Tình hình tại Việt Nam trước năm 1939 Giai đoạn 1930 — 1939, Cách mạng Liệt Nam đã có nhiều bước chuyển biến quan trong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Na
Trang 1GIAI DOAN HIEN NAY
Giang viên hướng dẫn: Th§ Ngô Thị Thu Hoài
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
Trang 2MỤC LỤ
1.1 Tình hình thế giới giai doan 1939 = 1945 o.cceeccccccseessseesssesesseesssessseeessessseess 2 1.2 Tình hình tại Việt Nam trước năm 1939 2 2+2-sz+2Ez22EE.t2rxerrrreree 2
CHƯƠNG 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐÁNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHONG DAN TOC TRONG GIAI DOAN 1939 — 1945 - 5c cs<- 4 2.1 Quá trình lãnh đạo và sự chuẩn bị của Đảng cho Cách mạng tháng Tám
— ,ÔỎ 4 2.2 Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa -.2- 5+: 7
2.3 Cách mạng tháng Tám bùng nỗ -2-2+222+2222222EE2EE2222222e22xczxee 8
CHƯƠNG 3: NHỮNG BÀI HỌC CHO GIAI ĐOẠN HỆN NAY 11 3.1 Vận dụng sáng tạo, và phát triển chủ nghĩa Mác — Lê nin gắn liền thực tiễn
và nắm bắt tình hình thế giới - ¿2£ ©52+S2+SE22EE+2E2E1223221122122112212221 22222, 11
3.2 Đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh bắt diệt, đánh tan mọi kẻ thù 12
3.3 Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách
Trang 3LÝ DO CHỌN ĐÈ TÀI
Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng cực kỳ khó khăn trong quá
khứ Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mọi khó khăn đều
được giải quyết một cách tài tình Đáng đã góp công lớn cho nền độc lập dân chủ
của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam ngày nay
Ở thời điểm hiện tại, sau ba làn sóng dịch bệnh Covid- 19 tấn công ở khắp các
ngõ ngách trên thế giới, dưới sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nước ta đã trở thành một trong số ít những nước trên thế giới được đánh giá cao về phòng chống dịch bệnh Tuy nhiên, ở làn sóng dịch lần thứ tư, các nước châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng đã bị biến chủng Delta hoành hành nặng nề Một số kẻ đã đăng tin
giả, tin sai sự thật nhằm chia rẽ khôi đại đoàn kết dân tộc, và nhằm mục đích bôi
xâu Đảng, làm cho nhân dân mật lòng tin vào Nhà nước ta
Tôi muốn viết bài này đề nhắc lại một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử Việt Nam là giai đoạn 1939 — 1945, Đảng đã chèo lái con đường ViệtNam như thể nào đề dành lấy thắng lợi Đồng thời những bài học đã đề lại của thé thế hệ trước cho thế hệ sau này, và cách vận dụng nó cho công cuộc kiến thiết đất nước trong bồi cảnh toàn cầu đang biển động bởi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và dịch bệnh tân công hiện nay
Do hạn chế về mặt kiến thức, lý luận cho nên bài tiêu luận không thể tránh khỏi những thiếu xót Rất mong nhận được sự góp của giảng viên dé bai làm có thê
hoàn thiện hơn
Trang 4CHƯƠNG 1: BÓI CÁNH LỊCH SỬ
1.1 Tình hình thế giới giai đoạn 1939 — 1945
Vào tháng 9-1939, Đức tấn công Ba Lan, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến
với Đức Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nô
Tháng 4 -1940, Quân Đức đánh thắng vào Pháp Nước Pháp bại trận sau 6
tuần chiến đấu và phải ký hiệp định đình chiến vào ngày 20 — 6 — 1940 Theo đó, chính phủ Pháp, do Pê-Tanh làm Quốc trưởng, nắm quyên tự trị và làm tay sai cho
Đức
Tại châu Á, Nhật Bản ráo riết chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến, sau khi chiếm
được phần Đông Bắc Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên Tháng 9 — 1940, quân
Nhật nhảy vào chiếm khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam
1.2 Tình hình tại Việt Nam trước năm 1939
Giai đoạn 1930 — 1939, Cách mạng Liệt Nam đã có nhiều bước chuyển biến
quan trong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
Năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập đã đánh dấu bước ngoặt
to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh một nốt son chói lọi trên con đường
phát triên của dân tộc Năm 1930-1931, phong trào Xô Viết bùng nỗ tại Nghệ An và
Hà Tĩnh, nhân dân nôi dậy dành lấy chính quyền, đã nguồn cô vũ mạnh mẽ trong
phòng trào dành độc lập trong nước
Nhiều hội nghị được tiến hành như hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung
ương lâm thời Đảng Cộng Sản Việt Nam (10-1930) đã đưa ra Cương lĩnh chính trị
và đề ra đường lối cách mạng của dân tộc, Đại hội đại biéu lần thứ nhất Đáng Cộng
Sản Đông Dương (3-1935) đã khôi phục được hệ thống tô chức từ trung ương đến địa phương, và các các chức quân chúng
Nhin chung day là giai đoạn khó khăn của Đảng, thách thức một lực lượng
chính trị vừa thành lập, còn non trẻ trước sự đàn áp dã man cửa thực dân, Nguyễn
Ái Quốc bị cầm tù ở Trung Quốc và tình hình thế giới có nhiều biến động Những
Trang 5sự việc này đã tạo tiên để cho việc thay đôi đường lôi đầu tranh của Đảng ta, và cũng là một cuộc tập duyệtt cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
Trang 6CHƯƠNG 2: SỰ LÃNH ĐẠO CUA DANG TRONG SU NGHIEP GIAI
PHONG DAN TOC TRONG GIAI DOAN 1939 - 1945
2.1 Quá trình lãnh đạo và sự chuẩn bị của Dang cho Cách mạng tháng Tám
Năm 1939, chiến tranh thê giới nô ra, cuôn không ít quốc gia dân tộc vào vòng xoáy của nó mà viễn cảnh hết sức ảm đạm Khi đó, Đảng Cộng Sản Đông Dương vẫn kịp thời lui về hoạt động bí mật, chuyên trọng tâm về nông thôn, đồng thời vẫn
chú trọng thành thị Khi phân tích cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai,Đảng đã dự báo
về một trào lưu cách mạng khi hết thảy dân chúng bị áp bức sẽ thừa cơ nỗi dậy bẻ xiéng né lệ kéo dài đã hàng thế kỷ Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định chiến
tranh chính là tác nhân thúc day thời cơ cách mạng nhanh chóng chín muôi, cần
phải chuyển từ tích luỹ lực lượng sang đấu tranh trực diện đánh đồ cường quyền
Đối với cách mạng Việt Nam, cuộc chiến tranh này đã tác động mạnh mẽ và
trực tiếp, đặt ra nhiều vấn đề mới về chiến lược và sách lược Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đáng (11-1939) tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) phân tích tinh hình và chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đồ để quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
yếu, là con đường duy nhất đánh đồ để quốc Pháp, giành độc lập dân tộc
Tuy nhiên, sau nhiều ý kiến trái chiều về đường lỗi cách mạng trong Đại hội Trung ương 11-1940, Trung ương Đảng vẫn còn nhiều trăn trở, chưa thật đứt khoắt
với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu Phái đến tháng 5-
1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì phiên họp lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tạo nên bước ngoặt quan trọng cả về nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực
1 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.536
2 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tap 6, tr.544
4
Trang 7tiễn của Đảng Cộng Sản Đông Dương Hội nghị đã nêu rõ những nội dung quan
trọng:
Một là, hết sức nhân mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với để quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi
vì nhân dân ta đang chịu cảnh “một cô ai tròng”, tình thế hết sức khó khăn dưới hai
tầng áp bức Pháp — Nhật, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng ”° Từ đó, xác định rõ kẻ thù của cách mạng:
“Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thủ của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”
Hai là, động viên, tô chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh Hội nghị
quyết định thay đôi chính sách, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan hệ giữa cách mệnh phản để và điền địa Đặt nhiệm vụ thu góp toàn lực đem tất cả ra quyết giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng Cộng Sản Đông Dương tập trung “lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ”, với tiêu chí duy nhất: Yêu nước thương nòi, đoàn kết là sức mạnh, chia rẽ là yếu — trên quan điểm đó, một mặt, Đảng ra sức kêu gọi nhân dân đoàn kết một lòng, muôn người như một cùng chung tay vì việc nghĩa; mặt khác, đánh giá đúng thái độ của các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội để có chủ trương đoàn kết, tập hợp, “thêm
bạn bớt thù” ĐCSĐD nhất quán thực hiện chính sách hợp tác giữa các lực lượng
cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Đây là tư duy mới xem tất cả những người dân Việt Nam yêu nước là thành phần nông cốt, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc so với lỗi chủ trương cũ xem hai lực lượng công — nông là lực
lượng chính
Ba là, giải quyết vẫn đề dân tộc trong khuôn khô từng nước ở Đông Dương,
thi hành chính sách “dân tộc tự quyết” Sau khi đánh đuôi Pháp - Nhật, các dân tộc
trên cõi Đông Dương sẽ “tô chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
thành lập một quốc gia tùy ý” “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận
3 Nxb Chính trị Quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Hà Nội, 2000, tập 7, tr 112
5
Trang 8và coi trọng”* Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông
Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung
Bồn là, phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang" Hội nghị quyết định phải xúc tiễn công tác
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh
đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tông khởi nghĩa to lớn"
Những ước chuyến biến lớn nhất mà hội nghị đã mang lại không chỉ là mang lại làn gió đôi mới trong sự nghiệp cách mạng mà còn là thông nhất về việc thành
lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, hay còn gọi là Việt Minh
Trong giai đoạn 1941-1943, Phát - Nhật tăng cường đản áp phong trào cách mạng Việt Nam, nhiều quyết định sai lầm được đưa ra khiến các cuộc khởi nghĩa
thất bài, nhiều chiến sĩ cấp cao tại mặt trận Việt - Minh bị xử bắn, Hồ Chí Minh bị tống giam tại Trung Quốc trong một năm, tình thế rất khó khăn Trước quân thù tàn
bạo các chiến sĩ cộng sản đã nêu cao ý chí kiên cường bất khuất và giữ vững niềm tin vào thăng lợi tât yêu của cách mạng
Dù trải qua nhiều khó khăn, nhưng với chủ trương “liên hiệp hết thay các giới
đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt
995
tôn giáo và xu hướng chính trị”, mặt trận Việt Minh nhanh chóng có được sự ủng
hộ không chỉ của hai giai cấp công nhân, nông dân, mà còn của tầng lớp trí thức, địa chủ yêu nước tiến bộ, tư sản dân tộc, tăng ni, giáo sĩ, phật tử Tầng lớp trí thức tiễn
bộ ngả về phía Việt Minh, hoạt động trong các hội truyền bá chữ quốc ngữ Từ miền
núi đến miền xuôi, từ ngoài Bắc vào trong Nam, một cao trào cứu nước phát triển
mạnh mẽ, khối đoàn kết dân tộc lớn mạnh chưa từng có, tạo bước đột phá về chất
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
4 Nxb Chính trị Quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Hà Nội, 2000, tập 7, tr 113
5 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Hà Nội, 2000, tr.461
6
Trang 9Trên quan điểm “cuộc cách mạng Đông Dương phải được kết liễu bằng một
296
cuộc khởi nghĩa võ trang”®, về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Trung ương Đảng quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những
đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu bảo vệ nhân
dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiễn tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc
Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm Tháng 11-1941, tiểu đội du kích thoát ly đầu tiên ở
Cao Bằng (gồm I3 người) được thành lập Cuối 1944, trước đòi hỏi gấp rút của tình
hình, khi ngày khởi nghĩa đang đến gần, căn cứ vào điều kiện thực tiễn, ĐCSĐD
thành lập lực lượng vũ trang làm đòn bẩy cho cao trào cách mạng toàn quốc bùng
nô Chọn trong hàng ngũ những đội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ, đội viên
kiên quyết, hăng hái nhất, tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực, tháng
12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời Vài ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyên giải phóng quân đã lập hai chiến công vang
dội hạ đồn Phai Khất (ngày 25-12) và đồn Nà Ngần (ngày 26-12)
Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng
Sản Việt Nam và Chủ tịch Hỗ Chí Minh tô chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện;
Một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; chiến đầu vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
2.2 Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa
Đầu năm 1945, Thế chiến thứ hai đang dần khép lại, quân Đồng Minh thắng
chỉ còn là vẫn đề thời gian Ở Việt Nam, Pháp ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng Minh vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ khôi phục lại quyền thống trị cho Pháp
Nhật đã tiên liệu trước điều này, ngày 9-3-1945, Nhật nô súng đảo chính Pháp, độc
chiếm Đông Dương, dựng chính phủ Báo Đại — Trần Trọng Kim lên làm bù nhìn,
phục vụ cho nền thống trị của chủ nghĩa phát xít
Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp ngày 12-
3- 1945 đưa ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính đã tạo nên khủng hoảng chính trị sâu sắc, song những
6 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.129
Trang 10điều kiện của cuộc tong khoi nghia vẫn chưa chín muồi Phát xít Nhật trở thành kẻ
thù chính của nhân dân Đông Dương Khẩu hiệu “Đánh đuôi Pháp — Nhật” được
thay bằng “Đánh đuôi phát xít Nhật”
Ở khu căn cứ địa Cao — Bắc — Lạng, Việt Nam Tuyên truyền Giái phóng quân
và Cứu quốc quân phối hợp lại thành một lực lượng chính trị của quần chúng giải
phóng hàng loạt xã, châu, huyện
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh rời Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang) làm trung
tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước Ngày 15-5-1945, Việt Nam Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thông nhất thành Việt Nam Giải phóng quân
Dựa vào tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đã ra sức tô chức một cách bài bản, quy mô rộng lớn, thống nhất từ Bắc xuống Nam, và chỉ đợi thời
cơ chín mùi đề lần đầu tiên thoát khỏi ách thông chính của chủ nghĩa thực dân —
phat xit
2.3 Cách mạng tháng Tám bùng nỗ
Giữa tháng 8-1945, cục diện thế chiến thứ hai đã ngã mũ, quân đồng minh tiến
công mạnh mẽ vào các vị trí của quân đội Nhật Bản ở Châu Á - Thái Bình Dương
Giữa trưa 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bồ đầu hàng Đồng minh vô điều kiện trên
sóng phát thanh của Nhật bản
Tuy nhiên, thách thức mới lại đến, Hội nghị Tanta thang 2 — 1945 và Hội nghị
Posdam tháng 7-1945 đều thống nhất cho Pháp tiếp tục cai quản Đông Dương và
quân Đồng minh sẽ vào Việt Nam đề áp giải lính Nhật Sau khi vào được Việt Nam, quân Đồng minh sẽ phối hợp với Pháp đặt lại chế độ thực dân cũ là rất cao Như vậy, thời cơ cách mạng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định: từ khi Nhật đầu
hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương
Ngày 12-8-1945, Ủy ban lâm thời khu giái phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong
khu Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban