Thảo luận kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng tương tác giữa bất định tỷ giá hối đoái và phát triển tài chính đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở chế độ tỷ giá neo mềm và chế độ tỷ giá thả nổi
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Việc thúc đẩy sự gia tăng mạnh mẽ của các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) đóng vai trò quan trọng không chỉ ở các nền kinh tế phát triển mà còn ở các nền kinh tế mới nổi, từ đó, hội nhập tài chính quốc tế về cơ bản trở nờn ngày càng sõu rộng hơn (Lane & Ferretti, 2018; Taşdemir & ệzmen, 2018) Về thực tiễn theo số liệu được thu thập từ Ngân hàng Thế giới (World Bank), các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu giảm mạnh kể từ cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 2007-2008, với 3.134 tỷ USD vào năm 2007 xuống còn 1.447 tỷ USD vào năm 2009 Mặc dù sau đó đã có sự phục hồi dần cho đến năm 2016 với 2.726 tỷ USD, nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu lại sụt giảm nghiêm trọng vào năm 2018, chỉ còn 886 tỷ USD và chỉ bằng số liệu năm 2001 Những năm gần đây mặc dù có xu hướng phục hồi, nhưng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu vẫn chưa thể có sự gia tăng mạnh mẽ một cách liên tục Cho đến năm 2020, số liệu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu vẫn chỉ dừng ở mức 1.195 tỷ USD, chỉ bằng một phần ba so với năm 2007 Việc nghiên cứu các yếu tố quyết định đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở nên rất đáng quan tâm trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô quốc tế (Tien và cộng sự, 2022; Haque và cộng sự, 2022; Havi, 2021; Taşdemir & ệzmen, 2018; Avdjiev và cộng sự, 2017; Forbes & Warnock, 2012)
Mối quan hệ giữa tạp giữa các biến số vĩ mô đến đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi các nghiên cứu cần được xây dựng xoay quanh các trọng tâm lý thuyết nền sẵn có
Xét ở bình diện quốc tế, rủi ro từ những bất định vĩ mô mà điển hình là rủi ro tỷ giá có thể ảnh hưởng đáng kể đến các quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài Các tài liệu hiện có về ảnh hưởng của bất định tỷ giá đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài không thực sự đồng nhất, bao gồm cả những tác động ngược chiều (Nadine và cộng sự, 2021;
Moraghen và cộng sự, 2021; Nguyen & Cieślik, 2021; Ramzan, 2021; Jamal & Bhat, 2022), cùng chiều (Balaban và cộng sự, 2019; Shetty và cộng sự, 2019; Havi, 2021;
Huong và cộng sự, 2021) và thậm chí là không ảnh hưởng (Moraghen và cộng sự, 2020;
Zerrin, 2018) Hầu hết những nghiên cứu trước đây đều áp dụng phương pháp tần suất (frequentist) trong việc kiểm định ý nghĩa thống kê của tác động này
Tuy nhiên, lập luận ủng hộ cho các bằng chứng thực nghiệm trên được dựa trên hai lý thuyết chủ yếu là lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro Cả hai lý thuyết đều không trực tiếp đề cập đến chế độ tỷ giá mà các quốc gia đang theo đuổi Sự phát triển hơn về mặt lập luận dẫn đến sự ra đời và phát triển của mô hình quyền chọn thực, được phát triển và phổ biến rộng rãi hơn bởi Dixit & Pindyck (1994)
Các hướng tiếp cận mô hình quyền chọn thực đều đưa đến một nhận định thú vị Nhận định này bao gồm sự thừa nhận ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều có thể xảy ra đồng thời tại một quốc gia dưới những điều kiện khác nhau và mức độ bất định cao hay thấp của tỷ giá hối đoái là một trong những điều kiện đó Lập luận này đã tạo tiền đề để các bằng chứng thực nghiệm có thể đến gần hơn với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá trung gian Các chế độ mà ở đó, việc điều hành tỷ giả thả nổi trong một số giai đoạn, nhưng cố định trong một số giai đoạn khác
Về mặt quản lý, việc lựa chọn các chế độ tỷ giá ở mỗi quốc gia liệu có thể tạo ra những khác biệt về chiều hướng ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Một số nghiên cứu đã đưa vào chế độ tỷ giá, dưới dạng một biến độc lập, và xem xột ảnh hưởng đến FDI (Harms & Knaze, 2021; Eregha, 2020; Taşdemir & ệzmen, 2018; Obstfeld và cộng sự, 2019; Ghosh và cộng sự, 2014; Abbott và cộng sự, 2012)
Tuy nhiên, chế độ quản lý tỷ giá phức tạp hơn rất nhiều khi ranh giới giữa cố định và thả nổi mong manh hơn, như với chế độ tỷ giá neo mềm mà hầu hết các quốc gia theo đuổi Rhadbane & Moudden (2022) là nghiên cứu hiếm hoi có nhận định thực nghiệm về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở hai chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và thả nổi Kết luận của Rhadbane & Moudden (2022) cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ứng ngược chiều với bất định tỷ giá hối đoái ở Maroc với chế độ tỷ giá neo mềm và phản ứng cùng chiều ở Thổ Nhĩ Kỳ với chế độ tỷ giá thả nổi Tuy nhiên, kết luận của Rhadbane & Moudden (2022) chỉ dừng lại ở góc độ hai quốc gia là Maroc và Thổ Nhĩ Kỳ Do đó, bằng chứng tìm thấy của Rhadbane &
Moudden (2022) có tính thuyết phục chưa đủ mạnh mẽ
Hơn nữa, phát triển tài chính không hoàn toàn tách rời chế độ tỷ giá trong mối quan hệ giữa bất định tỷ giá hối đoái và FDI Khi đối mặt với các bất định, các tập đoàn đa quốc gia sẽ có những động thái phòng ngừa rủi ro Hiển nhiên, sự đa dạng và hiệu quả của các công cụ phòng ngừa rủi ro phụ thuộc vào sự phát triển hệ thống tài chính của một quốc gia (Mohanty, 2013; Allen & Santomero, 1998) Tuy nhiên về thực nghiệm, chỉ một số ít nghiên cứu có cung cấp được bằng chứng cho thấy sự phát triển tài chính ở các nền kinh tế tiếp nhận thực sự có thể thay đổi tác động của bất định tỷ giá hối đoái lên đầu tư trực tiếp nước ngoài (Ezekiel & Temidayo, 2023; Jehan &
Hamid, 2017; Khraiche & Gaudette, 2013) Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của các tác giả không đồng nhất Khraiche & Gaudette (2013) cho rằng trình độ phát triển tài chính cao hơn ở quốc gia nhận đầu tư có xu hướng giảm bớt ảnh hưởng cùng chiều của bất định tỷ giá Trong khi đó, Jehan & Hamid (2017) và Ezekiel & Temidayo (2023) cho thấy phát triển tài chính giúp giảm tác động ngược chiều của bất định tỷ giá Hạn chế của các nghiên cứu là được thực nghiệm tại các quốc gia mới nổi (Khraiche &
Gaudette, 2013) và đang phát triển (Jehan & Hamid, 2017; Ezekiel & Temidayo, 2023) nên chưa cho thấy sự can thiệp ẩn của chế độ tỷ giá hối đoái Mặt khác, thước đo đáng tin cậy về phát triển tài chính vẫn còn đang hoàn thiện và do đó những kết quả nghiên cứu phần nào bị giới hạn Bộ dữ liệu phát triển tài chính đa chiều được phát triển bởi Čihák và cộng sự (2012), và tiếp tục được mở rộng bởi Svirydzenka (2016) đã mở ra nhiều cơ hội để tìm hiểu thêm về các kết quả thực nghiệm này
Sau khi lược khảo các cơ sở lý thuyết và những tranh luận còn tồn đọng, luận án nhìn nhận tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu về vai trò điều tiết của phát triển tài chính đối với ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở cả hai phương diện lý luận và thực tiễn
Về phương diện lý luận, luận án lựa chọn đề tài nghiên cứu vì ba nguyên nhân chủ yếu, bao gồm sự thiếu hụt bằng chứng thực nghiệm phù hợp với mô hình quyền chọn thực gần đây về khả năng tồn tại của cả ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều của bất định tỷ giá; các kết quả nghiên cứu chưa phản ánh rõ sự khác biệt giữa những chế độ tỷ giá trung gian; và bằng chứng thực nghiệm rời rạc về vai trò trung gian của phát triển tài chính với chế độ tỷ giá mà các quốc gia lựa chọn
Thứ nhất, ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài dường như không chỉ là cùng chiều hoặc ngược chiều đơn nhất, đặc biệt đối với những quốc gia có chế độ tỷ giá trung gian Mặc dù, các lập luận về mặt lý thuyết ban đầu chỉ xoay quanh mối quan hệ đơn chiều giữa bất định tỷ giá hối đoái và đầu tư trực tiếp nước ngoài, dựa vào lý thuyết về tính linh hoạt trong sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro
Những bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho các lập luận này chủ yếu được kiểm định theo phương pháp tần suất (frequentist), và vì thế, sự hiểu biết về tác động của bất định tỷ giá hối đoái bằng cách bác bỏ giả thuyết H0 sẽ chỉ ủng hộ cho một trong hai quan điểm lý thuyết về tính linh hoạt trong sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro Cần có một cách tiếp cận phù hợp hơn với lý thuyết hiện đại về mô hình quyền chọn thực, khi ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều sẽ nổi trội trong một số điều kiện nhất định, nhưng có thể chúng sẽ cùng tồn tại Phương pháp kiểm nghiệm thuận lợi hơn với mô hình quyền chọn thực, hoàn thiện hơn các tranh luận đối với chế độ tỷ giá trung gian, được luận án tiếp cận là phương pháp Bayes Phương pháp Bayes sẽ có thể cung cấp một mật độ phân phối xác suất hậu nghiệm để chỉ ra xác suất các chiều hướng có thể xảy ra, và do đó, ngày một trở nên phổ biến trong thời gian gần đây Sự khó khăn trong việc tiếp cận các chế độ tỷ giá trung gian một phần cũng xuất phát từ hạn chế của dữ liệu về đối tượng và độ dài thời gian của mẫu quan sát Phương pháp Bayes có thể mô phỏng hành vi các dữ liệu để tạo ra các ước lượng đảm bảo tính vững cho các đo lường thống kê theo định lý giới hạn trung tâm Do đó, một số khía cạnh hẹp trong khoảng trống nghiên cứu trước đây cần được tìm hiểu sâu sắc hơn về mặt lý luận và thực nghiệm
Thứ hai, các nghiên cứu phần lớn chỉ tập trung vào một vài quốc gia hoặc nhóm quốc gia cụ thể, chưa cho thấy sự khác nhau giữa các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá khác nhau (Rhadbane & Moudden, 2022) Việc nghiên cứu một cách hệ thống ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến FDI vẫn còn chưa được thể hiện Dẫn đến, các thiết kế thực nghiệm có nhiều kết quả trái ngược, chưa thể đưa ra kết quả cuối cùng Hầu hết những tranh luận này có khác nhau trong việc vận dụng những khung lý thuyết và phương pháp đo lường Lý thuyết quyền chọn thực hiện đại cũng có những lý giải khác nhau về chiều ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái ở những chế độ tỷ giá khác nhau
Lược khảo các lý thuyết trọng tâm được sử dụng
Các lập luận lý thuyết về tác động của bất định tỷ giá đến FDI được giải thích ban đầu xoay quanh hai lập luận chính là lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro Cụ thể, lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất ủng hộ tác động cùng chiều của bất định tỷ giá đến FDI trong khi lý thuyết lo ngại rủi ro ủng hộ cho tác động ngược chiều Việc tranh luận giữa hai quan điểm khác nhau đã hình thành nên những cách tiếp cận khác nhau
Một trong những mô hình lý thuyết ủng hộ, thậm chí đồng nhất với lý thuyết lo ngại rủi ro là mô hình quyền chọn thực (real-options), được đề xuất bởi Dixit & Pindyck (1994) Mô hình quyền chọn thực ngày một trở nên phổ biến và được lựa chọn để gắn kết những lập luận từ góc độ quyết định vi mô của doanh nghiệp sang giải quyết bài toán vĩ mô của nền kinh tế Những nhận định ban đầu về Mô hình quyền chọn thực không ủng hộ cho lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất Tuy nhiên, kết quả này, một số tác giả cho rằng tác động cùng chiều và ngược chiều của bất định tỷ giá lên đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể cùng tồn tại dưới các điều kiện cụ thể khác nhau Hai trong số đó là nghiên cứu của Darby và cộng sự (1999) và nghiên cứu của Jeanneret (2007)
Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) đã xây dựng khuôn khổ lý thuyết riêng để mô hình hóa tác động hỗn hợp và chứng minh luận điểm của mình Luận án cũng lưu ý rằng hai cách tiếp cận trong luận án không bao gồm mô hình lý thuyết quyền chọn thực sơ khai, đồng nhất lý thuyết quyền chọn thực với lý thuyết lo ngại rủi ro
Vùng không hoạt động được Darby và cộng sự (1999) định nghĩa là vùng trì hoãn quyết định đầu tư hoặc thoát khỏi trạng thái đã đầu tư trước đó Vùng không hoạt động càng được mở rộng thì cơ hội quyết định đầu tư được đưa ra càng giảm, do đó đầu tư sẽ ít hơn và ngược lại Từ đó, Darby và cộng sự (1999) đã đề xuất những điều kiện cần và đủ để bất định tỷ giá ảnh hưởng ngược chiều đến đầu tư Darby và cộng sự (1999) cho thấy nhiều khả năng mức độ bất định thấp ở chế độ tỷ giá cố định sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc chờ đợi và do đó khiến các công ty có động lực theo đuổi các dự án đầu tư hơn là tiếp tục chờ đợi Nếu mức độ bất định cao, chi phí cơ hội của việc chờ đợi sẽ thấp, do đó khuyến khích công ty tiếp tục chờ đợi và hoãn các quyết định đầu tư
Mô hình lý thuyết của Jeanneret (2007) sẽ xem xét phản ứng của doanh nghiệp và đánh giá xác suất đầu tư sản xuất ở nước ngoài, thay vì xuất khẩu hàng hóa, từ đó rút ra mối quan hệ giữa FDI và bất định tỷ giá Jeanneret (2007) đã minh họa bằng các thông số cho trước để thể hiện tác động cùng chiều của bất định tỷ giá cao đối với FDI khi thả nổi tỷ giá, trong khi tác động ngược chiều phổ biến hơn khi tỷ giá ổn định
Hai cách tiếp cận quyền chọn thực của Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) đều đã phủ định một số giả định chưa thực tế trước đây và cho rằng sự nhìn nhận tác động ngược chiều đơn nhất của bất định tỷ giá đến FDI là chưa phù hợp kể cả về mặt lý thuyết Vì thế, sự tồn tại của cả lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro dưới những điều kiện khác nhau như là sự khác biệt về thu nhập hoặc chế độ tỷ giá sẽ có thể làm thay đổi góc nhìn học thuật về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Đây là những cơ sở lý thuyết chính dẫn đến những suy diễn thống kê trong phần kết quả nên luận án sẽ mô tả chi tiết cơ sở lập luận của Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) trong nội dung bên dưới
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu gần đây đã đề cao vai trò của phát triển tài chính đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Vai trò của phát triển tài chính, dưới dạng ảnh hưởng tương tác với bất định tỷ giá hối đoái, được luận giải thông qua lý thuyết trung gian tài chính (The theory of financial intermediation) và lý thuyết về thông tin bất cân xứng (asymmetric information)
Theo lý thuyết trung gian tài chính, hệ thống tài chính phát triển hơn mang lại cơ hội đa dạng hóa rủi ro cao hơn và cung cấp các phương tiện phòng ngừa rủi ro tốt hơn, giúp giảm các yếu tố rủi ro gắn liền với sự bất định (Allen & Santomero, 1998)
Do đó, phát triển tài chính được kỳ vọng có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái như một sự trung hòa với rủi ro Tuy nhiên, phát triển tài chính quá cao có thể giúp các công ty đa quốc gia phòng tránh được rủi ro ngay từ đầu
Khi đó, nhu cầu xuất khẩu lại tăng lên và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ suy giảm do hiệu quả thay thế xuất khẩu
Theo lý thuyết về thông tin bất cân xứng, hệ thống tài chính sẽ phát huy tốt hơn vai trò của nó trong chế độ tỷ giá thả nổi Bởi lẽ, tâm lý ỷ lại khi neo giữ tỷ giá cố định sẽ làm giảm nhu cầu phát triển hiệu quả các công cụ đa dạng hóa rủi ro cũng như giảm khả năng tiếp nhận các công cụ này trên thị trường và vì thế, làm gia tăng rủi ro tiềm ẩn nếu hệ thống tài chính chưa phát triển hoàn thiện
Nội dung cụ thể từng lý thuyết được trình bày chi tiết tại mục 2.2 Bên cạnh đó, khung phân tích lý thuyết tại mục 3.2 sẽ tổng hợp những lập luận chính của các cơ sở lý thuyết đã được trình bày và gắn kết hơn với những giả thuyết nghiên cứu được xây dựng Nội dung tiếp theo đây luận án sẽ thảo luận về khoảng trống nghiên cứu, làm cơ sở để xây dựng mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu cho toàn bộ luận án.
