa thuận này phải tuân thủ các quy định về điều kiện có hiệu lực và nội dung văn bản thỏa thuận để đảm bảo tính hợp pháp.
1.15 Xác định tài sản riêng của vợ, chông theo pháp luật một số
Các quốc gia trên thế giới luôn nỗ lực duy trì quan hệ hôn nhân thông qua các quy định pháp lý chặt chẽ, đặc biệt là liên quan đến tài sản của vợ chồng Những quy định về hôn nhân và gia đình được xây dựng dựa trên các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, và tâm lý của người dân Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng phụ thuộc vào lợi ích gia đình và cộng đồng xã hội Mỗi quốc gia có chế độ chính trị và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong quy định về hôn nhân và gia đình cũng như việc xác định tài sản riêng của vợ chồng Tại các nước phương Tây, pháp luật tôn trọng quyền tự do cá nhân, cho phép vợ chồng tự do thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân Hôn nhân được coi là một "hợp đồng dân sự" đặc biệt, cho phép vợ chồng lập hôn ước để xác định quyền và nghĩa vụ đối với tài sản trước khi kết hôn Hôn ước có hiệu lực từ ngày thiết lập quan hệ hôn nhân và không thể thay đổi sau khi kết hôn, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 1804.
Trong trường hợp không có hôn ước hoặc hôn ước không thuận, áp dụng chế độ tài sản theo quy định pháp luật là cần thiết Chế độ tài sản pháp định, cụ thể là chế độ công đồng tài sản, được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng kết hôn theo chế độ này (Điều 1400 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp) Theo đó, chế độ công đồng tài sản duy trì tài sản chung và các nghĩa vụ tài sản liên quan, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với tài sản chung của vợ chồng.
Pháp luật các nước Phương Tây quy định nhiều chế độ tài sản khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố khách quan của điều kiện kinh tế xã hội Chế độ tài sản chung xác định tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân, trong khi tài sản riêng bao gồm tài sản mà mỗi bên sở hữu trước hôn nhân hoặc được thừa kế, tặng cho riêng Chế độ phân sản cho phép mỗi bên giữ quyền sở hữu riêng đối với tài sản do mình tạo ra, và pháp luật quy định nghĩa vụ đóng góp vào chi tiêu chung của gia đình Chế độ tài sản hồi môn quy định tài sản hồi môn của vợ sẽ do chồng quản lý và sử dụng, trong khi hoa lợi từ tài sản riêng của chồng và hồi môn của vợ thuộc về chồng Những chế độ tài sản này luôn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội.
Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chẳng
Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ chồng, mà chỉ liệt kê các loại tài sản được coi là tài sản riêng theo Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Tuy nhiên, việc xác định tài sản riêng của vợ chồng có thể dựa vào các yếu tố như sự kiện kết hôn, nguồn gốc tài sản, thỏa thuận giữa hai bên, hoặc nguyên tắc suy đoán Nếu không có chứng minh rõ ràng về nguồn gốc tài sản, tài sản đó sẽ mặc nhiên được coi là tài sản chung.
Căn cứ vào sự kiện kết hôn s2 36 2.1.2 Căn cứ vào nguôn gốc của tài sản
Sự kiện kết hôn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tài sản riêng của vợ chồng Đây được xem là một sự kiện pháp lý đánh dấu thời điểm quan trọng để xác định quyền sở hữu tài sản.
Trước và trong thời kỳ kết hôn, việc xác định tài sản chung và tài sản riêng rất quan trọng Pháp luật hiện hành quy định rằng hôn nhân chỉ được coi là hợp pháp khi cả nam và nữ đáp ứng đủ điều kiện kết hôn và thực hiện đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo Khoản 5 Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được xác định là ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn Trước ngày này, các tài sản của vợ hoặc chồng được coi là tài sản riêng Trong thời kỳ hôn nhân, tài sản thừa kế, tặng cho riêng và các tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ chồng được xác định là tài sản riêng Luật cũng quy định về việc xác định tài sản riêng đối với các cặp đôi sống chung mà không đăng ký kết hôn, dựa trên thỏa thuận hoặc quy định của Bộ luật dân sự Việc giải quyết các quan hệ về tài sản phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và con cái, đồng thời xem xét công việc nội trợ như một dạng lao động có thu nhập.
2.1.2 Căn cứ vào nguén gốc của tài sản
Trong thời kỳ hôn nhân, việc xác định tài sản nào là tài sản riêng cần dựa vào nguồn gốc của tài sản đó Theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình, các yếu tố liên quan đến nguồn gốc tài sản sẽ quyết định tính chất riêng biệt của tài sản trong hôn nhân.
