Bởi vậy đã có các công trình và bài viết của một số tác giả về lĩnh vực này được công bố như: “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”– Luận án Tiến sỹ của tác giả Lê
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM
Trang 2BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi là: Trần Thuỳ Trang học viên lớp ChK20B khóa 2020 xin cam đoan đây
là công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu nào
đã được công bố Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan cung cấp số liệu Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình
Hà Nội, ngày tháng năm 2024
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Thuỳ Trang
Trang 4MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 5
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6
6 Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 7
7 Kết cấu của luận văn 7
Chương 1 LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO 8
1.1 Những vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 8
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quảng cáo thương mại và các hình thức quảng cáo thương mại phổ biến 8
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 13
1.2 Những vấn đề lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 19
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 19
1.2.2 Khái quát nội dung của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 22
1.2.3 Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật quảng cáo trong việc chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 26
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 29
Trang 52.1 Chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 29
2.1.1.Quy định pháp luật hiện hành về chủ thể tham gia thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 29 2.1.2 Thực tiễn thi hành quy định pháp luật về chủ thể tham gia thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 35
2.2 Hình thức biểu hiện của quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
bị cấm 38
2.2.1 Quy định pháp luật hiện hành về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 38 2.2.2 Thực trạng thực thi quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh bị cấm 43
2.3 Thẩm quyền và trình tự xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam 47
2.3.1 Quy định của pháp luật cạnh tranh về thẩm quyền và trình tự xử lý hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 47 2.3.2 Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật cạnh tranh về thẩm quyền
và trình tự xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 52
2.4 Chế tài xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 57
2.4.1 Quy định pháp luật hiện hành về chế tài xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 57 2.4.2 Thực trạng thực hiện quy định về chế tài xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 62
Kết luận chương 2 69 Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM 70 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 70
Trang 63.1.1 Đảm bảo mục tiêu của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, bảo vệ doanh
nghiệp và người tiêu dùng 70
3.1.2 Đảm bảo nguyên tắc và cơ chế áp dụng pháp luật để xử lý hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 71
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam 73
3.2.1 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo cần bổ sung các quy định và chế tài phù hợp đối với người chuyển tải sản phẩm, đặc biệt đối với người chuyển tải sản phẩm là người nổi tiếng, người có sức ảnh hưởng 73
3.2.2 Sửa đổi, bổ sung và làm rõ hơn quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có tính chất quảng cáo 75
3.2.3 Hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 75
3.2.4 Xây dựng, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh 76
3.2.5 Xây dựng, bổ sung các quy định để đảm bảo thẩm quyền của Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia trong việc xử lý các vụ việc liên quan đến đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 77
3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam 78
3.3.1 Nâng cao năng lực của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý và thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 78
3.3.2 Tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật cho cộng đồng doanh nghiệp và quần chúng nhân dân về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo 79
Kết luận chương 3 81
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
Trang 7MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Quy luật cạnh tranh là một trong những quy luật có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, điều tiết hệ thống thị trường; là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, áp dụng các tiến bộ khoa học - kĩ thuật trong sản xuất để tăng năng suất lao động, tìm cách thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng từ đó mang lại sự tăng trưởng và cải thiện hiệu quả kinh tế Đảm bảo cạnh tranh tự do và công bằng là một trong những giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, phục vụ sự nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước Để thúc đẩy cạnh tranh và truyền tải thông tin sản phẩm của mình đến khách hàng, các doanh nghiệp đã áp dụng rất nhiều phương thức, trong đó, quảng cáo là hình thức phổ biến nhất hiện nay
Quảng cáo là công cụ xúc tiến thương mại quan trọng, là công cụ để đưa thông tin của sản phẩm đến khách hàng Vì vậy hiện nay, hoạt động quảng cáo nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ đặc biệt cùng với sự phát triển của các trang mạng xã hội Facebook, Instagram, Tik Tok,… việc quảng cáo trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn Do đó số lượng quảng cáo ngày càng gia tăng với tốc độ chóng mặt Nhiều doanh nghiệp trong quá trình ganh đua, giành lợi thế cho mình đã lợi dụng quảng cáo để thực hiện hành vi trái với quy tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong hoạt động quảng cáo để tạo ra các lợi thế cạnh tranh không chính đáng Hay còn gọi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Cùng với sự phát triển và gia tăng số lượng của hoạt động quảng cáo, vấn
đề cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo cũng theo đó trở nên tinh
vi và thủ đoạn hơn Vì vậy đây là một trong những vấn đề đang được Nhà nước và
xã hội quan tâm Đặc biệt trong thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0 với điều kiện nước
ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo là công cụ hữu hiệu để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng Do đó ngày 12/6/2018, Quốc hội thông qua Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14, với tư cách là công cụ pháp lý để loại bỏ các biểu hiện hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, điều chỉnh mặt trái của cạnh tranh, đạo luật dành riêng 1 chương về hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm (Chương VI) trong đó có hành vi liên quan đến quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Ngoài Luật Cạnh tranh, để loại bỏ các biểu hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trang 8trên thị trường Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh ngày 26/9/2019 và Nghị định 70/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 181/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Quảng cáo ngày 20/7/2021
Luật Cạnh tranh 2018 đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định để hạn chế và kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Luật Cạnh tranh 2004 Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, Luật Cạnh tranh 2018 không tiếp tục quy định cụ thể mà khẳng định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định tại các bộ Luật khác được thực hiện theo pháp luật từng ngành Vì vậy với hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng được quy định trong Luật Quảng cáo 2012, theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018 sẽ ưu tiên các quy định của Luật Quảng cáo trong việc xử lý các vụ việc quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Mặc dù vậy, pháp luật cạnh tranh với chức năng tạo lập nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh và điều tiết các hoạt động cạnh tranh trong mọi lĩnh vực, dù đã
có các luật chuyên ngành nhưng Luật Cạnh tranh vẫn cần được áp dụng với mọi đối tượng liên quan tới cạnh tranh trên thị trường nên Luật Cạnh tranh 2018 vẫn có các quy định điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Tuy nhiên Luật Cạnh tranh 2018 vẫn còn chưa thực sự toàn diện, chưa bao quát hết được các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thị trường Ngoài ra, việc xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh bằng các chế tài khác nhau đã được quy định nhưng tính răn đe vẫn còn thấp Chưa
kể đến, thẩm quyền thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam thuộc về cơ quan hành chính là Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia thuộc Bộ Công Thương mà không phải là tòa án, khiến khả năng các điều luật được cụ thể hóa thông qua các án lệ, vốn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này bị hạn chế Bởi vậy có thể nói luật Cạnh tranh 2018 vẫn chưa phát huy được hết vai trò của mình trong việc hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo trên thị trường
Vì vậy việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của nước ta Đó là lý do để em lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ.\
Trang 92 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các vấn đề về pháp luật cạnh tranh luôn nhận được rất nhiều sự quan tâm chú
ý của các nhà nghiên cứu Luật học Bởi vậy đã có các công trình và bài viết của một
số tác giả về lĩnh vực này được công bố như:
“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”– Luận án Tiến
sỹ của tác giả Lê Anh Tuấn – Năm 2008 - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam”– Luận án Tiến sỹ của tác giả Trịnh Anh Tuấn – Năm 2015 - Viện Nghiên cứu Thương mại – Bộ Công Thương, Hà Nội;
“Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay” ”– Luận án Tiến sỹ của tác giả Hồ Thị Duyên – Năm 2016 - Học viện Khoa học Xã hội;
“Hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay” – Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Đức Hòa – Năm 2017 - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
“Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam”– Luận văn Thạc sỹ của tác giả Trịnh Thị Liên Hương – Năm 2010
- Trường Đại học Luật Hà Nội;
“Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam”– Luận văn Thạc sỹ của tác giả Quách Thị Hương Giang – Năm 2011 - Khoa Luật Đại học Quốc gia;
“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”– Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đinh Đức Minh – Năm 2012 - Trường Đại học Luật Hà Nội;
“Những vấn đề lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo trên website ở Việt Nam” – Luận văn Thạc sỹ của tác giả Phạm Đức Hoan – Năm 2013 - Học viện Khoa học xã hội;
“Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo trên truyền hình theo pháp luật hiện nay” – Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đỗ Tuấn Anh – Năm
2018 - Trường Đại học Mở Hà Nội;
“Pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.” – Luận văn Thạc sỹ của tác giả Trần Ngọc Tân – Năm 2018 -
Trang 10Trường Đại học Mở Hà Nội;
“Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh 2018” – Luận văn Thạc sỹ của tác giả Bùi Thị Mai Linh – Năm 2019 - Trường Đại học Mở Hà Nội;
Ở các công trình nghiên cứu trên, dựa trên các quy định của Luật Cạnh tranh, các tác giả đã tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về cạnh tranh trong hoạt động quảng cáo, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh quảng cáo trong nền kinh tế thị trường; đánh giá
lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở một số nước trên thế giới và rút ra bài học trong chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo cho Việt Nam; luận giải về vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, từ đó đề xuất các giải pháp thi hành hiệu quả pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, như điều chỉnh khái niệm cạnh tranh không lành mạnh, hoàn thiện thủ tục và trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của cơ quan cạnh tranh và một số giải pháp khác Đồng thời, các công trình nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, người tiêu dùng Việt Nam hiện nay đang bị “lừa dối” bởi sự quảng cáo không trung thực, bởi lượng hàng nhái, hàng giả nhiều vô kể trên thị trường Họ không thể tự mình xác định được một cách chính xác chất lượng của hàng hóa đang lưu thông trên thị trường, họ hoang mang trước những quảng cáo quá lố trên phương tiện thông tin đại chúng Quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm hại nghiêm trọng và đang rất cần sự bảo vệ của Nhà nước, các quy định của pháp luật và các công cụ trấn áp của quyền lực công
Ở cấp độ bài đăng trên tạp chí có thể kể đến một số bài viết như:
“Bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra” của PGS.TS Đỗ Văn Đại, Th.S Nguyễn Thị Hòa Trâm trên Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh số 2/2012;
“Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh – một số vấn đề lý luận” của Th.S Hồ Thị Duyên trên Tạp chí Thanh tra số 05/2015;
“Pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu” của Th.S Nguyễn Hoàn Hảo trên Tạp chí Pháp luật và thực tiễn số 41/2019;
“Nâng cao hoạt động kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” của Th.S Nguyễn Thuỳ Dung trên Tạp chí Nghề luật số 09/2020;
Trang 11“Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: nhìn từ hành vi của doanh nghiệp tổ chức hội chợ thương mại” của TS Nguyễn Sơn Hà, Th.S Mai Xuân Hợi trên Tạp chí Pháp luật và thực tiễn số 51/2022
Ở các mức độ khác nhau, các tác phẩm này đều thể hiện sự cần thiết phải có
sự can thiệp của Nhà nước đối với hành vi cạnh tranh nói chung và hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng Các cơ quan nhà nước cần phải chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để bảo vệ người tiêu dùng, doanh nghiệp và đảm bảo sự
Có thể thấy các vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh không lành mạnh và chống cạnh tranh không lành mạnh đã được nghiên cứu một cách tương đối hệ thống Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và đề tài trên đa phần đều được tiếp cận theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản pháp lý khác đã được sửa đổi, bổ sung,
thậm chí là hết hiệu lực Vì vậy đề tài “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam” được nghiên cứu và tiếp cận theo
các quy định của Luật Cạnh tranh 2018 có thể đánh giá là có tính mới, tính cấp thiết
và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn
3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo theo pháp luật Việt Nam Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và củng
cố pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo phù hợp với điều kiện của Việt Nam, góp phần tạo nên môi trường kinh doanh công bằng, thuận lợi và bình đẳng
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích như trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ:
- Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh để làm rõ hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
- Thứ hai, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, từ đó đánh giá thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam
- Thứ ba, đề xuất các phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
Trang 12chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Là các văn bản pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh mà không nghiên cứu về pháp luật quảng cáo nói chung
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh tranh
về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định và thực tiễn thực hiện các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo kể từ năm 2018 đến nay (thời điểm Luật Cạnh tranh 2018 được ban hành)
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh - những học thuyết cách mạng, khoa học, đã chỉ ra bản chất và xu hướng phát triển về kinh tế ở các quốc gia cũng như trên thế giới mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời đại; Chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ 4.0
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp biện chứng duy vật lịch sử thường được áp dụng trong nghiên cứu khoa học; phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, bình luận,…được sử dụng xuyên suốt để làm rõ các quy định của pháp luật; phương pháp thống kê, hệ thống được sử dụng để thống kê các tài liệu, bài viết, luận văn, bài báo khoa học và các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ làm nguồn tài liệu tham khảo; phương pháp phân tích tổng hợp, quy nạp, diễn dịch được sử dụng để kiến nghị các giải pháp phù hợp
Trang 136 Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lí luận
Luận văn phân tích những khái niệm, đặc điểm để làm rõ bản chất của quảng cáo và hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Từ đó nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện một số vấn đề về pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam hiện nay
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn nêu ra những hạn chế, bất cập và vướng mắc của pháp luật hiện hành,
từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp mang tính khả thi góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật pháp luật về hành cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng
để giải quyết nhiều vấn đề mà hoạt động thực tiễn đang đặt ra nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và hành lang pháp lý mạnh mẽ chống cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế Đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo luật
7 Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu thì nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Chương 2: Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam
Trang 14Chương 1 LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT
ĐỘNG QUẢNG CÁO 1.1 Những vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quảng cáo thương mại và các hình thức quảng cáo thương mại phổ biến
1.1.1.1 Khái niệm quảng cáo thương mại
Hiện nay, không chỉ Việt Nam mà trên toàn thế giới, quảng cáo đã trở thành một phần không thể tách rời trong cuộc sống hàng ngày của mỗi cá nhân Bởi vì, quảng cáo là một công cụ hữu hiệu để xúc tiến thương mại đã có lịch sử hình thành
từ thời xa xưa Từ thời cổ đại, người Ấn Độ đã sử dụng các phiến đá để làm thông báo từ 4000 năm trước Đến khi máy in ra đời, con người có thể in ấn và sản xuất quảng cáo dưới dạng tờ rơi và áp phích với số lượng lớn Vào thế kỷ XVIII, quảng cáo báo chí đã xuất hiện lần đầu trên một tờ tuần báo tại Anh Từ đó quảng cáo xuất hiện dưới hình thức áp phích, tờ rơi, báo chí đã xuất hiện khắp Châu Âu và các nước Bắc Mỹ và phát triển cho đến tận ngày nay Quảng cáo tiếp tục phát triển song song với sự phát triển về khoa học công nghệ, hiện nay, quảng cáo đã xuất hiện dưới rất nhiều hình thức: báo viết, báo hình, báo điện tử, video quảng cáo trực tuyến, review sản phẩm,… Quảng cáo xuất hiện ở mọi nơi, mọi ngóc ngách trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta và vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ
Theo Philip Kotler, một trong những cay đại thụ của ngành Marketing nói chung và ngành quảng cáo nói riêng trên thế giới lại đưa ra những khái niệm khác về
quảng cáo Trong cuốn Marketing căn bản: “Quảng cáo là hình thức truyền thông không trực tiếp được thực hiện thông qua những phương tiện truyền tin phải trả tiền
và xác định rõ nguồn kinh phí” [26, tr.367] Trong cuốn “Quản trị Marketing” tại chương 20 ông lại viết “Quảng cáo là một hình thức trình bày gián tiếp và khuếch trương ý tưởng, hàng hoá hay dịch vụ được người bảo trợ nhất định trả tiền” [27,
Trang 15có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách
xã hội; thông tin cá nhân”
Từ các khái niệm trên, ta có thể thấy, quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc quảng bá, giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch
vụ, công ty,… đến khách hàng Đây là một phương tiện truyền thông mạnh mẽ Qua phương tiện này, thương nhân muốn tác động đến tâm lý, thói quen và hành vi của người tiêu dùng, thuyết phục người tiêu dùng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ Đồng thời người tiêu dùng cũng thông qua phương tiện này mà biết được nhiều hơn về thông tin hàng hóa, dịch vụ có khả năng đáp ứng được nhu cầu của mình
Luật Quảng cáo 2012 đã phân quảng cáo thành hai loại là quảng cáo có mục đích sinh lời và quảng cáo không có mục đích sinh lời Đối với quảng cáo có mục đích sinh lời, đây là hình thức quảng cáo giúp doanh nghiệp tạo ra doanh thu, lợi nhuận, tăng cường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp thu hút khách hàng
và tạo ra tác động tích cực đối với người xem để thúc đẩy họ thực hiện một hành động nhất định, thường là mua sắm, sử dụng dịch vụ, hoặc hỗ trợ mục tiêu kinh doanh Còn quảng cáo không có mục đích sinh lời là những chiến dịch quảng cáo không hướng đến việc tăng cường doanh số bán hàng hoặc lợi nhuận mà mục tiêu chính là tuyên truyền, cung cấp thông tin, giáo dục hoặc tạo ra nhận thức về các vấn đề xã hội, môi trường, văn hóa, hoặc các mục tiêu khác Ví dụ như các chiến dịch quảng cáo liên quan đến việc giáo dục về an toàn giao thông, bảo vệ môi trường,…
Do đó để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu, ở đề tài nghiên cứu khoa học
về “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở
Việt Nam” này, em sẽ tập trung phân tích về quảng cáo có mục đích sinh lời của tổ
chức, cá nhân kinh doanh quảng cáo (cũng chính là quảng cáo thương mại)
Sở dĩ phải là hành vi quảng cáo thương mại bởi vì mặc dù hoạt động quảng cáo không tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa, nhưng có vai trò rất lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh doanh Với tư cách là hoạt động xúc tiến thương mại, thương nhân phải trả một khoản tiền để thông tin quảng cáo đến với đối tượng mình muốn Việc phải trả tiền cho quảng cáo tách nó ra khỏi
xu hướng tự do thông tin của xã hội nói chung; đồng thời, nhà quảng cáo có thể cung cấp thông tin một cách chọn lọc, có định hướng tới người tiêu dùng [31], giúp nhà quảng cáo đạt được mục đích tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, tối đa lợi nhuận Điều này thể hiện bản chất thương mại của quảng cáo mà hoạt động
Trang 16tuyên truyền, phổ biến thông tin khác không có được Khẳng định bản chất thương mại của quảng cáo, Luật của Cộng đồng Châu Âu phân biệt rõ: “Quảng cáo không bao gồm: các thông tin do cơ quan phát thanh thực hiện có liên quan tới chương trình của cơ quan và các sản phẩm trực tiếp của chương trình này; các thông tin về dịch vụ công cộng và các lời kêu gọi cho việc làm từ thiện, miễn phí” [32, tr.15-16]
1.1.1.2.Đặc điểm của quảng cáo thương mại
Khác với quảng cáo nói chung và các hoạt động xúc tiến thương mại khác thì quảng cáo thương mại có các đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể hoạt động quảng cáo thương mại là thương nhân Với tư
thiết để quảng cáo để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch
vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận Đây là đặc điểm khác biệt của quảng cáo thương mại đối với các hoạt động thông tin, cổ động
do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… thực hiện nhằm tuyên truyền
về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước Với bản chất là một hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, quảng cáo thương mại khác biệt với quảng cáo nói chung, mặc dù chúng đều có chung đặc điểm là một quá trình thông tin
Thứ hai, về cách thức xúc tiến thương mại Trong hoạt động quảng cáo thương
mại, thương nhân sử dụng sản phẩm và phương tiện quảng cáo thương mại để thông tin về hàng, hóa dịch vụ đến khách hàng Đặc điểm này là đặc điểm riêng biệt của quảng cáo thương mại với hình thức xúc tiến thương mại cũng có mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ như trưng bày, hội chợ triển lãm
Sản phẩm của quảng cáo thương mại là các hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng hay màu sắc ánh sáng được thiết kế để làm toát lên sản phẩm mà cá nhân hay tổ chức muốn đưa tới cho khách hàng Nội dung quảng cáo thương mại cũng chính là những sản phẩm thương mại có tính định hình sản phẩm Sản phẩm quảng cáo được truyền tải đến công chúng thông qua phương tiện quảng cáo
Phương tiện quảng cáo của quảng cáo thương mại rất đa dạng gồm: các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình,…; các phương tiện truyền tin như radio, loa phát thanh,…; các loại xuất bản phẩm như báo chí, tạp chí, tuần san,…; các loại bảng, biển, băng rôn, áp phích, vật thể cố định, các phương tiện giao thông hay các vật thể di động khác Các thương nhân có thể sử dụng một hoặc nhiều loại
Trang 17phương tiện quảng cáo trong quá trình quảng cáo để thông tin về hàng hoá, dịch vụ đến khách hàng
Thứ ba, về mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại Với mục đích giới
thiệu về hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân Thông qua các hình thức truyền đạt thông tin, thương nhân giới thiệu về một loại hàng hóa, dịch vụ mới, tính ưu việt về chất lượng, giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng… Như vậy, thương nhân có thể tạo sự nhận biết và kiến thức về hàng hóa, dịch vụ, có thể thu hút khách hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của công ty khác thông qua việc nhấn mạnh đặc điểm và lợi ích của một nhãn hiệu cụ thể hoặc thông qua việc chỉ ra tính ưu việt có căn cứ của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại Có thể nói đây là những lợi thế mà thương nhân
có thể khai thác vì nó có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng nhu cầu tiêu dùng xã hội bao gồm nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất
Từ các đặc điểm trên ta có thể thấy, quảng cáo thương mại có vai trò xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân Thương nhân sử dụng quảng cáo thương mại để thông tin về hàng hóa, dịch vụ của mình đến khách hàng Từ đó thương nhân có thể giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ của mình, từ giới thiệu đặc điểm và lợi ích của sản phẩm, cho đến chỉ ra tính ưu việt của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại đến khách hàng và qua đó thu hút khách hàng mua các sản phẩm của mình Có thể nói đây là những đặc trưng riêng biệt mà chỉ quảng cáo thương mại mới có được
1.1.1.3 Các hình thức quảng cáo thương mại phổ biến
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường số lượng thương nhân xuất hiện ngày càng nhiều, đi cùng với đó chính là sự cạnh tranh giữa các thương nhân cũng ngày càng khốc liệt Bởi vậy họ không thể nào bỏ qua công cụ vô cùng hữu hiệu là quảng cáo Cùng với đó chính là sự phát triển của khoa học kỹ thuật, quảng cáo đã phát triển mạnh mẽ và được xuất hiện dưới nhiều hình thức Trong đó không thể không nhắc tới một số hình thức quảng cáo thương mại phổ biến thường được các doanh nghiệp sử dụng
(i) Quảng cáo ngoài trời: là loại hình quảng cáo thương mại đặt biển hiệu ở tầm cao như bảng quảng cáo trên nóc, tường nhà, cột quảng cáo trên đường,… Tuy nhiên, đây là hình thức quảng cáo thương mại có đối tượng người xem rất hạn chế do các biển quảng cáo chỉ nằm bất động một chỗ Phần lớn những người nhìn thấy quảng
Trang 18cáo này đều là những người thường xuyên đi lại trên tuyến đường đó hoặc sinh sống
và làm việc tại nơi đó
(ii) Quảng cáo trên truyền hình: Đây là một hình thức quảng cáo thương mại rất quen thuộc, nó là hình thức quảng cáo được các doanh nghiệp lớn ưa chuộng và
sử dụng nhiều nhất hiện nay Đây được xem là một trong các hình thức quảng cáo thương mại hiệu quả nhất hiện nay tại Việt Nam Hình thức này có phạm vi truyền tải rộng và thu hút được đối tượng người xem nhờ truyền tải được đầy đủ hình ảnh,
âm thanh một cách chân thực về các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
(iii) Quảng cáo trên báo chí: là loại hình quảng cáo thương mại có tuổi thọ lâu đời nhất trong các loại hình quảng cáo Mặc dù hiện nay báo giấy và tạp chí đã có phần thua thiệt so với báo mạng nhưng hình thức quảng cáo thương mại này vẫn được các doanh nghiệp gửi gắm sản phẩm của mình vào bởi hình thức quảng cáo này có mức giá rẻ và có thời gian tiếp cận người tiêu dùng lâu dài khi thông tin được truyền tay nhau đọc
(iv) Quảng cáo trực tuyến: đây là hình thức quảng cáo thương mại đang được
ưa chuộng và phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam Quảng cáo trực tuyến là hình thức quảng cáo thông qua nền tảng Internet với các phương tiện, công cụ như email, mạng
xã hội, thiết bị di động,…để truyền tải thông điệp đến khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp Hình thức quảng cáo này có khả năng nhắm chọn khách hàng mục tiêu, khả năng theo dõi hành vi người dùng, tính tương tác với người dùng, khả năng phân phối
và tính linh hoạt khi nó có thể được cập nhật liên tục, có thể bắt đầu và hủy bỏ bất cứ lúc nào
(v) Quảng cáo tổ chức sự kiện: là một hình thức quảng cáo thương mại mới được các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn ưa chuộng Là hình thức quảng cáo bằng phương thức tổ chức một sự kiện để giới thiệu sản phẩm được xem
là phương thức hữu hiệu nhất khi doanh nghiệp muốn quảng bá sản phẩm của mình đến tận tay người tiêu dùng Thông qua việc tổ chức sự kiện, các doanh nghiệp có thể nâng cao giá trị và tầm nhìn từ công chúng đối với hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp Từ đó tạo sự tin tưởng từ phía khách hàng và tạo được sự nhận diện của người tiêu dùng đối với thương hiệu của họ Bởi vậy hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp sử dụng hình thức quảng cáo thương mại này
Hiện nay, hình thức quảng cáo thương mại rất đa dạng nhưng nhìn chung về bản chất quảng cáo chỉ là công cụ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của thương nhân,
là cô ng cụ cạnh tranh lành mạnh và trong sáng, góp phần định hû ớng tiê u dùng trong
Trang 19dâ n chúng và thúc đẩy nền kinh tế phát triển Thế nhưng, trong quá trình cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuậ n, nhiều doanh nghiệ p ganh đua, nô n nóng thu hút khách hàng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình đã sử dụng nhiều thủ đoạn không chính đáng để cạnh tranh không lành mạnh và quảng cáo thương mại là công cụ bị lợi dụng nhiều nhất
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
1.1.2.1 Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
a) Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh xuất hiện từ thế kỷ XIV khi sản xuất hàng hoá xuất hiện Có thể nói cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng và các điều kiện thuận lợi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình Mặt khác, cạnh tranh cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp Cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng, dẫn đến quá trình tập trung hóa trong từng ngành, vùng, quốc gia Để không bị loại “ra khỏi cuộc chơi”, nhiều doanh nghiệp đã tìm mọi cách, kể cả những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, không phù hợp với đạo đức kinh doanh để giành phần thắng về phía mình
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về hành vi cạnh tranh không lành mạnh Hiểu theo nghĩa rộng thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm tất cả các hành vi cạnh tranh bằng việc sử dụng các thủ đoạn bất chính xâm hại tới các hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại đến quyền tự do cạnh tranh một cách công bằng của các doanh nghiệp Hiểu theo quan niệm này, các hành vi hạn chế cạnh tranh (Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường) cũng thuộc vào phạm trù “Cạnh tranh không lành mạnh”
Công ước Paris 1883 về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Đây là một trong những Điều ước quốc tế sớm nhất có quy định về việc chống các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh) có quy định: “Bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với hoạt động thực tiễn trung thực, thiện chí trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi
Trang 20là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”[38] (Điều 10Bis – Được bổ sung vào Công
ước từ năm 1900 và được sửa đổi lần cuối theo văn bản Stockholm năm 1967)
Tại khoản 6, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam giải thích về cạnh
tranh không lành mạnh như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”
Qua các quan điểm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên, ta có thể thấy một điểm chung giữa các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là hành vi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận mà đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại lợi ích của doanh nghiệp khác
Đồng thời ta có thể thấy Luật Cạnh tranh 2018 đã thay đổi khái niệm cạnh tranh không lành mạnh so với Luật Cạnh tranh 2004 Khoản 4 Điều 3 Luật cạnh tranh
năm 2004 quy định: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường
về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng” Có
thể thấy Luật Cạnh tranh 2018 đã có sự điều chỉnh kịp thời cho phù hợp tình hình kinh tế hiện nay Cụ thể:
Thứ nhất, yếu tố đánh giá về tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh đã được đổi từ “các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” theo Luật Cạnh tranh năm 2004 thành “nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh” Nguyên tắc thiện chí, trung thực được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực” Tập quán thương mại được hiểu là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại (căn cứ vào Khoản 4 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005)
Thứ hai, định nghĩa mới đặt trọng tâm vào xem xét tác động của hành vi cạnh tranh không lành mạnh tới doanh nghiệp khác nhiều hơn việc xem xét tác động đến người tiêu dùng hay trật tự quản lý nhà nước như định nghĩa của Luật Cạnh tranh năm 2004
Trang 21c) Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề cần quan tâm trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, Theo Luật Cạnh tranh 2018 không
có quy định nào định nghĩa cụ thể quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh nhưng tại khoản 5 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh
bị cấm có tính chất quảng cáo, bao gồm:
“- Hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ và những thông tin có liên quan nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác;
- Hành vi so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung.”
Luật Quảng cáo 2012 đã cụ thể hóa những hành vi bị coi là quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện và kiểm tra hoạt quảng cáo của doanh nghiệp Ngoài ra, Luật quảng cáo năm 2012 cũng không đưa ra giải thích thế nào là cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo mà chỉ quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo tại Điều 8 gồm 16 nhóm hành vi, trong đó có hành vi “Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh” tại khoản 12
Từ khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm (trong đó có liên quan đến hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm) trong Luật Cạnh tranh 2018 Theo em, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là hành vi quảng cáo được thương nhân thực
hiện trong hoạt động kinh doanh trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán
thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác
1.1.2.2 Đặc điểm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Thứ nhất, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
quảng cáo thương mại
Hiện nay, khoa học pháp lý Việt Nam tồn tại hai quan niệm về quảng cáo Một quan niệm hiểu quảng cáo theo nghĩa chung, bao gồm hoạt động thông tin lợi nhuận
và phi lợi nhuận Một quan niệm khác coi quảng cáo là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân, là công cụ để thương nhân tăng cường cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Trang 22Với tư cách là chủ thể kinh doanh, thương nhân mong muốn giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của mình đến với rộng rãi công chúng Thông qua sản phẩm và phương tiện quảng cáo, thương nhân truyền tải thông tin về hàng hoá, dịch vụ của mình đến thị trường, giúp cho người tiêu dùng biết nhãn hiệu, tính năng, công dụng, cách bảo dưỡng, giá cả, cách mua và địa điểm mua hàng hoá mình mong muốn bán Nhờ vậy, thương nhân có thể lôi kéo, thuyết phục lượng khách hàng, tăng doanh thu và tối đa lợi nhuận Việc thông tin này cũng rất cần thiết cho khách hàng, giúp họ có sự so sánh trước khi quyết định lựa chọn sản phẩm nào Có thể nói, quảng cáo có khả năng định hướng tiêu dùng, qua đó giúp doanh nghiệp cạnh tranh, giành thị phần trên thị trường
Do vậy, hành vi quảng cáo thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh phải được hiểu theo khái niệm mà Luật Thương mại đã đề cập, theo đó, quảng cáo phải là hành vi thương mại của thương nhân
Thứ hai, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
thương mại của thương nhân trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh nhằm mục đích lôi kéo bất chính khách hàng của doanh nghiệp khác
Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi thương mại của thương nhân Trong hoạt động quảng cáo thương mại có nhiều chủ thể tham gia với mục đích, cách thức và mức độ khác nhau Theo quy định của pháp luật, hoạt động quảng cáo thương mại có sự tham gia của các chủ thể sau:
(i) Thương nhân quảng cáo là chủ thể có nhu cầu quảng cáo sản phẩm, dịch
công việc cần thiết để quảng cáo để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác thông qua hợp đồng dịch vụ
(ii) Thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các công đoạn của quá trình quảng cáo thương mại và cung cấp dịch vụ quảng cáo thương mại cho người thuê quảng cáo thông qua hợp đồng dịch vụ
(iii) Người phát hành quảng cáo thương mại là chủ thể dùng phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quảng cáo của mình giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng, bao gồm cơ quan báo chí, nhà xuất bản, chủ trang thông tin điện tử, người tổ chức chương trình văn hóa, thể thao và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác
Trang 23(iv) Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo: Là người trực tiếp đưa các sản phẩm quảng cáo đến công chúng hoặc thể hiện sản phẩm quảng cáo trên thông qua hình thức mặc, treo, gắn, dán, vẽ hoặc các hình thức tương tự như các đại diện bán hàng, nhân viên quảng cáo, người nổi tiếng,…
Vậy thương nhân thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh 2018 là chủ thể nào? Luật Quảng cáo 2012 truy cứu trách nhiệm đối với thương nhân quảng cáo, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo
và thương nhân phát hành quảng cáo Cụ thể nếu quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh thì thương nhân quảng cáo sẽ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo của mình trong trường hợp trực tiếp thực hiện quảng cáo trên các phương tiện hoặc liên đới chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo trong trường hợp thuê người khác thực hiện; thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo sẽ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo do mình trực tiếp thực hiện; thương nhân phát hành quảng cáo phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sản phẩm quảng cáo thực hiện trên phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quản lý của mình
Còn với người chuyển tải sản phẩm, mặc dù trên thực tế với sự phát triển công nghệ thông tin, những ứng dụng, các trang mạng xã hội Youtube, TikTok, Facebook, Zalo,… hiện nay người nổi tiếng có thể trực tiếp nhận sản phẩm quảng cáo, tự lên kịch bản quảng cáo cùng ekip riêng và đăng tải các sản phẩm quảng cáo đó lên các trang mạng xã hội Thậm chí nhiều người nổi tiếng còn lợi dụng danh tiếng của mình
để quảng cáo thổi phồng sản phẩm, cung cấp thông tin không chính xác, sai sự thật,… nhưng theo Luật Quảng cáo 2012 thì người chuyển tải sản phẩm được xem như là một phương tiện quảng cáo chứ không phải một chủ thể tổ chức thực hiện quảng cáo nên cũng không phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm quảng cáo Từ đó ta có thể thấy thương nhân thực hiện hành vi quảng cáo không lành mạnh theo quy định của pháp luật là thương nhân quảng cáo, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo và thương nhân phát hành quảng cáo
Nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong hoạt động quảng cáo là những quy tắc, chuẩn mực quy định dành cho các chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quảng cáo, giúp đảm bảo sự công bằng, minh bạch và tôn trọng đối với người tiêu dùng Khi thực hiện hoạt động quảng cáo, chủ thể chịu sự điều chỉnh của nhiều quy tắc khác nhau, hướng đến hành vi cạnh tranh lành mạnh Theo em, nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong hoạt động quảng cáo thể hiện
ở các nội dung:
Trang 24+ Quảng cáo phải đảm bảo tính trung thực, nghĩa là thông tin trong sản phẩm quảng cáo phải chính xác, đầy đủ; không được thổi phồng, phóng đại, nói quá;
+ Quảng cáo phải tôn trọng đối thủ cạnh tranh: nghĩa là thương nhân phải cạnh tranh bằng chính năng lực của mình Không bắt chước sản phẩm quảng cáo của đối thủ; không thông qua sản phẩm quảng cáo để dèm pha, công kích, nói xấu hay hạ
+ Quảng cáo phải đảm bảo sự tôn trọng con người: sự tôn trọng con người thể hiện trong việc cung cấp thông tin trung thực trong sản phẩm quảng cáo; không khai thác sự kém hiểu biết, hoặc thiếu thông tin của một số đối tượng (như người già, trẻ em) hoặc hạn chế của người nghèo, người khuyết tật;
+ Sản phẩm quảng cáo không chứa đựng các thông tin nhằm dụ dỗ, lôi kéo khách hàng;
+ Sản phẩm quảng cáo không chứa đựng nội dung, hình ảnh gây phản cảm; + Chuẩn mực kinh doanh trong quảng cáo đặt ra những nguyên tắc đạo đức như sự công bằng, tôn trọng quyền lợi của người tiêu dùng, và tuân thủ các quy định pháp luật về quảng cáo của doanh nghiệp
+ Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội cả trong hoạt động quảng cáo
Thứ ba, hậu quả của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp khác
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng có đối tượng bị xâm hại cụ thể là lợi ích của doanh nghiệp khác Thiệt hại mà hành vi gây ra có thể có thật, xác định được hoặc cũng có thể chỉ là tiềm năng, có căn cứ rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi
Thông qua hoạt động quảng cáo, doanh nghiệp công kích, hạ uy tín đối thủ cạnh tranh bằng các quảng cáo so sánh; hoặc bắt chước sản phẩm quảng cáo của doanh nghiệp nổi tiếng tạo cho khách hàng sự nhầm lẫn về chủ thể cung cấp hàng hoá, dịch vụ Hay nói cách khác, là doanh nghiệp khai thác uy tín, thương hiệu của đối thủ để làm lợi cho mình Thiệt hại ở đây được hiểu là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lợi và những tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường Trong một số trường hợp, hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp này có thể xâm hại đến lợi ích của doanh nghiệp khác nếu không kịp
Trang 25thời ngăn chặn Xâm phạm đến quyền lợi của đối thủ cạnh tranh là việc thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh Về nguyên tắc, do xuất phát từ yêu cầu bồi thường thiệt hại là một chế định điển hình của luật tư nên tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ xử lý khi có yêu cầu của người
sở pháp lý để xử lý các trường hợp vi phạm; giúp đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong quảng cáo thương mại; khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh bằng cách tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, các doanh nghiệp phải cạnh tranh dựa trên chất lượng sản phẩm, dịch vụ và chiến lược quảng cáo hợp lý, thay vì các chiến lược cạnh tranh không lành mạnh; giúp bảo vệ quyền lợi và an toàn của người tiêu dùng, bằng cách ngăn chặn các hành vi quảng cáo gian lận, lừa dối,… Có thể nói pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo có thể hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh, chống lại các hành vi cạnh tranh của thương nhân trong hoạt động quảng cáo trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích, quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác
Trang 261.2.1.2 Đặc điểm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Với tư cách là luật lệ của cuộc tranh đua, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia cạnh tranh, duy trì
cơ chế cạnh tranh như là xương sống của nền kinh tế thị trường, đặt các hoạt động cạnh tranh dưới sự ràng buộc của luật pháp
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo có một
số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về bản chất: Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo là một bộ phận của pháp luật cạnh tranh, thuộc chế định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, vì vậy, nó cũng mang đặc điểm của pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh Do đó, về bản chất, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo thuộc loại pháp luật “ngăn cản”, mang tính “can thiệp” [1]
Pháp luật cạnh tranh không phải là pháp luật có mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế Mục tiêu chính của nó là bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng; bảo vệ lợi ích của người sản xuất, tiêu dùng, Nhà nước và xã hội [34, tr.11] Những quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng chính là nơi pháp luật cạnh tranh được coi là hoàn thiện nhất Bởi cũng chính ở đó, hoạt động cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ và hết sức phức tạp Tính ngăn cản của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh thể hiện ở cấm chủ thể thực hiện các hành vi nhất định; không hướng dẫn chủ thể phải làm gì, làm như thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động quảng cáo Hay nói cách khác, pháp luật cạnh tranh tiếp cận hành vi cạnh tranh từ mặt trái của nó [34, tr.11] Là luật điều tiết thị trường nên pháp luật cạnh tranh được thiết kế hết sức mềm dẻo để thích ứng với sự biến động của thị trường [35, tr.25]
Thứ hai, về mục đích điều chỉnh: Ngăn chặn các hành vi quảng cáo sai trái
bằng việc quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, các chủ thể có căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, tránh vi phạm pháp luật và có thể tố giác hành vi vi phạm luật; giải quyết các tranh chấp phát sinh và xử lý vi phạm nhằm mục đích răn đe, giáo dục; xây dựng nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử trong kinh doanh và các hoạt động liên quan đến quảng cáo; xây dựng trật tự kinh doanh lành mạnh, công bằng trong lĩnh vực quảng cáo
Trang 27Thứ ba, về phạm vi điều chỉnh: Phạm vi điều chỉnh pháp luật cạnh tranh trong
lĩnh vực quảng cáo là các quan hệ cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo được pháp luật cạnh tranh điều chỉnh trong mối quan hệ với pháp luật quảng cáo và pháp luật chuyên ngành khác có liên quan
Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo bao gồm các văn bản pháp luật cạnh tranh, các văn bản pháp luật chuyên ngành về quảng cáo và các văn bản pháp luật khác: Pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo rất phong phú, đa dạng và có tính đặc thù Hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo được ghi nhận trong Luật Cạnh tranh, Luật Quảng cáo và các văn bản pháp luật khác như: Nghị định 75/2018/NĐ-CP về Quảng cáo, Nghị định 59/2011/NĐ-CP
về Quảng cáo Bất động sản,… Các nguồn luật được xây dựng theo hệ thống, có liên quan chặt chẽ với nhau và được bảo đảm thực hiện có hiệu quả, thể hiện rõ quan hệ tương tác giữa pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo nói chung, quảng cáo thương mại nói riêng với các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành khác và có sự liên quan mật thiết và phối hợp đồng bộ Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Cạnh tranh với quy định của luật chuyên ngành về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo thì ưu tiên áp dụng quy định của các văn bản luật chuyên ngành
Đặc điểm này của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam khá giống với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở các quốc gia khác Bởi vì, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của các quốc gia thường xây dựng các quy định có tính nguyên tắc để xác định hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Các quy định
đó có thể tập trung trong một văn bản hay rải rác ở các văn bản khác nhau Ví dụ: Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Hoa Kỳ được quy định trong Luật Lanham (điều 43a) và trong Luật về Ủy ban thương mại liên bang (phần 5) Trong Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của CHLB Đức dành phần 6 để quy định về quảng cáo so sánh, phần 5 quy định về hành vi thương mại gây nhầm lẫn (trong đó có hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn) Pháp là quốc gia không có văn bản
Trang 28luật cạnh tranh độc lập, nguồn của pháp luật cạnh tranh Pháp từ các văn bản pháp luật
là Bộ luật Dân sự, Bộ luật Thương mại, Hiệp định Rome, Bộ luật Hình sự
1.2.2 Khái quát nội dung của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Quảng cáo có sự tác động rất lớn đến đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội; sự ảnh hưởng của nó đến doanh nghiệp và người tiêu dùng không nhỏ Bên cạnh những lợi ích quảng cáo thương mại đem lại thì trong hoạt động quảng cáo cũng bất cập những tác động tiêu cực cần được ngăn chặn Vì mục đích lợi nhuận mà các doanh nghiệp
đã quảng cáo không trung thực, gây nhầm lẫn để lừa dối khách hàng, gây thiệt hại đến người tiêu dùng và ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh lành mạnh Có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với mục đích nói xấu, bôi nhọ danh dự, uy tín của doanh nghiệp khác, người khác Để bảo vệ cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo tập trung quy định những nội dung sau:
Thứ nhất, quy định chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh: Việc xác định chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh có ý nghĩa quan trọng trong việc chặn đứng và kiểm soát các hành vi không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo Bởi lẽ, thị trường quảng cáo hiện nay rất đa dạng và thay đổi nhanh chóng, bên cạnh yếu tố về phương thức quảng cáo thì các chủ thể quảng cáo cũng là tác nhân quan trọng Việc xác định chủ thể giúp rõ ràng trách nhiệm pháp lý đối với các hoạt động quảng cáo Nếu một doanh nghiệp, tổ chức hoặc cá nhân được xác định là chủ thể thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật Không chỉ có vậy, việc đặt ra các quy định chủ thể giúp ngăn chặn hành vi gian lận trong quảng cáo Khi có một chủ thể rõ ràng thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
cơ quan quản lý và người tiêu dùng có thể dễ dàng theo dõi và báo cáo về các hành
vi vi phạm của chủ thể đó
Đặc biệt, khi chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được xác định, doanh nghiệp có trách nhiệm và nghĩa vụ phải áp dụng các chiến lược quảng cáo tích cực cũng như trách nhiệm để duy trì hình ảnh tích cực trong cộng đồng và trước khách hàng Từ đó, tạo ra chuẩn mực trong ngành, khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, làm cho thông tin quảng cáo trở nên minh bạch hơn đối với người tiêu dùng, góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng khi tiếp cận các sản phẩm qua quảng cáo Như vậy việc quy định chủ thể
Trang 29thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh mang lại rất nhiều lợi ích, từ việc bảo vệ người tiêu dùng đến việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Thứ hai, quy định các hình thức biểu hiện của hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh bị cấm:
Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh thường bị cấm vì có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh lành mạnh, làm mất uy tín thị trường, và xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng bởi vậy việc quy định các hình thức biểu hiện của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh bị cấm có vai trò và ý nghĩa quan trọng
Với sự phát triển của các phương tiện điện tử, các quảng cáo tiếp cận người tiêu dùng với mức độ dày đặc Nếu không quy định về các hình thức biểu hiện của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh bị cấm, sẽ rất khó có biện pháp
để kiểm tra được đâu là quảng cáo có nội dung cạnh tranh lành mạnh, đâu là quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh Đặc biệt sau khi Luật Cạnh tranh 2004
ra đời thì số lượng quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam giảm dần nhưng ngày càng xuất hiện những "mánh khoé" tinh vi hơn trong hoạt động quảng cáo này Bởi vậy Luật Cạnh tranh 2018 đã bổ sung những quy định để xác định những hành vi nào là cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Từ đó thắt chặt việc kiểm soát các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, ngăn chặn các thương nhân có hành vi vi phạm đồng thời giúp các cơ quan chức năng dễ dàng nhận diện các quảng cáo có nội dung vi phạm để xử lý kịp thời
hạn chế xâm hại đến quyền lợi của người tiêu dùng
Thứ ba, quy định thẩm quyền và trình tự thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam:
Để pháp luật chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả của nó, cần có một cơ chế và bộ máy thực hiện quản lý nhà nước nói chung và xử lý đối với các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng
Việc quy định thẩm quyền và trình tự thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động quảng cáo là một phần quan trọng, không thể thiếu của hệ thống pháp luật chống quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Các quy định này tạo ra nền tảng cho việc thực thi các biện pháp pháp luật giúp ngăn chặn các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Trang 30Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo cần quy định cụ thể, minh bạch về thẩm quyền và trình tự thủ tục xử lý hành vi vi phạm
để tránh chồng chéo trong công tác điều tra, xử lý các vụ việc Từ đó tăng cường hiệu quả xử lý hành vi vi phạm, các cơ quan có thẩm quyền có thể xử lý nhanh chóng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo để đảm bảo ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp khác trên thị trường, người tiêu dùng,…
Đồng thời việc quy định rõ ràng, thống nhất và đồng bộ về thẩm quyền, trình
tự thủ tục xử lý giúp tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tế Sự rõ ràng
về quy định và hậu quả pháp lý sẽ thúc đẩy sự chủ động từ phía doanh nghiệp và bên quảng cáo trong việc tự kiểm soát hành vi của mình Bởi các chủ thể hiểu rõ rằng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo sẽ bị phát hiện, xử lý nhanh chóng và phải chịu các chế tài theo quy định của pháp luật
Thứ tư, chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động quảng cáo:
Chế tài là một trong những phần không thể thiếu của mỗi văn bản quy phạm pháp luật bên cạnh giả định và quy định Chế tài mang đến những hình thức xử lý đối với từng loại hành vi vi phạm pháp luật Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi sẽ gây ảnh hưởng rất to lớn đến xã hội vì thế những cần có những chế tài điều chỉnh
là vô cùng cần thiết Việc quy định những chế tài và áp dụng một cách cụ thể sẽ trước tiên bảo vệ được các đối thủ kinh doanh, doanh nghiệp trong thị trường tránh khỏi những bất lợi trong kinh doanh do hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang lại Các chế tài vừa mang tính răn đe, vừa giáo dục những thương nhân, doanh nghiệp trong thị trường, từ đó tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, các bên cạnh tranh một cách công bằng dựa theo chính thực lực của doanh nghiệp Đồng thời việc đặt ra các chế tài giúp bảo vệ được quyền lợi cũng như các điều kiện khác của người tiêu dùng, khi
đó người tiêu dùng sẽ tiếp cận được với những sản phẩm phù hợp với giá thành hợp
lí, đồng thời bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng trước những hành vi xấu trong cạnh tranh của các thương nhân
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo là bộ phận của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh Do vậy, khi xác định biện pháp xử lý đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, trước hết phải xem xét các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
(i) Chế tài dân sự: Cạnh tranh không lành mạnh là lĩnh vực thuộc luật tư, xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích chủ thể của các đối thủ cạnh tranh Do đó, pháp luật
Trang 31dân sự là một trong những nguồn quan trọng hỗ trợ cho Luật Cạnh tranh đặc biệt là chế định bồi thường thiệt hại của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh Hành
vi cạnh tranh không lành mạnh luôn gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh nên bên bị thiệt hại luôn có quyền được đòi bồi thường nếu có đủ căn cứ để chứng minh lỗi của bên kia và thiệt hại do họ gây ra Chức năng chủ yếu của bồi thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các quy tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa nhận nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp nhất định để xử lý các hành vi cạnh tranh không
hay hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhà làm luật cũng đã quy định rất cụ thể về các trường hợp tùy vào mức độ hành vi cũng như hậu quả phát sinh mà chịu những chế tài hành chính tương ứng, trong đó có cả các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Một trong những hình phạt chính trong chế tài hành chính là phạt tiền Các chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo sẽ phải chịu các khoản tiền phạt tùy thuộc vào mức
độ và thiệt hại gây ra Bên cạnh hình thức phạt tiền, để tăng tính răn đe, các hình thức phạt bổ sung cũng được áp dụng với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo trong đó có cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm Bởi hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ gây thiệt hại hoặc gây
có thể gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác, giúp chủ thể vi phạm thu được một khoản lợi nhuận lớn nên việc quy định tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm sẽ tăng cường hiệu quả của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo, đảm bảo rằng chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh không thể hưởng lợi từ hành vi vi phạm đó
(iii) Chế tài hình sự: Chế tài hình sự trong lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo liên quan đến việc sử dụng hệ thống pháp luật hình
sự để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh có cấu thành tội phạm trong lĩnh vực quảng cáo Đối với chế tài hình sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý được thực hiện bởi cơ quan tư pháp, trong đó các bên liên quan phải tham gia vào quy trình xét xử, đảm bảo tính công bằng và minh bạch, đúng quy định của luật Tố tụng Hình sự Những quy định về chế tài hình sự cho thấy tính nghiêm khắc cần thiết đối với những hành vi vi phạm cạnh tranh không lành mạnh, những hành vi có thể gây nguy hiểm
Trang 32cho xã hội, ảnh hưởng tới các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác sẽ phải chịu những chế tài tương ứng theo quy định của pháp luật
1.2.3 Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật quảng cáo trong việc chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo không nằm gọn trong một văn bản pháp lý hay luật chuyên ngành nào, mà nó là tổng hợp các quy định nằm rải rác trong các quy phạm pháp luật của Luật Cạnh tranh, Luật Quảng cáo và một số văn bản luật thuộc một số ngành, lĩnh vực pháp lý khác Dù vậy, mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật quảng cáo ở Việt Nam là mối quan hệ tương hỗ và bổ sung lẫn nhau Bởi cả hai bộ luật đều hướng tới mục tiêu
là bảo vệ người tiêu dùng và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng Việt Nam là quốc gia có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc điểm của truyền thống pháp luật Civil Law (Dân luật), một trong những đặc trưng của hệ thống pháp luật này là tính bao quát, cứng nhắc chứ không cụ thể và linh hoạt như pháp luật của các quốc gia theo truyền thống pháp luật Common Law (Thông luật) Chính vì vậy nên các bộ luật, luật khi được ban hành ra phải mang tính khái quát hóa cao và ổn định trong một thời gian dài Tuy nhiên hoạt động cạnh tranh không lĩnh vực quảng cáo là một hoạt động phát triển nhanh chóng, đôi khi hệ thống pháp luật hiện hành không thể theo kịp các hành vi trên thị trường Bởi vậy, đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam, trong khi pháp luật cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho việc nhận dạng hành vi và ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo trên thị trường thì pháp luật quảng cáo quy định chi tiết và bổ sung cho pháp luật cạnh tranh về các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo, đảm bảo rằng thông tin quảng cáo được đưa ra thị trường không có nội dung cạnh tranh không lành mạnh, Đồng thời, để đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ giữa pháp luật cạnh tranh và
pháp luật chuyên ngành, tại khoản 2 Điều 4, Luật Cạnh tranh 2018 quy định: “Trường hợp luật khác có quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hình thức tập trung kinh tế, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của luật đó.” Từ đó tạo
ra hành lang pháp lý chặt chẽ, đầy đủ và rõ ràng để quy định chi tiết về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo ở Việt Nam
Trang 33Kết luận Chương 1
Quảng cáo trong suốt quá trình tồn tại của mình luôn mang bản chất thông tin, cung cấp những nội dung, hiểu biết nhất định tới một hoặc một nhóm đối tượng, góp phần hình thành hệ thống thông tin xã hội chung Ngày nay, quảng cáo ngày càng gắn liền với thương mại và trở thành những hoạt động thương mại điển hình Quảng cáo
đã gắn liền với mục đích lợi nhuận, hoạt động nhằm thúc đẩy lợi nhuận thông qua việc thu hút được nhiều khách hàng Pháp luật của nhiều quốc gia cũng nhìn nhận quảng cáo với bản chất thương mại của nó
Mặc dù quảng cáo có mặt từ rất lâu trong lịch sử phát triển của loài người, tuy nhiên quảng cáo chỉ đóng vai trò đầy đủ là một hoạt động xúc tiến thương mại khi nền kinh tế tự cấp tự túc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá Hoạt động quảng cáo trong nền kinh tế thị trường hiện đại vận hành với hai yêu cầu: làm nổi bật sản phẩm được quảng cáo so với các sản phẩm khác và thu hút sự chú ý của càng nhiều khách hàng tiềm năng càng tốt Đây chính là hai cơ sở để xem xét tính chất cạnh tranh của quảng cáo Quảng cáo trong nền kinh tế thị trường gắn liền với cạnh tranh và thể hiện
là một hoạt động cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp Do việc quảng cáo với thiên hướng thái quá, cực đoan nhằm gây rối, ngăn cản, hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh của đối thủ nên quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ biến nhất trong thời đại bùng nổ về thông tin và truyền thông đa phương tiện như hiện nay
Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cụ thể do thương nhân tự thực hiện hoặc thuê người khác thực hiện vi phạm quy định của pháp luật hoặc trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh được phân biệt với các hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước, quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Thương mại, Luật Quảng cáo thông qua việc xác định cấu thành của hành vi này
Là bộ phận của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, nội dung của pháp luật chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là tổng thể quy phạm pháp luật nhằm chống lại, ngăn cản và xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, xác định trách nhiệm, chế tài đối với chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm và bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể bị xâm hại Trong quá trình
Trang 34giải quyết vụ việc về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải dựa áp dụng các quy định của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh để giải quyết
Trang 35Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN 2.1 Chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
2.1.1.Quy định pháp luật hiện hành về chủ thể tham gia thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo của Việt Nam hiện nay đã phần nào đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của xã hội Các quy định của pháp luật ngày càng toàn diện hơn
Hiện nay công nghệ thông tin phát triển, các công cụ quảng cáo cũng đa dạng
và phong phú hơn bởi vậy, cần xác định được các công cụ quảng cáo để từ đó xác định chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo qua các công cụ này Hiện nay, công cụ quảng cáo có thể chia làm 3 loại :
- Quảng cáo qua mạng xã hội (Facebook, TikTok, Zalo, )
- Quảng cáo hiển thị (trên các trang thông tin điện tử của cá nhân, tổ chức có đăng ký hoạt động tại Bộ Công Thương )
- Quảng cáo tìm kiếm (Google, Safari, Cốc Cốc, ),
Theo quy định của Luật Quảng cáo 2012, chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo nói chung và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng bao gồm:
Thứ nhất, người quảng cáo, đây là chủ thể quan trọng nhất của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Người quảng cáo theo định nghĩa
tại Khoản 5 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 quy định như sau: “Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc bản thân tổ chức, cá nhân đó” Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động quảng cáo, người quảng cáo là tổ chức, cá nhân kinh doanh, thông qua phương tiện quảng cáo để giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời tới công chúng
Người quảng cáo có nghĩa vụ phải xuất trình văn bản đảm bảo tính trung thực, chính xác của nội dung thông tin quảng cáo; đảm bảo nội dung quảng cáo trung thực, chính xác khi người kinh doanh dịch vụ quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo
yêu cầu
Người quảng cáo là người trả tiền cho hoạt động quảng cáo bởi vậy nên chủ thể này cũng là người quyết định nội dung quảng cáo Muốn xác định đối tượng chịu
Trang 36trách nhiệm về một quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì không thể bỏ qua điểm quan trọng này Ngày nay, hoạt động quảng cáo đã trở thành một ngành kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế bởi vậy mà quá trình quảng cáo cũng phát triển và trở nên phức tạp hơn, phải thông qua nhiều khâu có thể do các bên khác nhau thực hiện như nghiên cứu, tư vấn, lên ý tưởng, thiết kế, dàn dựng, sản xuất đến công
bố sản phẩm quảng cáo Tuy nhiên, chủ thể chịu trách nhiệm trước tiên và cao nhất
về hoạt động quảng cáo vẫn là người quảng cáo Bởi cho dù người quảng cáo thuê người khác thực hiện, không trực tiếp tham gia vào quá trình quảng cáo thì người quảng cáo vẫn là người quyết định nội dung quảng cáo, nếu không hài lòng, người quảng cáo có quyền yêu cầu làm lại quảng cáo Do đó, khi trong quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh mà người quảng cáo không yêu cầu thay đổi, vẫn đồng ý với nội dung quảng cáo và cho phát hành, nghĩa là người quảng cáo cũng có
ý đồ lợi dụng quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, chưa kể đến người quảng cáo mới là bên hưởng lợi khi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Thậm chí, có trường hợp, người quảng cáo cố tình yêu cầu bên được thuê phải làm quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh, tức là người quảng cáo đã cố tình vi phạm
Chính vì vậy mà Luật Quảng cáo 2012 không chỉ truy cứu trách nhiệm đối với người quảng cáo về sản phẩm quảng của mình trong trường hợp trực tiếp thực hiện quảng cáo trên các phương tiện mà còn truy cứu trách nhiệm liên đới về sản phẩm quảng cáo trong trường hợp thuê người khác thực hiện
Thứ hai, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, chủ thể này bắt buộc phải là
thương nhân, theo quy định của pháp luật, tuỳ vào thoả thuận hợp đồng cung cấp dịch
vụ quảng cáo với người quảng cáo mà có thể thực hiện một số công đoạn hoặc toàn
bộ các công đoạn của quá trình quảng cáo Mối quan hệ giữa người quảng cáo và người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thường là mối quan hệ hợp tác chặt chẽ Cả hai bên phải thường phải làm việc cùng nhau để đảm bảo chiến lược quảng cáo hiệu quả Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thường đóng vai trò tư vấn chiến lược quảng cáo, đảm nhận trách nhiệm lập kế hoạch quảng cáo và cung cấp các dịch vụ từ việc xây dựng ý tưởng sáng tạo đến việc triển khai thực hiện quảng cáo theo yêu cầu và mục tiêu của người quảng cáo Từ đó thường xuyên đưa thông tin quảng cáo mà khách hàng yêu cầu xuất hiện tại các website trên internet, như quảng cáo của các ứng dụng Safari, Google, Cốc Cốc, Facebook, TikTok, Zalo,…
Điều 13 Luật quảng cáo 2012 quy định người kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải có nghĩa vụ:
Trang 37(i) Hoạt động theo đúng phạm vi, lĩnh vực đã được quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và tuân thủ quy định của pháp luật về quảng cáo;
(ii) Kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện quảng cáo của tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cần quảng cáo và thực hiện thủ tục có liên quan theo hợp đồng dịch vụ quảng cáo;
(iii) Chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo do mình trực tiếp thực hiện; (iv) Cung cấp tài liệu liên quan đến sản phẩm quảng cáo khi người tiếp nhận quảng cáo hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu
Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo sẽ phải chịu trách nhiệm nếu sản phẩm quảng cáo do
họ làm ra có nội dung cạnh tranh không lành mạnh Bởi lẽ người kinh doanh dịch vụ quảng cáo là chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình quảng cáo, nội dung của quảng cáo cũng do người kinh doanh dịch vụ quảng cáo trực tiếp xây dựng Chính vì vậy, sản phẩm quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh cũng đồng nghĩa với việc bên kinh doanh dịch vụ quảng cáo đã xây dựng nội dung cạnh tranh không lành mạnh đó Vì trực tiếp tham gia thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nên người kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải chịu trách nhiệm với sản phẩm quảng cáo đó
Thứ ba, người phát hành quảng cáo là tổ chức, cá nhân giới thiệu sản phẩm
quảng cáo, trên cơ sở ký hợp đồng phát hành quảng cáo với người quảng cáo hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, đến công chúng thông qua phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quản lý của mình, như: đài truyền hình; các cơ quan báo chí; nhà xuất bản; người tổ chức chương trình văn hóa, thể thao; trang thông tin điện tử và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác Người phát hành quảng cáo có hai hình thức trả tiền đó là trả tiền khi có người truy cập vào dòng quảng cáo để liên kết đến trang web của mình hoặc trả phí theo tổng số lần truyền phát quảng cáo
Theo điều 14 Luật quảng cáo 2012, người phát hành quảng cáo có nghĩa vụ: (i) Kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện quảng cáo của tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cần quảng cáo
(ii) Cung cấp tài liệu liên quan đến sản phẩm quảng cáo khi người tiếp nhận quảng cáo hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu
Trang 38(iii) Thực hiện hợp đồng phát hành quảng cáo đã ký kết và chịu trách nhiệm trực tiếp về sản phẩm quảng cáo thực hiện trên phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quản lý của mình
(iv) Yêu cầu thẩm định sản phẩm quảng cáo
(v) Thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật
Có thể thấy, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam quy định người phát hành quảng cáo cũng là chủ thể tham gia thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Bởi người phát hành quảng cáo có vai trò rất quan trọng trong việc đưa quảng cáo đến với công chúng Người tiêu dùng tiếp cận với quảng cáo thông qua bên phát hành, đặc biệt với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng rất đa dạng và dễ dàng tiếp xúc với người tiêu dùng, nhất các các website, ứng dụng phổ biến, điển hình như Google, Zalo, Youtube,….; các kênh truyền hình nhiều hơn và đa dạng hơn khi các nhà mạng truyền hình kỹ thuật số cũng phát triển mạnh;… Đó là lý do vì sao không thể bỏ qua trách nhiệm của chủ thể này khi xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Người phát hành quảng cáo phải có trách nhiệm trong việc kiểm soát và đảm bảo nội dung quảng cáo mà mình phát hành phải tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan trong đó có cả pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo Vì vậy, khi một quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh được phát hành rộng rãi trên phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm của người phát hành quảng cáo thì chủ thể này sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp
Ngoài ba chủ thể trên, Luật Quảng cáo còn quy định về người cho thuê phương tiện quảng cáo là tổ chức, cá nhân, có thể là thương nhân hoặc không phải thương nhân, sở hữu phương tiện quảng cáo Chủ thể này có quyền lựa chọn khách hàng và kiếm tiền từ việc cho thuê phương tiện quảng cáo theo thỏa thuận trong hợp đồng Đồng thời người cho thuê phương tiện quảng cáo có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm
về căn cứ pháp lý của việc cho thuê phương tiện quảng cáo, địa điểm quảng cáo và
an toàn của phương tiện quảng cáo
Điều 15 Luật quảng cáo quy định người cho thuê địa điểm, phương tiện quảng cáo có nghĩa vụ
(i) Lựa chọn người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo
Trang 39(ii) Chịu trách nhiệm về căn cứ pháp lý của việc cho thuê địa điểm quảng cáo, phương tiện quảng cáo và an toàn của phương tiện quảng cáo; thực hiện đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng cho thuê địa điểm, phương tiện quảng cáo đã ký kết
(iii) Liên đới chịu trách nhiệm trong trường hợp lắp, dựng công trình quảng cáo không đúng với giấy phép xây dựng hoặc chưa được cấp giấy phép xây dựng
(iv) Thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, người cho thuê địa điểm, phương tiện quảng cáo không phải chịu trách nhiệm về nội dung quảng cáo nên sẽ không bị truy cứu trách nhiệm nếu quảng cáo có nội dung vi phạm Đồng nghĩa với việc người cho thuê địa điểm, phương tiện quảng cáo không phải chủ thể tham gia thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Ngoài ra, người chuyển tải sản phẩm quảng cáo cũng là chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo theo Luật Quảng cáo 2012 Người chuyển tải sản phẩm là người trực tiếp đưa các sản phẩm quảng cáo đến công chúng hoặc thể hiện sản phẩm quảng cáo trên người thông qua hình thức mặc, treo dán, vẽ hoặc các hình thức tương tự Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng hợp đồng với người quảng cáo hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành dịch vụ quảng cáo
Theo điều 16 Luật quảng cáo 2012, người chuyển tải sản phẩm quảng cáo có nghĩa vụ:
(i) Được thông tin trung thực về chất lượng, tính năng, tác dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
(ii) Được từ chối tiếp nhận quảng cáo
(iii) Được yêu cầu người quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo bồi thường thiệt hại khi sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà
tổ chức, cá nhân đã quảng cáo
(iv) Được tố cáo, khởi kiện dân sự theo quy định của pháp luật
(v) Khi tố cáo hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại, phải cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ về hành vi vi phạm pháp luật về quảng cáo với cơ quan quản lý nhà nước
và chứng cứ chứng minh thiệt hại mà quảng cáo gây ra; được quyền yêu cầu người
Trang 40kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo hoặc người quảng cáo cung cấp tài liệu liên quan đến sản phẩm quảng cáo.”
Có thể thấy, Luật Quảng cáo hiện hành không quy định quyền và nghĩa vụ của người chuyển tải sản phẩm quảng cáo mà chủ yếu tập trung vào trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, do đó, chưa có chế tài hoặc ràng buộc đối với người chuyển tải sản phẩm quảng cáo trong trường hợp nội dung quảng cáo
là không đúng sự thật hoặc yêu cầu người chuyển tải sản phẩm quảng cáo phải là người đã tìm hiểu, sử dụng sản phẩm đó và có trách nhiệm về các nội dung mình cung cấp,… Đặc biệt, Luật Quảng cáo hiện hành xác định người chuyển tải sản phẩm là phương tiện quảng cáo theo quy định tại Điều 17 Do đó theo pháp luật hiện hành, người chuyển tải sản phẩm không phải chịu trách nhiệm với quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo là hoạt động với sự tham gia của nhiều chủ thể, do đó việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm cho hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh rất quan trọng Theo quy định của Luật Quảng cáo 2012, khi quảng cáo có nội dung
vi phạm thì các chủ thể phải chịu trách nhiệm gồm: người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và người phát hành quảng cáo Thế nhưng, theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018, chủ thể được xác định thực hiện hành vi lôi kéo bất chính khách hàng nói chung và quảng cáo nói riêng nói nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng chỉ là tổ chức, cá nhân có nhu cầu quảng cáo hàng hoá, dịch vụ của mình
mà chưa đề cập xử lý đối với người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và người phát hành quảng cáo Có thể thấy Luật Cạnh tranh 2018 vẫn chưa bao quát hết các chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Với tư cách là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết cạnh tranh trên thị trường nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và tự do, bảo vệ quyền lợi cho người sản xuất, tiêu dùng, Nhà nước và xã hội, việc Luật Cạnh tranh 2018 chưa bao quát hết các chủ thể tham gia quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể tạo ra một số bất cập Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh hiện hành cũng quy định, trû ờng hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luậ t Cạnh tranh với quy định của luậ t chuyên ngành về hành vi cạnh tranh khô ng lành mạnh trong hoạt động quảng cáo thì ưu tiên áp dụng quy định của các văn bản luật chuyên ngành Quy định này đảm bảo khi có hành vi vi phạm, các chủ thể tham gia quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong đó cũng bao gồm người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và người phát hành quảng cáo sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi vi phạm của mình, dù không được xác định trong Luật Cạnh tranh 2018