Từ khi hai nước bình thường hóa đến nay, kim ngạch thương mại hai nước không ngừng phát triển trong 20 năm qua, đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm việc trao đổi hàng hóa tăn
Nguyễn Ngọc Phương Linh 22136022
Lê Gia Bảo Ngân 22136035
5 Hồ Bảo Ngọc 22136037 Chương III-5,
6 Nguyễn Thu Ngọc 22136039 Phần mở đầu
Nhận xét của giảng viên:
1 Lý do chọn đề tài
Trên thế giới phát triển như ngày này, quá trình hội nhập và tăng cường hợp tác quốc tế là xu thế chung và tất yếu của mọi quốc gia đất nước Cùng với đó quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc luôn là đối tượng được mọi người đặc biệt quan tâm Vì Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”, còn có chung đường biên giới trên bộ và trên biển Nên quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ rất lâu và là một tất yếu khách quan Đối với nhân dân hai nước, quan hệ ngoại giao và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền thống bền vững Và việc có quan hệ tốt với một quốc gia có vị thế đáng kể trên trường quốc tế như Trung Quốc chắc hẳn là điều cần thiết đối với nhiều nước Đối với Việt Nam, trong suốt quá trình lịch sử của mình, việc nghiên cứu và thiết lập quan hệ với Trung Quốc đã chiếm không ít sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và nhà nước Chính vì lẽ đó nên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Trung Quốc dù có những thăng trầm biến động chính trị xã hội trong lịch sử nhưng chưa bao giờ làm triệt tiêu được mối quan hệ giữa nhân dân hai nước Chính vì vậy quan hệ giữa hai nước đã trở lại bình thường hóa vào cuối năm 1991 Có thể nói năm 1991 là năm của sự khởi đầu cho quan hệ hai nước phát triển trên mọi lĩnh vực kinh tế thương mại được phát triển ngày càng mạnh và trở thành một trong những bộ phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam Bước vào thế kỉ XXI, công cuộc đổi mới và cải cách ở cả hai nước Việt Nam - Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới Vì vậy, việc củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng - hai nước theo phương châm 16 chữ vàng: “ Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai” Chính vì thế bài tiểu luận này sẽ tập trung tìm hiểu những chính sách của Việt Nam trong quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc để góp phần nâng cao mối quan hệ hợp tác thương mại giữa hai nước Nên chúng em chọn đề tài “ Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc” để tìm hiểu rõ hơn các vấn đề
Một là, làm rõ và tìm hiểu, khái quát cơ bản về quan hệ kinh tế thương mại giữa hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc trước khi giành được độc lập và sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ để hiểu rõ hơn về thương mại giữa hai nước Hai là, nêu ra vài nét về tình hình quốc tế và khu vực để phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung Ba là, tìm hiểu những chính sách phát triển kinh tế thương mại giữa trung quốc và các nước trong khu vực ASEAN là cơ sở tiền đề cho sự phát triển Bốn là, đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc về xuất khẩu nhập khẩu và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại giữa hai nước Đồng thời đưa ra vấn đề nhận xét đánh giá chung về sự khó khăn và thuận lợi về quan hệ Việt - Trung Bốn là, đưa ra những tác động tích cực về thúc đẩy phát triển nông nghiệp, mở rộng du lịch, tương hỗ nhằm thúc đẩy các hoạt động kinh tế thương mại của hai nước Năm là, đưa ra các phương hướng, triển vọng về phát triển quan hệ của hai nước trong tương lai nhằm nâng cao đời sống vật chất của nhân dân
Phương pháp nghiên cứu mà nhóm sử dụng trong quá trình viết tiểu luận là sự kết hợp những kiến thức đã tích lũy trong quá trình học tập và kết hợp với những kiến thức đã thu thập từ thực tế, kết hợp từ các trang web trên mạng, tổng hợp các số liệu thống kê, tìm kiếm các nguồn uy tín nhằm đưa ra những thông tin chính xác, để đi sâu vào phân tích tìm hiểu kĩ càng nhằm tạo ra một hướng đi hợp lý để giải quyết vấn đề đặt ra trong bài tiểu luận Và đứng từ góc độ Việt Nam đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc qua từng giai đoạn lịch sử chịu ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội… trên quốc tế và các nước trong khu vực Đồng thời kết hợp nghiên cứu lý thuyết, kết hợp mô hình phân tích , so sánh, thống kê về thực tiễn ở Trung Quốc
Hình 1.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc 7 giai đoạn 1991 - 2020 7
Hình 1.2: Thể hiện cán cân thương mại Việt-Trung qua các năm 2009-2017 7
Hình 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các năm 21
Hình 2.2: Biểu đồ top 10 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu nhiều sang Trung Quốc
Hình 2.2: Biểu đồ top 10 mặt hàng Việt Nam nhập khẩu nhiều sang Trung Quốc 7 tháng đầu năm 2020 24
Hình 2.3: Báo cáo GDP đầu người (USD) năm 2000-2010 38
CHƯƠNG I:CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ 1
1 KHÁI QUÁT CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TRUNG QUỐC 1
1.1 Giai đoạn sau khi 2 nước giành độc lập (1950-1976) 1
1.2 Giai đoạn sau khi 2 nước bình thường hóa quan hệ 5
2 PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT-TRUNG LÀ 1 XU THẾ TẤT YẾU 7
2.1 Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực 7
2.2 Tình hình riêng của 2 nước đầu những năm 90 9
3 NHỮNG CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA 2 NƯỚC 13
3.1 Những hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới được mở là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế thương mại phát triển 13
3.2 Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại giữa 2 nước: 14
3.2.1 Chính sách phát triển thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc:14 3.2.2 Chính sách phát triển thương mại TQ với Việt Nam: 16
3.3 Chính sách mậu dịch biên giới ở Quảng Tây: 17
3.4 Chính sách về mậu dịch tỉnh Vân Nam 18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -
I Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc 20
1 Về xuất nhập khẩu chính ngạch: 20
1.2 Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu 22
1.2.1 Cơ cấu hàng xuất khẩu 22
1.2.2 Cơ cấu hàng nhập khẩu 23
II Nhận xét đánh giá chung về quan hệ Việt nam - Trung Quốc 24
1 Kết quả và thuận lợi 24
2.Những tồn tại và khó khăn 27
III TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG
1 Phát triển thương mại làm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng biên giới 28
2 Quan hệ thương mại Việt - Trung có tác động tương hỗ, thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển 30
2.1 Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn 30
2.2 Thúc đẩy phát triển công nghiệp 32
2.3 Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng khu vực biên giới 33
2.4 Mở rộng hoạt động du lịch 34
2.5 Góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế và thúc đẩy sự ra đời một số trung tâm kinh tế quan trọng 36
2.6 Cải thiện đời sống nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc 38
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HAI NƯỚC 40
1 Xây dựng kế hoạch cụ thể cho phát triển kinh tế các tỉnh biên giới phía Bắc.40 2 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa khẩu biên giới 41
3 Hoàn thiện hệ thống chính sách điều hành hoạt động xuất nhập khẩu 42
4 Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc 45
5 Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại 46
5.1 Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế 47
5.2 Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa 48
5.3 Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về kinh tế 50
5.4 Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với giải quyết các chính sách xã hội 51
5.5 Tăng cường trách nhiệm của các lực lượng chức năng quản lý biên giới cửa khẩu 53
5.6 Đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp: 55
6 Tổ chức nghiên cứu thị trường Trung Quốc 56 KẾT LUẬN 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
1 KHÁI QUÁT CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TRUNG QUỐC
Hơn 72 năm kể từ ngày thiết lập mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Trung Quốc, sự giao lưu, hợp tác kinh tế thương mại ở các cấp các ngành và lĩnh vực giữa hai nước ngày càng nở rộ góp phần nâng cao nhu cầu giao lưu tự nhiên của hai nước Hai bên nhất trí phát triển “ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” đem lại lợi ích thương mại song phương cho hai nước Là hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm Có thể tóm gọn mối quan hệ Việt Trung trong 6 chữ "vừa hợp tác, vừa đấu tranh" Trong các giai đoạn lịch sử, hai nước đều chịu ảnh hưởng của các tư tưởng khác nhau nên kéo theo hoạt động kinh tế của hai nước không có nhiều tiến bộ Mặt khác do tình hình chính trị của mỗi nước, đặc biệt chiến tranh giữa các vương triều, đã gây khó khăn làm gián đoạn mối quan hệ kinh tế của hai nước Tuy nhiên những khó khăn, khoảng trống về mối quan hệ ấy chỉ là nhất thời vì quan hệ giao lưu buôn bán giữa hai nước đã được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử kể từ khi hai nước lập quốc Chính sách xuyên suốt trong lịch sử của Việt Nam là độc lập, tự chủ, luôn áp dụng nguyên tắc “ hòa hiếu với phương Bắc” Tuy nhiên quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc trong suốt hơn 20 thế kỷ qua không phải diễn ra bình lặng, mà nó biến động lên xuống phụ thuộc vào quan hệ chính trị của hai nước Mặc dù cả hai nước trong lịch sử thường xuyên dùng chính sách “bế quan, tỏa cảng”, nhưng không làm ảnh hưởng đến quan hệ hai nước song các hoạt động kinh tế thương mại vẫn diễn ra một cách tích cực Và trong mối quan hệ ấy, Trung Quốc thường chiếm ưu thế hơn Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và đối tác lớn thứ sáu của Trung Quốc trên thế giới
1.1 Giai đoạn sau khi 2 nước giành độc lập (1950-1976)
Từ khi hai nước giành được độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam - Trung Quốc được chia thành bốn giai đoạn:
Việt Nam là một trong những nước láng giềng có lịch sử quan hệ với Trung Quốc sớm và lâu đời nhất Mối quan hệ lâu dài và đặc thù này khiến Việt Nam - Trung Quốc trở thành đối tác quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Bước vào thời kỳ cận đại, hài nước phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trước đây vốn là quan hệ triều cống của nước nhỏ với nước lớn đã trở thành hai nước cùng cảnh ngộ, đều bị đế quốc xâm chiếm, nô dịch Với niềm đồng cảm, các chí sĩ yêu nước và nhân dân hai nước đã có mối quan hệ gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đi tìm con đường giải phóng dân tộc Sau thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn đã giải phóng đã tạo điều kiện giao lưu buôn bán trao đổi hàng hóa của nhân dân hai biên giới Và Việt Nam - Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao cùng với việc làm chủ 750 km biên giới Việt - Trung sau chiến thắng biên giới đã đưa quan hệ kinh tế, thương mại hai nước bước vào một giai đoạn phát triển mới Hai nước từng bước đặt cơ sở pháp lý cho việc trao đổi thương mại song phương như ngày 28/4/1951, ký hiệp định thương mại, ngày 3/5/1951 đoàn đại biểu của Chính phủ hai nước đã có cuộc họp đầu tiên về mậu dịch và công tác giao nhận hàng hóa, tháng 9/1951 chính phủ hai nước đã ký các hiệp định về mậu dịch, hiệp định tiền tệ và hợp đồng xuất nhập khẩu,… Từ dầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nhân dân ta đã tiến triển mạnh mẽ trong thời gian 1950 - 1954, Trung Quốc đã viện trợ kinh tế cho Việt Nam bằng hàng hóa Hội nghị toàn quốc lần thứ tư bàn về đấu tranh kinh tế với địch họp tại Việt Bắc đã nêu rõ chủ trương tích cực đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết phục vụ sản xuấtvà chiến đấu.Chính phủ ta khuyến khích trao đổi một số mặt hàng như sa nhân, cà phê với Trung Quốc Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho buôn bán dân gian qua biên giới Chính phủ ta đã ban hành nghị định 391/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân biên giới Việt - Trung
Giai đoạn 1954 - 1964: Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngày 10/2/1955 đã khánh thành đường sắt Hà Nội- Mục Nam Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa từ Thủ đô lên biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hoá với Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác Ngày 7/7/1955 Chính phủ ta đã ký với Trung Quốc Nghị định thư về trao đổi hàng hoá giữa các công ty mậu dịch địa phương vùng biên giới và Hiệp định viện trợ.Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khóa 8 Quốc hội Việt Nam đã quyết định chia Bộ Thương nghiệp ra thành Bộ Nội thương và Bộ ngoại thương Với sự thay đổi lại tổ chức, công tác xuất nhập khẩu đã trưởng thành thêm một bước, hàng loạt các công ty xuất nhập khẩu biên giới được thành lập với nhiệm vụ trao đổi hàng hoá và nhận hàng viện trợ qua biên giới Việt - Trung Viện trợ Trung Quốc từ năm 1955 - 1960 là 900 triệu NDT, cao nhất trong các nước viện trợ cho Việt Nam lúc bấy giờ, và cho vay 900 triệu NDT Việt Nam dùng số tiền viện trợ không hoàn lại và số tiền vay trên để nhập khẩu thiết bị toàn bộ và nhập hàng lẻ nhằm đáp ứng nhu cầu khôi phục, xây dựng, phát triển kinh tế, phục vụ nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống
Trong khi Việt Nam tiến hành các công cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu tiến hành “ Đại cách mạng văn hóa vô sản”, cuộc cách mạng này kết thúc vào năm 1976 Mặc dù thời kỳ đó tình hình xã hội Trung Quốc hỗn loạn nhưng quan hệ giữa chính phủ Việt Nam và Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp Điển hình là trong 10 năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc vẫn duy trì viện trợ kinh tế cho Việt Nam Việt Nam tiếp tục củng cố thêm một bước các tổ chức ngoại thương của mình, hoàn chỉnh các chính sách chế độ về mậu dịch đối ngoại, đồng thời tăng cường sự hợp tác giúp đỡ của phía Trung Quốc nhằm khắc phục những khó khăn Hàng năm Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thương được phép cử đoàn đại diện tham dự Hội chợ Quảng Châu Trung Quốc, để giao dịch với các công ty Trung Quốc Và các thương nhân của các nước khác, nghiên cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn bị hàng xuất khẩu Tháng 7/1965 Chính phủ Việt
Nam ký với Trung Quốc Nghị định thư về việc chuyển tải hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời chiến qua các cảng của Trung Quốc Chính Phủ ta đã đề nghị với Chính Phủ Trung Quốc cho phép thành lập một số trạm tiếp nhận và điều chuyển hàng viện trợ của các nước và hàng xuất khẩu của Việt Nam trên đất Trung Quốc ( ở Mãn Châu Lý, Nam Ninh, Côn Minh, Hoàng Phố, Trạm Giang) Từ 1967 đến
1975 Chính phủ ta và Trung Quốc lần lượt ký các Hiệp định, Nghị định thư và thư trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, viện trợ bệnh viện, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho Việt Nam; viện trợ kinh tế và quân sự, viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam; cung cấp vật tư, cung cấp thiết bị lẻ cho đài phát thanh Sau khi ký hiệp định Pari, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có sự thay đổi Đó là “phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại, cùng chiếu cố đến lợi ích của nhau” Thêm vào đó, quan hệ kinh tế thương mại hai nước những năm sau 1970 cũng chịu tác động của những biến đổi từ chính sách đối ngoại của Trung Quốc cũng như mâu thuẫn Trung - Xô Tuy nhiên, từ năm 1973, với lý do Trung Quốc còn nhiều khó khăn và còn phải viện trợ cho nhiều nước khác (nhưng thực chất do quan hệ Trung - Việt đã phát triển xấu đi, Việt Nam nghiêng về Liên Xô) nên đã giảm viện trợ cho Việt Nam Viện trợ không hoàn lại năm 1974 là 1250 triệu NDT, năm 1975 là 850 triệu NDT, viện trợ thiết bị toàn bộ năm 1974 là 500 triệu NDT, năm 1975 trở đi không có
Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng miền Nam, Việt Nam đã tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước bầu ra Quốc hội của cả nước Việt Nam thống nhất.Cũng trong thời gian đó cuộc “ đại cách mạng văn hoá vô sản “ kết thúc, Trung Quốc thực sự bước vào thời kỳ cải cách mở cửa Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký các Hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh toán.Mặc dù mậu dịch biên giới Việt- Trung có nhiều lợi thế đối với nhân dân vùng biên của hai nước, không thị trường nào có thể so sánh được, đó là thị trường gần, vị trí núi liền núi, sông liền sông, nhân dân hai nước có quan hệ truyền thống lâu đời, hàng hoá hai bên bổ sung cho nhau Nhưng từ năm 1978 trở về trước buôn bán qua biên giới Việt- Trung còn giới hạn ở mức nhỏ bé không đáng kể , chủ yếu là các hoạt động mua bán dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt thông thường điều tiết Phía Việt Nam bán sang Trung Quốc một số hàng nông lâm thổ sản, muối biển, gia súc Phía Trung Quốc bán sang Việt Nam một số hoa quả tươi, một số hàng công nghiệp nhẹ tiêu dùng như vải vóc, quần áo may sẵn, một số đồ gia dụng, công cụ sản xuất Mậu dịch biên giới Việt- Trung từ năm 1978 trở về trước chưa thể phát triển mạnh được chủ yếu là vì nền kinh tế của hai nước chưa phát triển Kinh tế vùng biên giới của hai nước đều là kinh tế miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp, lạc hậu, phân tán, cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số văn hoá chậm phát triển
1.2 Giai đoạn sau khi 2 nước bình thường hóa quan hệ
Từ sau năm 1978, quan hệ hữu nghị của hai nước có phần lắng xuống, khu vực biên giới trở thành những điểm nóng về an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội đã phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, Quan hệ kinh tế thương mại bị ngưng trệ, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của hai nước và đặc biệt là kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới Sau nhiều năm nỗ lực cố gắng của cả hai bên, quan hệ giữa hai nước đã khởi sắc và trở lại bình thường hóa vào cuối năm 1991 Từ đó đến nay, vượt qua nhiều thử thách quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế thương mại nói riêng được dày công vun đắp đã phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích kinh tế thiết thực cho cả hai bên Mặc khác Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, thông qua các cuộc gặp cấp cao hai bên đã thống nhất phấn đấu thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương không ngừng phát triển Từ khi hai nước bình thường hóa đến nay, kim ngạch thương mại hai nước không ngừng phát triển trong 20 năm qua, đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm việc trao đổi hàng hóa tăng lên nhanh chóng, việc mua bán qua các cửa khẩu biên giới Việt - Trung hết sức nhộn nhịp, thị trường ở đây đã sớm trở nên sôi động nhất của nước ta, đặc biệt là các cửa khẩu Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai Trung Quốc liên tục trở thành bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam, vừa là nguồn nhập khẩu lớn nhất vừa là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam Chỉ số trao đổi thương mại của hai nước cho thấy mức độ gia tăng không ngừng của hợp tác kinh tế hai nước và không ngừng vượt qua các kế hoạch và dự báo của hai bên cho mỗi giai đoạn Năm 1991, kim ngạch thương mại hai bên chỉ là 32 triệu USD Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương đã lên tới 27,3 tỷ USD Sáu tháng đầu năm 2011, kim ngạch thương mại hai nước đạt 15,1 tỷ USD, chiếm 33,1% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, dự kiến sẽ vượt 30 tỷ USD trong năm 2011 và mục tiêu năm 2015 là 50 tỷ USD Qua đó lợi ích thương mại song phương mang lại cho hai nước là điều dễ dàng nhìn thấy Trong năm 2017 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều là 93,69 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng hơn 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam Theo bộ công thương năm 2018, Kim ngạch song phương đạt 107 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm 2017 Trong 11 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Trung đạt 105,75% tỷ USD tăng 8,71% so với cùng kỳ năm 2018 Đến đầu năm 2018, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng, một số mặt hàng nông nghiệp và dầu thô giảm; Trung Quốc hiện vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam.Vì vậy chúng ta cần củng cố lại quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế-thương mại nói riêng nhằm cho thấy sự ổn định về an ninh, chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong quan hệ nhiều mặt giữa hai nước Như đã biết, Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hoá,xã hội với Việt Nam Bản thân nền kinh tế Việt Nam ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trước đây đã có sự giúp đỡ của Trung Quốc Chính vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự ổn định về quan hệ chính trị giữa hai nước là vấn đề hết sức cần thiết
Hình 1.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 1991 - 2020 Đơn vị : Triệu USD
Nguồn: Niên giám Thống kê - Tổng cục Thống kê 1995-2020
Hình 1.2: Thể hiện cán cân thương mại Việt-Trung qua các năm 2009-2017
Nguồn: Niên giám Thống kê - Tổng cục Thống kê 1995-2020
2 PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT-TRUNG LÀ 1
2.1 Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực
Thế giới đang trải qua một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tại nhiều khu vực và nhiều nước Xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, bất tuân dân sự, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt hơn Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, v.v diễn biến nghiêm trọng
Tình hình khu vực cũng như quốc tế vào cuối những năm 80 đầu những năm
90 có những thay đổi cực kỳ sâu sắc Sự tan rã của Liên Xô vào tháng 9/1991 đã đánh dấu sự kết thúc 30 năm thời kỳ chiến tranh lạnh Từ đây thế giới bước vào một thời kỳ mới Các nước lớn đều tiến hành điều chỉnh chiến lược toàn cầu và chính sách đối ngoại của mình.Hoà bình và phát triển đã trở thành trào lưu chính của thời đại Trên thế giới, các nước dù lớn hay nhỏ đều tranh thủ môi trường quốc tế hoà bình để tập trung lực lượng cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế của nước mình Kinh tế thế giới vừa được phục hồi một bước sau khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu song tốc độ tăng trưởng đang chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng và suy thoái Chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt Cách thức giải quyết, ứng phó các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh sau khủng hoảng, nhất là về ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng đổi mới sáng tạo, là những kinh nghiệm quý giúp các nước vượt qua được những thách thức đó để phát triển nhanh và bền vững
VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
KHÁI QUÁT CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TRUNG QUỐC
Hơn 72 năm kể từ ngày thiết lập mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Trung Quốc, sự giao lưu, hợp tác kinh tế thương mại ở các cấp các ngành và lĩnh vực giữa hai nước ngày càng nở rộ góp phần nâng cao nhu cầu giao lưu tự nhiên của hai nước Hai bên nhất trí phát triển “ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” đem lại lợi ích thương mại song phương cho hai nước Là hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm Có thể tóm gọn mối quan hệ Việt Trung trong 6 chữ "vừa hợp tác, vừa đấu tranh" Trong các giai đoạn lịch sử, hai nước đều chịu ảnh hưởng của các tư tưởng khác nhau nên kéo theo hoạt động kinh tế của hai nước không có nhiều tiến bộ Mặt khác do tình hình chính trị của mỗi nước, đặc biệt chiến tranh giữa các vương triều, đã gây khó khăn làm gián đoạn mối quan hệ kinh tế của hai nước Tuy nhiên những khó khăn, khoảng trống về mối quan hệ ấy chỉ là nhất thời vì quan hệ giao lưu buôn bán giữa hai nước đã được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử kể từ khi hai nước lập quốc Chính sách xuyên suốt trong lịch sử của Việt Nam là độc lập, tự chủ, luôn áp dụng nguyên tắc “ hòa hiếu với phương Bắc” Tuy nhiên quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc trong suốt hơn 20 thế kỷ qua không phải diễn ra bình lặng, mà nó biến động lên xuống phụ thuộc vào quan hệ chính trị của hai nước Mặc dù cả hai nước trong lịch sử thường xuyên dùng chính sách “bế quan, tỏa cảng”, nhưng không làm ảnh hưởng đến quan hệ hai nước song các hoạt động kinh tế thương mại vẫn diễn ra một cách tích cực Và trong mối quan hệ ấy, Trung Quốc thường chiếm ưu thế hơn Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và đối tác lớn thứ sáu của Trung Quốc trên thế giới
1.1 Giai đoạn sau khi 2 nước giành độc lập (1950-1976)
Từ khi hai nước giành được độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam - Trung Quốc được chia thành bốn giai đoạn:
Việt Nam là một trong những nước láng giềng có lịch sử quan hệ với Trung Quốc sớm và lâu đời nhất Mối quan hệ lâu dài và đặc thù này khiến Việt Nam - Trung Quốc trở thành đối tác quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Bước vào thời kỳ cận đại, hài nước phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trước đây vốn là quan hệ triều cống của nước nhỏ với nước lớn đã trở thành hai nước cùng cảnh ngộ, đều bị đế quốc xâm chiếm, nô dịch Với niềm đồng cảm, các chí sĩ yêu nước và nhân dân hai nước đã có mối quan hệ gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đi tìm con đường giải phóng dân tộc Sau thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn đã giải phóng đã tạo điều kiện giao lưu buôn bán trao đổi hàng hóa của nhân dân hai biên giới Và Việt Nam - Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao cùng với việc làm chủ 750 km biên giới Việt - Trung sau chiến thắng biên giới đã đưa quan hệ kinh tế, thương mại hai nước bước vào một giai đoạn phát triển mới Hai nước từng bước đặt cơ sở pháp lý cho việc trao đổi thương mại song phương như ngày 28/4/1951, ký hiệp định thương mại, ngày 3/5/1951 đoàn đại biểu của Chính phủ hai nước đã có cuộc họp đầu tiên về mậu dịch và công tác giao nhận hàng hóa, tháng 9/1951 chính phủ hai nước đã ký các hiệp định về mậu dịch, hiệp định tiền tệ và hợp đồng xuất nhập khẩu,… Từ dầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nhân dân ta đã tiến triển mạnh mẽ trong thời gian 1950 - 1954, Trung Quốc đã viện trợ kinh tế cho Việt Nam bằng hàng hóa Hội nghị toàn quốc lần thứ tư bàn về đấu tranh kinh tế với địch họp tại Việt Bắc đã nêu rõ chủ trương tích cực đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết phục vụ sản xuấtvà chiến đấu.Chính phủ ta khuyến khích trao đổi một số mặt hàng như sa nhân, cà phê với Trung Quốc Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho buôn bán dân gian qua biên giới Chính phủ ta đã ban hành nghị định 391/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân biên giới Việt - Trung
Giai đoạn 1954 - 1964: Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngày 10/2/1955 đã khánh thành đường sắt Hà Nội- Mục Nam Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa từ Thủ đô lên biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hoá với Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác Ngày 7/7/1955 Chính phủ ta đã ký với Trung Quốc Nghị định thư về trao đổi hàng hoá giữa các công ty mậu dịch địa phương vùng biên giới và Hiệp định viện trợ.Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khóa 8 Quốc hội Việt Nam đã quyết định chia Bộ Thương nghiệp ra thành Bộ Nội thương và Bộ ngoại thương Với sự thay đổi lại tổ chức, công tác xuất nhập khẩu đã trưởng thành thêm một bước, hàng loạt các công ty xuất nhập khẩu biên giới được thành lập với nhiệm vụ trao đổi hàng hoá và nhận hàng viện trợ qua biên giới Việt - Trung Viện trợ Trung Quốc từ năm 1955 - 1960 là 900 triệu NDT, cao nhất trong các nước viện trợ cho Việt Nam lúc bấy giờ, và cho vay 900 triệu NDT Việt Nam dùng số tiền viện trợ không hoàn lại và số tiền vay trên để nhập khẩu thiết bị toàn bộ và nhập hàng lẻ nhằm đáp ứng nhu cầu khôi phục, xây dựng, phát triển kinh tế, phục vụ nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống
Trong khi Việt Nam tiến hành các công cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu tiến hành “ Đại cách mạng văn hóa vô sản”, cuộc cách mạng này kết thúc vào năm 1976 Mặc dù thời kỳ đó tình hình xã hội Trung Quốc hỗn loạn nhưng quan hệ giữa chính phủ Việt Nam và Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp Điển hình là trong 10 năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc vẫn duy trì viện trợ kinh tế cho Việt Nam Việt Nam tiếp tục củng cố thêm một bước các tổ chức ngoại thương của mình, hoàn chỉnh các chính sách chế độ về mậu dịch đối ngoại, đồng thời tăng cường sự hợp tác giúp đỡ của phía Trung Quốc nhằm khắc phục những khó khăn Hàng năm Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thương được phép cử đoàn đại diện tham dự Hội chợ Quảng Châu Trung Quốc, để giao dịch với các công ty Trung Quốc Và các thương nhân của các nước khác, nghiên cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn bị hàng xuất khẩu Tháng 7/1965 Chính phủ Việt
Nam ký với Trung Quốc Nghị định thư về việc chuyển tải hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời chiến qua các cảng của Trung Quốc Chính Phủ ta đã đề nghị với Chính Phủ Trung Quốc cho phép thành lập một số trạm tiếp nhận và điều chuyển hàng viện trợ của các nước và hàng xuất khẩu của Việt Nam trên đất Trung Quốc ( ở Mãn Châu Lý, Nam Ninh, Côn Minh, Hoàng Phố, Trạm Giang) Từ 1967 đến
1975 Chính phủ ta và Trung Quốc lần lượt ký các Hiệp định, Nghị định thư và thư trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, viện trợ bệnh viện, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho Việt Nam; viện trợ kinh tế và quân sự, viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam; cung cấp vật tư, cung cấp thiết bị lẻ cho đài phát thanh Sau khi ký hiệp định Pari, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có sự thay đổi Đó là “phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại, cùng chiếu cố đến lợi ích của nhau” Thêm vào đó, quan hệ kinh tế thương mại hai nước những năm sau 1970 cũng chịu tác động của những biến đổi từ chính sách đối ngoại của Trung Quốc cũng như mâu thuẫn Trung - Xô Tuy nhiên, từ năm 1973, với lý do Trung Quốc còn nhiều khó khăn và còn phải viện trợ cho nhiều nước khác (nhưng thực chất do quan hệ Trung - Việt đã phát triển xấu đi, Việt Nam nghiêng về Liên Xô) nên đã giảm viện trợ cho Việt Nam Viện trợ không hoàn lại năm 1974 là 1250 triệu NDT, năm 1975 là 850 triệu NDT, viện trợ thiết bị toàn bộ năm 1974 là 500 triệu NDT, năm 1975 trở đi không có
Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng miền Nam, Việt Nam đã tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước bầu ra Quốc hội của cả nước Việt Nam thống nhất.Cũng trong thời gian đó cuộc “ đại cách mạng văn hoá vô sản “ kết thúc, Trung Quốc thực sự bước vào thời kỳ cải cách mở cửa Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký các Hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh toán.Mặc dù mậu dịch biên giới Việt- Trung có nhiều lợi thế đối với nhân dân vùng biên của hai nước, không thị trường nào có thể so sánh được, đó là thị trường gần, vị trí núi liền núi, sông liền sông, nhân dân hai nước có quan hệ truyền thống lâu đời, hàng hoá hai bên bổ sung cho nhau Nhưng từ năm 1978 trở về trước buôn bán qua biên giới Việt- Trung còn giới hạn ở mức nhỏ bé không đáng kể , chủ yếu là các hoạt động mua bán dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt thông thường điều tiết Phía Việt Nam bán sang Trung Quốc một số hàng nông lâm thổ sản, muối biển, gia súc Phía Trung Quốc bán sang Việt Nam một số hoa quả tươi, một số hàng công nghiệp nhẹ tiêu dùng như vải vóc, quần áo may sẵn, một số đồ gia dụng, công cụ sản xuất Mậu dịch biên giới Việt- Trung từ năm 1978 trở về trước chưa thể phát triển mạnh được chủ yếu là vì nền kinh tế của hai nước chưa phát triển Kinh tế vùng biên giới của hai nước đều là kinh tế miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp, lạc hậu, phân tán, cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số văn hoá chậm phát triển
1.2 Giai đoạn sau khi 2 nước bình thường hóa quan hệ
Từ sau năm 1978, quan hệ hữu nghị của hai nước có phần lắng xuống, khu vực biên giới trở thành những điểm nóng về an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội đã phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, Quan hệ kinh tế thương mại bị ngưng trệ, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của hai nước và đặc biệt là kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới Sau nhiều năm nỗ lực cố gắng của cả hai bên, quan hệ giữa hai nước đã khởi sắc và trở lại bình thường hóa vào cuối năm 1991 Từ đó đến nay, vượt qua nhiều thử thách quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế thương mại nói riêng được dày công vun đắp đã phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích kinh tế thiết thực cho cả hai bên Mặc khác Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, thông qua các cuộc gặp cấp cao hai bên đã thống nhất phấn đấu thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương không ngừng phát triển Từ khi hai nước bình thường hóa đến nay, kim ngạch thương mại hai nước không ngừng phát triển trong 20 năm qua, đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm việc trao đổi hàng hóa tăng lên nhanh chóng, việc mua bán qua các cửa khẩu biên giới Việt - Trung hết sức nhộn nhịp, thị trường ở đây đã sớm trở nên sôi động nhất của nước ta, đặc biệt là các cửa khẩu Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai Trung Quốc liên tục trở thành bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam, vừa là nguồn nhập khẩu lớn nhất vừa là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam Chỉ số trao đổi thương mại của hai nước cho thấy mức độ gia tăng không ngừng của hợp tác kinh tế hai nước và không ngừng vượt qua các kế hoạch và dự báo của hai bên cho mỗi giai đoạn Năm 1991, kim ngạch thương mại hai bên chỉ là 32 triệu USD Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương đã lên tới 27,3 tỷ USD Sáu tháng đầu năm 2011, kim ngạch thương mại hai nước đạt 15,1 tỷ USD, chiếm 33,1% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, dự kiến sẽ vượt 30 tỷ USD trong năm 2011 và mục tiêu năm 2015 là 50 tỷ USD Qua đó lợi ích thương mại song phương mang lại cho hai nước là điều dễ dàng nhìn thấy Trong năm 2017 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều là 93,69 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng hơn 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam Theo bộ công thương năm 2018, Kim ngạch song phương đạt 107 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm 2017 Trong 11 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Trung đạt 105,75% tỷ USD tăng 8,71% so với cùng kỳ năm 2018 Đến đầu năm 2018, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng, một số mặt hàng nông nghiệp và dầu thô giảm; Trung Quốc hiện vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam.Vì vậy chúng ta cần củng cố lại quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế-thương mại nói riêng nhằm cho thấy sự ổn định về an ninh, chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong quan hệ nhiều mặt giữa hai nước Như đã biết, Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hoá,xã hội với Việt Nam Bản thân nền kinh tế Việt Nam ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trước đây đã có sự giúp đỡ của Trung Quốc Chính vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự ổn định về quan hệ chính trị giữa hai nước là vấn đề hết sức cần thiết
Hình 1.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 1991 - 2020 Đơn vị : Triệu USD
Nguồn: Niên giám Thống kê - Tổng cục Thống kê 1995-2020
Hình 1.2: Thể hiện cán cân thương mại Việt-Trung qua các năm 2009-2017
Nguồn: Niên giám Thống kê - Tổng cục Thống kê 1995-2020
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT-TRUNG LÀ 1 XU THẾ TẤT YẾU
2.1 Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực
Thế giới đang trải qua một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tại nhiều khu vực và nhiều nước Xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, bất tuân dân sự, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt hơn Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, v.v diễn biến nghiêm trọng
Tình hình khu vực cũng như quốc tế vào cuối những năm 80 đầu những năm
90 có những thay đổi cực kỳ sâu sắc Sự tan rã của Liên Xô vào tháng 9/1991 đã đánh dấu sự kết thúc 30 năm thời kỳ chiến tranh lạnh Từ đây thế giới bước vào một thời kỳ mới Các nước lớn đều tiến hành điều chỉnh chiến lược toàn cầu và chính sách đối ngoại của mình.Hoà bình và phát triển đã trở thành trào lưu chính của thời đại Trên thế giới, các nước dù lớn hay nhỏ đều tranh thủ môi trường quốc tế hoà bình để tập trung lực lượng cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế của nước mình Kinh tế thế giới vừa được phục hồi một bước sau khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu song tốc độ tăng trưởng đang chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng và suy thoái Chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt Cách thức giải quyết, ứng phó các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh sau khủng hoảng, nhất là về ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng đổi mới sáng tạo, là những kinh nghiệm quý giúp các nước vượt qua được những thách thức đó để phát triển nhanh và bền vững
Tình hình quốc tế trên đây đã có những tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng Trong khu vực Đông Nam Á, xu thế hoà hoãn giữa các nước và nhóm nước trong khu vực với các nước lớn đã xuất hiện Các nước trong khu vực cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới Đặc biệt mối quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN ( 5 nước trước đây ) cũng như quan hệ giữa các nước này với
Trung Quốc đã từng bước được cải thiện Từ năm 1989, lần lượt các nước Lào, Inđônêxia đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; còn các nước Xingapo, Brunây cũng đã thiết lập quan ngoại giao với Trung Quốc Như vậy, sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã làm cho những xung đột về chính trị và hệ tư tưởng trong khu vực giảm đi rất nhiều, đối thoại thay cho đối đầu Mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá không chi trở thành xu thế chung giữa các nước trong khu vực, mà còn là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng kinh tế ở mỗi quốc gia Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục phát triển năng động có vị trí địa kinh tế - chính trị ngày càng quan trọng Đây cũng là địa bàn cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các cường quốc, thể hiện qua những sáng kiến và kế hoạch lớn như Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, Vành Đai con đường, v.v buộc các nước vừa và nhỏ phải lựa chọn đối sách tham gia Các hành vi đơn phương, chính trị cường quyền nước lớn và tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực, nhất là trên Biển Đông diễn ra căng thẳng, phức tạp hơn ASEAN đã trở thành một lực lượng được các nước ngày càng coi trọng, đóng vai trò trung tâm trong tăng trưởng kinh tế, bảo đảm môi trường hòa bình và an ninh khu vực
2.2 Tình hình riêng của 2 nước đầu những năm 90
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có hoàn cảnh địa lý gần gũi,có truyền thống văn hóa tương đồng, gắn bó với nhau Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều giá trị chung của nền văn minh phương đông Việt Nam tiếp thu nhiều giá trị về văn hoá và tôn giáo Trung hoa cổ đại: đạo Khổng, thơ Đường của Trung Quốc được trân trọng ở Việt Nam Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền thống, đã trải qua thử thách của thời gian và những thành tích đạt được trong những năm qua tạo tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ Việt- Trung Những yếu tố quan trọng thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trong thời gian qua Quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc nằm trong một tổng thể các mối quan hệ toàn diện, có nền tảng sâu rầy hàng ngàn năm qua giữa hai nước, vận mệnh của nó gắn liền với các mối quan hệ toàn diện đó Quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc trong những năm vừa qua được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú.Thương mại Việt – Trung được tiến hành dưới các hình thức: thương mại thông thường, gia công, hàng đổi hàng, cung cấp thiết bị thanh toán bằng sản phẩm
Thứ nhất, là một quốc gia liền kề Trung Quốc, với nhiều điểm tương đồng về văn hóa, cùng chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại là nước đang ngày càng quan trọng đối với ASEAN Có thể nói, sự tương đồng về văn hoá và sự gần gũi về phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nước là nhân tố hết sức quan trọng tạo nên truyền thống láng giềng hòa mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn nhau trong giao lưu, quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt- Trung từ bao đời nay
Thứ hai, về thể chế chính trị, Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị giống nhau, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác- Lênin, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng Hai nước đều kiên trì xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân và chế độ xã Hội Chủ Nghĩa Đặc biệt trong hoàn cảnh CNXH tạm thời đang trong giai đoạn khó khăn, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang gánh vác trọng trách bảo vệ vai trò lãnh đạo bền vững của Đảng Cộng Sản và sức sống mạnh mẽ của CNXH
Thứ ba, về kinh tế, Hai nước Việt-Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh vực hợp tác kinh tế, mậu dịch và đầu tư vì lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên Hai nước đã có chung đường biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên thông thương mậu dịch, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu Trung Quốc là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng, có sức tiêu thụ lớn của của một thị trường trên 1,2 tỷ dân.Việt Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới, xấp xỉ 80 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào Đó là những yếu tố bổ sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước và tiến trình tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu
Thứ tư, về xuất nhập khẩu: Xuất nhập khẩu là việc mua vào trong nước và bán ra nước ngoài hàng hóa Hàng hóa xuất khẩu thường rất đa dạng như hàng công nghiệp, nông nghiệp, hàng tiêu dùng, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, Cùng với sự phát triển các mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc, cơ cấu xuất nhập khẩu cũng phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hóa về mặt hàng và chủng loại, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của hai bên
Trong bối cảnh chung của tình hình Quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình riêng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có những thay đổi theo chiều hướng thuận lợi
- Về phía Việt Nam: trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình quốc tế và khu vực, Đại hội đảng VI Đảng Cộng Sản Việt Nam họp tháng 12 năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới.Một thành tựu về đổi mới tư duy của Đại hội Đảng VI là đã rút ra 4 bài học cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ tổ quốc,trong đó bài học thứ 3 là “ Phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới “ Cũng trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta xác định “ Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau” Trong quan hệ đối ngoại , Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam- Trung Quốc Trung Quốc là thị trường gần 1.5 tỷ, đông dân nên sức tiêu thụ hàng hóa lớn - là thị trường lớn Việt Nam cần phát triển Và Trung Quốc đang phát triển cần nhiều nguyên nhiên vật liệu mà Việt Nam nổi tiếng là nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể cung cấp cho các ngành công nghiệp của Trung Quốc đặc biệt là than, cao su và dầu thô, là những mặt hàng mà Trung Quốc rất cần nhập khẩu nhất là khi nền kinh tế phát triển quá nóng như hiện nay Mặc khác Việt Nam gần Trung Quốc điều này rất có lợi thế giao thương buôn bán cho cả hai nước vì phí chuyên chở sẽ thấp, hai nước gần nhau lại có nhiều nét tương đồng về văn hóa, phong tục, tập quán, thói quen, vì thế sản phẩm tiêu dùng để hỗ trợ cho nhau
- Về phía Trung Quốc: Việc quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc là tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước để cùng nhau phát triển Trung Quốc chuyển đổi sang cơ chế thị trường là nước lớn, đông dân, có tiềm lực kinh tế mạnh và có kinh nghiệm trong các hoạt động ngoại thương với nhiều nước khác trên thế giới Hơn nữa, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh mạnh do cơ ưu thế về chất lượng và chủng loại Sự phát triển của Trung Quốc từ khi mở cửa nền kinh tế và thực hiện bốn hiện đại hóa đã có bước tiến bộ lớn Và sau một thời gian dài bị đình trệ do những sai lầm “tả” khuynh,Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp cuối tháng 12 năm 1978 đã quyết định dịch chuyển trong tâm công tác của toàn Đảng từ chỗ lấy đấu tranh giai cấp làm chính sang lấy xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, mở đầu cho công cuộc cải cách mở cửa Để phục vụ cho công cuộc cải cách ở trong nước, trong lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc đã tiến hành những điều chỉnh lớn trong quan hệ với các nước lớn trên thế giới như
Mỹ, Nga, Nhật và Tây Âu Trung Quốc cũng từng bước thực hiện bình thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng Trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc cũng thể hiện những thiện chí của mình đối với việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước
Như vậy với một mục tiêu chung là bình thường hóa quan hệ, ngày 4/9/1990 tại Tứ Xuyên đã diễn ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước để bàn về vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và một số vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm Sau nhiều lần đàm phán hai nước đã đi đến thống nhất và khẳng định:“ Việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước và cũng có lợi cho hòa bình,ổn định và sự phát triển của khu vực “ Về kinh tế, hai bên nhất trí thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nước
Quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước láng giềng Việt Nam – Trung Quốc những năm gần đây diễn ra ngày càng tốt đẹp theo cả chiều rộng và chiều sâu Với thiện chí và quyết tâm của lãnh đạo hai nước, với các chính sách hợp quy luật, hợp lòng dân, khai thác được lợi thế so sánh của cả hai bên trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa, chúng ta có thể tin chắc rằng, quan hệ Việt – Trung sẽ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới và cải cách mở cửa của hai nước.
NHỮNG CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA 2 NƯỚC
3.1 Những hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới được mở là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế thương mại phát triển
Cùng với việc xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Việt Nam và Trung Quốc duy trì thường xuyên các cơ chế hợp tác kinh tế thương mại song phương Điều này đã đưa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc phát triển ngày càng ổn định theo hướng cân bằng, bền vững
Trải qua một vài biến cố thăng trầm của lịch sử, kể từ khi bình thường hóa năm 1991 đến nay, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, an ninh, quốc phòng Năm 2008, hai bên nhất trí thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện đã góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung Quốc lên tầm cao mới Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc đã cùng nhau ký kết nhiều hiệp định quan trọng cho việc phát triển thương mại như: Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc được ký kết vào ngày 07/11/1991 tại Bắc Kinh, Hiệp định thương mai biên giới Việt - Trung được ký kết vào ngày 12/9/2016 tại Bắc Kinh, Hiệp định thanh toán về hợp tác giữa ngân hàng nhà nước Việt Nam và ngân hàng nhân dân Trung Quốc được ký kết vào ngày 26/5/1993, Hiệp định Việt Nam
- Trung Hoa về quá cảnh hàng hóa được ký kết vào ngày 09/04/1004 tại Hà Nội, Hiệp định Việt Nam - Trung Hoa về đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau được ký kết ngày 22/11/1994 tại Hà Nội, Hiệp định về thành lập ủy ban hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Hoa được ký kết vào ngày 22/12/1994 tại Hà Nội, Hiệp định giữa Việt Nam và Trung Hoa về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được ký kết vào ngày 02/12/1992 tại Hà Nội, và còn rất nhiều hiệp định nữa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên cùng phát triển kinh tế nước nhà
Với chủ trương hòa bình,ổn định cùng phát triển đặc biệt là phát triển kinh tế thương mại, hai bên quyết định mở các cặp cửa khẩu đó là: Đồng Đăng - Bằng Tường, Hữu Nghị- Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hưng, Lào Cai (đường bộ) – Hà Khẩu (đường bộ),Lào Cai (đường sắt) – Hà Khẩu (đường sắt), Tà Lùng - Thuỷ Khẩu, Trà Lĩnh – Long Bang, Ma Lù Thàng - Kim Thuỷ Hà và Thanh Thuỷ- Thiên Bảo là các cửa khẩu Quốc tế dành cho những người mang Hộ chiếu và thị thực Xuất nhập cảnh, Giấy thông hành xuất nhập cảnh cũng như hàng hoá xuất nhập khẩu; các cặp cửa khẩu khác được mở nhờ vào sự nỗ lực của cả hai bên, các cặp cửa khẩu này được mở cho những người mang giấy thông hành xuất nhập cảnh và hàng hoá buôn bán trao đổi tiểu ngạch của cư dân biên giới Ngoài các cửa khẩu nêu trên, hiện nay trên tuyến biên giới Việt- Trung còn có 59 cặp đường mòn truyền thống và 13 chợ biên giới phục vụ cho các hoạt động giao lưu kinh tế giữa hai nước
3.2 Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại giữa 2 nước:
3.2.1 Chính sách phát triển thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc:
Nhận thức được tầm quan trọng việc mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế trên tất cả cấp độ đơn phương, song phương và đa phương Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã quan hệ buôn bán với nhiều nước và tham gia tích cực vào nền kinh tế thế giới Ngày 28/7/1995 Việt Nam là thành viên chính thức là thanh viên của ASEAN, ngày 1/1/1996, Việt Nam tham vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu, diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức được kết nạp vào tổ chức thương mại thế giới Đây là bước đi quan trọng để khẳng định vị trí của Việt Nam trên thị trường thế giới
Trung Quốc là một trong những đối tác chiến lược của Việt Nam, việc mở cửa buôn bán, trao đổi hàng hóa với Trung Quốc, một nước có nền kinh tế phát triển vượt bậc so với Việt Nam đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam Để đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc nói riêng, ngày 15/12/1995, Chính phủ đã ban hành nghị định số 89/NĐ về bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp được tự do kinh doanh xuất nhập khẩu theo phạm vi ngành hàng trong giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp Có thể nói, đây là bước đột phá có tính chất quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta Cùng với sự cải cách mạnh mẽ trong cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Chính phủ đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới Đặc biệt, các quyết định 53/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu Quyết định 186/2001/QĐ-TTg ngày 7/12/2001 về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi biên giới phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005 là những cơ sở tiền đề quan trọng cho việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt- Trung Theo nội dung của quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Chính phủ, nhà nước đặc biệt ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu bằng nguồn vốn vay ưu đãi nhà nước, cho phép các tỉnh biên giới có số thu ngân sách dưới 50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100% để xây dựng cơ sở hạ tầng, có số thu từ 50 tỷ đồng trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thứ còn lại Đối với thương mại du lịch cũng được đặc biệt quan tâm, các hoạt động thương mại được hưởng các ưu đãi về buôn bán biên giới theo các văn bản nhà nước ta đã ký kết với các nước láng giềng Về đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu kinh tế cửa khẩu ngoài quyền được hưởng các ưu đãi hiện hành về thuế, các doanh nghiệp đầu tư còn được giảm thêm 50% giá thuê đất và mặt nước so với mức giá cho thuê đất, mặt nước đang áp dụng tại khu kinh tế cửa khẩu đó Với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn ở miền núi phía bắc thời kỳ 2001- 2005, quyết định số 186/2001/QĐ-TTg đã giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc trong phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, tập trung quy hoạch và huy động mọi nguồn lực để phát triển giao thông,chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt phát huy lợi thế cửa khẩu, các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh để phát triển ngành thương mại, du lịch, dịch vụ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng
3.2.2 Chính sách phát triển thương mại TQ với Việt Nam:
Trung Quốc có một hệ thống chính sách đối ngoại khá chặt chẽ, đặc biệt là chính sách biên giới mềm, coi nặng lợi ích cục bộ, dân tộc Hoạt động mậu dịch biên giới đối với các nước có chung đường biên giới đặc biệt là Việt Nam được quản lý một cách chặt chẽ và hệ thống từ Chính phủ cho tới các địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan theo đúng tinh thần mà Quốc Vụ Viện đưa ra là :
- Khẩn trương định ra biện pháp quản lý đồng bộ, tích cực ủng hộ mậu dịch biên giới
- Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý đối với mậu dịch biên giới, thúc đẩy mậu dịch biên giới phát triển lành mạnh
- Điều chỉnh, quy phạm hoá các biện pháp chính sách mậu dịch biên giới theo hướng thể chế hoá kinh tế thị trường Xã hội Chủ Nghĩa
- Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế khu vực biên giới, tăng cường đoàn kết dân tộc, phồn vinh và ổn định vùng biên giới, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng với các nước xung quanh
Trong quan hệ buôn bán với các nước láng giềng, đặc biệt là với Việt Nam, Trung Quốc xây dựng chiến lược biên mậu biên giới, đồng thời tiến hành hai hình thức buôn bán chính ngạch và biên mậu, áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, nhằm phát huy mọi lợi thế về địa lý để phát triển kinh tế vùng biên giới Với chính sách thương mại cho, vào đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu có sự thay đổi về chính sách đối ngoại với Việt Nam Tiếp theo sự tăng cường về quan hệ chính trị, Trung Quốc bắt đầu coi trọng hợp tác kinh tế và thương mại với Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam ra nhập ASEAN thì Trung Quốc coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong khu vực Với chiến lược lâu dài, Trung Quốc không muốn Việt Nam mạnh lên, nhưng trước xu hướng phát triển của thế giới đã buộc Trung Quốc phải suy xét, tính toán vừa khai thác được thị trường Việt Nam, vừa thông qua thị trường việt Nam để thâm nhập vào các thị trường khác trong ASEAN nhất là Lào và Campuchia
Tóm lại, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách điều hành hoạt động kinh tế thương mại với Việt Nam theo các định hướng cơ bản sau:
- Triệt để áp dụng hình thức buôn bán biên mậu,Chính phủ Trung Quốc dành nhiều ưu đãi về thuế quan cho các Tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam Hàng hoá của các doanh nghiệp mậu dịch tiểu ngạch biên giới được miễn 50 % thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng; hàng hoá của cư dân biên giới nhập khẩu qua biên giới
- Xây dựng hoàn chỉnh chiến lược khai thác kinh tế Vịnh Bắc Bộ với dự kiến xây dựng vòng cung kinh tế kết nối Dương Phố- Khâm Châu (Quảng Tây) với Hải Phòng (Việt Nam) Trung Quốc xây dựng mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ kết nối toàn khu vực, tăng cường thăm dò, khai thác Vịnh Bắc Bộ
- Trung Quốc chủ trương sử dụng thị trường Việt Nam để bổ sung cho Tây Nam,đồng thời sử dụng“ chính sách biên giới mềm“ để kìm hãm kinh tế Việt Nam với các nội dung như sau: Lợi dụng biên giới trên bộ, trên biển để xuất hàng tồn kho, hàng kém phẩm chất vào Việt Nam, đồng thời thu hút nguyên liệu, khoáng sản, lương thực, thực phẩm Một mặt Trung Quốc khuyến khích, tạo mọi điều kiện để xuất khẩu hàng hoá(chủ yếu là hàng tiêu dùng chất lượng bình thường và thấp) sang Việt Nam
Như ta đã biết Trung Quốc có 2 tỉnh (khu tự trị) biên giới Quảng Tây và Vân Nam tiếp giáp với Việt Nam Đối với 2 tỉnh này, ngay từ khi bình thường quan hệ giữa hai nước Trung Quốc đã áp dụng chiến lược “ Biên giới mềm “, mọi hoạt động thương mại biên giới được chỉ đạo tập trung thống nhất ở cơ quan đầu mối là Ban biên mậu, cơ quan này có đủ quyền hạn để quản lý , chỉ đạo toàn bộ các hoạt động có liên quan đến biên giới
3.3 Chính sách mậu dịch biên giới ở Quảng Tây:
Các chính sách hiện hành của Trung Quốc có liên quan đến mậu dịch biên giới Quảng Tây gồm có:
- Thông tư của Quốc Vụ Viện về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới
- Biện pháp quản lý hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại đối với mậu dịch tiểu ngạch biên giới và khu vực biên giới của Bộ Kinh tế mậu dịch đối ngoại và Tổng cục Hải Quan
- Biện pháp thực thi quản lý nhập khẩu sản phẩm cơ điện mậu dịch tiểu ngạch biên giới của Ban xuất nhập khẩu cơ điện cơ điện nhà nước
THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -
Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc
1 Về xuất nhập khẩu chính ngạch:
Năm 2021, thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng gần cuối năm, hiện tượng ách tắc trong thông quan hàng hóa ở khu vực biên giới gây thiệt hại cho người dân và doanh nghiệp, cũng được dư luận hết sức quan tâm “Mặc dù tình hình đại di ̣ch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu, gây khó khăn cho hoạt động hợp tác, trao đổi thương mại của nhiều quốc gia, nhưng quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2021 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.” - Tham tán Nông Đức Lai đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc
Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, năm 2021, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 165,8 tỷ USD, tăng 24,6% so năm trước; còn theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, kim ngạch hai chiều lần đầu tiên vượt ngưỡng 200 tỷ USD, đạt 230,2 tỷ USD, tăng 19,7% so năm trước Với kết quả này, Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất và thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam; Việt Nam tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và đối tác thương mại lớn thứ sáu của Trung Quốc trên thế giới (sau các nước Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức và Australia) Đây là con số phản ánh sự ổn định và hiệu quả trong trao đổi thương mại song phương giữa hai nước trong những năm gần đây, bất chấp những khó khăn và trở ngại do điều kiện khách quan tác động, như trở ngại trong các hoạt động kiểm soát dịch bệnh giữa hai nước, kinh tế thế giới chưa thực sự phục hồi sau năm đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch, chuỗi sản xuất của Việt Nam vào những giai đoạn nhất định trong năm gặp nhiều khó khăn, nhu cầu về tiêu dùng của thị trường Trung Quốc giảm so với các năm trước.Tuy nhiên, những lợi thế về quan hệ thương mại truyền thống cùng nỗ lực của các bộ, ngành liên quan của Việt Nam nhằm thúc đẩy, tháo gỡ khó khăn trong các thời điểm hoạt động thương mại giữa hai nước đối mặt với nhiều áp lực và rào cản, đã góp phần đưa kim ngạch thương mại hai chiều trong năm 2021 lần đầu tiên đạt mốc 230 tỷ USD
Hình 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các năm Theo: Báo Nhân Dân
Việc tập trung vào xuất khẩu qua vận tải đường bộ khiến cơ sở hạ tầng và năng lực thông quan tại một số cửa khẩu biên giới chưa đáp ứng được lưu lượng xe hàng trong những thời điểm vào vụ một số loại trái cây có thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc như thanh long, dưa hấu…Đặc biệt, Trung Quốc thực hiện chính sách zero-Covid với nhiều biện pháp thắt chặt kiểm soát đối với con người, hàng hóa xuất nhập cảnh nhằm phòng chống dịch bệnh lây lan với trong nước Ngoài ra, đồng thời với tạm dừng thông quan một số cửa khẩu đảm bảo công tác phòng chống dịch, Trung Quốc cũng đang thu hẹp tiểu ngạch thông qua việc đóng cửa nhiều cặp chợ biên giới (ta gọi là cửa khẩu phụ, lối mở) Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương liên quan cũng như hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp trong nước đã tổ chức nhiều hội nghị, diễn đàn nhằm đưa ra giải pháp để giải quyết những khó khăn trước mắt cho tiêu thụ hàng hóa nông sản bao gồm cả tiêu thụ trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như định hướng lâu dài cho ngành sản xuất nông sản Việt Nam Chính vì vậy, trong thời gian tới, việc chuyển đổi xuất khẩu sang Trung Quốc theo hình thức xuất khẩu chính ngạch cũng chính là ưu tiên hàng đầu trong việc giảm thiểu rủi ro ùn ứ hàng hóa tại cửa khẩu biên giới đất liền và là hướng đi tối ưu trong việc xuất khẩu nông sản bền vững sang thị trường Trung Quốc trong tương lai Hiểu được những khó khăn, thách thức đó, trong nhiều năm qua, cơ quan chức năng Việt Nam (cụ thể là Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường Trung Quốc nhằm định hướng doanh nghiệp chuyển đổi xuất khẩu sang hình thức chính ngạch; kêu gọi địa phương quy hoạch, tổ chức sản xuất, thu hoạch, chế biến, đóng gói đảm bảo theo đúng yêu cầu, quy định về chất lượng của thị trường Đồng thời, cơ quan chức năng Việt Nam đã xác định việc định hướng và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi xuất khẩu hàng hóa sang vận tải đường sắt và đường biển cũng chính là “chất xúc tác” hỗ trợ quan trọng cho doanh nghiệp bắt buộc thích nghi với hoạt động xuất khẩu chính ngạch
1.2 Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu
1.2.1 Cơ cấu hàng xuất khẩu
Hiện Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Hoa Kỳ (không tính khối nước) Giai đoạn 2008 - 2017, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc tăng trưởng rất cao, từ 4.535,7 triệu USD vào năm 2008 lên 35.403,9 triệu USD vào năm 2017, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân đạt 26,57%/năm
Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc ngày càng đa dạng, phong phú.Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc gồm: Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện, cao su, điện thoại các loại và linh kiện…
Hình 2.2: Biểu đồ top 10 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu nhiều sang Trung Quốc 7 tháng đầu năm 2020
1.2.2 Cơ cấu hàng nhập khẩu Ưu thế nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc thể hiện rõ nét hơn ở những nhóm hàng chủ lực như điện thoại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, nguyên phụ liệu dệt may, da giầy…
Hình 2.2: Biểu đồ top 10 mặt hàng Việt Nam nhập khẩu nhiều sang Trung Quốc 7 tháng đầu năm 2020
Nhận xét đánh giá chung về quan hệ Việt nam - Trung Quốc
1 Kết quả và thuận lợi
Ngày 18/1/1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là quốc gia đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) sau khi được thành lập năm 1945 Đây là sự kiện lịch sử như một mốc son quan trọng cho quan hệ Việt Nam - Trung Quốc Trong chặng đường những năm qua, tinh thần hữu nghị, hợp tác là dòng chảy chính, góp phần duy trì xu thế phát triển ổn định quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước Nhìn lại quá trình phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước đã dành cho nhau sự giúp đỡ quý báu và trong sáng Trong thời kỳ đổi mới và cải cách mở cửa, hai bên đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm, hợp tác cùng có lợi, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình mỗi nước, đạt được những thành tựu phát triển mang tính lịch sử
Trong 2 năm vừa qua, dù bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, hai bên vẫn duy trì trao đổi thường xuyên trên các kênh Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc bằng nhiều hình thức linh hoạt, góp phần củng cố nền tảng hữu nghị vững chắc, định hướng chiến lược, tạo động lực và đảm bảo chính trị cho quan hệ song phương phát triển lành mạnh, ổn định Đến nay, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước đạt mức tăng trưởng mạnh Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Trung Quốc duy trì đà tăng trưởng tốt trong bối cảnh dịch bệnh tác động tiêu cực đến thương mại của hầu hết các quốc gia trên thế giới Việt Nam liên tục là đối tác thương mại lớn nhất trong ASEAN (từ năm 2016), nước đối tác thương mại lớn thứ 6 trên thế giới (từ năm 2020) của Trung Quốc
Hợp tác y tế, đặc biệt là phòng, chống dịch COVID-19 là một điểm sáng trong quan hệ hai nước trong thời gian qua Trung Quốc là một trong những nước cung cấp vaccine nhiều và nhanh nhất cho Việt Nam Đến cuối năm 2021, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam 7,3 triệu liều và cung cấp thương mại khoảng 45 triệu liều vaccine và ủng hộ lượng lớn vật tư y tế cho các địa phương Việt Nam Đánh giá tình hình thế giới đang trải qua những biến đổi mang tính lịch sử, sâu sắc, khó lường, bước vào thời kỳ biến động mới, hai Đảng, hai nước cho rằng cần kiên trì thực hiện mục tiêu, lý tưởng và sứ mệnh vì hạnh phúc nhân dân, vì tiến bộ nhân loại; kiên trì nhìn nhận và phát triển quan hệ song phương trên tầm cao chiến lược và tầm nhìn dài hạn; kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển lâu dài, lành mạnh, ổn định trong thời đại mới Để làm được điều đó, hai bên sẽ tăng cường trao đổi chiến lược, tin cậy chính trị, kiên trì bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nắm chắc phương hướng tiến lên đúng đắn của quan hệ Việt - Trung; đi sâu hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy hài hòa lợi ích giữa hai nước, góp phần mang lại hạnh phúc và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát huy truyền thống hữu nghị, tăng cường giao lưu giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là kết nối gặp gỡ, gia tăng hiểu biết và gắn kết tình cảm giữa các thế hệ trẻ; xử lý thỏa đáng bất đồng liên quan trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, giữ gìn cục diện quan hệ Việt - Trung và hòa bình, ổn định ở khu vực, tạo môi trường bên ngoài tốt đẹp cho sự phát triển của hai nước; tăng cường phối hợp trên các vấn đề quốc tế, chung tay ứng phó với các thách thức mang tính khu vực và toàn cầu, đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, thúc đẩy cùng phát triển ở khu vực và trên thế giới
Tăng cường hợp tác đầu tư, kinh tế - thương mại song phương, hai bên tiếp tục thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác thương mại điện tử giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc", phát huy vai trò của Nhóm Công tác hợp tác về thương mại điện tử, tăng cường trao đổi chính sách và chia sẻ kinh nghiệm về phát triển thương mại điện tử qua biên giới, thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp về logistics, nghiên cứu thúc đẩy hợp tác giữa các ngân hàng, tổ chức chuyển mạch quốc gia hai nước về thanh toán điện tử, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ để mở rộng các kênh thương mại, đầu tư mới thông qua thương mại điện tử
Trung Quốc sẽ tiếp tục mở rộng tiêu thụ các sản phẩm đặc sắc, chất lượng cao của Việt Nam thông qua các hoạt động xúc tiến tiêu dùng bằng thương mại điện tử Áp dụng các biện pháp thiết thực nhằm giảm bớt vấn đề mất cân bằng thương mại giữa hai nước, thúc đẩy xuất nhập khẩu nhiều hơn nữa các sản phẩm nông sản, thực phẩm chất lượng cao của cả hai nước
Trong bối cảnh cục diện thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tạo ra nhiều khó khăn, thách thức lớn, bên cạnh việc nhất trí tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Liên hợp quốc, duy trì trao đổi và phối hợp chặt chẽ trong những vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, hai bên sẽ cùng nhau tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ quốc tế và khu vực như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Trung Quốc - ASEAN, Mekong - Lan Thương; thực hiện tốt Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực, thúc đẩy các nước cùng phát triển Phía Việt Nam ủng hộ Trung Quốc nộp đơn gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và có đóng góp vào việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương
2.Những tồn tại và khó khăn
Mở rộng quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc trong những năm qua đã gặt hái được nhiều thành công to lớn, góp phần nhất định đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế vùng biên giới Tuy nhiên, trong quá trình mở cửa giao lưu thương mại giữa hai nước đã xuất hiện một số những vấn đề khó khăn và phức tạp làm ảnh hưởng chung đến ổn định và phát triển kinh tế Quan hệ hai nước vẫn còn tồn tại ba trở ngại chính
Trở ngại thứ nhất là các vấn đề trên Biển Đông (gồm biển và quần đảo) Cái gọi là “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã lấn vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo luật quốc tế Về vấn đề quần đảo, chúng ta có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Đây chính là trở ngại lớn nhất hiện nay trong quan hệ hai nước
Trở ngại thứ hai là sự tin cậy lẫn nhau đang bị xói mòn, dù sau bình thường hóa quan hệ, hai nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng lại Nhưng việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương 981 trong vùng biển của ta, đã làm tổn thương đến nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến sự tin cậy lẫn nhau mà hai bên vừa qua cố gắng lắm mới đạt được
Trở ngại thứ ba là nhập siêu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc còn lớn, mà chủ yếu là nguyên vật liệu phụ trợ, linh kiện và máy móc thiết bị Hướng giải quyết là một mặt phải tự chủ động trong nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất, mặt khác phải đa dạng hóa thị trường cung cấp
Trong lĩnh vực kinh tế, cán cân thâm hụt thương mại đang nghiêng rất lớn về phía Việt Nam, là thách thức mang tính báo động Tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam, chủ yếu là nguyên vật liệu phụ trợ, linh kiện và máy móc thiết bị, từ Trung Quốc tăng mạnh qua từng năm: 4,4 tỷ năm 2006; 11,5 tỷ năm 2009; 12,7 tỷ USD năm 2011; 16,4 tỷ USD năm 2012; và 23,7 tỷ USD năm 2013 Nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc trong bảy tháng đầu năm 2015 tăng 4,5 tỷ USD so với cùng kỳ năm
2014 Trung bình kim ngạch nhập siêu là 2,16 tỷ USD/tháng
Thặng dư thương mại nghiêng lệch về phía Trung Quốc cộng với nhiều mặt hàng nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc chưa đảm bảo chất lượng,… sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế Việt Nam, tới dư luận và qua đó ảnh hưởng lâu dài đối với quan hệ kinh tế song phương Việt Nam - Trung Quốc
Trong 10 năm qua, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc dù tăng đều, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng của nhập khẩu Xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này tập trung nhiều nhất ở nhóm hàng trung gian, hàng tiêu dùng, xăng dầu,… Với cơ cấu hàng xuất khẩu này không mang lại nhiều lợi nhuận cho Việt Nam Trong khi đó phần lớn nhóm hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam lại được nhập khẩu từ Trung Quốc Tính cho đến nay, Trung Quốc là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam Cán cân thương mại của Việt Nam đối với thị trường vẫn trong xu hướng thâm hụt lớn do sự chênh lệch về tốc độ tăng xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng đáng kể Cụ thể như năm 2014, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 18,45% trong khi xuất khẩu chỉ tăng 13,1% nên mức nhập siêu đối với thị trường này đã lên tới 28,78 tỷ USD, tăng mạnh so với các năm trước
Những thách thức nêu trên dẫn tới một hệ lụy to lớn, đó là làm xói mòn niềm tin, tác động tiêu cực đến sự tin cậy mà hai nước đã nỗ lực xây dựng trong nhiều năm qua, đòi hỏi phải có những biện pháp, giải pháp tích cực, phù hợp và hiệu quả để Việt Nam và Trung Quốc thực sự là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” trong bối cảnh khu vực và quốc tế đầy biến động hiện nay
III TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG
1 Phát triển thương mại làm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng biên giới
Thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc thực sự là động lực góp phần vào việc phát triển quan hệ, hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực Hoạt động xuất, nhập khẩu biên mậu biên giới phía Bắc trở nên sôi động, được tiến hành chủ yếu theo các hình thức: chính ngạch, buôn bán qua biên giới, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh, chuyển khẩu, kho ngoại quan, trao đổi hàng hóa giữa cư dân biên giới Sự phát triển của thương mại biên mậu làm cho thị trường miền núi, vùng cao, biên giới khởi sắc Thương mại góp phần tạo thêm nhiều việc làm, thu nhập và sức mua của người dân nhờ đó cũng được nâng lên Cơ cấu kinh tế - xã hội các tỉnh vùng cao biên giới từng bước dịch chuyển theo hướng tích cực, tạo sức hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, yếu tố không chắc chắn trong buôn bán tiểu ngạch khiến thương mại biên mậu có độ rủi ro cao, tác động mạnh tới các hợp đồng thương mại chính ngạch Đặc biệt, hợp tác thương mại biên giới giữa các tỉnh, các địa phương giáp biên của hai nước đã góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, láng giềng truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá – xã hội, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, cải thiện đời sống xã hội, tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao dân trí, củng cố an ninh quốc phòng tại khu vực biên giới Việt – Trung
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HAI NƯỚC
Xây dựng kế hoạch cụ thể cho phát triển kinh tế các tỉnh biên giới phía Bắc.40 2 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa khẩu biên giới
Để phát triển kinh tế-thương mại ổn định và lâu dài là một trong những vấn đề cần phải được lên kế hoạch cũng như xây dựng một cách hiệu quả, phù hợp Vậy nên, các kế hoạch phải dựa trên các cơ sở ký kết giữa các hiệp định thương mại song phương, trên cơ sở tập quán, thông lệ buôn bán quốc tế Nhiệm vụ của mỗi bên là phải tôn trọng lẫn nhau đồng thời tích cực thực hiện đúng với các điều khoản đã ký Vậy nên để tạo một môi trường, hành lang cho các hoạt động kinh tế- thương mại giữa 2 nước luôn trên đà phát triển và hội nhập phải dựa trên cơ sở pháp lý
Trong những năm vừa qua, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết hơn 20 hiệp định như Hiệp định thương mại được ký kết vào ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hay Hiệp định thương mại được ký vào tháng 10/1998 và một số nghị định thư và hiệp định khác Tuy các hiệp định đó đã được triển khai nhưng vẫn còn mang tính lí thuyết và chưa sâu sắc Vậy nên, từ ngày ký hiệp định cho đến nay, việc hoạt động xuất nhập khẩu chính ngạch chiếm tỷ trọng chưa cao, hoạt động xuất nhập tiểu ngạch cũng chưa được quản lý một cách chặt chẽ Điều đó về lâu dài, sẽ gây bất lợi cho các hoạt động thương mại biên giới của Việt Nam Mặc khác, phía Trung Quốc với mục đích lợi dụng thị trường Việt Nam để nhập khẩu và đưa vào thị trường Việt Nam kém chất lượng nhưng giá lại thấp, đa dạng, phong phú và phù hợp với nhu cầu tiêu thụ cũng như sức mua của thị trường Việt Nam nên họ thường xuyên đẩy mạnh việc buôn bán tiểu ngạch qua biên giới Việt nam một cách ồ ạt
Tóm lại, việc buôn bán và trao đổi hàng hóa qua biên giới với Trung Quốc cần dựa trên cơ sở ký kết các Hiệp định thương mại giữa hai nước, giảm thiểu đi tình trạng buôn bán tiểu ngạch và đồng thời cũng tăng cường buôn bán chính ngạch để có thể triệt để tuân theo các tập quán và thông lệ quốc tế chính là giải pháp có tính chất tiên quyết, bảo đảm cho sự phát triển lâu dài cũng như ổn định quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước
2 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa khẩu biên giới
Việt Nam đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế phía Bắc nhằm xóa đói giảm nghèo, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, các khu kinh tế cửa khẩu cũng gặp không ít khó khăn và thách thức trong quá trình phát triển Vậy nên, Việt Nam đã đề ra những chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu đã và đang có những biến đổi một cách tích cực, làm cho bộ mặt kinh tế vùng biên giới được nâng lên một bước, làm cải thiện đời sống của nhân dân các tỉnh vùng núi biên giới phía bắc
Tình Lào Cai và Lạng Sơn cũng đã hình thành những trung tâm kinh tế lớn với tốc độ giao lưu thương mại với tốc độ khá cao nhưng trong thực tế vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế vốn có của kinh tế cửa khẩu biên giới nhất là dành cho các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc Cụ thể như sau:
Thúc đẩy mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa Do vậy, việc quan tâm triển khai hiệu quả các chính sách ưu đãi, sẽ thu hút sự quan tâm đầu tư của doanh nghiệp hai bên, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trao đổi; Thúc đẩy quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tạo ra sự phát triển ở các vùng để hình thành khu vực thị trường rộng lớn có khả năng thu hút và thâm nhập với các khu vực thị trường khác.Sự phát triển của thị trường do các khu kinh tế cửa khẩu cũng đem lại nhiều cơ hội việc làm cho người lao động không chỉ ở khu vực cửa khẩu mà còn ở các vùng lân cận Trao đổi thương mại thông qua các khu kinh tế cửa khẩu theo đó gia tăng, góp phần phát triển sản xuất trong nước
Từng bước xây dựng khu kinh tế mở, cho tự do giao lưu và buôn bán, trao đổi hàng hóa trên khu vực biên giới của khẩu Ngoài ra, cho phép hàng hóa được ra vào khu kinh tế mở, ngoài việc phải tuân thủ những quy tắc về chính sách mặt hàng thì được tự do trao đổi, áp dụng chế độ kiểm tra giám sát hải quan, hạn chế không thu thuế đối với những hàng hóa nằm trong khu vực kinh tế mở
Xây dựng các quy hoạch phát triển thương mại giữa hai nước, quy hoạch phát triển thương mại giữa hai tỉnh có đường biên giới đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, các lĩnh vực theo các quan điểm cũng như những định hướng, trong đó tiếp tục duy trì và đẩy mạnh các thỏa thuận hợp tác, các hiệp định thương mại, tiếp tục đánh giá và có chiến lược khi tham gia vào các hành lang kinh tế một cách chủ động
Hỗ trợ vốn để khuyến khích phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến hàng xuất khẩu như cây trồng ăn quả, song mây, gỗ nguyên liệu phục vụ cho việc chế biến hàng xuất khẩu vào trong thị trường Trung Quốc
Chú trọng xây dựng hợp tác kinh tế biên giới, tạo lập các kênh thông tin trong từng địa phương và toàn vùng để phối hợp tổ chức, quản lý, chỉ đạo trên các tuyến biên giới; đẩy mạnh trong việc đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng các bộ chuyên môn, rà soát các hệ thống cửa khẩu, phân loại và xác lập vị trí để có kế hoạch đầu tư nâng cấp; hỗ trợ cho các cư dân vùng biên giới, đặc biệt chú trọng việc định hướng sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, vay vốn và tiêu thụ sản phẩm; triển khai nhanh việc xây mới, cải tạo, nâng cấp cho mạng lưới chợ biên giới theo quy hoạch đã được phê duyệt, tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua những chính sách ưu đãi đặc biệt.
Hoàn thiện hệ thống chính sách điều hành hoạt động xuất nhập khẩu
Việc tuân thủ những chính sách chung điều hành xuất nhập khẩu của nhà nước, còn phải đặc biệt chú ý tới những tính chất đặc thù của khu vực biên giới thuộc các tỉnh phía Bắc để cho việc khai thác tốt được thế mạnh vùng, tạo động lực thúc đẩy việc phát triển kinh tế
Trong những năm tới, việc xây dựng các chiến lược đặc thù cho hoạt động thương mại ở các cửa khẩu nhận thấy có tính ổn định, lâu dài Đặc biệt, chính sách mặt hàng và cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu phù hợp với từng tuyến biên giới Cụ thể:
Cần xây dựng các chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu một cách hợp lý, có chiến lược và tầm nhìn với khối lượng lớn, giá trị cao, chất lượng tốt, phù hợp với ưu thế, tiềm năng của khu vực biên giới Đồng thời, nỗ lực mở rộng các cửa khẩu giao thương và xác định đúng chính sách mặt hàng đối với từng tuyến phía Bắc, phía Tây và Tây Nam để phù hợp với những thị trường các nước láng giềng, qua đó vươn rộng sang nước khác trên thế giới
Nâng cao tỷ lệ hàng hóa xuất nhập khẩu đã qua chế biến bởi chỉ có chuyển cơ cấu hàng xuất khẩu sang chế biến thì mới giải quyết được công ăn việc làm, nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm của hàng Việt Nam, đây là một trong những giải pháp giúp nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa trong vòng ngoài nước
Về nhập khẩu: Ưu tiên nhập khẩu những thiết bị có kỹ thuật tiên tiến và công nghệ nguồn, không cho phép nhập khẩu thiết bị lạc hậu, không rõ nguồn gốc hay năng suất thấp, gây ảnh hưởng đến môi trường Hiện nay, trên thị trường Việt Nam vẫn còn trôi nổi rất nhiều các thiết bị có năng suất trung bình hoặc kém Ví dụ như các thiết bị sản xuất đường, xi măng, hóa chất, Vậy nên, nhà nước ta dự kiến trong thời gian sắp tới sẽ nhập khẩu những thiết bị có công nghệ tiên tiến hơn từ các nước Châu Âu
Cần xuất khẩu, ưu tiên xuất khẩu những sản phẩm mang tính phổ biến và những sản phẩm đã qua chế biến từ hàng nông lâm thủy sản, hàng tiêu dùng trong nước hay hàng thủ công mỹ nghệ Đối với những tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc, nhà nước ta cần xây dựng những chính sách ưu đãi, từ đó khuyến khích các địa phương này sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác được những lợi thế về địa lý đồng thời cũng tăng khả năng thâm nhập về hàng hóa của ta vào thị trường Trung Quốc
Về các mặt hàng mang thế mạnh chẳng hạn như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều, dầu thô, than đá, cần tìm thêm nguồn hàng mới và ngày càng đẩy mạnh khai thác những sản phẩm mang thế mạnh đó Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở việc khai thác những sản phẩm mang thế mạnh đó mà ta cần phải chuyển từ sản phẩm thô sang sản phẩm chế biến Cụ thể:
- Từ xuất khẩu dầu thô sang các sản phẩm lọc dầu và các sản phẩm hóa dầu
- Từ xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều thô sang các thực phẩm chế biến, tiện lợi cho việc sử dụng và bảo quản
- Việc xuất khẩu các loại quặng thô sắt, đồng cần cắt giảm bớt và chuyển sang sản phẩm chế biến như tinh quặng có hàm lượng cao hơn
Về phương thức buôn bán: Ưu thế về địa lý là một trong những tiềm năng của các địa phương biên giới vậy nên việc xây dựng các kho Ngoại quan, kho bảo thuế để lưu giữ hàng hóa là rất cần thiết điều đó mang lại một nguồn thu khá lớn cho ngân sách nhà nước Ngoài ra, cần hạn chế dần phương thức buôn bán tiểu ngạch, quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng để buôn lậu, trốn thuế gây mất ổn định thị trường Cần định hướng xuất khẩu khai thác tối đa nguồn lực địa phương bằng việc tạo ra vùng nguyên liệu sản xuất đặt ở các tỉnh biên giới, huy động được sức mạnh kinh tế của các vùng, các khu kinh tế của các tỉnh biên giới
Chính sách thanh toán ngân hàng:
Theo thống kê, chỉ có khoảng 4,8% thanh toán được trong giao dịch thương mại qua biên giới Việt- Trung Vậy nên, trong thời gian tới ngành ngân hàng phải phát huy được những vai trò và làm tốt chức năng thanh toán, hạn chế buôn lậu, đảm bảo phát triển quan hệ thương mại mang tính lành mạnh Ngoài ra, cần tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng ở Trung Quốc, phối hợp với các ngành chức năng ở biên giới để từ đó thiết lập quản lý đồng bộ về hoạt động tiền tệ trên thế giới Tổ chức thêm những hệ thống đổi tiền, tỷ giá, tìm mọi những biện pháp để thu hút khối lượng thanh toán qua biên giới vào hệ thống ngân hàng Cần phải tổ chức sắp xếp lại bộ máy mạng lưới ngân hàng cũng như lực lượng kinh doanh ngoại hối
Hệ thống thuế tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn rất nhiều sơ hở, gây khó khăn cho người thực hiện và cơ quan quản lý Nhất là luật thế, biểu thuế nhập khẩu, việc định danh tê gọi chưa đạt được sự thống nhất cao Vậy nên, cần tiếp tục sửa đổi, đơn giản hệ thống biểu thuế Đưa ra những chính sách về ưu đãi thuế đối với hàng xuất khẩu ( áp dụng với mức thế 0% ), hạ thấp mức thuế đối với những mặt hàng xuất khẩu như: nguyên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu,
Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc
Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc trong việc góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Cụ thể: Thực trạng thu hút vốn FDI từ Trung Quốc Từ cuối năm 1991 đến nay, đầu tư vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ngày càng tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, mở rộng địa bàn khu vực
Về quy mô đầu tư: Giai đoạn 1991-2001, vốn FDI của Trung Quốc vào VIệt
Nam chỉ mang tính chất thăm dò, số dự án và lượng vốn đầu tư vào Việt Nam còn rất khiêm tốn so với tổng lượng FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này Trong giai đoạn 2001-2010, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tăng cả về số lượng dự án, cũng như các quy mô vốn ( khoảng 2,5 triệu USD/ dự án), xuất hiện khá nhiều dự án từ 1-10 triệu USD Trong giai đoạn từ 2011 đến nay, vốn FDI của Trung Quốc vào nước ta có sự biến đổi một cách rõ rệt và bắt đầu thể hiện nhiều vấn đề đáng quan tâm Kể từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thu hút vốn FDI, Trung Quốc hầu như không có tên trong top 10 quốc gia đầu tư vào Việt Nam Tuy nhiên, sự biến đổi rõ rệt xuất hiện kể từ năm 2011 trở lại đây vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng cả về quy mô, thay đổi cả hình thức, lĩnh vực, mở rộng về địa bàn Kết thúc năm 2019, tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam từ Trung Quốc tiếp tục tăng mạnh, gần gấp đôi mức năm 2018
Về lĩnh vực đầu tư: Dòng vốn FDI của Trung Quốc thường tập trung vào những lĩnh vực như: Dệt may, da giày, xơ sợi, Tuy nhiên, đây là những ngành có nguy cơ ô nhiễm cao Vậy nên, các nhà đầu tư (NĐT) Trung Quốc phần lớn đầu tư theo hình thức trực tiếp (100% vốn)
Về địa bàn đầu tư: Đến nay, các nhà đầu tư Trung Quốc đã có mặt hầu hết các tỉnh Việt Nam, trong đó tập trung chủ yếu tại các tỉnh ven biển (22/28 tỉnh ven biển) và các thành phố, khu vực đông dân cư, có sức thu hút lao động mạnh, cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như đi lại giữa Trung
Quốc và Việt Nam Những điểm đến hấp dẫn của các NĐT Trung Quốc gồm: TP.Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Hải Phòng, Lào Cai,
Ban hành các luật như : Luật Thương Mại, Luật Doanh nghiệp, Luật kinh doanh bảo hiểm nhằm tạo ra những hành lang pháp lý đồng bộ cho các hoạt động của doanh nghiệp Trong đó, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng cởi mở, minh bạch và có tính cạnh tranh cao, thuận lợi cho các nhà đầu tư và từ đó từng bước xóa bỏ những khác biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước để tiến tới một hệ thống pháp lý áp dụng chung cho các doanh nghiệp, sử dụng có tính pháp lý trong các thông lệ quốc tế.
Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại
Tăng cường hợp tác giữa các cơ quan chức năng hai nước, đặc biệt là các đơn vị liên quan đến quản lý nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa Các đơn vị này cần thường xuyên trao đổi thông tin, đối thoại và hợp tác để chặn đứng các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại
Nâng cao năng lực và kiến thức của cán bộ, công chức và nhân viên liên quan đến công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại Các cơ quan chức năng nên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực và kiến thức cho cán bộ, công chức và nhân viên của mình
Tăng cường kiểm tra và giám sát việc nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa Các cơ quan chức năng nên tăng cường kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa để phát hiện kịp thời các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại Thực hiện các biện pháp cứng rắn đối với các đối tượng tham gia vào hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại Các cơ quan chức năng nên truy tố hình sự, xử phạt nghiêm khắc và tịch thu tài sản của các đối tượng tham gia vào hoạt động này
Tăng cường hợp tác quốc tế giữa hai nước để phối hợp trong việc chặn đứng các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại trên toàn cầu Việt Nam và Trung Quốc nên tham gia các tổ chức quốc tế về chống buôn lậu và gian lận thương mại để hợp tác trong việc chặn đứng các hoạt động này
Nâng cao ý thức và nhận thức của cộng đồng về tác hại của buôn lậu và gian lận thương mại Các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội nên thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức của cộng đồng về tác hại của buôn lậu và gian lận thương mại đối với kinh tế và xã hội Đồng thời, cần thúc đẩy người dân phản ánh các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại để giúp cơ quan chức năng phát hiện và xử lý kịp thời
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại Các cơ quan chức năng nên sử dụng công nghệ thông tin như hệ thống giám sát, camera, phần mềm quản lý để tăng cường hiệu quả công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại
5.1 Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế
Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế giữa hai nước: Cần tiếp tục tăng cường các hoạt động hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, thương mại, kỹ thuật, khoa học và công nghệ Các doanh nghiệp của hai nước cần được khuyến khích và tạo điều kiện để thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa hai nước phát triển Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực: Việt Nam và Trung Quốc nên tiếp tục đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là trong khu vực ASEAN và BRI Điều này sẽ giúp hai nước tận dụng tối đa tiềm năng hợp tác kinh tế, đẩy mạnh quan hệ thương mại và đầu tư Đổi mới và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Việt Nam và Trung Quốc cần tập trung vào đổi mới công nghiệp, cải cách cơ cấu kinh tế, tăng cường năng lực sản xuất và cải thiện chất lượng sản phẩm Các chính sách đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất và cải cách cơ cấu kinh tế cần được thiết kế và triển khai một cách có hiệu quả nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của hai nước Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo: Việt Nam và Trung Quốc nên đầu tư vào giáo dục và đào tạo để nâng cao năng lực lao động, cải thiện chất lượng đào tạo và đào tạo những nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế hiện nay
Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ: Việt Nam và Trung Quốc cần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ để đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế và thúc đẩy sự cạnh tranh về khoa học và công nghệ giữa hai nước Các hoạt động hợp tác có thể bao gồm chia sẻ công nghệ, đổi mới, phát triển sản phẩm và cung cấp dịch vụ
Tăng cường giao lưu văn hóa và du lịch: Việt Nam và Trung Quốc nên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực văn hóa và du lịch để đẩy mạnh quan hệ giao lưu giữa hai nước Các hoạt động giao lưu văn hóa và du lịch có thể giúp nâng cao hiểu biết, tăng cường sự tương tác giữa hai dân tộc và thúc đẩy hợp tác kinh tế Tăng cường quản lý tài chính và kiểm soát rủi ro: Việt Nam và Trung Quốc cần tăng cường quản lý tài chính và kiểm soát rủi ro để đảm bảo sự ổn định và an toàn cho các hoạt động kinh tế giữa hai nước Các chính sách và biện pháp quản lý tài chính cần được áp dụng một cách khoa học và hiệu quả để tránh rủi ro và bảo vệ quyền lợi của các bên
5.2 Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa
Một doanh nghiệp khi sản xuất sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Điều đầu tiên họ nghĩ đến là chất lượng và giá cả, mong tìm cho mình một vị trí trên thương trường, thị trường quyết định sự sống còn của hàng hóa Một sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra ngay từ đầu đã phải đối phó với sự cạnh tranh của cùng mặt hàng hóa đó nhưng của nhãn hàng khác Muốn được người tiêu dùng chấp nhận nó phải tìm một vị trí Có thể nói sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt quyết định sự sống còn của sản phẩm Chính vì vậy một sản phẩm chất lương tốt, giá cả hợp lý sẽ được người tiêu dùng chấp nhận Đối với doanh nghiệp:
Thứ nhất, doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh đã có và tạo ra lợi thế so sánh mới cho mình Để nâng cao khả năng cạnh tranh, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên mà các doanh nghiệp đang sử dụng, nước ta còn có một yếu tố được coi là lợi thế so sánh quan trọng đó là giá công lao động rẻ so với nhiều nước trong khu vực nhất là so với các thành viên phát triển Công lao động ở nước ta giá chỉ bằng một nửa của họ, thậm chí chí có ngành còn thấp hơn, trước mắt chúng ta có thể tận dụng cao nhất khả năng này trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
Hai là, biết kết hợp tự mình nâng cao khả năng cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp khác trong hệ thống Các doanh nghiệp cần hiểu rằng, để có thể thắng trong cạnh tranh, để nâng cao năng lực cạnh tranh phải chọn cạnh tranh cho mình, thay vì mạnh ai nấy làm Mỗi doanh nghiệp đều phải nổ lực tiến nhanh hơn động đội, đó là yêu cầu của cạnh tranh, nhưng đồng thời cũng sẵn sàng hợp tác với đồng đội vào lúc cần thiết do yêu cầu của hợp tác cạnh tranh Làm được điều đó chúng ta sẽ tận dụng được cả hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác Cạnh tranh để có được sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất, hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài hệ thống đều cùng phát triển
Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịnh vụ thương mại Hiện nay, nước ta đã có một số mặt hàng có sức mạnh cạnh tranh mạnh ở thị trường một số nước trên thế giới như: cà phê, giày dép, một số mặt hàng nông lâm thủy sản Song, còn nhiều mặt hàng khác tuy có thể mạnh sản xuất, song chất lượng kéo, mẫu mã đơn điệu… do đó chưa cạnh tranh được ở thị trường thế giới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, tăng cường các biện pháp quản lý để đạt mục tiêu chất lượng cao, giá thành hạ và tương đổi ổn định, thương hiệu rõ rành, hấp dẫn, dễ nhớ để thu hút được người tiêu dùng Coi trọng phát triển những sản phẩm có thế mạnh và xây dựng được những thương hiệu mạnh, tổ chức phục vụ thuận tiện, văn minh cho người tiêu dùng là một yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường Cho thấy thương hiệu hàng hóa là một trong những giải pháp cơ bản thực hiện cạnh tranh lành mạnh, giúp cho doanh nghiệp dành thắng lợi lớn Đối với nhà nước:
Trước hết cần thống nhất nhận thức ưu thế lớn nhất của nền kinh tế thị trường chính là ở tính cạnh tranh Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của nó Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh tranh bằng các thiết chế cần thiết, đặc biết là bằng các quy định pháp luật minh bạch, dễ hiểu dễ làm
Hai là, nhanh chóng xác lập những điều hiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh
Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và trong nước, đồng thời hình thành được hế thông thị trường đồng bộ và hoàn thiện