Theo Điều 11 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2024, không phải tất cả tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung Các tài sản có nguồn gốc từ thừa kế, tặng cho riêng, cũng như tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh của vợ chồng, hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng, đều được coi là tài sản riêng Ngoài ra, quyền tài sản đối với sở hữu trí tuệ theo quy định pháp luật, tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án hoặc quyết định của Tòa án, và các khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng nhận được theo quy định pháp luật về ưu đãi người có công cũng được xem là tài sản riêng.
Vợ chồng có quyền sở hữu, sử dụng và định đoạt tài sản mà không bị ràng buộc bởi ý chí hay nguyện vọng của bên còn lại Quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với tài sản này được thực hiện một cách độc lập.
2.1.3 Căn cứ vào “nguyên tắc suy đoán”
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã quy định rõ về chế độ tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, nhưng trong thực tế, việc xác định tài sản nào là chung, tài sản nào là riêng gặp nhiều khó khăn và có nhiều trường hợp "mập mờ" Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, cũng như xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ và hạnh phúc, Điều 33 Khoản 3 của Luật quy định một cơ chế "an định" khi xác định tài sản của vợ chồng Cụ thể, nếu các bên không có chứng cứ rõ ràng để chứng minh tài sản là riêng của mỗi bên, tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung của vợ chồng.
2.2 Nguén gốc và các trường hợp xác định là tài sản riêng của vợ, chẳng Điều 43 Luật HN&GĐ 2014 quy định, tai sản riêng của vo, chong bao gom: Tài sản ma vợ, chông có trước khi kết hôn, tai sản được thừa kế riêng, được tặng cho, được chia riêng trong thời ky hôn nhân, tai sản phục vu nhu. cầu thiết yếu của vợ, chông và tai sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vơ, chông, Các tai sản, hoa lợi, lợi tức phat sinh từ tai sản riêng cũng được coi là tài sản riêng.
2.2.1 Tài sản của mỗi bên vợ hoặc chong có trước khi kết hôn
Mỗi cá nhân trong xã hội đều có nhu cầu tham gia lao động, sản xuất và kinh doanh để tạo ra tài sản phục vụ lợi ích cá nhân Quan hệ hôn nhân và gia đình chỉ hình thành khi đủ tuổi, đủ điều kiện và có sự kiện pháp lý kết hôn Từ thời điểm đăng ký kết hôn được cơ quan nhà nước công nhận, họ trở thành vợ chồng và bắt đầu thiết lập các mối quan hệ về hôn nhân gia đình cũng như tài sản chung Trước khi kết hôn, các cá nhân không phải là vợ chồng, và mọi hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh đều nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích cá nhân, không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Toàn bộ tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn sẽ được pháp luật công nhận và bảo hộ như tài sản sở hữu riêng Việc thiết lập quan hệ hôn nhân không làm thay đổi hay mất đi quyền sở hữu cá nhân đối với tài sản mà họ đã có trước hôn nhân.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 xác định tài sản mà nam, nữ có được trước khi kết hôn là tài sản riêng của mỗi bên, phù hợp với chế độ cộng đồng tài sản của luật pháp quốc tế Các quy định bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và tài sản cá nhân được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2015 Điều này tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền và nghĩa vụ độc lập đối với tài sản riêng mà không phụ thuộc vào hành vi của bên kia Luật cũng ngăn chặn việc kết hôn giả mạo hoặc vì lợi ích kinh tế mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, đồng thời nhấn mạnh nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và hỗ trợ lẫn nhau theo phong tục tập quán tốt đẹp của Việt Nam.
2.2.2 Tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
Trong thời kỳ hôn nhân, ngoài tài sản riêng do vợ hoặc chồng tạo ra từ lao động, sản xuất và kinh doanh, họ còn có thể nhận tài sản từ cha mẹ, người thân qua hình thức tặng cho hoặc thừa kế Sau khi nhận tài sản tặng cho hoặc thừa kế, vợ hoặc chồng sẽ trở thành chủ sở hữu riêng của những tài sản này và có quyền chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt theo ý chí của mình.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định tài sản được tăng, thừa kế riêng là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt tài sản của chủ sở hữu Quy định này phản ánh nhu cầu chính đáng của công dân, khi nhiều người mong muốn để lại tài sản cho con cái Tuy nhiên, việc xác định tài sản riêng thường dẫn đến tranh chấp, đặc biệt khi tài sản được tặng cho bằng miệng, gây khó khăn trong việc chứng minh quyền sở hữu Trong trường hợp này, cần xác định rõ bản chất của việc tặng cho và thừa kế để xác lập quyền sở hữu riêng cho vợ hoặc chồng Luật cũng cho phép vợ chồng có thể nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung theo quy định tại Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
2.2.3 Tài sản đáp ứng nhu cầu riêng của vợ, chong
Tài sản cá nhân của vợ chồng bao gồm những tài sản có được trước khi kết hôn, tài sản được tặng cho riêng, và các tài sản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu như ăn mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh cũng được coi là tài sản riêng.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã có những thay đổi đáng kể so với Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, đặc biệt trong việc xác định các loại tài sản riêng của vợ, chồng Trước đây, tài sản này chỉ được giới hạn trong “đồ dùng, tư trang cá nhân”, nhưng hiện nay đã được mở rộng để bao gồm toàn bộ tài sản phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu như ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh và các nhu cầu khác trong cuộc sống Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 không quy định rõ về tính chất và giá trị của tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu, dẫn đến những bất hợp lý khi vợ hoặc chồng sở hữu các tài sản có giá trị lớn như túi xách, quần áo hay trang sức hàng hiệu Để khắc phục điều này, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã quy định rõ giá trị của các loại tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu.
THỰC TIẾN ÁP DỤNG PHÁP PLUẬT \ VÀ À MỘT số GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHAP LUAT VE XÁC ĐỊNH TAI SAN RIENG
THỰC TIỀN ÁP DỤNG PHAPLUAT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VE XÁC ĐỊNH TÀI SÀN RIÊNG CUA VO, CHONG
3.1 Thực tiễn áp dựng pháp luật về xác định tài sản riêng của vợ, chong
Trong những năm qua, công tác tổ chức triển khai thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã được thực hiện nghiêm túc và đồng bộ trên toàn quốc Tính đến ngày 04/9/2023, theo thông tin từ trang congbobanan.toaan.gov.vn, tòa án đã tiếp nhận và giải quyết 1.219.348 vụ án dân sự, trong đó số vụ án liên quan đến hôn nhân và gia đình là 621.996, chiếm 51%, là tỷ lệ cao nhất trong tổng số các vụ án dân sự.
(Nguồn https.//congbobanan toaan gov.vn/6tatcvn/ Thong-ke)
Tỷ lệ giải quyết các vụ án tại ba cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm đã được nâng cao, với tỷ lệ án kháng cáo và kháng nghị ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm giảm đáng kể Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy là 0,61% (trong đó nguyên nhân chủ quan chiếm 0,4%), và tỷ lệ bị sửa là 1,2% (với nguyên nhân chủ quan là 0,5%) Trình tự, thủ tục tố tụng được thực hiện đúng quy định pháp luật, giúp chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật và thủ tục xét xử Điều này đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết Quốc hội và Tòa án, đồng thời hướng dẫn các quy định pháp luật còn vướng mắc, đảm bảo việc xét xử diễn ra theo đúng quy định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Tinh hình thụ lý, giải quyết theo thủ tục Sơ thâm:
Tông sô vụ việc đã thụ lý 422358 415.763 448.025 426.279 vu vu vu vụ
Tông sô vụ việc đã giải| 372.154 364.546 400.651 370.676 quyét vu vụ vụ vụ
Tỷ le gãi quyéuty le thụ ly 86%
| Tông nỗ v0 việc dati lý 16.234 vụ | 16.089 vu | 17.473 vu | 17.165 vụ
Tông sô vụ việc đã giải | 14.049 vụ | 14.182 vw | 15726 vụ | 15430 vụ quyết
| Ty lệ giải quyét/ty lê thụ ly 86% 88% 90% 89%
Tinh hình thu ly, giai quyét theo thu tục Giảm doc thâm, tai thâm:
Nam 2018 | Nam 2019 | Nam 2020 Tông sô vụ việc đã thụ ly 954 vụ 814 vụ 873 vu
Tông sô vu việc đã giải| 720vu 713vụ 769 vụ 838 vụ quyết
(Nguụn: Bỏo cỏo tong kết cong tac Toa an nhõn dan ỉi cao cỏc năm 2018,2019,2020,2021)
Quá trình thi hành các quy định pháp luật về hôn nhân gia đình, đặc biệt là chế độ tài sản và việc xác định tài sản riêng của vợ chồng, đã có nhiều thuận lợi Các quy định về chế độ tài sản và quyền, nghĩa vụ riêng của vợ chồng đã được sửa đổi, bổ sung và hệ thống hóa, phù hợp với điều kiện thực tiễn và thống nhất với các văn bản pháp luật liên quan như Hiến pháp, Luật dân sự, và Luật đất đai Công tác tuyên truyền về Luật HN&GĐ 2014, đặc biệt là các chế độ tài sản, được thực hiện đa dạng và phong phú Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thi hành Luật HN&GĐ 2014 đã nâng cao nhận thức của nhân dân về việc xây dựng và thực thi pháp luật Điều này tạo điều kiện cho vợ chồng thực thi quyền lựa chọn chế độ tài sản phù hợp, bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên và các thành viên trong gia đình, từ đó phát huy các giá trị truyền thống, tiến bộ và văn minh của gia đình Việt Nam.
Việc thực thi các chế định về tài sản trong hôn nhân gặp nhiều khó khăn, bao gồm việc chứng minh tài sản chung và riêng còn nhiều "mập mờ", dẫn đến việc vợ chồng không thể chủ động lựa chọn chế độ tài sản Một số quy định pháp luật dù đã được đưa ra nhưng khi áp dụng lại phát sinh mâu thuẫn, như việc xác định quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân Việc vay vốn tại các tổ chức tín dụng cũng gặp khó khăn do không phân định rõ tài sản chung hay riêng, ảnh hưởng đến nghĩa vụ trả nợ Ngoài ra, quy định về khoản tiền bồi thường thiệt hại khi một bên vợ hoặc chồng bị tổn thất về sức khỏe, tinh thần không rõ ràng, gây khó khăn trong việc xác định tài sản Sự hạn chế trong hiểu biết pháp luật và tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng làm cho vợ chồng không chủ động thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc xác định tài sản riêng khi phát sinh mâu thuẫn.
3.12 Một số vụ việc về xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong hoạt động xét xử tại Tòa án.
Vụ án thứ nhất nêu bật những khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của người vợ khi giải quyết tranh chấp về tài sản được tặng cho riêng và thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Nguyên đơn, ông Mai Tân L, đã yêu cầu ly hôn với bị đơn, bà Nguyễn Thị T, với hai con chung đã trưởng thành và không có yêu cầu gì về nuôi dưỡng Về tài sản, ông L đề nghị Tòa án công nhận các thửa đất 51, 55 và 52 (nay là 34, 49 và 33) tại ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An là tài sản riêng của ông, vì cho rằng đây là tài sản được cha mẹ ông tặng riêng Ngược lại, bà T không đồng ý và yêu cầu chia tài sản, trong đó yêu cầu được hưởng phần đất thuộc khu E và khu C, cùng với số tiền 4.454.436.000 đồng, tương ứng với 30% giá trị tài sản, vì cho rằng nguồn gốc tài sản này là do cha mẹ ông L tặng cho vợ chồng bà trong thời kỳ hôn nhân.
Ban an cấp sơ thâm: Xác định khôi tai sản trên là tai sản riêng của Ông
Bà T được phân công sử dụng 3,3m2 tại khu E và 95,7m2 tại khu C, thuộc các thửa 34 và 49 theo tờ bản đồ số 19 Tài sản bao gồm các thửa đất 51, 52, 55 theo tờ bản đồ số 7-2-4, với số thửa mới là 1a, 34, 49, 33 từ tờ bản đồ số 19, là tài sản riêng của ông Mai Tân L Ông Mai Tân L có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị T số tiền 4.454.436.000 đồng, tương ứng với 30% giá trị khối tài sản nêu trên.
Ban án phúc thẩm theo kháng cáo của nguyên đơn xác định khối tài sản gồm các thửa đất 51, 52, 55, tờ bản đồ số 7-2-4, với số thửa mới là 34, 49, 33, tờ bản đồ số 19, tọa lạc tại phường S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An là tài sản riêng của ông L Giá trị khối tài sản được xác định là 21.680.411.000 đồng theo chứng thư thẩm định Bà Nguyễn Thị T được phân công đóng góp tương ứng 30% giá trị tài sản, tương ứng với số tiền là
6.506.823.300 đông (Sau tỷ năm trăm lẻ sáu nghìn tam tram hai mươi ba nghin ba trăm đông).
Trong các vụ án ly hôn, việc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thường là một trong những tranh chấp điển hình Theo Khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, tài sản được tặng cho riêng và thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân có thể phát sinh tranh chấp Trong trường hợp này, tòa án đã căn cứ vào Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân thị trấn H chứng thực ngày 25/7/2009, giữa cụ Mai Văn M, bà Nguyễn Thi C (bố mẹ ông L) và ông Mai Tân L, thể hiện rõ ràng rằng “cha mẹ cho con ruột” Ngoài ra, Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản ngày 07/4/2015 của những người thừa kế của bà C cũng là một tài liệu quan trọng trong việc giải quyết vụ án.
Trong vụ án ly hôn này, Tòa án xác nhận các thửa đất là tài sản riêng của ông L, chia cho bà T 30% giá trị tài sản do công sức đóng góp Tuy nhiên, bà T cho rằng mặc dù tài sản thuộc về bố mẹ ông L, nhưng trong quá trình sống chung, bà và ông L đã chăm sóc bố mẹ ông L, và ông L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có văn bản thỏa thuận nào Điều này dẫn đến việc xác định tài sản chung và riêng giữa hai vợ chồng kéo dài tới hai cấp xét xử Mặc dù quyết định của Tòa án có căn cứ pháp lý, nhưng cần xem xét lại từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, khi họ thường phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc gia đình và cha mẹ chồng, nhưng khi chia tài sản, tài sản lại được coi là riêng của chồng, gây thiệt thòi cho người vợ.
Trong trường hợp vợ chồng sống cùng bố mẹ chồng và có công chăm sóc, việc phân chia tài sản nên được xem xét để trở thành tài sản chung của vợ chồng Pháp luật cần quy định rõ ràng khi bố mẹ chồng tặng, cho hoặc thừa kế riêng cho chồng, phải thông báo và giải thích quyền lợi của người vợ đối với tài sản đó Đồng thời, cần có văn bản xác nhận tài sản đó là tài sản riêng của người vợ.
Vu án thứ hai: Xác định tài sản riêng của vợ, chong khi hôn nhân kết thúc
Vụ án liên quan đến ông Lai Văn N và bà Nguyễn Thị T, diễn ra vào ngày 31/8/2017 Ông N khẳng định rằng ông và bà T đã kết hôn hợp pháp và ly hôn vào năm 2017 theo phán quyết của tòa án Sau khi ly hôn, ông N yêu cầu tòa án công nhận hai thửa đất tại số 1583 đường 10, phường A, quận B và số 13 đường V, phường A, quận B, TP Hồ Chí Minh là tài sản riêng của mình, vì ông đã nhận chuyển nhượng hai thửa đất này trước khi kết hôn Sau khi kết hôn, cả hai vẫn tiếp tục sử dụng tài sản này.
Vào năm 2005, ông N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai thửa đất Đến năm 2016, ông đã đăng ký biến động cho hai thửa đất này nhưng chưa nộp thuế và chưa nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền Ông N tự nguyện hỗ trợ bà T số tiền 1.000.000.000 đồng Bà T đã yêu cầu chia tài sản chung, đề nghị nhận thửa đất tại địa chỉ 13 đường V, phường A, quận B, TP Hồ Chí Minh và giá trị thửa đất tại địa chỉ 1583 đường 10, phường A, quận B, TP Hồ Chí Minh cho bà Nguyễn Thị T.
Bản án sơ thẩm đã giao hai căn nhà tại Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Lại Văn N, bao gồm căn nhà số 1583 đường 10, phường A, quận B với diện tích đất 791,2 m2 và diện tích xây dựng 1.099,8 m2, cùng căn nhà số 13 đường V, phường A, quận B có diện tích đất 834,7 m2 và diện tích xây dựng 556 m2 Ông N có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt hai căn nhà này, đồng thời phải trả cho bà T số tiền tổng cộng là 2.006.087.355 đồng.
Ban án phúc thẩm xác định quyền sử dụng đất của hai thửa đất là tài sản riêng của ông Lại Văn N, trong khi quyền sở hữu nhà trên hai thửa đất được coi là tài sản chung của ông N và bà T Việc phân chia tài sản chung sau ly hôn không dựa trên hiện vật mà theo giá trị Giá trị của hai thửa đất được xác định là 3.092.174.711 đồng, do đó mỗi người sẽ nhận được 1.096.087.355 đồng Ông N có trách nhiệm thanh toán cho bà T số tiền 1.096.087.355 đồng và tự nguyện hỗ trợ bà T thêm 1.000.000.000 đồng Tổng số tiền ông Lại Văn N sẽ thanh toán cho bà Nguyễn Thi T là 2.006.087.355 đồng.
Tại Quyết định giám độc thấm, Hội đông giám đôc thấm nhận định quyển sử dung đất tại 02 địa chỉ số 1583 đường 10 và số 13 đường V, phường