Khoảng trống nghiên cứu
Qua lược khảo các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan, có thể nhận thấy một số khoảng trống nghiên cứu như sau:
(1) Khoảng trống nghiên cứu đầu tiên về việc khó giải thích được sự tồn tại cùng lúc ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Các nghiên cứu trước đây quá tập trung vào ảnh hưởng đơn nhất của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Thực tiễn phức tạp và đa chiều hơn rất nhiều so với cách tiếp cận chỉ là ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều có ý nghĩa thống kê Điều này làm phân rõ hai trường phái nghiên cứu ủng hộ bởi trường phái nghiên cứu ủng hộ bởi lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất (Balaban và cộng sự, 2019; Shetty và cộng sự, 2019; Havi, 2021; Huong và cộng sự, 2021) và lý thuyết lo ngại rủi ro (Nadine và cộng sự, 2021; Moraghen và cộng sự, 2021; Nguyen & Cieślik, 2021; Ramzan, 2021; Jamal & Bhat, 2022) Tuy nhiên, lý thuyết mô hình quyền chọn thực gần đây đã đưa ra những lý giải về những điều kiện để cả ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái có thể xảy ra (Pindyck, 1991; Darby và cộng sự, 1999; Jeanneret, 2007) Vấn đề ủng hộ cho một trong hai trường phái nghiên cứu xuất phát vì hai nguyên nhân chủ yếu là các kiểm định thực nghiệm về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI được thực hiện dựa trên phương pháp tần suất
Phương pháp tần suất quan tâm đến việc bác bỏ giả thuyết H0 và vì thế, sẽ chỉ ủng hộ cho một trong hai quan điểm lý thuyết về tính linh hoạt trong sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro Để tiếp cận gần với mô hình quyền chọn thực, phương pháp Bayes bắt đầu được quan tâm khi có thể làm cho suy luận thống kê trở nên trực diện và linh hoạt hơn khi có thể cung cấp mật độ phân phối xác suất hậu nghiệm cho các hệ số ước lượng Vì thế, phương pháp Bayes được sử dụng trong xuyên suốt nội dung Luận án
(2) Khoảng trống nghiên cứu thứ hai là sự khan hiếm và thiếu chiều sâu của các nghiên cứu về ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài được thảo luận dưới các chế độ tỷ giá trung gian Chế độ tỷ giá cố định tạo ra lớp phòng hộ đảm bảo cho sự ổn định trước các bất định vĩ mô, trong khi chế độ tỷ giá thả nổi lại tạo ra kháng thể khi thường xuyên hấp thụ các cú sốc và phản ứng linh hoạt hơn trước những bất định (Meade, 1951; Friedman, 1953) Vấn đề là thực tế ngày nay các quốc gia công bố và sử dụng thường xuyên hơn các chế độ tỷ giá trung gian, không hoàn toàn rõ ràng trong việc thả nổi hay cố định tỷ giá Nếu chỉ nhìn ở góc độ đối lập nhau giữa các chế độ tỷ giá, mà không nhìn ở góc độ có sự đan xen linh hoạt, thích ứng theo từng thời kỳ và mỗi quốc gia thì khó có thể hiện thực hóa các suy diễn thống kê Những nỗ lực đưa chế độ tỷ giá dưới dạng một biến độc lập đến FDI đã được thực hiện và kết luận về sự ủng hộ những ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi (Harms & Knaze, 2021;
Eregha, 2020; Taşdemir & ệzmen, 2018); hoặc ủng hộ những ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định (Obstfeld và cộng sự, 2019; Ghosh và cộng sự, 2014; Abbott và cộng sự, 2012) Tuy nhiên, những nghiên cứu đó chỉ cho thấy sự ủng hộ chế độ tỷ giá trong việc thu hút FDI Để hình dung, các nghiên cứu này chỉ làm rõ hơn quan điểm về ưu nhược điểm của các chế độ tỷ giá như của Meade (1951) và Friedman (1953), chứ chưa tiếp cận được khuôn khổ lý thuyết về đầu tư dưới điều kiện không chắc chắn như mô hình quyền chọn thực Công trình của Rhadbane & Moudden (2022) là nghiên cứu hiếm hoi có nhận định thực nghiệm về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở hai chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và thả nổi nhưng kích thước mẫu chỉ bao gồm hai quốc gia Dựa trên mô hình quyền chọn thực, mô hình vùng không hoạt động của Darby và cộng sự (1999) và mô hình xác suất đầu tư của Jeanneret (2007) đều hàm ý về sự can thiệp ẩn của chế độ tỷ giá hối đoái đối với ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng bằng chứng thống kê chưa được vững vàng
(3) Khoảng trống nghiên cứu thứ ba là việc tách rời vai trò điều tiết của phát triển tài chính với chế độ tỷ giá Chức năng của hệ thống tài chính có thể làm thay đổi ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Điều này dẫn đến kết quả thực nghiệm về mối quan hệ này có thể bị thay đổi Một số nghiên cứu gần đây có xem xét vai trò điều tiết của phát triển tài chính, và có những mâu thuẫn nhất định về tác động tương tác với bất định tỷ giá (Jehan & Hamid, 2017; Khraiche & Gaudette, 2013; và Ezekiel & Temidayo, 2023) Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn đang xem xét vai trò điều tiết của phát triển tài chính một cách độc lập, mà chưa xem xét cụ thể chế độ tỷ giá mà các quốc gia theo đuổi Điều này là quan trọng, vì vai trò điều tiết trước hết phụ thuộc vào ảnh hưởng riêng lẻ của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo lý thuyết quyền chọn thực, ảnh hưởng này lại có sự khác nhau theo chế độ tỷ giá mà các quốc gia theo đuổi Hơn nữa, lý thuyết về thông tin bất cân xứng cũng giải thích rằng động cơ phát triển tài chính ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá khác nhau cũng khác nhau Điều này cũng liên quan đến bối cảnh nghiên cứu, việc lựa chọn các quốc gia trong mẫu quan sát ở các nghiên cứu trước hoặc lựa chọn nhóm quốc gia theo mức độ phát triển kinh tế, theo khu vực hoặc chọn riêng lẻ từng quốc gia Bức tranh tổng thể khó được phác thảo một cách trọn vẹn Vai trò của phát triển tài chính hoặc chỉ được diễn giải một chiều hoặc chế độ tỷ giá bị làm mờ đi Như vậy, phát triển tài chính không hoàn toàn tách rời chế độ tỷ giá trong mối quan hệ giữa bất định tỷ giá hối đoái và FDI
Luận án sẽ thảo luận sâu sắc hơn các khoảng trống nghiên cứu sau khi lược khảo có hệ thống các cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu trước đây và được thể hiện tại tiểu mục 2.4.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát là phân tích vai trò của phát triển tài chính đối với tác động của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở những chế độ tỷ giá trung gian để từ đó làm rõ sự khác biệt giữa các quốc gia khi lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.4.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể Để đáp ứng mục tiêu tổng quát, những mục tiêu cụ thể được luận án đề ra bao gồm hai mục tiêu chính:
(i) Phân tích ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI tại nhóm các quốc gia phân loại theo các chế độ tỷ giá hối đoái trung gian khác nhau
(ii) Phân tích vai trò của phát triển tài chính, dưới dạng ảnh hưởng tương tác với bất định tỷ giá, đến FDI.
Câu hỏi nghiên cứu
Tương ứng với mục tiêu nghiên cứu cụ thể, luận án thiết lập hai câu hỏi nghiên cứu như sau:
(i) Có sự khác nhau về ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến FDI ở các chế độ tỷ giá khác nhau hay không?
(ii) Phát triển tài chính có làm thay đổi ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến FDI ở các chế độ tỷ giá khác nhau hay không?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tác động của bất định tỷ giá thông qua ảnh hưởng tương tác với phát triển tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Về không gian, nghiên cứu được tiến hành tại 114 quốc gia Với cách phân loại theo chế độ quản lý tỷ giá, các quốc gia bao gồm: 57 quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm (Soft Pegs) và 57 quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi (Floating regimes) Các quốc gia có chế độ tỷ giá neo cứng (Hard pegs) và các quốc gia có chế độ quản lý khác (Other managed arrangement) chưa được đưa vào mẫu quan sát Nhiều quốc gia trong chế độ tỷ giá neo cứng chưa có đồng tiền pháp định riêng và kém phổ biến đến mức chưa đủ để có thể tách ra độc lập một nhóm chế độ tỷ giá hối đoái để có thể quan sát thực nghiệm
Các quốc gia có cơ chế quản lý khác (Other managed arrangement) không được phân loại rõ ràng khiến cho kết luận từ nghiên cứu sẽ trở nên không được cụ thể Hơn nữa, các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và có chế độ tỷ giá thả nổi gần hơn với tình trạng quản lý tỷ giá hối đoái ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và vì thế các kết luận thực nghiệm có ý nghĩa đóng góp về mặt thực tiễn (IMF, 2022)
Về thời gian nghiên cứu, mẫu quan sát được thu thập từ năm 2000 đến năm 2021
Khoảng thời gian này được lựa chọn nhằm đảm bảo sự ổn định của các biến bất định vĩ mô từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997 Giai đoạn khủng hoảng này đã kéo theo sự thay đổi mạnh chế độ tỷ giá và đã được nghiên cứu riêng biệt trước đó Để đảm bảo độ dài quan sát là đủ lớn, nghiên cứu cũng kéo dài thời gian dữ liệu được thu thập đến năm 2021 Những dữ liệu được cập nhật sớm hơn hiện chưa đầy đủ để có thể tạo nên dữ liệu bảng cân bằng đáng tin cậy
Về phạm vi nội dung, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét trong toàn bộ nội dung luận án là các dòng vốn vào Bởi vì xét về tổng thể, tổng các dòng vốn vào sẽ bằng tổng các dòng vốn ra Khi nghiên cứu theo dữ liệu dạng bảng bao gồm rất nhiều các quốc gia, việc cùng xác định hai loại sẽ làm phức tạp thêm vấn đề nghiên cứu, dễ bị trùng lắp và nhầm lẫn trong quá trình phân tích Từ đó, các hàm ý chính sách rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận án đặt sự quan tâm về việc gia tăng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dòng vốn vào Bởi lẽ sự tác động vào các yếu tố của quốc gia sở tại là có khả năng kiểm soát hơn so với các yếu tố nội sinh của quốc gia đầu tư Bên cạnh đó, ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái và FDI dựa trên cơ sở lý thuyết về tính linh hoạt trong sản xuất và lo ngại rủi ro Cách diễn giải sự liên quan của các lý thuyết được dựa trên lý thuyết về mô hình quyền chọn thực Vai trò của phát triển tài chính được thêm vào dựa trên lý thuyết về thông tin bất cân xứng, lý thuyết trung gian tài chính Phát triển tài chính được tiếp cận theo phương pháp đo lường phát triển tài chính đa phương của Čihák và cộng sự (2012) và Svirydzenka (2016).
Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp nghiên cứu định lượng, luận án bắt đầu bằng việc lược khảo những khái niệm, cơ sở lý thuyết và tổng quan các công trình nghiên cứu trước đây để bổ sung ý nghĩa cho bằng chứng thực nghiệm Sau đó, luận án xây dựng mô hình thực nghiệm dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu để giải quyết khoảng trống nghiên cứu được thảo luận Luận án đã thực hiện một số nội dung để tìm ra câu trả lời phù hợp với câu hỏi nghiên cứu với phương pháp ước lượng Bayes là trọng tâm được sử dụng Để trả lời câu hỏi thứ nhất, bộ dữ liệu đã được phân loại theo chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau dựa trên tiêu chí của IMF (2022) Mô hình thực nghiệm sẽ phân chia mẫu dữ liệu theo nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau, bao gồm chế độ tỷ giá neo mềm và chế độ tỷ giá thả nổi
Luận án thiết kế nghiên cứu thực nghiệm theo dữ liệu dạng bảng để nghiên cứu ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái lên đầu tư trực tiếp nước ngoài Việc thiết kế nghiên cứu dữ liệu dạng bảng sẽ giúp cho cái nhìn thực nghiệm khách quan và có thể khái quát hơn so với nghiên cứu ở từng quốc gia cụ thể dưới dạng các chuỗi thời gian
Phương pháp ước lượng Bayes sẽ được sử dụng để so sánh và đánh giá xác suất ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều của bất định tỷ giá đối với FDI, thay vì chỉ kết luận dựa trên việc bác bỏ giả thuyết H0 như cách tiếp cận tần suất Điều này sẽ hỗ trợ tốt cho trường hợp hầu hết các quốc gia theo đuổi nhóm chế độ tỷ giá trung gian Các chế độ tỷ giá này chỉ cho thấy xu hướng, nhưng không nghiêng hẳn về một phía chủ trương cố định hay thả nổi Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, phát triển tài chính sẽ đóng vai trò tương tác với bất định tỷ giá để xem xét ảnh hưởng gián tiếp của chúng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Việc sử dụng một biến tương tác sẽ giúp cho kết quả nghiên cứu được đào sâu hơn về mặt thực nghiệm Cách tiếp cận mô hình nghiên cứu và phương pháp ước lượng hầu như giống với mô hình nghiên cứu được thiết kế để trả lời câu hỏi thứ nhất Tuy nhiên, mô hình thực nghiệm mở rộng thêm vai trò của ảnh hưởng tương tác để giải thích cho nguyên nhân khác biệt có thể có ở hai nhóm chế độ tỷ giá Từ đó, bản chất về mối quan hệ phức tạp giữa phát triển tài chính, bất định tỷ giá và đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được làm rõ và khai thác triệt để hơn
Việc ước lượng các mô hình thực nghiệm chủ yếu dựa trên phương pháp Bayes
Do đó, các tiểu chuẩn kiểm định thống kê dựa trên phương pháp này sẽ được thực hiện để kiểm tra sự phù hợp và tính vững của kết quả ước lượng được tìm thấy Các kiểm định kết quả ước lượng các tham số trong phương pháp Bayes sẽ được thực hiện thông qua chỉ số lấy mẫu hiệu quả, kiểm định Gelman–Rubin và chuẩn đoán các đồ thị mô phỏng (graphical diagnostics).
Kết cấu của luận án
Với phương pháp định lượng và những mục tiêu nghiên cứu được xác lập, cấu trúc của luận án được tổ chức thành 5 chương, với các nội dung chính sau:
Chương 1 được luận án giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu Nội dung chương này sẽ bao gồm những nội dung chính liên quan lý do thực hiện đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, những đóng góp quan trọng Đồng thời, cấu trúc luận án cũng được đề cập để dòng chảy học thuật được trình bày xuyên suốt
Chương 2 chủ yếu được tập trung làm rõ các định nghĩa và cơ sở lý thuyết dẫn đến những lập luận khoa học, định hướng cho những suy diễn thống kê để thiết kế mô hình và lập luận về kết quả nghiên cứu Đối với ảnh hưởng của các yếu tố đến FDI, lý thuyết các nhân tố đẩy và kéo sẽ được xem xét Đối với ảnh hưởng của bất định tỷ giá, lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất, lý thuyết lo ngại rủi ro và lý thuyết quyền chọn thực được sử dụng Lý thuyết quyền chọn thực cũng lý giải vì sao chế độ tỷ giá hối đoái được phân nhóm trong luận án Cuối cùng, vai trò của phát triển tài chính, dưới dạng ảnh hưởng tương tác với bất định tỷ giá hối đoái, đến FDI sẽ được thảo luận chi tiết thông qua lý thuyết về thông tin bất cân xứng và lý thuyết trung gian tài chính Bên cạnh những mô hình lý thuyết, những công trình nghiên cứu thực nghiệm đồ sộ trước đây cũng sẽ được lược khảo tại đây
Chương 3 sẽ giới thiệu về phương pháp Bayes và mô hình thực nghiệm ứng dụng phương pháp này trong luận án Chương này cũng sẽ trình bày về nguồn dữ liệu được thu thập, đề xuất mô hình thực nghiệm và các kiểm định cần thiết để đảm bảo tính vững sau khi ước lượng mô hình thực nghiệm
Chương 4 thực hiện phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứu dựa trên mô hình thực nghiệm, dữ liệu nghiên cứu và phương pháp ước lượng ở Chương 3 Phần đầu nội dung chương này cũng sẽ trình bày về thực trạng nghiên cứu và giới thiệu về thống kê sơ bộ dữ liệu nghiên cứu Nội dung chính của Chương sẽ phân tích và thảo luận mô hình thực nghiệm với những nhóm đối tượng khác nhau, không xem xét và có xem xét ảnh hưởng của các biến tương tác tham gia vào mô hình thực nghiệm
Chương 5 tổng kết hóa các kết luận quan trọng mà luận án đã phân tích, đồng thời nhấn mạnh những đóng góp cụ thể trong luận án thông qua các hàm ý chính sách
Chương 1 đã làm rõ được lý do thực hiện đề tài dựa trên việc tìm ra khoảng trống nghiên cứu
Về mục tiêu nghiên cứu, luận án được thực hiện nhằm mục tiêu nghiên cứu tác động của bất định tỷ giá, cũng như sự tương tác của nó với phát triển tài chính, đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở những chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau để từ đó phân tích sâu sắc hơn những bằng chứng khoa học về mặt thực nghiệm
Về phạm vi nghiên cứu, nghiên cứu được tiến hành tại 114 quốc gia từ năm 2000 đến năm 2021 Bộ dữ liệu nghiên cứu được phân thành nhóm 57 quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và nhóm 57 quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Luận án sử dụng phương pháp định lượng, thiết kế dữ liệu dạng bảng và ước lượng bằng phương pháp Bayes Mô hình thực nghiệm được thiết kế dựa trên mô hình các yếu tố đẩy và kéo.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Một số khái niệm
Theo OECD (2008), đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là loại hình đầu tư dùng để chỉ sự luân chuyển vốn từ quốc gia đầu tư sang quốc gia nhận đầu tư để thu được lợi ích lâu dài (sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp 10% cổ phần có quyền biểu quyết) trong một doanh nghiệp hoạt động ở quốc gia nhận đầu tư nhằm mục đích có tiếng nói hữu hiệu trong quản lý doanh nghiệp
Theo Maurice (2009), một ví dụ điển hình của đầu tư trực tiếp nước ngoài là xây dựng một hoặc nhiều nhà máy sản xuất các sản phẩm của công ty để bán ở thị trường nước ngoài và thành lập nên các tập đoàn đa quốc gia Ví dụ điển hình này thường được các nhà nghiên cứu học thuật dùng để xây dựng nên những lý thuyết giải thích cho động cơ của FDI, đặc biệt là trong mô hình quyền chọn thực
Xét trên lĩnh vực hoạt động, công ty được đầu tư có thể là cùng ngành hay khác ngành với tập đoàn đa quốc gia đã thực hiện đầu tư Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể hướng đến mục đích mở rộng sản phẩm đang sản xuất và chiếm lĩnh thị phần ở thị trường nước ngoài hoặc tối ưu chi phí cho chuỗi cung ứng trong dây chuyền sản xuất
Thậm chí, FDI có thể thực hiện chỉ để đa dạng hóa các ngành nghề kinh doanh, giảm thiểu rủi ro khi tập trung vào một lĩnh vực cụ thể Điều này đã dẫn đến sự hình thành các loại hình FDI khác nhau Dựa trên mức độ tương thích về lĩnh vực kinh doanh của các tập đoàn đa quốc gia đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI chủ yếu được phân loại thành FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI), FDI theo chiều dọc (Vertical FDI) và FDI tập đoàn (Conglomerate FDI) Cụ thể hơn, FDI theo chiều ngang phản ánh vốn đầu tư nước ngoài vào một công ty nước ngoài thuộc cùng ngành với ngành do tập đoàn đa quốc gia thực hiện đầu tư sở hữu hoặc điều hành Trong khi đó, FDI theo chiều dọc là loại hình đầu tư nước ngoài xảy ra khi một khoản đầu tư được thực hiện trong một chuỗi cung ứng nằm trong quy trình sản xuất, phản ánh mối quan hệ đầu vào và đầu ra của một công ty, không nhất thiết thuộc cùng một lĩnh vực với tập đoàn đa quốc gia thực hiện đầu tư sở hữu hoặc điều hành Cuối cùng, FDI tập đoàn xảy ra khi các khoản đầu tư được thực hiện vào các công ty thuộc các ngành hoàn toàn khác nhau, không trực tiếp liên kết với nhau trong hoạt động kinh doanh (Aliber, 1970)
Vì FDI phổ biến nhất là FDI theo chiều ngang, các lập luận được sử dụng trong luận án chủ yếu xoay quanh loại hình FDI này (Aliber, 1970) Hơn nữa, khi xem xét với bất định tỷ giá, các lý thuyết thương mại mới cũng sử dụng FDI theo chiều ngang để cô lập các yếu tố mang tính cá thể để tìm đến bản chất của các hoạt động FDI khi so sánh với hoạt động thương mại như xuất khẩu (Lin và cộng sự, 2010; Jeanneret, 2007)
Dữ liệu về dòng vốn FDI vào ròng (FDI net inflows) thường được sử dụng để đo lường giá trị của khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nhà đầu tư không cư trú vào nền kinh tế Dòng vốn FDI ra ròng (FDI net outflows) là giá trị của đầu tư trực tiếp được thực hiện bởi các cư dân của một nền kinh tế ra các nền kinh tế khác bên ngoài
Trong nghiên cứu thực nghiệm, tổng các dòng vốn vào sẽ bằng tổng các dòng vốn ra, việc cùng xác định hai loại sẽ làm phức tạp thêm vấn đề nghiên cứu, dễ bị trùng lắp và nhầm lẫn trong quá trình phân tích (Jeanneret, 2007) Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu trong nội dung luận án là dòng vốn đầu tư ròng vào (FDI net inflows) Dữ liệu nghiên cứu về dòng vốn đầu tư ròng vào trong luận án được quy đổi về dạng phần trăm trên GDP
2.1.2 Tỷ giá hối đoái và chế độ tỷ giá hối đoái 2.1.2.1 Khái niệm và các đo lường tỷ giá hối đoái
Theo Copeland (2005), tỷ giá hối đoái (exchange rate) là số đơn vị tiền tệ của một quốc gia cần để mua một đơn vị tiền tệ của quốc gia khác Hay nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giả cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia được thể hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ của một quốc gia khác (Sullivan & Sheffrin, 2003) Cách định nghĩa tỷ giá giữa hai quốc gia này được hiểu là tỷ giá hối đoái song phương (Bilateral exchange rate) Để thống nhất cách diễn giải về ý nghĩa của tỷ giá trong toàn bộ nội dung của luận án, tỷ giá hối đoái sẽ được yết giá xuyên suốt bằng phương pháp gián tiếp Lý do là vì bộ dữ liệu được thu thập của Darvas (2021) sử dụng phương pháp yết giá gián tiếp và vì thế những đo lường tiếp theo được giả định theo phương pháp yết giá này Dữ liệu tỷ giá đưa vào mô hình thực nghiệm sẽ tiếp tục được sử dụng để ước tính bất định tỷ giá
Việc thay đổi giá cả của một đơn vị tiền tệ có thể tác động giá cả của rất nhiều đơn vị tiền tệ khác có quan hệ song phương với đơn vị tiền tệ đó Do đó, bên cạnh tỷ giá song phương, tỷ giá có thể được hiểu rộng hơn, với rất nhiều những quốc gia trong rổ tiền tệ Tỷ giá hối đoái như thế, được gọi là tỷ giá hối đoái đa phương (the effective exchange rate) hay chỉ số tiền tệ có trọng số thương mại (trade-weighted exchange rate)
Tỷ giá hối đoái đa phương của tiền tệ một quốc gia là bình quân có trọng số của tỷ giá song phương của quốc gia đó với rổ đơn vị tiền tệ của nhóm quốc gia khác trong rổ tiền tệ Trọng số được tính toán thường là tỷ trọng thương mại giữa quốc gia đó trong tổng số các quốc gia (Copeland, 2005)
Luận án chỉ sử dụng tỷ giá thực đa phương (REER - Real Effective Exchange Rate) làm thước đo chung cho tỷ giá và bất định tỷ giá được đưa vào trong mô hình thực nghiệm vì thiết kế nghiên cứu dưới dạng dữ liệu bảng giữa 114 quốc gia và chỉ có tỷ giá thực đa phương thể hiện được tương quan đồng nhất về sức cạnh tranh và đơn vị đo lường bất định tỷ giá Hơn nữa, để đo lường bất định tỷ giá với sự sai biệt nhỏ giữa các quốc gia, REER sẽ có hiệu quả ước lượng tốt hơn do sự biến động thấp hơn Theo Darvas (2021), tỷ giá thực đa phương được tính như sau:
Trong đó, NEERlà tỷ giá danh nghĩa đa phương, NBERlà tỷ giá danh nghĩa song phương yết giá gián tiếp, 𝑃 là mức giá trung bình trọng số hình học của các đối tác thương mại, 𝑃 là giá cả trong nước bằng nội tệ, 𝑤 ( ) là trọng số thương mại của đối tác i; n là số lượng đối tác thương mại; 𝐸𝑋 và 𝐼𝑀 là xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia được xem xét từ quốc gia i Darvas (2021) đã sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index – CPI) để tính các mức giá cả ở các quốc gia
Khi 𝑅𝐸𝐸𝑅 > 1, vị thế cạnh tranh của quốc gia là thấp hơn so với các quốc gia còn lại trong rổ tỷ giá đa phương Khi 𝑅𝐸𝐸𝑅 < 1, vị thế cạnh tranh của quốc gia là cao hơn so với các quốc gia còn lại trong rổ tỷ giá hối đoái đa phương Ở trạng thái động, tỷ giá thực đa phương giảm (REER) thì sức cạnh tranh của một quốc gia được cải thiện và tỷ giá thực đa phương (REER) tăng thì sức cạnh tranh của một quốc gia bị xói mòn so với các quốc gia còn lại trong rổ tỷ giá hối đoái đa phương Đây là cách yết giá gián tiếp REER của Darvas (2021) và sẽ được diễn giải xuyên suốt trong toàn bộ luận án
2.1.2.2 Chế độ tỷ giá hối đoái
Hệ thống tỷ giá ngày nay là hệ thống tỷ giá hỗn hợp (Hybrid exchange rate system) Các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá hối đoái, trên danh nghĩa bao gồm chế độ thả nổi (freely floating regime), chế độ cố định (fixed regime) và chế độ thả nổi có quản lý (managed floating regime) Trên thực tế, hệ thống phân loại dựa trên Báo cáo thường niên về quy định quản lý tỷ giá (AREAER) của Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF) có thể khác với các chế độ tỷ giá được công bố bởi mỗi quốc gia Chế độ tỷ giá được phân loại bởi Qũy Tiền tệ Quốc tế là chế độ thực (de facto arrangements) và chế độ tỷ giá được công bố bởi mỗi quốc gia được gọi là chế độ pháp định (de jure arrangements)
Sở dĩ có sự khác nhau giữa chế độ tỷ giá hối đoái được công bố và chế độ tỷ giá thực tế được phân loại bởi Qũy Tiền tệ Quốc tế là vì hầu hết những nhà hoạch định chính sách e ngại việc cam kết một mục tiêu rõ ràng và tránh những tranh luận mỗi khi Ngân hàng Trung ương can thiệp vào sự biến động của tỷ giá hối đoái Việc tránh đầu cơ cũng là một nguyên nhân hợp lý để các nhà điều hành không để lộ chế độ tỷ giá hối đoái thực sự (Oliveira, 2014) Trong khi đó, quyết định đầu tư dài hạn vào một dự án của một doanh nghiệp không thực sự phụ thuộc vào các thông báo công khai của một quốc gia, mà theo nhận thức về chế độ tỷ giá nào đang được áp dụng Nói cách khác, sự phân loại dựa trên đánh giá của IMF là phù hợp hơn
Cơ sở lý thuyết
Mô hình lý thuyết các yếu tố đẩy và kéo (push & pull factors) của Fernandez- Arias (1996) cho rằng các yếu tố chủ yếu quyết định dòng vốn trực tiếp nước ngoài bao gồm các yếu tố kéo (pull) phụ thuộc vào đặc tính quốc gia và các yếu tố đẩy (push) chung trên thị trường quốc tế Các yếu tố kéo về cơ bản là các biến đại diện cho các điều kiện kinh tế và tài chính vĩ mô trong nước Các yếu tố đẩy chủ yếu liên quan đến những thay đổi trong điều kiện kinh tế tài chính toàn cầu hoặc trong khu vực (Taşdemir
& ệzmen, 2018; Melnyk & cộng sự, 2014; Alleyne & Edwards, 2011; Kaufmann và cộng sự, 2010)
Hình 2.2 minh hoạ những yếu tố kéo (pull) và đẩy (push) ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Fernández-Arias (1996) cho rằng nền kinh tế Mỹ có vai trò chi phối trong việc thúc đẩy dòng vốn ở các quốc gia kém phát triển hơn Do đó, các yếu tố vĩ mô và chính sách của nền kinh tế Mỹ thường được sử dụng đóng vai trò như các yếu tố đẩy (Oke và cộng sự, 2020; Ibarra & Leon, 2020; Gossel & Biekpe, 2017)
Những yếu tố kéo được sử dụng trong luận án bao gồm tăng trưởng, cung tiền, lạm phát, độ mở thương mại, tỷ giá, bất định tỷ giá và phát triển tài chính
Tuy nhiên, các yếu tố đẩy sẽ không được tập trung phân tích trong luận án vì những lý do sau đây Thứ nhất, việc sử dụng các yếu tố đẩy trong một khung phân tích dữ liệu bảng là hết sức khó khăn vì sự ít biến thiên của chuỗi dữ liệu được quan sát Dữ liệu vĩ mô đại diện cho yếu tố đẩy hầu như chỉ thay đổi theo năm và sẽ giống nhau giữa các đối tượng khác nhau và điều này tạo ra các ước lượng không đủ hiệu quả Thứ hai, nếu thêm vào các yếu tố đẩy, mô hình thực nghiệm sẽ loại bỏ quốc gia Mỹ nhằm tránh sự trùng lắp giữa yếu tố kéo và đẩy đối với chính quốc gia này và như thế sẽ mất đi một đối tượng có thể quan sát Cuối cùng, trọng tâm nghiên cứu của luận án không nhằm xác định yếu tố đẩy quyết định đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, các yếu tố kéo khác cũng chỉ đóng vai trò kiểm soát để bổ sung thêm ý nghĩa nghiên cứu về mặt định lượng
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới những chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau và vai trò của phát triển tài chính đối với mối quan hệ này Do đó, ảnh hưởng của các yếu tố đẩy sẽ được xem xét trong những công trình nghiên cứu độc lập sau này với mô hình nghiên cứu được thiết kế theo bộ dữ liệu chuỗi thời gian phù hợp hơn.
Nguồn: Thiết kế bởi tác giả Hình 2.2 Các yếu tố đẩy (Push) và kéo (Pull) của Fernández-Arias (1996) được áp dụng vào luận án
2.2.1.1 Tăng trưởng thu nhập bình quân
Tăng trưởng kinh tế của nước sở tại là một yếu tố quyết định đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Tăng trưởng thu nhập bình quân góp phần làm gia tăng triển vọng và từ đó chi phí cơ hội đầu tư tăng Aliber (1993) cho rằng những thay đổi trong mối quan hệ giữa tăng trưởng ở các quốc gia khác nhau tác động đến sự dịch chuyển vốn quốc tế
Vốn sẽ di chuyển từ các quốc gia đang trải qua sự chậm lại hoặc suy thoái trong tăng trưởng kinh tế của họ sang các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn (Salvatore, 2013; Delali; 2003) Trong giai đoạn 1950-1958, các khoản đầu tư của Hoa Kỳ vào các ngành sản xuất ở châu Âu được hướng đến các quốc gia đang phát triển nhanh hơn (Dunning, 1970) Ảnh hưởng cùng chiều của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư trực tiếp nước ngoài được tìm thấy ở rất nhiều nghiên cứu (Rhadbane & Moudden, 2022; Nguyen & Cieślik, 2021; Moraghen và cộng sự, 2020; Siddikee & Rahman, 2020; Rjoub và cộng sự, 2017;
Kottaridi & Stengos 2010; Bevan & cộng sự, 2004; Chakrabarti, 2001; Culem, 1988)
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, GDP của nước sở tại được cho là có thể tác động ngược chiều đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (Pitelis, 1996) Ảnh hưởng ngược chiều của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng được tìm thấy ở số ít những nghiên cứu gần đây (Ergun và cộng sự, 2019; Mehrara và cộng sự, 2015;
Cung tiền (Monetary supply) là đối tượng điều tiết của chính sách tiền tệ và ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất đầu tư Một chính sách tiền tệ mở rộng làm cho lãi suất giảm sẽ thu hút vốn vay, hỗ trợ đầu tư quốc tế Cung tiền tệ tăng có thể thúc đẩy tăng đầu tư và giảm lãi suất, từ đó tác động tích cực đến các hoạt động kinh tế Lập luận về ảnh hưởng cùng chiều của cung tiền đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài được ủng hộ bởi một số công trình nghiên cứu khoa học (Tien và cộng sự, 2022; Fu & Liu, 2015; Ahmed &
Onuorah & Akujobi (2013) xem xét tác động của các biến số kinh tế vĩ mô đối với đầu tư nước ngoài ở Nigeria trong giai đoạn 1980-2010 Kiểm định đồng liên kết cho thấy tác động ngược chiều của GDP và cung tiền, trong khi lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát tác động cùng chiều đến đầu tư nước ngoài
Lạm phát làm giảm giá nội tệ và giảm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư theo hiệu ứng ngang giá sức mua Tuy nhiên, một nền kinh tế không có lạm phát hay giảm phát thậm chí có thể kém hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài vì triển vọng kinh tế tăng trưởng ảm đạm Polat & Payaslıoğlu (2015) sử dụng mô hình Markov theo dữ liệu tháng trong giai đoạn 2004–2014 để xem xét tác động của các yếu tố vĩ mô đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thổ Nhĩ Kỳ Polat & Payaslıoğlu (2015) cho thấy lạm phát có ảnh hưởng cùng chiều đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khamis & Hussin (2015) đã điều tra tác động của lạm phát và GDP bình quân đầu người lên dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất trong giai đoạn 1980-2013 Lạm phát có tác động không đáng kể đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi tăng trưởng kinh tế để có tác động cùng chiều Kết quả tương tự với nghiên cứu từ năm 1980 đến năm 2016 cũng ở Pakistan của Mansoor &
Tien và cộng sự (2022) đã tìm ra ảnh hưởng ngược chiều của lạm phát đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các quốc gia mới nổi từ năm 2002 đến năm 2019
Kết quả tương đồng được tìm thấy trong các công trình nghiên cứu trước đó (Nguyen &
Cieślik, 2021; Smith, 2021; Gao và cộng sự, 2021; Hoang, 2021; Rafidi & Verikios, 2021; Akisik, 2020; Yavas & Malladi, 2020; Asamoah và cộng sự, 2019)
2.2.1.4 Độ mở thương mại Độ mở thương mại càng lớn thì khối lượng giao thương càng lớn, sự hội nhập sâu rộng và sức mạnh thị trường sẽ hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài Khả năng xuất khẩu thành công của các doanh nghiệp có thể cam kết về việc thâm nhập một thị trường lâu dài hơn, tương ứng với quốc gia nhận đầu tư sẽ có cơ hội nhận được đầu tư cao hơn sau khi nhập khẩu lớn từ các đối tác Tuy nhiên, sự thay thế đầu tư trực tiếp nước ngoài cho xuất khẩu ngày càng lớn sẽ làm cho biểu hiện về mặt lượng hóa sẽ là tương quan âm giữa hai đại lượng này ngày một rõ nét Do đó, mối quan hệ giữa độ mở thương mại (Openness) và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng không hoàn toàn rõ ràng (Dhakal và cộng sự, 2010)
Billington (1999) và Wijeweera & Clark (2006) chỉ ra rằng độ mở thương mại của quốc gia nhận đầu tư có quan hệ cùng chiều với lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào quốc gia đó Kết quả nghiên cứu này tiếp tục được ủng hộ bởi rất nhiều những nghiên cứu gần đây (Rhadbane & Moudden, 2022; Smith, 2021; Moraghen và cộng sự, 2021; Moraghen và cộng sự, 2020; Maryam & Mittal, 2020; Taşdemir, 2020; Bianco &
Loan, 2017; Rjoub và cộng sự, 2017; Asogwa và cộng sự, 2016; Feils & Rahman, 2008)
Tổng quan các công trình nghiên cứu trước đây
2.3.1 Tác động ngược chiều của bất định của tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Campa (1993) là một trong những người tiên phong ủng hộ lý thuyết lo ngại rủi ro về tác động ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Campa (1993) đã sử dụng mô hình Tobit và tìm ra bằng chứng củng cố lý thuyết này ở các quốc gia Nhật Bản, Anh, Đức, Pháp, Canada, Thụy Điển và Hàn Quốc trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1987
Bianco & Loan (2017) đã sử dụng mô hình dữ liệu bảng để nghiên cứu tác động của bất định tỷ giá hối đoái thực đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nhóm 10 quốc gia Mỹ Latinh và Caribe từ năm 1990 đến năm 2012 Sử dụng Mô hình Hiệu ứng Cố định (Fixed Effects), Bianco & Loan (2017) đã xác nhận quan điểm lý thuyết lo ngại rủi ro về tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê của bất định tỷ giá hối đoái lên đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghiên cứu của Bianco & Loan (2017) đã mở rộng khung thời gian thực nghiệm so với nghiên cứu trước đây của Campa (1993)
Sử dụng dữ liệu theo tháng, Ignatius và cộng sự (2019) đã nghiên cứu tác động của bất định tỷ giá hối đoái đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1986-2016
Theo đó, bất định tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng ngược chiều đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nigeria Nghiên cứu cũng khuyến nghị gia tăng dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng trong quản lý thanh khoản So với Bianco & Loan (2017), nghiên cứu của Ignatius và cộng sự (2019) đã nắm bắt sự biến động nhỏ hơn của bất định tỷ giá hối đoái bằng dữ liệu tháng và cụ thể hóa cho một quốc gia là Nigeria
Tương tự với Ignatius và cộng sự (2019) nhưng xem xét thêm ảnh hưởng dài hạn, Jacob & Kattookaran (2019) sử dụng mô hình trễ phân phối tự hồi quy (Autoregressive Distributed Lag Model - ARDL) để xác định tác động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Ấn Độ bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng từ tháng 4 năm 1995 đến tháng 3 năm 2018 Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy bất định tỷ giá hối đoái có tác động ngược chiều đáng kể đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn Độ cả trong ngắn hạn và dài hạn
Nhằm có sự so sánh và phân tích cụ thể hơn điều kiện tác động ở hai quốc gia khác nhau thay vì chỉ một quốc gia hay một khu vực như những nghiên cứu trước, nghiên cứu thực nghiệm Asmae & Ahmad (2019) đã kiểm tra ảnh hưởng truyền dẫn của giá cả và bất định tỷ giá hối đoái thực đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghiên cứu tập trung vào hai quốc gia ở Địa Trung Hải là Turkey và Morocco trong giai đoạn 1990-2017 Ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái thực được phát hiện là ngược chiều và có ý nghĩa thống kê cả ngắn hạn và dài hạn ở Morocco, nhưng không có ý nghĩa thống kê ở Turkey
Zerin (2020) sử dụng mô hình hiệu ứng cố định (Fixed-effect) và cho thấy rằng bất định tỷ giá hối đoái có tác động ngược chiều đáng kể đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước Nam Á, cụ thể là những quốc gia đang cần dòng vốn lớn hơn để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, Zerin (2020) đề cao tầm quan trọng của mở cửa thương mại ở Nam Á Có thể thấy, Zerin (2020) đã quan tâm nhiều hơn sự tương tác có thể có của bất định tỷ giá hối đoái trong ảnh hưởng đến FDI, thay vì chỉ ảnh hưởng riêng lẻ như những nghiên cứu trước (Asmae & Ahmad, 2019; Ignatius và cộng sự, 2019; Bianco & Loan, 2017) Độ mở thương mại lớn hơn có thể tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bù đắp cho tác động ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái
Trong khi đó, Nadine và cộng sự (2021) và Moraghen và cộng sự (2021) tiếp cận những quốc gia ít được quan tâm nghiên cứu hơn Nadine và cộng sự (2021) đã tìm ra ảnh hưởng ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của
42 Quốc gia đến Ai Cập 2005-2019 Phương pháp ước lượng GMM được sử dụng Kết quả nghiên cứu tương tự với mô hình Vectơ Hiệu chỉnh Sai số (Vector Error Correction Model - VECM) trong giai đoạn 1976–2018 ở các quốc gia Châu Phi cận Sahara, khu vực vẫn còn khá ít công trình nghiên cứu, của Moraghenvà cộng sự (2021) Nghiên cứu của Moraghen và cộng sự (2021) đã đánh giá tác động của tỷ giá hối đoái thực và bất định của nó đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Mauritius, một trong những quốc gia có nền kinh tế tốt nhất khu vực Sự mất giá của đồng nội tệ cũng được tìm thấy có ảnh hưởng cùng chiều với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nguyen & Cieślik (2021) xem xét các yếu tố quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Châu Âu sang Châu Á dựa trên mô hình vốn tri thức Dữ liệu bao gồm 38 quốc gia châu Âu và 24 quốc gia châu Á trong giai đoạn 1995–2013 Bằng chứng thực nghiệm từ phương pháp ước tính hàm hợp lý cực đại Poisson-pseudo (Pseudo Poisson Maximum Likelihood - PPML) cho thấy tổng thu nhập và sự tương đồng về quy mô thị trường giữa hai quốc gia sẽ khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong khi đó, bất định tỷ giá hối đoái có tác động ngược chiều lên đầu tư trực tiếp nước ngoài Nguyen & Cieślik (2021) thừa nhận rằng sự không đồng nhất trong chế độ tỷ giá hối đoái cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong các kết quả thực nghiệm Nguyen &
Cieślik (2021) đã so sánh sự khác nhau của ảnh hưởng bất định tỷ giá hối đoái đến FDI ở hai khu vực kinh tế Hơn nữa, từ nghiên cứu của Nguyen & Cieślik (2021) cho đến những nghiên cứu gần nhất của Ramzan (2021) và Jamal & Bhat (2022) thì chế độ tỷ giá hối đoái đã bắt đầu được quan tâm trở lại và gần hơn với các mô hình lý thuyết
Ramzan (2021) cho rằng việc đánh giá rủi ro bất định tỷ giá hối đoái trong bối cảnh đầu tư trực tiếp để xây dựng các lộ trình chính sách phòng ngừa rủi ro nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào trong nước là vô cùng cần thiết Với mục đích này, Ramzan (2021) đã sử dụng mô hình ARDL để tìm hiểu về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2018 Mô hình GARCH (1,1) được sử dụng để đo lường bất định tỷ giá hối đoái Các phát hiện cho thấy rằng bất định tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng bất lợi đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và là nguyên nhân làm giảm đầu tư nước ngoài ròng vào Pakistan Nghiên cứu của Ramzan (2021) khuyến nghị rằng các nhà hoạch định chính sách nên theo đuổi các biện pháp tỷ giá hối đoái ổn định, điều này có thể giúp giảm thiểu rủi ro biến động tỷ giá hối đoái và do đó thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cao hơn Ramzan (2021) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của phân bổ vốn hiệu quả trong thời kỳ kinh tế không chắc chắn, hàm ý về vai trò của phát triển tài chính, dù nghiên cứu của Ramzan (2021) chỉ mới tập trung vào khủng hoảng tài chính và thể chế chính trị tại Pakistan
Jamal & Bhat (2022) đã nghiên cứu ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và xuất khẩu của Ấn Độ trong thời kỳ theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt Đóng góp của Jamal & Bhat (2022) là thêm vào sự so sánh khi đo lường bất định tỷ giá hối đoái bằng cả phương sai có điều kiện và phương sai không điều kiện Mô hình ARDL đã xác minh rằng bất định của đồng rupee Ấn Độ so với USD có tác động ngược chiều đến xuất khẩu của Ấn Độ và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn Độ Bên cạnh đó, độ mở thương mại và tổng sản phẩm quốc nội, có tác động cùng chiều đối với xuất khẩu và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Dựa trên các kết quả thực nghiệm, Ấn Độ nên đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp để giảm biến động tỷ giá hối đoái nhằm thực hiện thành công chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu Hơn nữa, hàm ý chính sách của Jamal & Bhat (2022) cũng đề xuất sự phát triển của thị trường hối đoái kỳ hạn để cung cấp sự bảo hiểm rủi ro chống lại bất định tỷ giá hối đoái trong dài hạn
Bảng tổng hợp những công trình nghiên cứu trước đây đã tìm ra ảnh hưởng ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện ở Phụ lục 6
2.3.2 Tác động cùng chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thảo luận sâu hơn về khoảng trống nghiên cứu
Qua lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trước có liên quan, có thể nhận thấy một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, rất nhiều những nghiên cứu gần đây đã được thực hiện nhưng hầu hết chỉ tập trung vào ảnh hưởng đơn chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI
Những tác động ngược chiều được ủng hộ bởi lý thuyết lo ngại rủi ro (Nadine và cộng sự, 2021; Moraghen và cộng sự, 2021; Nguyen & Cieślik, 2021; Ramzan, 2021;
Jamal & Bhat, 2022), trong khi tác động cùng chiều được ủng hộ bởi lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất (Balaban và cộng sự, 2019; Shetty và cộng sự, 2019; Havi, 2021;
Huong và cộng sự, 2021) Nguyên nhân chính có lẽ là vì các kiểm định thực nghiệm về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI được thực hiện dựa trên phương pháp tần suất Phương pháp tần suất quan tâm đến việc bác bỏ giả thuyết H0 và vì thế, sẽ chỉ ủng hộ cho một trong hai quan điểm lý thuyết về tính linh hoạt trong sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro Do sử dụng phương pháp tần suất là trọng tâm, các nghiên cứu trước đây chưa thể thực hiện suy diễn thống kê một cách linh hoạt, một số vấn đề nghiên cứu chưa thể phân tích sâu khi khó khăn trong việc ước lượng kích thước mẫu nhỏ, kết quả nghiên cứu khó suy rộng và dễ mâu thuẫn lẫn nhau
Thứ hai, chế độ tỷ giá hối đoái đã được đề cập và quan tâm tại một số công trình nghiên cứu gần đây, nhưng việc khái quát hóa ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI vào cùng một bức tranh toàn cảnh dưới các chế độ tỷ giá này còn chưa được xem xét đầy đủ
Về lý thuyết, những ưu điểm và nhược điểm trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái đã được đề cập sớm bởi Meade (1951) và Friedman (1953) Tuy nhiên, tác động thực sự đối với đầu tư mới bắt đầu được quan tâm ở công trình của Henry (1974) về đầu tư dưới điều kiện không chắc chắn, lý thuyết này dần được phát triển và phổ biến rộng rãi hơn bởi Dixit & Pindyck (1994) với mô hình quyền chọn thực Mô hình quyền chọn thực sau này, được tiếp tục phát triển bởi Darby và cộng sự (1999), đã lý giải ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái trong một số điều kiện nhất định, trong đó có điều kiện về chế độ tỷ giá Darby và cộng sự (1999) đã phát triển ý tưởng về vùng không hoạt động dựa trên mô hình quyền chọn thực Kết luận của Darby và cộng sự (1999) cho rằng nhiều khả năng ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI là cùng chiều nếu tỷ giá hối đoái cố định vì các nhà đầu tư sẽ ít chờ đợi hơn, và sẽ là ngược chiều nếu tỷ giá hối đoái thả nổi vì các nhà đầu tư sẽ chờ đợi tỷ giá hối đoái có lợi mới thực hiện đầu tư Sau đó, Jeanneret (2007) cũng dựa trên mô hình quyền chọn thực và tiếp cận lý thuyết dưới dạng xác suất của đầu tư đã đưa đến những nhận định khác với Darby và cộng sự (1999) Jeanneret (2007) ủng hộ ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI là ngược chiều ở mức độ bất định thấp, ứng với chế độ tỷ giá cố định, và cùng chiều ở mức độ bất định cao, ứng với chế độ tỷ giá thả nổi Như vậy, việc phát triển lý thuyết về ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái dưới các chế độ tỷ giá khác nhau đã được thảo luận trong một thời gian tương đối dài nhưng các lập luận không hoàn toàn ủng hộ nhau, vừa bác bỏ nhưng cũng vừa bổ sung
Mặt khác, lý thuyết thông tin bất cân xứng cũng có thể lý giải một phần cho sự khác biệt giữa chế độ tỷ giá neo mềm và chế độ tỷ giá thả nổi Chế độ tỷ giá cố định tạo ra thêm lớp phòng hộ có chủ ý trước các rủi ro do biến động tỷ giá Tuy nhiên, điều này cũng đi kèm với tâm lý ỷ lại (moral hazard), thiếu tính chủ động và linh hoạt trong việc phát triển thêm các công cụ phòng ngừa rủi ro Do đó, nếu không xem xét ảnh hưởng tương tác với phát triển tài chính, thì có ít sự khác biệt khi giải thích về ảnh hưởng biên của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI Khi ảnh hưởng tương tác với phát triển tài chính được thêm vào, hiệu ứng “tâm lý ỷ lại” sẽ được phản ánh một phần cùng với động cơ và sự chủ động trong phát triển tài chính
Dù vậy, kết quả thực nghiệm lại có phần mâu thuẫn nhiều hơn Mặc dù mô hình vùng không hoạt động lý giải tốt về sự can thiệp ẩn của chế độ tỷ giá hối đoái, kết quả nghiên cứu về mặt thực nghiệm của Darby và cộng sự (1999) vẫn chỉ giới hạn ở các quốc gia phát triển và có chế độ tỷ giá thả nổi Trong khi đó, Jeanneret (2007) vẫn chưa có kết quả thực nghiệm cuối cùng gắn liền với những quan điểm về xác suất đầu tư Sự chuyển động ngẫu nhiên của bất định tỷ giá hối đoái gán vào một giá trị ngưỡng trong nghiên cứu Jeanneret (2007) sẽ có phần khiên cưỡng khi cố định trước một vài thông số trong mô hình Một số nghiên cứu khác có quan tâm chế độ tỷ giá nhưng chỉ tập trung vào một vài quốc gia hoặc nhóm quốc gia cụ thể, chưa thể bao hàm sự khác nhau giữa các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau trong cùng một nghiên cứu (Jamal
& Bhat, 2022; Nguyen & Cieślik, 2021; Ramzan, 2021) Một số nghiên cứu thì cải tiến hơn trong việc đưa vào chế độ tỷ giá, dưới dạng một biến độc lập, đến FDI và kết luận về sự ủng hộ những ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi (Harms & Knaze, 2021; Eregha, 2020; Taşdemir & ệzmen, 2018); hoặc ủng hộ những ưu điểm của chế độ tỷ giỏ cố định (Obstfeld và cộng sự, 2019; Ghosh và cộng sự, 2014; Abbott và cộng sự, 2012) Nói cách khác, những nghiên cứu đó chỉ cho thấy sự ủng hộ chế độ tỷ giá trong việc thu hút FDI Vì thế, ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái dưới những chế độ tỷ giá này là cùng chiều hay ngược chiều thì chưa được làm rõ Để hình dung, các nghiên cứu này chỉ làm rõ hơn quan điểm về ưu nhược điểm của các chế độ tỷ giá như của Meade (1951) và Friedman (1953), chứ chưa tiếp cận được khuôn khổ lý thuyết về đầu tư dưới điều kiện không chắc chắn Hơn nữa, chế độ quản lý tỷ giá phức tạp hơn rất nhiều khi ranh giới giữa cố định và thả nổi mong manh hơn, như với chế độ tỷ giá neo mềm mà hầu hết các quốc gia theo đuổi Có vẻ như, công trình của Rhadbane & Moudden (2022) là nghiên cứu hiếm hoi có nhận định thực nghiệm về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở hai chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và thả nổi Kết luận của
Rhadbane & Moudden (2022) cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ứng ngược chiều với bất định tỷ giá hối đoái ở Maroc với chế độ tỷ giá neo mềm và phản ứng cùng chiều ở Thổ Nhĩ Kỳ với chế độ tỷ giá thả nổi Tuy nhiên, kết luận của Rhadbane
& Moudden (2022) chỉ dừng lại ở góc độ hai quốc gia là Maroc và Thổ Nhĩ Kỳ Do đó, bằng chứng tìm thấy của Rhadbane & Moudden (2022) có tính thuyết phục chưa đủ mạnh mẽ
Cuối cùng, do hạn chế về mặt dữ liệu, rất nhiều những nghiên cứu trước đây không dễ tiếp cận nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau Nguyên nhân là vì số đối tượng và độ dài thời gian của mẫu dữ liệu không đủ đảm bảo cho tính vững của các đo lường thống kê theo định lý giới hạn trung tâm Phương pháp Bayes thực hiện các ước lượng dựa trên sự mô phỏng hành vi dữ liệu và do đó có thể áp dụng đối với các mẫu có kích thước nhỏ Điều này cho phép luận án tiếp cận một cách sâu sắc hơn một số khía cạnh hẹp trong khoảng trống nghiên cứu trước đây Dù vậy, luận án vẫn thu thập một kích thước dữ liệu lớn đề phòng những tình huống khẩn cấp Như vậy, việc bổ sung thêm nghiên cứu mới toàn diện và tổng quát hóa là điều cần thiết
Thứ ba, ảnh hưởng tương tác giữa bất định tỷ giá hối đoái và phát triển tài chính đến FDI thì còn tương đối ít và mờ nhạt
Theo lý thuyết trung gian tài chính, một hệ thống tài chính phát triển hơn mang lại cơ hội đa dạng hóa rủi ro cao hơn và cung cấp các phương tiện phòng ngừa rủi ro tốt hơn cho các nhà đầu tư, giúp giảm các yếu tố rủi ro gắn liền với sự bất định (Mohanty, 2013; Aghion và cộng sự, 2009; Allen & Santomero, 1998) Do đó, phát triển tài chính có thể làm giảm thiểu đi ảnh hưởng ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, như một sự trung hòa với rủi ro Ngược lại, vẫn có lập luận cho rằng phát triển tài chính làm giảm tác động cùng chiều của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Nếu bất định tỷ giá hối đoái làm tăng chi phí thương mại, thì phát triển tài chính có thể giúp các công ty đa quốc gia tránh rủi ro ngay từ đầu và không làm sụt giảm khối lượng thương mại Khi đó, nhu cầu thực hiện FDI để thay thế xuất khẩu sẽ suy giảm
Hơn nữa, phát triển tài chính không hoàn toàn tách rời chế độ tỷ giá trong mối quan hệ giữa bất định tỷ giá hối đoái và FDI Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi giúp phát triển thị trường phái sinh phòng hộ rủi ro nhiều hơn so với chế độ tỷ giá cố định Chế độ tỷ giá cố định tạo ra một cơ chế làm giảm rủi ro tỷ giá, ít nhất là trong ngắn hạn, nhưng đồng thời cũng làm giảm động lực phát triển các công cụ phòng hộ trên thị trường phái sinh Theo lý thuyết về thông tin bất cân xứng, sự ổn định trong chế độ tỷ giá cố định mang lại tâm lý ỷ lại (moral hazard) về sự an toàn thiếu cảnh giác trước việc phải phòng hộ trước các rủi ro thị trường và do đó tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hệ thống tài chính (Mohanty, 2013) Rủi ro tiềm ẩn cao hơn sẽ làm cho tỷ suất sinh lợi đòi hỏi cao hơn và do đó vốn đầu tư vào quốc gia đó sẽ giảm Lập luận này cho thấy phát triển tài chính cao hơn tạo thêm một lớp phòng hộ trước tâm lý ỷ lại do chế độ tỷ giá cố định mang lại, giống như một khoản thế chấp đảm bảo rủi ro Hiển nhiên, sự phức tạp và đa dạng của các sản phẩm tài chính ở các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển cũng có thể làm phát sinh thêm chi phí về sự hiểu biết và chi phí tham gia, theo lý thuyết trung gian tài chính của Allen & Santomero (1998) Sự vận dụng không tối ưu các công cụ tài chính được các trung gian tài chính cung cấp có thể làm giảm ảnh hưởng cùng chiều của bất định tỷ giá hối đoái đối với FDI đạt được nhờ vào tính linh hoạt trong sản xuất Có thể hình dung rằng những khoản phí bảo hiểm sẽ lãng phí nếu rủi ro không thực sự diễn ra
Chỉ có số ít tác giả cung cấp được bằng chứng cho thấy sự phát triển tài chính ở các nền kinh tế tiếp nhận thực sự có thể thay đổi tác động của bất định tỷ giá hối đoái lên đầu tư trực tiếp nước ngoài (Ezekiel & Temidayo, 2023; Jehan & Hamid, 2017;
Khraiche & Gaudette, 2013) Khraiche & Gaudette (2013) cho rằng trình độ phát triển tài chính cao hơn ở quốc gia nhận đầu tư có xu hướng giảm bớt ảnh hưởng cùng chiều của bất định tỷ giá hối đoái đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Ngược lại, Jehan &
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Giả thuyết nghiên cứu
3.1.1 Tác động riêng lẻ của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Để xây dựng giả thuyết nghiên cứu, luận án bắt đầu bằng việc thảo luận lại các cơ sở lý thuyết và các công trình thực nghiệm trước đây Về lý thuyết, ảnh hưởng riêng lẻ của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI được thảo luận trong những nghiên cứu ban đầu dựa trên lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất và lý thuyết về lo ngại rủi ro Về sau, mô hình quyền chọn thực đã giải thích đầy đủ hơn về những điều kiện mà lý thuyết nào trong hai lý thuyết này sẽ chiếm ưu thế
Theo lý thuyết ngại rủi ro, FDI giảm khi bất định của tỷ giá hối đoái tăng Theo lý thuyết về đầu tư không chắc chắn, bất định tăng lên sẽ gây ra một sự sụt giảm trong đầu tư (Henry, 1974) Điều này là do bất định trong tỷ giá hối đoái cao hơn làm cho những nhà đầu tư sẽ yêu cầu thêm các khoản bù đắp rủi ro mà bất định tỷ giá hối đoái gây ra đối với tỷ suất hoàn vốn đầu tư Sự lo ngại rủi ro càng tăng lên bởi lẽ đầu tư không thể đảo ngược vì sự tồn tại của các khoản chi phí chìm (Dixit & Pindyck, 1994)
Theo lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất, bất định về tỷ giá hối đoái sẽ thúc đẩy FDI.Bất định của tỷ giá hối đoái góp phần làm gia tăng đầu tư nước ngoài vì các công ty có thể điều chỉnh việc sử dụng một trong các yếu tố biến đổi của họ sau khi nhận ra các cú sốc danh nghĩa hoặc thực và bất định tỷ giá hối đoái là một trong nhũng cú sốc đó (Abel, 1983) Nếu đầu tư trực tiếp nước ngoài về bản chất là nhằm thay thế xuất khẩu, sự gia tăng bất định tỷ giá hối đoái thúc đẩy công ty phục vụ nước sở tại thông qua cơ sở sản xuất địa phương hơn là xuất khẩu, nhằm bảo vệ lợi nhuận trước rủi ro của tỷ giá hối đoái Sự gia tăng bất định tỷ giá hối đoái khiến các công ty đa quốc gia gia tăng nhu cầu FDI để tạo nên trạng thái cô lập với rủi ro tiền tệ (Osinubi & Amaghionyeodiwe, 2009)
Mô hình quyền chọn thực xem xét các quyết định đầu tư dưới dạng một quyền chọn Lý thuyết này được tiếp tục phát triển bởi Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) Darby và cộng sự (1999) đã phát triển lý thuyết về vùng không hoạt động, hoặc quyền chọn chờ đợi, để lý giải ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái trong một số điều kiện nhất định, trong đó có điều kiện về chế độ tỷ giá
Darby và cộng sự (1999) đã phát triển ý tưởng về vùng không hoạt động dựa trên mô hình quyền chọn thực Kết luận của Darby và cộng sự (1999) cho rằng nhiều khả năng ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI là cùng chiều nếu tỷ giá hối đoái cố định vì các nhà đầu tư sẽ ít chờ đợi hơn, và sẽ là ngược chiều nếu tỷ giá hối đoái thả nổi vì các nhà đầu tư sẽ chờ đợi tỷ giá hối đoái có lợi mới thực hiện đầu tư
Ngược lại, Jeanneret (2007) dựa trên mô hình quyền chọn thực theo cách tiếp cận xác suất đầu tư và đưa đến những nhận định khác với Darby và cộng sự (1999) Jeanneret (2007) ủng hộ ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến FDI là ngược chiều ở mức độ bất định thấp, ứng với chế độ tỷ giá cố định, và cùng chiều ở mức độ bất định cao, ứng với chế độ tỷ giá thả nổi
Về mặt thực nghiệm, việc kiểm định lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất và lý thuyết lo ngại rủi ro thuận tiện hơn rất nhiều so với lý thuyết về quyền chọn thực Nhiều nghiên cứu gần đây đã được thực hiện để ủng hộ cho lý thuyết lo ngại rủi ro (Nadine và cộng sự, 2021; Moraghen và cộng sự, 2021; Nguyen & Cieślik, 2021; Ramzan, 2021;
Jamal & Bhat, 2022), trong khi nhiều nghiên cứu khác ủng hộ cho lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất (Balaban và cộng sự, 2019; Shetty và cộng sự, 2019; Havi, 2021;
Bởi vì phương pháp tần suất được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu, các kết quả thực nghiệm dựa trên việc bác bỏ giả thuyết H0 sẽ chỉ ủng hộ cho một trong hai quan điểm lý thuyết Đối với phương pháp Bayes được sử dụng trong luận án, giả thuyết nghiên cứu sẽ được thiết lập ở phương diện thừa nhận rằng cả hai lý thuyết đều có thể cùng tồn tại dưới những xác suất khác nhau Việc thiết lập giả thuyết nghiên cứu như vậy sẽ phù hợp hơn với lý thuyết về mô hình quyền chọn thực và cải tiến hơn trong cách tiếp cận ảnh hưởng bất định tỷ giá hối đoái đến FDI Cách thiết lập giả thuyết nghiên cứu linh hoạt hơn theo phương pháp Bayes cũng giải thích được những trường hợp cá biệt, có ảnh hưởng đối nghịch, mà không làm mâu thuẫn kết quả nghiên cứu
Tuy nhiên, như đã đề cập trong khoảng trống nghiên cứu, ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái dưới chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi là cùng chiều hay ngược chiều thì chưa được xác định một cách rõ ràng kể cả về lý thuyết và thực nghiệm Mặc dù cùng xuất phát điểm bằng mô hình quyền chọn thực, cách tiếp cận lý thuyết của Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) dường như trái ngược nhau Về mặt thực nghiệm, kết quả nghiên cứu của Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) cũng chưa thể hoàn toàn thuyết phục Mẫu quan sát của Darby và cộng sự (1999) lại chỉ bao gồm các quốc gia phát triển và có chế độ tỷ giá thả nổi Mặt khác, Jeanneret (2007) đã cố định trước một vài thông số trong mô hình và trực quan hóa chuyển động ngẫu nhiên của bất định tỷ giá hối đoái cùng với một giá trị ngưỡng Điều này làm cho kết quả của Jeanneret (2007) tương đối khiên cưỡng và khó khái quát hóa cho tất cả trường hợp
Dù vậy, nghiên cứu hiếm hoi và gần nhất của Rhadbane & Moudden (2022) có thể hỗ trợ cho luận án kế thừa để xây dựng giả thuyết cho mô hình thực nghiệm Rhadbane
& Moudden (2022) đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm về tác động của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hai chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và thả nổi Kết luận của Rhadbane & Moudden (2022) cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ứng ngược chiều với bất định tỷ giá hối đoái ở quốc gia chế độ tỷ giá neo mềm và phản ứng cùng chiều ở quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Có thể thấy, kết quả thực nghiệm của Rhadbane & Moudden (2022) gần hơn với mô hình quyền chọn thức theo cách tiếp cận xác suất đầu tư của Jeanneret (2007) Do đó, giả thuyết H1 và H2 được xây dựng dựa trên bằng chứng thực nghiệm gần nhất được tìm thấy bởi Rhadbane & Moudden (2022) và mô hình lý thuyết của Jeanneret (2007)
Giả thuyết nghiên cứu được xây dựng ứng với chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm cho giả thuyết H1 và chế độ tỷ giá thả nổi ứng với giả thuyết H2
H1: Tác động ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái là nổi trội hơn so với tác động cùng chiều đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
H2: Tác động cùng chiều của bất định tỷ giá hối đoái là nổi trội hơn so với tác động ngược chiều đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Khung phân tích lý thuyết
Hình 3.1 đã tổng hợp khung lý thuyết được sử dụng trong thiết kế nghiên cứu của luận án, bao gồm những lý thuyết được lược khảo, lập luận dẫn đến chiều ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài với vai trò trung gian của phát triển tài chính
Nguồn: Thiết kế bởi tác giả Hình 3.1 Khung phân tích lý thuyết về vai trò của phát triển tài chính đối với ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia
Những lý thuyết sơ khai như lý thuyết lo ngại rủi ro và lý thuyết về tính linh hoạt của sản xuất xem xét ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới dạng ảnh hưởng đơn nhất Chiều ảnh hưởng khác nhau giữa hai lý thuyết được minh họa trong dấu ngoặc đơn
Sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu đã được thảo luận là do khác biệt về cách lựa chọn các nhóm quốc gia khác nhau và chủ yếu dựa trên phương pháp tần suất
Chế độ tỷ giá hối đoái chỉ là một phần trong việc lựa chọn nhóm quốc gia Điều này sẽ khó chạm tới các quốc gia có chế độ tỷ giá trung gian Các quốc gia này cố định trong một số giai đoạn và thả nổi trong một số giai đoạn khác Dưới góc độ này, lý thuyết quyền chọn thực được phát triển để giải thích tốt hơn sự tồn tại cùng lúc của hai ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều tùy theo một số điều kiện khác nhau Một trong số những điều kiện quan trọng đó là độ lớn của bất định tỷ giá hối đoái
Khung lý thuyết phân tích tập trung vào mô hình quyền chọn thực của Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) như đã phác thảo Mặc dù đều sử dụng mô hình quyền chọn thực, cách luận giải của hai cách tiếp cận này lại đưa đến những kết luận khác nhau Lý giải về chiều ảnh hưởng của bất định tỷ giá trong khung lý thuyết về mô hình quyền chọn thực được chi tiết hóa như sau
Thứ nhất, Darby và cộng sự (1999) lý giải rằng, các quyết định đầu tư FDI giống như một quyền chọn Nếu tỷ giá bất định cao, rủi ro tỷ giá sẽ khiến các nhà đầu tư chờ đợi nhiều hơn, thay vì ra quyết định đầu tư Tương tự, bất định tỷ giá thấp sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư thúc đẩy các hoạt động FDI
Thứ hai, Jeanneret (2007) là thiết lập một hàm hữu dụng FDI thay thế xuất khẩu và cũng xem quyết định đầu tư dưới dạng mật độ xác suất Jeanneret (2007) cũng lý giải rằng các sự thay đổi của tỷ giá sẽ kích hoạt quyết định FDI để thay thế xuất khẩu khi lợi nhuận từ FDI đủ bù đắp lợi ích thương mại Do đó, bất định càng cao thì ảnh hưởng bất định tỷ giá đến hoạt động FDI càng gia tăng vì xuất khẩu bị cản trở
Chính vì vậy, luận án xây dựng hai giả thuyết nghiên cứu H1 và H2 nhằm tìm ra sự kết nối giữa hai cách tiếp cận và những bằng chứng thực nghiệm để xác nhận về ảnh hưởng nội trội ở chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi
Mặt khác, vai trò điều tiết của phát triển tài chính được luận giải trong khung phân tích lý thuyết bằng lý thuyết trung gian tài chính và lý thuyết về thông tin bất cân xứng, làm tiền đề để xây dựng hai giả thuyết H3 và H4
Theo lý thuyết trung gian tài chính, hệ thống tài chính phát triển hơn mang lại cơ hội đa dạng hóa rủi ro cao hơn và cung cấp các phương tiện phòng ngừa rủi ro tốt hơn, giúp giảm các yếu tố rủi ro gắn liền với sự bất định (Allen & Santomero, 1998) Do đó, phát triển tài chính được kỳ vọng có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng ngược chiều của bất định tỷ giá hối đoái như một sự trung hòa với rủi ro Điều đó không hẳn rằng phát triển tài chính chỉ tác động tích cực Nếu bất định tỷ giá hối đoái làm tăng chi phí thương mại, phát triển tài chính có thể giúp các công ty đa quốc gia tránh rủi ro ngay từ đầu và không làm sụt giảm khối lượng thương mại Lúc này, phát triển tài chính lại đóng vai trò làm giảm nhu cầu đầu tư trực tiếp nước ngoài để thay thế thương mại
Theo lý thuyết về thông tin bất cân xứng, sự ổn định trong chế độ tỷ giá cố định mang lại tâm lý ỷ lại về sự an toàn thiếu cảnh giác trước việc phải phòng hộ trước các rủi ro thị trường và do đó tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hệ thống tài chính Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi giúp phát triển thị trường phái sinh phòng hộ rủi ro nhiều hơn so với chế độ tỷ giá cố định Do đó, phát triển tài chính cao hơn tạo thêm một lớp phòng hộ trước tâm lý ỷ lại do chế độ tỷ giá cố định mang lại, giống như một khoản thế chấp đảm bảo rủi ro Sự vận dụng không tối ưu các công cụ tài chính được các trung gian tài chính cung cấp có thể làm giảm ảnh hưởng cùng chiều của bất định tỷ giá hối đoái
Thông qua quá trình hệ thống hóa các cơ sở lý thuyết, khung phân tích lý thuyết sẽ được tham khảo để thiết kế nghiên cứu phù hợp Việc củng cố các giả thuyết nghiên cứu sẽ giúp luận án trả lời được cho hai câu hỏi nghiên cứu (i) Có sự khác nhau về ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến FDI ở các chế độ tỷ giá khác nhau hay không? (ii) Phát triển tài chính có làm thay đổi ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến FDI ở các chế độ tỷ giá khác nhau hay không? Nội dung tiếp theo, luận án sẽ trình bày chi tiết hơn về thiết kế nghiên cứu để giải quyết mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra.
Thiết kế nghiên cứu
Hình 3.2 khái quá quy trình nghiên cứu được thực hiện trong luận án Trước tiên, luận án sẽ thực hiện lược khảo các nghiên cứu trước đây để sơ lược về cơ sở lý thuyết và tổng quan các kết quả nghiên cứu thực nghiệm để tìm ra khoảng trống nghiên cứu và thiết lập mục tiêu nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu Từ đó, luận án sẽ xây dựng các giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích lý thuyết để trả lời cho các giả thuyết được đặt ra, làm cơ sở biện dẫn các suy diễn thống kê thu được từ kết quả nghiên cứu
Nguồn: Thiết kế bởi tác giảHình 3.2 Thiết kế nghiên cứu chi tiết của luận án
Quy trình này sẽ liên tục được rà soát và quay ngược lại tiến trình cho đến khi thiết lập rõ ràng mục tiêu nghiên cứu và tìm ra những câu hỏi nghiên cứu cần thiết phải trả lời về mặt thực nghiệm Sau đó, thiết kế nghiên cứu sẽ lựa chọn phương pháp định lượng phù hợp để có thể đạt được mục tiêu nghiên cứu Kế tiếp, cơ sở lý thuyết và tổng quan kết quả thực nghiệm trước đây sẽ được thảo luận để xây dựng mô hình lý thuyết
Một vài sự điều chỉnh có thể được thực hiện để mô hình thực nghiệm phù hợp với mục đích nghiên cứu và nguồn dữ liệu sẵn có Dữ liệu thứ cấp được sử dụng để đảm bảo khách quan, minh bạch cũng như độ tin cậy của dữ liệu Để ước lượng mô hình thực nghiệm, luận án sử dụng phương pháp ước lượng Bayes Không giống với phương pháp tần suất khi ước lượng mô hình dựa trên các giả định và giả thuyết H0 (Null hypothesis), phương pháp Bayes được thực hiện dựa trên các mô phỏng bởi các thiết lập cho trước, bao gồm thiết lập về thông tin tiền nghiệm, thiết lập về hàm hợp lý, thiết lập về cách lấy mẫu và tiến hành mô phỏng
Các kiểm định tĩnh vững của các thiết lập sẽ được thực hiện trước khi tiến hành suy diễn thống kê Đối với ước lượng Bayes, kết quả ước lượng sẽ được mô phỏng bằng mật độ xác suất hậu nghiệm, từ đó cung cấp xác suất của các chiều dấu của trung bình hậu nghiệm Kết quả ước lượng sẽ được đối chiếu và rút ra các ý nghĩa thực nghiệm quan trọng cho luận án
Kết quả thực nghiệm sẽ được tiếp tục phân tích và thảo luận sâu sắc hơn, để có thể rút ra những ý nghĩa kinh tế và đưa ra các hàm ý chính sách từ những kết quả nghiên cứu được tìm thấy.
Mô hình nghiên cứu thực nghiệm
Luận án xây dựng mô hình lý thuyết dựa trên mô hình các nhân tố đẩy và kéo của Fernandez-Arias (1996) Khung lý thuyết này xem các tác động từ quốc tế là nhân tố đẩy và các tác động nội địa là nhân tố kéo đối với dòng vốn nước ngoài Như đã giải thích ở phần cơ sở lý thuyết, các yếu tố đẩy sẽ chưa quan tâm trong nội dung của luận án Các yếu tố đẩy thường là dữ liệu vĩ mô của Mỹ hoặc thế giới dưới dạng các chuỗi thời gian, điều này là hoàn toàn bất tiện trong khung phân tích dữ liệu bảng vì sự ít biến thiên của dữ liệu Việc thêm vào yếu tố đẩy có thể phải loại bỏ Mỹ ra khỏi tập dữ liệu quan sát nhằm tránh sự trùng lắp giữa yếu tố kéo và đẩy đối với chính quốc gia này Đồng thời, việc không thêm vào các yếu tố đẩy vẫn sẽ không làm thay đổi trọng yếu kết quả nghiên cứu Ước lượng Bayes xem xét riêng lẻ từng phân phối xác suất tiền nghiệm của các tham số trong mô hình, việc có thêm vào các yếu tố đẩy hay không cũng không làm thay đổi ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Để củng cố thêm giả định xây dựng mô hình thực nghiệm, luận án cũng bổ sung lập luận của Ignatius và cộng sự (2019) Theo đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài không thật sự bị ảnh hưởng bởi độ trễ của chính nó, các quyết định đầu tư ít phụ thuộc vào các quyết định đầu tư trước đó mà chủ yếu căn cứ vào các chính sách vĩ mô hiện tại Do đó, mô hình thực nghiệm được thiết kế ở dạng dữ liệu bảng tĩnh để kiểm tra ảnh hưởng của các yếu tố đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Mô hình thực nghiệm được thiết kế dưới dạng như sau:
Trong đó, FDIGDP là tỷ lệ phần trăm của dòng vốn vào ròng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP; X bao gồm tập các yếu tố ảnh hưởng đến FDIGDP Các yếu tố bao gồm: REER ,VolREER,FD,gGDP, O penness, In f , M GDP 2 Trong đó, REER là tỷ giá thực đa phương (Real Effective Exchange Rate), có xem xét sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế và hiệu chỉnh theo chỉ số giá;FDlà phát triển tài chính được đo lường bởi Svirydzenka (2016); gGDP được tính dưới dạng tăng trưởng thu nhập GDP bình quân đầu người; O penness đại diện cho độ mở thương mại, là tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP; In f là tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI); M GDP 2 là tỷ lệ phần trăm của cung tiền trên GDP; và cuối cùng là bất định tỷ giá hối đoái VolREER
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng thêm phương pháp đo lường bất định tỷ giá hối đoái mà Furceri & Borelli (2008) đã đề xuất là điểm số Zscores, thay thế phương pháp đo lường bất định tỷ giá hối đoái bằng độ lệch chuẩn (VolREER), để kiểm tra tính vững của các ước lượng Các công thức đo lường cụ thể bất định tỷ giá hối đoái được trình bày trong Bảng 3.2
Dựa trên khung phân tích lý thuyết được xây dựng tại mục 3.2, mô hình quyền chọn thực sẽ vận dụng dể xây dựng mô hình thực nghiệm cơ sở Bằng cách phân tách mẫu quan sát thành nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi, mô hình thực nghiệm cơ sở sẽ có thể xem xét ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái phù hợp với những lập luận của Darby và cộng sự (1999) và Jeanneret (2007) Mô hình thực nghiệm cơ sở dạng tuyến tính được trình bày chi tiết như sau:
FDIGDP gGDP Inf M GDP Openness l
Bên cạnh việc sử dụng bất định tỷ giá hối đoái được đo lường bằng độ lệch chuẩn của tỷ giá thực đa phương, luận án tiếp tục sử dụng phương pháp đo lường bất định tỷ giá khác là Zscore và được mô hình hóa trong mô hình thực nghiệm như sau:
FDIGDP gGDP Inf M GDP Openness
Luận án không dừng lại ở việc kiểm định ảnh hưởng của bất định tỷ giá đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà sẽ tiếp tục phân tích vai trò của phát triển tài chính trong mối quan hệ tương tác với bất định tỷ giá hối đoái Việc thêm vào mô hình thực nghiệm vai trò tương tác của phát triển tài chính với bất định tỷ giá hối đoái được giải thích dựa trên lập luận của lý thuyết trung gian tài chính và lý thuyết về thông tin bất cân xứng Điều này sẽ giúp cho nghiên cứu có cái nhìn sâu sắc hơn vai trò điều tiết của phát triển tài chính đối với ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái Mô hình thực nghiệm mở rộng có dạng như sau:
2 + i t gGDP i t Inf i t M GDP i t Openness i t REE i t
FDIGDP gGDP Inf M GD P Openness REE R
VolREE R FD VolR EE R xFD
(3.4) Ảnh hưởng tương tác cũng được mở rộng thêm vào mô hình cơ sở với cách đo lường bất định tỷ giá hối đoái bằng Zscore
2 + i t gGDP i t Inf i t M GDP i t Openness i t REE i t
FDIGDP gGDP Inf M G DP Openness REE R
Trong đó, θ được giả định là ảnh hưởng của các yếu tố đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng vào; đại diện cho giá trị của các ảnh hưởng ngẫu nhiên; đại diện cho sai số; i là quốc gia và t là thời gian quan sát
Phương pháp Bayes sẽ được sử dụng để ước lượng mô hình thực nghiệm Phân tích Bayes được bắt đầu bằng việc xác định một mô hình hậu nghiệm (posterior model)
Mô hình hậu nghiệm kết hợp thông tin tiền nghiệm (prior distribution) và hàm hợp lý (likelihood function) để mô tả phân phối xác suất của tất cả các tham số Do đó phân phối hậu nghiệm theo quy luật Bayes có hai thành phần: một hàm hợp lý (likelihood function bao gồm thông tin về các tham số mô hình dựa trên dữ liệu quan sát được và phân phối tiền nghiệm (prior distribution) bao gồm thông tin trước đó về phân phối của các tham số mô hình
Mặc dù việc phân loại tỷ giá hối đoái cho các nhóm quốc gia còn có chế độ neo cứng và nhóm tỷ giá hối đoái khác nhưng hai nhóm này đều có những khó khăn nhất định trong việc tiếp cận Nhiều quốc gia trong nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo cứng không có đồng tiền pháp định mà sử dụng đồng tiền của quốc gia khác Trong khi đó, nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá hối đoái khác thì không đồng nhất trong việc quản lý tỷ giá hối đoái và thường xuyên thay đổi Do đó, mô hình thực nghiệm hướng sự tập trung vào hai nhóm các quốc gia theo các chế độ tỷ giá neo mềm (Phụ lục 3) và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi (Phụ lục 4) Chế độ tỷ giá thả nổi được cho là điều hành linh hoạt hơn so với chế độ tỷ giá neo mềm.
Đo lường các biến và dữ liệu nghiên cứu
Bảng 3.2 tổng hợp chú thích của các biến được sử dụng trong mô hình thực nghiệm Các biến số sử dụng trong mô hình, ngoại trừ tỷ giá hối đoái và phát triển tài chính, được thu thập và tổng hợp từ cơ sở dữ liệu thứ cấp Chỉ số Phát triển Thế giới (World Development Indicators - WDIs) của Ngân hàng Thế giới tại địa chỉ truy cập https://databank.worldbank.org/source/world-development-indicators
Bảng 3.2 Mô tả dữ liệu trong mô hình nghiên cứu
Tên biến Viết tắt Phương pháp tính Đơn vị Nguồn dữ liệu
Biến phụ thuộc Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
FDIGDP 100%(Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ròng vào nền kinh tế/GDP) %
Ngân hàng Thế giới (World Bank)
Biến độc lập đại diện cho các yếu tố kéo
Tỷ giá hối đoái thực đa phương R E E R
Tỷ giá hối đoái thực đa phương theo cách yết giá gián tiếp dựa trên công thức của Darvas (2021) sử dụng, được đo lường như sau:
NBER là tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương và NEER là tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương
Tỷ giá thực hối đoái đa phương (REER) tăng thì sức cạnh tranh của một quốc gia bị xói mòn Tỷ giá thực hối đoái đa phương (REER) giảm thì sức cạnh tranh của một quốc gia được cải thiện
Dữ liệu được tính toán theo Darvas (2021), và thu thập tại địa chỉ https://www.bruegel.org/
σ là độ lệch chuẩn theo tháng (k) của sự thay đổi tỷ giá hối đoái Z s c o r e
Z s co r e Với σ là độ lệch chuẩn theo tháng (k) của sự thay đổi tỷ giá hối đoái Δ là trung bình số học của sự thay đổi tỷ giá hối đoái theo tháng (k)
Tên biến Viết tắt Phương pháp tính Đơn vị Nguồn dữ liệu
Phát triển tài chính FD
Dữ liệu được tính toán Svirydzenka (2016), bao gồm hai chỉ số thành phần là phát triển định chế tài chính (FI) và phát triển thị trường tài chính (FM), được trình bày tại Bảng 2.1 Chỉ số phát triển tài chính tổng hợp tuyến tính các chỉ số thành phần (FI và FM) bằng phương pháp phân tích thành phần chính (Principal Component Analysis - PCA) để không thiên lệch về tầm quan trọng ( FI , FM ) của các chỉ số cụ thể trong việc đo lường sự phát triển tài chính
Các chỉ số thành phần của phát triển định chế tài chính FI bao gồm FID,FIA,FIE và của phát triển thị trường tài chính FM bao gồm FMD,FMA,FME được xây dựng dưới dạng trung bình có trọng số của chuỗi chuẩn hóa, trong đó các trọng số là các tải nhân tố bình phương (w i fi ,w fm j ) với tổng của chúng cộng lại bằng 1 Bình phương của tải trọng nhân tố biểu thị tỷ lệ của tổng phương sai đơn vị của chỉ số được giải thích bởi nhân tố
Bộ dữ liệu phát triển tài chính (Financial Development Index Database) của Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF)
Tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người gGDP , , 1
Ngân hàng Thế giới (World Bank) Độ mở thương mại Openness
EX i,t và IM i,t lần lượt là tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia i trong năm t
Tỷ lệ lạm phát Inf
CPI i,t : là Chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia i trong năm t
Tỷ lệ phần trăm cung tiền M2GDP 100%(Cung tiền rộng M2/GDP) %
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Bộ dữ liệu bao gồm 114 quốc gia và được tổng hợp ở Phụ lục 2, bao gồm 57 quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm tại Phụ lục 3 và 57 quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi tại Phụ lục 4 Việc lựa chọn 114 quốc gia cũng như 57 quốc gia cho mỗi nhóm xuất phát từ vấn đề sàng lọc dữ liệu Để đảm bảo các ước lượng đủ tốt, dữ liệu bảng cần được thiết kế cân bằng Bộ dữ liệu tổng thể ban đầu được thu thập bao gồm 180 quốc gia từ bộ dữ liệu có thể thu thập tại Ngân hàng Thế giới và Qũy Tiền tệ Quốc tế Tuy nhiên, sau khi sàng lọc những dữ liệu bị khuyết và những dữ liệu âm khó giải thích về độ tin cậy Bộ dữ liệu đã lọc bớt và thu hồi được 57 quốc gia tương ứng với mỗi nhóm
Dữ liệu nghiên cứu thu thập từ nguồn mở, dễ dàng truy cập và sử dụng Tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER) được tính dựa trên nghiên cứu của Darvas (2021) và được thu thập tại địa chỉ https://www.bruegel.org/publications/datasets/real-effective-exchange- rates-for-178-countries-a-new-database/ Darvas (2021) đã tính toán tỷ giá hối đoái đa phương thực dựa trên dữ liệu xấp xỉ chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng thay vì dữ liệu về giá cả thực tế trên thị trường Việc thay thế giá cả trên thị trường bằng chỉ số giá xấp xỉ nhằm mục đích làm giảm các sai số tính toán và đảm bảo tính dừng cho chuỗi thời gian ước tính
Bộ dữ liệu tỷ giá hối đoái đa phương thực của Darvas (2021) được cập nhật thường xuyên, bao gồm số lượng quan sát nhiều hơn gấp đôi so với tập dữ liệu của Qũy Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới Vì thế, luận án sử dụng bộ dữ liệu của Darvas (2021) để có thể tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách cập nhật và mở rộng hơn phạm vi các quốc gia trong mẫu quan sát
Tuy nhiên, bộ dữ liệu của Darvas (2021) tính toán tỷ giá hối đoái theo phương pháp yết giá gián tiếp, vì vậy, luận án sẽ nghịch đảo dữ liệu tỷ giá hối đoái đa phương thực để chuyển hóa thành phương pháp yết giá trực tiếp cho phù hợp với các cơ sở lý thuyết
Dữ liệu về phát triển tài chính được thu thập từ bộ dữ liệu về Chỉ số Phát triển Tài chính (Financial Development Index Database) của Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại https://data.imf.org/?sk32E80-B36C-43B1-AC26-493C5B1CD33B Dữ liệu này được tính toán bởi Svirydzenka (2016) bao gồm hai dữ liệu thành phần là phát triển các định chế tài chính và phát triển thị trường tài chính
Bất định tỷ giá hối đoái được đo lường chủ yếu bằng độ lệch chuẩn theo tháng của tỷ giá hối đoái ( VolREER ) Luận án sử dụng độ lệch chuẩn theo tháng (k = 12) của tỷ giá hối đoái là vì những nguyên nhân sau đây Thứ nhất, bất định tỷ giá được tính theo tháng nhưng và do đó, có thể đối sánh với các dữ liệu khác được thu thập theo năm Nếu tính độ lệch chuẩn theo năm thì sẽ gặp một số khó khăn khi phải thu hẹp kích thước mẫu vì các giá trị của các biến khác phải được tính bằng giá trị trung bình hoặc chấp nhận sự trùng lắp dữ liệu nếu bất định tỷ giá là độ lệch chuẩn theo trung bình trượt Thứ hai, hầu hết các mô hình lý thuyết tiếp cận ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài đều giả định chuyển động của tỷ giá hối đoái có dạng Brown và bất định tỷ giá được đo lường bằng độ lệch chuẩn của chính nó Thứ ba, việc sử dụng độ lệch chuẩn để đo lường bất định tỷ giá hối đoái là một phương pháp đo lường truyền thống, đối xử bình đẳng với các quốc gia Việc này tạo điều kiện thuận lợi để phản ánh rõ sự khác biệt giữa các quốc gia ở hai chế độ tỷ giá khác nhau, và thậm chí trong cùng một chế độ tỷ giá hối đoái Rất nhiều những nghiên cứu trước đây đã sử dụng thước đo độ lệch chuẩn cho bất định tỷ giá hối đoái vì sự đơn giản và đồng nhất (Grossmann và cộng sự, 2014; Devereux & Lane, 2003; và Hviding cộng sự, 2004) Cuối cùng, độ lệch chuẩn của tỷ giá hối đoái phản ánh một cách gần gũi về mặt thống kê trong việc lượng hóa rất nhiều rủi ro tài chính và vì thế, gắn kết hơn với các cơ sở lý thuyết được lược khảo.
Phương pháp ước lượng Bayes
Trong thời gian gần đây, phương pháp Bayes ngày càng phổ biến trong nghiên cứu khoa học nhờ sự phát triển của các công cụ tính toán Phương pháp Bayes làm cho suy luận thống kê trở nên trực diện và linh hoạt hơn Phương pháp Bayes có thể biểu diễn xác suất về ảnh hưởng cùng chiều và ngược chiều của tham số và do đó, cung cấp nhiều thông tin hơn so với phương pháp tần suất truyền thống Để làm rõ hơn về sự khác biệt giữa phương pháp Bayes và phương pháp tần suất thường được sử dụng trong những nghiên cứu trước đây, luận án cũng trình bày sơ lược những ưu điểm và khuyết điểm của mỗi phương pháp Đối với phương pháp tần suất, ưu điểm nổi bật là tính nghiêm ngặt trong khoa học dữ liệu để tìm ra những bằng chứng khách quan Hơn nữa, phương pháp tiếp cận theo chủ nghĩa tần suất có nguồn tài nguyên khoa học sẵn có khổng lồ về tài liệu nghiên cứu và các mô hình thực nghiệm trước đây, bao gồm cả những phương pháp giải quyết sai sót trong quá trình hồi quy và tham khảo kết quả một cách khoa học Mục tiêu của phương pháp tiếp cận theo chủ nghĩa tần suất là đối chiếu giá trị p_value ước tính với các mức ý nghĩa cho trước nhằm mục đích kiểm tra ý nghĩa giả thuyết H0 Tuy nhiên, đây cũng là một hạn chế đáng chú ý bởi vì một kết luận về ảnh hưởng không đáng kể theo phương pháp tần suất chỉ có thể khẳng định rằng bằng chứng thống kê không được tìm thấy vì nhiều lý do khác nhau, thay vì không có tác dụng Hay nói cách khác, khi một hệ số ước lượng không có ý nghĩa thống kê, nó sẽ gần giống với việc không thể kết luận về tác động của biến đó chứ không phải rằng biến đó thực sự không có bất kỳ ảnh hưởng nào Hơn nữa, phương pháp ước lượng tần suất có những rào cản nhất định về độ lớn của quan sát cần có trong dữ liệu và do đó khó tiếp cận đến những đối tượng không có quá nhiều quan sát được thu thập
Trong khi đó, phương pháp Bayes làm cho các suy luận thống kê trở nên trực diện và linh hoạt hơn Thông tin tiền nghiệm và phân phối hậu nghiệm của các tham số trong mô hình phân tích Bayes tạo ra khoảng tin cậy toàn diện hơn và chính xác hơn khoảng tin cậy của phương pháp tiếp cận tần suất Nhờ vào việc sử dụng phương pháp mô phỏng, phân tích Bayes đã xác định phân phối xác suất và tạo ra các ước lượng đáng tin cậy bất chấp sự tồn tại của các giá trị ngoại lai Hơn nữa, vấn đề đa cộng tuyến trong Bayes dường như rất ít lo ngại, vì ước lượng Bayes dựa trên sự phân phối xác suất tiền nghiệm của mỗi tham số và nếu phân phối xác suất này là đúng thì sự chi phối của các biến không làm ảnh hưởng kết quả nghiên cứu Phương pháp Bayes cũng không yêu cầu cỡ mẫu lớn như của phương pháp tần suất, do đó, mở rộng thêm khả năng tiếp cận nhiều lĩnh vực nghiên cứu mà dữ liệu còn hạn chế Cách tiếp cận Bayes tạo ra các ước lượng tham số bằng cách sử dụng nhiều mô phỏng, do đó đảm bảo rằng các tham số sau trở nên đáng tin cậy trong trường hợp kích thước mẫu không đủ lớn Do đó, ước lượng Bayes có thể đồng thời mô hình hóa rất nhiều biến độc lập cùng một lúc
Tuy nhiên, việc tính toán các mô hình theo phương pháp Bayes là cực kỳ tốn thời gian và phức tạp trong việc xác định các phân phối tiền nghiệm Việc ước lượng các tham số hậu nghiệm đã được hỗ trợ thuận tiện bởi Stata 18, bởi các gói lệnh cung cấp sẵn tùy chọn mặc định cho các tham số Nội dung dưới đây sẽ trình bày chi tiết phương pháp Bayes Định lý Bayes được biểu diễn như sau:
Trong đó, biến cố B là một tập hợp đầy đủ được tạo thành bởi tất cả các biến cố Ai Vận dụng định lý Bayes, ước lượng Bayes cho phân phối hậu nghiệm của tham số θ có dạng như sau:
| ( y p y p p (3.7) nghiệm và hàm hợp lý Rất khó để có thể nhận định chính xác phân phối tiền nghiệm và hàm hợp lý trong việc tạo ra các tham số ước lượng không gặp bất kỳ vấn đề nào về hội tụ
Do đó, việc xác định phân phối tiền nghiệm cùng với hàm hợp lý được đơn giản hóa và sử dụng các mặc định cho trước tạo ra sự phù hợp một cách thuận tiện cho mô hình Bayes (Kruschke, 2015)
Việc tính toán Bayes vẫn gặp một số khó khăn trong việc xấp xỉ các phân phối và tính toán các điều kiện hậu nghiệm Những vấn đề này được giải quyết thông qua phương pháp mô phỏng các dữ liệu nhờ vào ứng dụng của định lý giới hạn trung tâm Theo định lý giới hạn trung tâm, các tham số ước lượng từ kích thước mẫu đủ lớn sẽ tạo ra các ước lượng không chệch tiệm cận với tham số tổng thế Một trong những phương pháp nổi bật thường được gọi là phương pháp Markov chain Monte Carlo (MCMC), lấy mẫu ngẫu nhiên một số lượng lớn các tổ hợp đại diện của các giá trị tham số từ phân phối hậu nghiệm Phương pháp mô phỏng MCMC là giải pháp hiệu quả để lấy mẫu gần đúng từ các phân phối hậu nghiệm, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ giúp các phương pháp thống kê Bayes dễ tiếp cận các ứng dụng thực tế (Kruschke, 2015) Một trong những dạng phổ biến nhất của MCMC là thuật toán Metropolis-Hastings sẽ được sử dụng trong luận án
Không giống như phương pháp tần suất, cả ước tính hiệu ứng cố định và tác động ngẫu nhiên trong phương pháp Bayes đều được coi là các tham số ngẫu nhiên, nằm rời rạc trong các phân phối Các tham số dao động xung quanh một giá trị trung bình được xác định bởi các tham số ngẫu nhiên khác được gọi là siêu tham số (hyperparameters) Mô hình hệ số ngẫu nhiên cho phép hệ số chặn đối với mọi đối tượng là khác nhau Theo phương pháp Bayes, không có sự phân biệt giữa các ước tính hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên, bởi vì các giả định tiền nghiệm đều được thiết kế dưới dạng phân phối xác suất và do đó, ước lượng ngẫu nhiên sẽ phù hợp cho khả năng ứng dụng dữ liệu bảng (Rendon, 2012; Koop, 2003)
Một vấn đề nữa cần lưu ý là ước lượng khoảng trong phương pháp Bayes, còn gọi là khoảng tin cậy (credible interval - CRI), có phần khác so với khoảng tin cậy (confidence interval - CI) của phương pháp tần suất (frequentist) Trong phân tích Bayes, khoảng tin cậy là nơi có vùng mật độ hậu nghiệm cao nhất (highest posterior density - HPD), thuận tiện giải thích xác suất một cách rõ ràng Thông tin tiền nghiệm và phân phối hậu nghiệm của các tham số trong mô hình phân tích Bayes tạo ra khoảng tin cậy (CRI) toàn diện hơn và chính xác hơn khoảng tin cậy (CI) của phương pháp tần suất
Với (1 - ) (0,1) ,khoảng tin cậy (CRI) xác định vùng tin cậy {(1-) x 100%}% chứa các giá trị đúng của tham số ngẫu nhiên θ Vùng tin cậy {(1-) x 100%}%đối với θ, được gọi là C, và được công thức hóa như sau:
(1 − α) là xác suất để θ nằm trong C với dữ liệu y được quan sát trước
3.6.2 Phương pháp ước lượng Bayes cho mô hình thực nghiệm Để ước lượng mô hình thực nghiệm, một số giả định tiền nghiệm cần phải được thiết lập trước Nếu mô hình Bayes không chắc chắn về phân phối tiền nghiệm chính xác của các tham số ước lượng từ các nghiên cứu tương tự trước đó thì nên chọn các tham số mô hình có phân phối tiền nghiệm phi thông tin Do đó, luận án thực hiện ước lượng Bayes trước hết dựa trên giả định tiền nghiệm mặc định được cung cấp bởi Stata 18 Kích thước mẫu được mô phỏng càng lớn thì các giá trị MCMC được tạo ra càng mịn và càng bám sát với phân phối xác suất mà giả định tiền nghiệm xây dựng (Stata, 2023) Mô hình thực nghiệm sẽ được ước lượng với việc tạo ra 20.000 mẫu quan sát (MCMC samples) sau 5.000 mẫu thử nghiệm (burn-in samples)
Luận án sử dụng phương pháp lấy mẫu Gibbs và thuật toán Metropolis-Hastings với mô phỏng số lần lặp bằng MCMC Việc xác định các thông tin tiền nghiệm được hỗ trợ bởi Stata 18 như sau:
Giả định tiền nghiệm (Priors):
Giả định phương sai yếu tố ngẫu nhiên (Hyperprior):
(3.14) các ảnh hưởng ngẫu nhiên Đối với mô hình cơ sở, giả định tiền nghiệm (3.11) về ảnh hưởng tương tác sẽ không được xem xét Luận án sẽ mở rộng giả định tiền nghiệm này trong một phân tích sâu hơn ở trong phần kết quả nghiên cứu để xem xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái
Về việc thiết lập các giả định, luận án sử dụng định dạng phân phối chuẩn (normal) tiền nghiệm cho hàm hợp lý (Likelihood) và các hệ số hồi quy; và gamma nghịch đảo (inverse-gamma) cho các tham số phương sai Theo đó, phân phối tiền nghiệm giả định các hệ số ước lượng tuân theo quy luật phân phối chuẩn, θ~N(0,10000); và các tham số phương sai tuân theo quy luật phân phối gamma nghịch đảo, σ,σU~InvGamma (0.01,0.01)
Trong trường hợp không có thông tin giả định tiền nghiệm của các hệ số ước lượng và phân phối xác suất tương ứng, phân phối chuẩn cho các tham số và phân phối gamma nghịch đảo cho các phương sai thường được sử dụng (Block & ctg, 2011) Việc giả định tuân theo quy luật phân phối chuẩn với trung bình bằng 0 cho tất cả các hệ số ngụ ý các hệ số thu được từ phân tích Bayes không làm sai lệch kết quả phân tích Bayes theo hướng cùng chiều hoặc ngược chiều (Block & ctg, 2011) Nếu kết quả kiểm định về sự hội tụ là phù hợp, ít nhất các suy diễn thống kê dựa trên các giả định này cũng đáng tin cậy và các bằng chứng thực nghiệm được cung cấp tương đối phù hợp trước vô số cách giả định tiền nghiệm Khi dữ liệu đủ lớn, định lý Bernstein & Von Mises (1998) cho rằng phân phối hậu nghiệm sẽ hội tụ thành phân phối chuẩn đa biến tiệm cận hệ số ước lượng mà tại đó tối đa hóa hàm hợp lý (Maximum Likelihood Estimation - MLE) Nói cách khác, phân phối hậu nghiệm tương đối độc lập với phân phối tiền nghiệm, các suy luận dựa trên Bayes và hàm hợp lý do đó mang lại các kết quả tương đồng với nhau (Vaart, 1998) Đối với phương pháp Bayes, kết quả ước lượng sẽ thể hiện một mật độ xác suất mà các tham số ước lượng có thể xảy ra, được gọi là xác suất hậu nghiệm (posterior inclusion probabilities – PIPs) Theo Raftery (1995), xác suất hậu nghiệm nằm trong khoảng từ 0,50 đến 0,75 thì có tác động yếu, từ 0,75 đến 0,95 thì được xem là có tác động vừa phải, từ 0,95 đến 0,99 là tác động mạnh và nếu lớn hơn hẳn 0,99 thì tác động đó là rất mạnh
PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài và bất định tỷ giá hối đoái ở chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi
Hình 4.3 cho thấy tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát Hầu hết thời gian trong giai đoạn nghiên cứu, tỷ lệ FDI trên GDP ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi lớn hơn tương đối so với hóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm, cao nhất đạt đến 9,16% vào năm 2007 Tuy nhiên, biến động tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi cũng cao hơn so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Ở Những giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2013, sự di chuyển của tỷ lệ FDI trên GDP có tính đồng điệu nhưng nhạy hơn ở nhóm quốc
3,500 Đơn vị tính: Tỷ USD
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả từ dữ liệu của Ngân hàng Thế giớiHình 4.2 Quy mô dòng vốn FDI vào toàn cầu hai nhóm quốc gia và trở nên đồng bộ cùng chiều từ năm 2019 đến năm 2021
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả
Hình 4.4 Tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi VolREER ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm VolREER ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Zscore ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Zscore ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả Hình 4.3 Bất định tỷ giá hối đoái và tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát
Có thể thấy, sự sụt giảm FDI toàn cầu vào năm 2018 là do sự sụt giảm FDI ở nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi, chỉ còn 1,59% so với GDP trong khi tỷ lệ này ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm tương đối ổn định và tăng nhẹ
Hình 4.4 cho thấy sự tương quan giữa tỷ lệ FDI trên GDP và bất định tỷ giá hối đoái theo thời gian ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá khác nhau Cột bên trái thể hiện tỷ lệ FDI trên GDP và cột bên phải thể hiện giá trị bất định tỷ giá hối đoái (VolREER và Zscore).
Thực trạng về phát triển tài chính ở chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và chế độ tỷ giá thả nổi
Về mặt trực quan, bất định tỷ giá hối đoái có tương quan cùng chiều trong biến động tương đối với tỷ lệ FDI trên GDP ở cả hai nhóm quốc gia Dù vậy, một số giai đoạn vẫn cho thấy sự tương quan là ngược chiều rõ ràng, cụ thể là các giai đoạn 2001-2002, 2005- 2006, 2007-2008, và gần nhất là giai đoạn 2019-2021
4.1.3 Thực trạng về phát triển tài chính ở chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và chế độ tỷ giá thả nổi
Hình 4.5 cho thấy phát triển tài chính toàn cầu bình quân trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2021 Có thể thấy, phát triển tài chính toàn cầu tăng trưởng liên tục trong giai đoạn quan sát, ngoại trừ một số sự suy giảm không đảng kể trong một số giai đoạn sau các cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 và Đại dịch Covid-19 Tuy nhiên, phát triển tài chính toàn cầu tăng trưởng chậm lại kể từ năm 2007, sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả từ dữ liệu của Qũy Tiền tệ Quốc tế Hình 4.5 Phát triển tài chính toàn cầu bình quân
2000200120022003200420052006200720082009201020112012201320142015201620172018201920202021 khác nhau, luận án tiếp tục phân tích hình
Hình 4.6 minh họa phản ứng của tỷ lệ FDI trên GDP với phát triển tài chính ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi Có thể thấy, những quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi tạo điều kiện tốt hơn để gia tăng sự phát triển của thị trường tài chính và các định chế tài chính Khi bất định cao hơn, thị trường các công cụ phòng ngừa rủi ro được cho là được quan tâm nhiều hơn đối với trường hợp tỷ giá được ổn định như trong chế độ tỷ giá neo mềm, và do đó phát triển tài chính cao hơn hẳn ở nhóm những quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Về trực quan, mối quan hệ giữa tỷ lệ FDI trên GDP và phát triển tài chính là khó có thể quan sát rõ ràng Nguyên nhân là vì sự biến động tương đối nhỏ của phát triển tài chính Do đó, mối quan hệ này sẽ được xác nhận rõ ràng hơn thông qua mô hình thực nghiệm
Hình 4.7 và Hình 4.8 lần lượt lần lượt thể hiện sự biến động dữ liệu của phát triển tài chính, tỷ lệ FDI trên GDP và bất định tỷ giá ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả Hình 4.6 Phát triển tài chính và tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềmTỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổiPhát triển tài chính tại nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềmPhát triển tài chính tại nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả
Hình 4.8 Phát triển tài chính, tỷ lệ FDI trên GDP bình quân, và bất định tỷ giá hối đoái ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi trong mẫu quan sát
Phát triển tài chính tại nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi VolREER ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Zscore ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Phát triển tài chính tại nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Zscore ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
VolREER ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả Hình 4.7 Phát triển tài chính, tỷ lệ FDI trên GDP bình quân, và bất định tỷ giá hối đoái ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm trong mẫu quan sát thấy hầu như có tương quan ngược chiều với phát triển tài chính trong giai đoạn đầu đến năm 2010 và giai đoạn 2014-2018, và ảnh hưởng cùng chiều ở các giai đoạn còn lại Ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi, bất định tỷ giá hối đoái dường như cho thấy có tương quan ngược chiều với phát triển tài chính trong giai đoạn đầu đến năm 2009 và giai đoạn 2005-2007, nhưng ảnh hưởng cùng chiều ở các giai đoạn còn lại.
Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số yếu tố vĩ mô ở chế độ tỷ giá hối đoái neo mềm và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi
Trước năm 2008, tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi là cao hơn so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm (Hình 4.9) Điều này đã không duy trì từ sau năm 2008 với sự vượt lên về tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và đạt được sự tương đồng giữa hai nhóm quốc gia kể từ năm 2010 trở đi Tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm ổn định hơn tương đối, nhận định này cũng tương ứng đối với tỷ lệ thất nghiệp Trong những giai đoạn tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi xuống thấp thì cũng hợp lý khi tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, như trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015 Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi vẫn tăng cao trong giai đoạn trước năm 2005 Dù vậy, tăng
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Tăng GDP bình quân đầu người ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
Tăng GDP bình quân đầu người ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả Hình 4.9 Tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp, và tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát trưởng GDP bình quân đầu người và tỷ lệ thất nghiệp cho thấy rõ sự tương quan ngược chiều ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Đối với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm, tăng trưởng GDP bình quân đầu người và tỷ lệ thất nghiệp thường ổn định và ít thấy sự phản ứng lẫn nhau Nhóm các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi thể hiện rõ sự di chuyển của tăng trưởng GDP bình quân đầu người và tỷ lệ thất nghiệp cùng với tỷ lệ FDI trên GDP, ngoại trừ giai đoạn suy thoái kinh tế do Đại dịch Covid-19 Trong khi đó, nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm lại chỉ cho thấy sự đồng bộ nhưng yếu hơn giữa tăng trưởng GDP bình quân đầu người và tỷ lệ FDI trên GDP
Trước năm 2005, tỷ lệ lạm phát ở các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi là cao hơn đáng kể so với các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm (Hình 4.10) Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát giảm đột ngột và không cho thấy sự khác biệt rõ rệt ở hai nhóm quốc gia Tỷ lệ lạm phát dường như tăng và giảm cùng chiều với tỷ lệ FDI trên GDP trong hầu hết giai đoạn quan sát
Trong khi đó, độ mở thương mại có phần tương đồng giữa các nhóm quốc gia ở giai đoạn đầu quan sát (Hình 4.11) Kể từ sau năm 2014, các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi ghi nhận độ mở thương mại cao hơn rõ rệt so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả
Hình 4.10 Tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềmTỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổiTỷ lệ lạm phát ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ lạm phát ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
GDP ở cả hai nhóm quốc gia
Cuối cùng, tỷ lệ cung tiền trên GDP ở cả hai nhóm quốc gia đều có xu hướng gia tăng theo thời gian (Hình 4.12) Theo đó, tỷ lệ này cao hơn hẳn ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi với tất cả thời gian quan sát Điều này có thể giải thích rõ ràng bởi lý thuyết
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả
Hình 4.12 Độ mở thương mại và tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Độ mở thương mại ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Độ mở thương mại ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ lệ FDI trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ cung tiền trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Tỷ lệ cung tiền trên GDP ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Nguồn: Thực hiện bởi tác giả Hình 4.11 Tỷ lệ cung tiền trên GDP và tỷ lệ FDI trên GDP bình quân ở hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong mẫu quan sát về bộ ba bất khả thi, các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có sự chủ động và linh hoạt hơn trong việc sử dụng chính sách tiền tệ.
Thảo luận về đặc trưng của chế độ tỷ giá neo mềm và thả nổi trong ảnh hưởng của bất định tỷ giá hối đoái đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Sau khi mô tả thực trạng về các biến số vĩ mô trong sự tương quan với FDI, Bảng 4.1 đã tổng hợp lại những đặc trưng cơ bản giữa hai nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá khác nhau được rút ra sau khi lần lượt phân tích các dữ liệu thứ cấp được thu thập
Bảng 4.1 Tổng hợp bảng so sánh các chỉ tiêu vĩ mô giữa nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm và nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Các chỉ tiêu so sánh Nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm
Nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Đồ thị trực quan Tỷ lệ FDI vào ròng trên GDP
Thấp hơn nhưng tương đối ổn định
Lớn hơn nhưng biến động nhiều hơn Hình 4.3
Bất định tỷ giá hối đoái
Thấp hơn và biến động ít hơn
Cao hơn và biến động mạnh hơn Hình 4.4
Phát triển tài chính Thấp hơn Cao hơn Hình 4.6
Tăng trưởng GDP bình quân đầu người
Thấp hơn trước năm 2008, cao hơn sau đó đến năm 2010 và tương đồng từ sau năm 2010
Cao hơn trước năm 2008, thấp hơn sau đó đến năm 2010 và tương đồng từ sau năm 2010
Thấp hơn trước năm 2005, tương đồng cho những năm sau đó và cao hơn gần đây
Cao hơn trước năm 2005, tương đồng cho những năm sau đó và thấp hơn gần đây
Hình 4.10 Độ mở thương mại Tương đồng trước năm
2014 và thấp hơn sau đó
Tương đồng trước năm 2014 và cao hơn sau đó Hình 4.11
Cung tiền trên GDP Cao hơn Cao hơn Hình 4.12
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Nhìn chung, các chỉ tiêu vĩ mô ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi hầu hết đều cao hơn so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm, ngoại trừ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và lạm phát Bản thân tỷ lệ FDI vào ròng trên GDP cũng cao hơn ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi
Xét trong mối quan hệ trọng tâm của luận án, bất định tỷ giá hối đoái mặc dù cao hơn ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi nhưng phát triển tài chính cũng cao hơn ở nhóm quốc gia này Điều này cũng hàm ý rằng các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi chính hơn so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm.
Thống kê mô tả
Bảng 4.2 Thống kê mô tả
Biến Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
Giá trị lớn nhất Nhóm các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá neo mềm
Nhóm các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá thả nổi
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Bảng 4.2 trình bày thống kê mô tả các biến trong mô hình ở hai nhóm quốc gia được đưa vào mô hình thực nghiệm Xét về giá trị trung bình, tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào (FDIGDP) bình quân là cao hơn ở nhóm các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi (0,0452 > 0,0377)
Bất định tỷ giá được đo lường bằng VolREER và Zscore ở mẫu quan sát của nhóm các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi (0,0251 và 0,0257) lớn hơn so với nhóm các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá neo mềm (0,0204 và 0,0210) Tuy nhiên, chế độ tỷ giá hối đoái chỉ cho thấy vai trò can thiệp vào tỷ giá hối đoái trong các thời kỳ nhất định mà không hoàn toàn phản ánh rằng mỗi quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi đều có biến động tỷ giá hối đoái cao hơn so với nhóm các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá neo mềm Cụ thể, giá trị nhỏ nhất của VolREER và Zscore (0,0015 và 0,0018) ở nhóm các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi vẫn thấp hơn so với giá trị nhỏ nhất tương ứng ở nhóm các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá neo mềm (0,0019)
Mặt khác, chỉ số phát triển tài chính (FD) ở nhóm các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá thả nổi (0,4734) gấp đôi so với chỉ số phát triển tài chính ở nhóm các quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá neo mềm (0,2364) Các quốc gia có thị trường tài chính phát triển chủ yếu tập trung ở nhóm quốc gia theo đuổi các chế độ tỷ giá thả nổi
Ngoại trừ tăng trưởng kinh tế (gGDP) và tỷ giá hối đoái thực (REER), các yếu tố khác (Inf, M2GDP, Openness) ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi có giá trị trung bình đều cao hơn so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Đáng lưu ý, tăng trưởng kinh tế (gGDP) ở nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm bình quân tốt hơn (0,0388 >
0,0314), với tỷ lệ lạm phát bình quân (Inf) thấp hơn (0,0460 < 0,0540) và mức độ sử dụng cung tiền bình quân (M2GDP) cũng thấp hơn (0,5593 < 0,7706) so với nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi.
Phân tích kết quả ước lượng
Trước khi tiến hành suy luận thống kê, một số tiêu chí kiểm tra, bao gồm chỉ số lấy mẫu hiệu quả, kiểm định sự hội tụ Gelman–Rubin và chẩn đoán đồ thị trực quan được thực hiện sau khi ước lượng để đảm bảo sự hội tụ của các chuỗi MCMC được mô phỏng
Bảng 4.3 và Bảng 4.4 lần lượt trình bày chỉ số lấy mẫu hiệu quả sau ước lượng hậu nghiệm của mô hình khi không xem xét và có xem xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái Chỉ số lấy mẫu hiệu quả cần vượt qua giá trị tiêu chuẩn 0,1 để cho thấy sự hội tụ cao của các chuỗi MCMC (Stata, 2023)
Trong mô hình với giả định tiền nghiệm mặc định, chỉ số lấy mẫu hiệu quả cho thấy một vài biến có sự hội tụ chưa tốt Các tham số có chỉ số lấy mẫu hiệu quả chưa vượt qua 0,1 đã được đánh dấu trong Bảng 4.3 và Bảng 4.4 xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái
Chỉ số lấy mẫu hiệu quả
Các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Mặc định
Hiệu chỉnh θgGDP 0,1449 0,4220 0,1540 0,4318 0,4794 0,4546 0,5033 0,4688 θInf 0,4408 0,4150 0,4612 0,4240 0,3397 0,3641 0,3533 0,3682 θM2GDP 0,0259 0,3088 0,0262 0,3078 0,2005 0,1070 0,1936 0,1137 θOpenness 0,0168 0,1842 0,0166 0,1589 0,0369 0,1394 0,0295 0,1187 θREER 0,1545 0,1937 0,1658 0,1935 0,2489 0,2308 0,2659 0,2203 θVolREER 0,2349 0,2284 0,3170 0,2769 θZscore 0,2541 0,2413 0,3572 0,2702 θFD 0,0169 0,1894 0,0191 0,1834 0,0272 0,3263 0,0299 0,3441
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Do đó, chỉ số lấy mẫu hiệu quả của các biến chưa vượt qua 0,1 sẽ được hiệu chỉnh giả định tiền nghiệm Sau khi thay đổi một số giả định tiền nghiệm, chỉ số lấy mẫu hiệu quả trong các mô hình hiệu chỉnh đều vượt qua giá trị tiêu chuẩn 0,1 và cho thấy sự hội tụ cao của chuỗi MCMC so với mô hình với giả định tiền nghiệm mặc định Nhờ đó, kết quả ước lượng từ mô hình hiệu chỉnh có thể được sử dụng để thực hiện các suy diễn thống kê
Bảng 4.4 Chỉ số lấy mẫu hiệu quả sau ước lượng hậu nghiệm của mô hình có xem xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái
Chỉ số lấy mẫu hiệu quả
Các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Mặc định
Hiệu chỉnh θgGDP 0,1190 0,4111 0,1417 0,3701 0,5003 0,4901 0,4852 0,5527 θInf 0,3792 0,4201 0,3510 0,4227 0,3803 0,4323 0,3620 0,4066 θM2GDP 0,0235 0,2732 0,0217 0,3067 0,1769 0,1008 0,2111 0,1174 θOpenness 0,0136 0,1897 0,0143 0,1972 0,0324 0,1433 0,0327 0,1270 θREER 0,1097 0,1753 0,0994 0,1868 0,2555 0,2307 0,2695 0,2190 θVolREER 0,2111 0,2101 0,3318 0,1398 θZscore 0,1917 0,2047 0,4098 0,1355 θFD 0,0169 0,1836 0,0154 0,2054 0,0415 0,3801 0,0396 0,3879 θVolREER x FD 0,1948 0,3862 0,2847 0,1217 θZscore x FD 0,1475 0,3688 0,2983 0,1241
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Bảng 4.5 Hiệu chỉnh các giả định tiền nghiệm trong các mô hình không xem xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái
Phương pháp tần suẩt Phương pháp Bayes
Các giả định tiền nghiệm được hiệu chỉnh Hệ số ước lượng Độ lệch chuẩn
Hiệu chỉnh Mô hình với bất định tỷ giá (VolREER) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm θgGDP 0,1560 0,0206 0,1649 0,1686 Không thay đổi θInf 0,0105 0,0141 0,0126 0,0130 Không thay đổi θM2GDP 0,0214 0,0057 0,0206 0,0201 θM2GDP~N(0,02, 0,000001) θOpenness 0,0337 0,0043 0,0255 0,0202 θOpenness~N(0,02, 0,000001) θREER -0,0144 0,0065 -0,0166 -0,0168 Không thay đổi θVolREER 0,0995 0,0656 0,1087 0,1074 Không thay đổi θFD 0,0113 0,0155 0,0354 0,0304 θFD~N(0,03, 0,00001) Mô hình với bất định tỷ giá (Zscore) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm θgGDP 0,1560 0,0206 0,1653 0,1685 Không thay đổi θInf 0,0108 0,0141 0,0130 0,0127 Không thay đổi θM2GDP 0,0214 0,0057 0,0207 0,0202 θM2GDP~N(0,02, 0,000001) θOpenness 0,0337 0,0043 0,0254 0,0202 θOpenness~N(0,02, 0,000001) θREER -0,0146 0,0065 -0,0168 -0,0164 Không thay đổi θZscore 0,0915 0,0618 0,0988 0,0982 Không thay đổi θFD 0,0113 0,0155 0,0347 0,0307 θFD~N(0,03, 0,00001) Mô hình với bất định tỷ giá (VolREER) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi θgGDP 0,1855 0,0533 0,1862 0,1862 Không thay đổi θInf 0,0339 0,0176 0,0371 0,0367 Không thay đổi θM2GDP 0,0071 0,0062 0,0069 0,0069 Không thay đổi θOpenness 0,0631 0,0080 0,0593 0,0593 θOpenness~N(0,0593, 0,00001) θREER -0,0086 0,0157 -0,0094 -0,0098 Không thay đổi θVolREER 0,1450 0,1096 0,1383 0,1369 Không thay đổi θFD 0,0372 0,0189 0,0421 0,0421 θFD~N(0,0421, 0,00001) Mô hình với bất định tỷ giá (Zscore) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi θgGDP 0,1845 0,0533 0,1852 0,1850 Không thay đổi θInf 0,0338 0,0177 0,0366 0,0367 Không thay đổi θM2GDP 0,0071 0,0062 0,0069 0,0069 Không thay đổi θOpenness 0,0630 0,0080 0,0595 0,0594 θOpenness~N(0,0595, 0,00001) θREER -0,0089 0,0157 -0,0098 -0,0100 Không thay đổi θZscore 0,1337 0,1074 0,1279 0,1275 Không thay đổi θFD 0,0370 0,0189 0,0425 0,0424 θFD~N(0,0425, 0,00001)
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái
Phương pháp tần suẩt Phương pháp Bayes
Các giả định tiền nghiệm được hiệu chỉnh Hệ số ước lượng Độ lệch chuẩn
Hiệu chỉnh Mô hình với bất định tỷ giá (VolREER) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm θgGDP 0,1547 0,0206 0,1643 0,1640 Không thay đổi θInf 0,0078 0,0142 0,0102 0,0104 Không thay đổi θM2GDP 0,0218 0,0057 0,0211 0,0200 θM2GDP~N(0,02, 0,000001) θOpenness 0,0340 0,0043 0,0255 0,0250 θOpenness~N(0,025, 0,000001) θREER -0,0146 0,0065 -0,0171 -0,0168 Không thay đổi θVolREER -0,0671 0,1094 -0,0664 -0,0542 Không thay đổi θFD -0,0056 0,0181 0,0193 0,0200 θFD~N(0,02, 0,00001) θVolREER x FD 0,8285 0,4346 0,8693 0,8044 θVolREER x FD~N(0,8, 0,01)
Mô hình với bất định tỷ giá (Zscore) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm θgGDP 0,1548 0,0206 0,1642 0,1641 Không thay đổi θInf 0,0083 0,0141 0,0106 0,0107 Không thay đổi θM2GDP 0,0217 0,0057 0,0211 0,0200 θM2GDP~N(0,02, 0,000001) θOpenness 0,0340 0,0043 0,0257 0,0250 θOpenness~N(0,025, 0,000001) θREER -0,0147 0,0065 -0,0170 -0,0167 Không thay đổi θZscore -0,0671 0,1057 -0,0692 -0,0634 Không thay đổi θFD -0,0050 0,0180 0,0192 0,0200 θFD~N(0,02, 0,00001) θZscore x FD 0,7846 0,4235 0,8291 0,8011 θVolREER x FD~N(0,8, 0,01)
Mô hình với bất định tỷ giá (VolREER) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi θgGDP 0,1865 0,0534 0,1883 0,1866 Không thay đổi θInf 0,0318 0,0179 0,0358 0,0355 Không thay đổi θM2GDP 0,0071 0,0062 0,0069 0,0070 Không thay đổi θOpenness 0,0634 0,0079 0,0588 0,0589 θOpenness~N(0,0588, 0,000001) θREER -0,0082 0,0157 -0,0094 -0,0091 Không thay đổi θVolREER 0,2550 0,2150 0,2344 0,2352 Không thay đổi θFD 0,0430 0,0215 0,0489 0,0489 θFD~N(0,0489, 0,00001) θVolREER x FD -0,2767 0,4692 -0,2454 -0,2566 Không thay đổi
Mô hình với bất định tỷ giá (Zscore) ở các nhóm quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi θgGDP 0,1853 0,0534 0,1861 0,1871 Không thay đổi θInf 0,0319 0,0180 0,0355 0,0353 Không thay đổi θM2GDP 0,0071 0,0062 0,0070 0,0071 Không thay đổi θOpenness 0,0633 0,0079 0,0589 0,0590 θOpenness~N(0,0589, 0,000001) θREER -0,0087 0,0157 -0,0098 -0,0099 Không thay đổi θZscore 0,2218 0,2112 0,2080 0,2145 Không thay đổi θFD 0,0417 0,0215 0,0471 0,0471 θFD~N(0,0471, 0,00001) θZscore x FD -0,2201 0,4590 -0,2126 -0,2220 Không thay đổi
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Các giả định tiền nghiệm hiệu chỉnh được phỏng đoán dựa trên kết quả ước lượng Bayes và ước lượng tần suất, với giá trị trung bình gần với trung bình hậu nghiệm của tham số ước lượng từ mô hình có giả định mặc định và giá trị độ lệch chuẩn dựa trên ước lượng tần suất Bởi vì thông tin về giả định mô hình là không sẵn có, việc giả định gần chứ không phải sát giá trị trung bình hậu nghiệm là nhằm nới lỏng hơn các giả định để tránh trường hợp cố định quá mức với giá trị trung bình hậu nghiệm đã ước lượng từ mô hình mặc định (Stata, 2023)
Trong trường hợp giả định tiền nghiệm được điều chỉnh gần với giá trị trung bình hậu nghiệm của các thông số trong mô hình với giả định tiền nghiệm mặc định mà chỉ số lấy mẫu hiệu quả chưa vượt qua giá trị tiêu chuẩn 0,1 thì giá trị trung bình hậu nghiệm sẽ được điều chỉnh liên tục đến khi sát giá trị trung bình hậu nghiệm của giả định mặc định và thắt chặt hơn nữa giá trị độ lệch chuẩn dựa trên ước lượng tần suất Chỉ số lấy mẫu hiệu quả của các thông số ước lượng cho ảnh hưởng tương tác có thể bị ảnh hưởng khi một trong hai thành phần riêng lẻ được giả định hiệu chỉnh, do đó, giả định hiệu chỉnh cũng được thiết lập tương ứng cho ảnh hưởng tương tác Chi tiết thông số hiệu chỉnh các giả định tiền nghiệm cuối cùng sẽ được trình bày tại mỗi bảng ước lượng mô hình thực nghiệm từ Bảng 4.5 đến Bảng 4.6 Có vô số phương pháp để thay đổi giả định tiền nghiệm để gia tăng sự hội tụ của các chuỗi MCMC, ít nhất với phương pháp hiệu chỉnh giả định tiền nghiệm này cũng cung cấp được một kết quả ước lượng đảm bảo được sự phù hợp của chỉ số lấy mẫu hiệu quả đủ để thực hiện các suy diễn thống kê đáng tin cậy và vẫn gần với kết quả ước lượng hậu nghiệm từ mô hình giả định mặc định
Bảng 4.7 Kiểm định hội tụ Gelman–Rubin sau ước lượng hậu nghiệm của mô hình không xem xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái Rc
Các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Mặc định
Hiệu chỉnh θgGDP 1,00025 1,00017 1,00052 1,00022 1,00003 1,00002 0,99998 1,00010 θInf 1,00019 1,00004 1,00009 1,00003 0,99999 1,00016 1,00014 1,00001 θM2GDP 1,00034 1,00005 1,00082 1,00027 1,00012 1,00046 1,00004 1,00033 θOpenness 1,00144 1,00022 1,00206 1,00005 1,00389 1,00025 1,00106 1,00080 θREER 1,00104 1,00008 1,00043 0,99999 1,00014 1,00015 1,00004 1,00000 θVolREER 1,00008 1,00008 1,00003 1,00014 θZscore 1,00011 1,00012 1,00020 1,00008 θFD 1,00285 1,00002 1,00281 1,00006 1,00049 1,00004 1,00066 1,00001
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Bảng 4.8 Kiểm định hội tụ Gelman–Rubin sau ước lượng hậu nghiệm của mô hình có xem xét ảnh hưởng tương tác giữa phát triển tài chính và bất định tỷ giá hối đoái Rc
Các quốc gia có chế độ tỷ giá neo mềm Các quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi Mặc định
Hiệu chỉnh θgGDP 1,00033 1,00005 1,00148 1,00018 1,00023 1,00024 1,00001 1,00007 θInf 1,00025 1,00004 1,00033 1,00012 1,00046 1,00004 0,99999 1,00001 θM2GDP 1,00374 1,00004 1,00313 1,00001 1,00002 1,00010 1,00002 1,00001 θOpenness 1,00277 1,00015 1,01841 1,00017 1,00319 1,00002 1,00066 1,00019 θREER 1,00025 1,00000 1,00108 1,00011 1,00030 1,00004 0,99999 1,00005 θVolREER 1,00031 1,00014 1,00004 1,00016 θZscore 1,00020 1,00022 1,00004 1,00056 θFD 1,00824 1,00003 1,00619 1,00009 1,00229 1,00000 1,00078 1,00014 θVolREER x
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả