1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thực trạng và hướng hoàn thiện

44 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài – Thực trạng và hướng hoàn thiện
Tác giả Lê Duy Thông
Người hướng dẫn Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
Trường học Trường Đại học Cần Thơ
Chuyên ngành Luật
Thể loại Tiểu luận cuối khóa
Năm xuất bản 2024
Thành phố Cần Thơ
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 594,87 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu (6)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (6)
  • 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (7)
  • 5. Bố cục của luận văn (7)
  • CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YÊU TỐ NƯỚC NGOÀI (9)
    • 1.1 Khái niệm, đối tượng điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài (9)
      • 1.1.1 Khái niệm quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài (9)
      • 1.1.2 Đối tượng điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài (10)
    • 1.2 Nguyên tắc điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài (13)
      • 1.2.1 Nguyên tắc chung (13)
      • 1.2.2 Nguyên tắc chuyên biệt (17)
    • 1.3 Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài (19)
      • 1.3.1 Nguồn pháp luật quốc gia (19)
      • 1.3.2 Điều ước quốc tế (21)
      • 1.3.3 Tập quán quốc tế (22)
  • CHƯƠNG 2 (23)
    • 2.1 Điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài (23)
      • 2.1.1 Điều kiện về độ tuổi kết hôn (24)
      • 2.1.2 Điều kiện về sự tự nguyện của nam và nữ (24)
      • 2.1.3 Điều kiện về năng lực hành vi dân sự (25)
      • 2.1.4 Điều kiện về các trường hợp bị cẩm kết hôn (26)
      • 2.2.2 Thẩm quyền giải quyết đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài tại nước ngoài (33)
    • 2.3 Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài (33)
      • 2.3.1 Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã khu vực biên giới (33)
      • 2.3.2 Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện (34)
      • 2.3.3 Đăng ký kết hôn tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam (36)
    • 2.4 Thực trạng và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài (38)
      • 2.4.1 Vấn đề xác định pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch (38)
      • 2.4.2 Vấn đề xác định pháp luật áp dụng đối với người mang nhiều quốc tịch (39)
  • KẾT LUẬN (41)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (43)

Nội dung

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứuTrong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, người viết đã áp dụng thực hiệncác phương pháp sau:Phương pháp phân tích: Phương pháp này trình

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của người viết trong luận văn là tìm hiểu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài Từ việc phân tích các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như Luật Hộ tịch, Bộ luật Dân sự trong việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, người viết sẽ đưa ra những thực trạng còn tồn tại và đề xuất hương hoàn thiện trong quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng và hệ thống pháp luật ViệtNam nói chung.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, người viết đã áp dụng thực hiện các phương pháp sau:

Phương pháp phân tích: Phương pháp này trình bày những vấn đề được đặt ra trong luật văn nhằm phân tích về mặt lý luận một cách khái quát, để thấy được tính khoa học của việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Phương pháp so sánh: Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ được đánh giá, so sánh quy định giữa từng thời kỳ, rút ra được những kinh nghiệm để hoàn thiện các quy định pháp luật đó.

Phương pháp lịch sử: Phương pháp này được áp dụng nhằm khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt nam qua từng thời kỳ để thấy rõ tính kế thừa pháp luật trong quản lý nhà nước đối với việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Phương pháp tổng hợp: Áp dụng phương pháp tổng hợp để đúc kết lại những vấn đề cơ bản về mặt lý luận, từ đó người viết tìm ra những ưu điểm, hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Phương pháp liệt kê: Thông qua những văn bản quy phạm pháp luật, những bài viết được trình bày, liệt kê cụ thể, từ đó người viết có cơ sở vững chắc để hoàn thiện luận văn.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn bao gồm 2 chương:

Chương 1: Lý luận chung về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam.

Trong chương này, người viết khái quát chung những lý luận về khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, các nguyên tắc điều chỉnh và nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài Đồng thời, người viết còn nêu qua lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo từng giai đoạn.

Chương 2: Pháp luật việt nam về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài - Thực trạng và hướng hoàn thiện.

Trong chương này, người viết tập trung vào các quy định của pháp luật ViệtNam điều chỉnh về điều kiện kết hôn, thẩm quyền đăng ký kết hôn, trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài Ngoài ra, người viết còn trình bày các quy định về việc ghi vào sổ hộ tịch các trường hợp việc đăng ký kết hôn đã tiến hành tại nước ngoài Từ đó, có cái nhìn tổng quan để nêu ra những thực trạng liên quan đến quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài và đề xuất hướng hoàn thiện trong quy định của pháp luật Việt Nam.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YÊU TỐ NƯỚC NGOÀI

Khái niệm, đối tượng điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ nền tảng để thiết lập gia đình 1 Việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa một người nam và một người nữ phải được sự thừa nhận của Nhà nước, thông qua hình thức pháp lý nhất định, đó là đăng ký kết hôn Về bản chất, các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình đều ghi nhận việc kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa hai người khác giới và phải tuân thủ các điều kiện kết hôn đã được pháp luật quy định Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng định nghĩa rằng

"kết hôn" là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn 2

Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 36 Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: "Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau" Các chủ thể trong quan hệ kết hôn phải thể hiện ý chí muốn kết hôn với nhau để xác lập quan hệ vợ chồng Việc kết hôn phải đảm bảo được tính tự nguyện, tiến bộ, không bị ép buộc hoặc kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn hay tảo hôn.

1.1.1 Khái niệm quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đặc biệt Tương tự như quan hệ kết hôn giữa các chủ thể trong nước, quan

1 Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2023, tr 47

2 Khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng được hình thành trên nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện của hai bên nam, nữ thống nhất đến với nhau, đăng ký kết hôn nhằm xác lập quan hệ hôn nhân bền vững.

Theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: "Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đối, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đền quan hệ đó ở nước ngoài".

Dựa vào định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài như sau: Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là quan hệ kết hôn mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ kết hôn giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài.

1.1.2 Đối tượng điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài Đối tượng điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có sự phức tạp và đặc trưng riêng biệt, là điểm phân biệt với các quan hệ kết hôn thông thường Mỗi quốc gia đều có những quan điểm khác nhau về yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự nói chung và trong quan hệ kết hôn nói riêng.

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam có quy định rõ đối tượng điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, bao gồm các yếu tố sau:

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, có thể xác định chủ thể trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm 03 chủ thể: công dân Việt Nam, người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cụ thể:

Một là, công dân Việt Nam Hiển pháp năm 2013 có quy định: "Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam" 3 Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng có quy định: "Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam". Để xác định một người có quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam cũng có những quy định chi tiết, cụ thể là: người có quốc tịch Việt Nam là người có cha mẹ đều là công dân Việt Nam, bất kể sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam; người có

3 Khoản 1 Điều 17 Hiến pháp năm 2013 cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, người kia không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam 4 Ngoài ra, còn có một số trường hợp đặc biệt cũng được xem là người có quốc tịch Việt Nam như: người mà sinh ra có cha hoặc mẹ là người không quốc tịch nhưng có thường trú tại Việt Nam hoặc chỉ có người mẹ là người không quốc tịch nhưng có thường trú tại Việt Nam hoặc chỉ có người mẹ là người không quốc tịch cha không rõ là ai thì người đó có quốc tịch Việt Nam; người sinh ra bị bỏ rơi trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam 5

Hai là, người nước ngoài Định nghĩa người nước ngoài có thể được được hiểu theo nhiều cách khác nhau tại mỗi quốc gia Pháp luật trên thế giới đa số đều lấy dâu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài Theo đó, người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước nơi mà họ đang cư trú 6

Theo Luật Quốc tịch Việt Nam quy định: "Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam" 7 Ngoài ra, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 cũng xác định: "Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam” 8 Như vậy, từ những quy định trên, người nước ngoài được định nghĩa là người có quốc tịch nước ngoài (mang một hoặc nhiều quốc tịch của nước khác không phải là Việt Nam) hoặc người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam.

Ba là, người Việt Nam định cư ở nước ngoài Tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định về người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài Trong đó, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được định nghĩa là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài Hiến pháp năm 2013 khẳng định rằng, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ

4 Khoản 1 Điều 17 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014

5 Điều 18 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014

6 Bành Quốc Tuấn, Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chính Minh: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2017, tr 97

7 Khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung 2014

8 Khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước 9

Nguyên tắc điều chỉnh của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Các nguyên tắc này được quy định cụ thể trong Hiến pháp nước Cộng hòà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Theo Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, một số nguyên tắc chung cơ bản điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình được quy định như sau:

Thứ nhất, nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chống, vợ chống bình đắng Đây là nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất của quan hệ hôn nhân và gia đình, có tính kế thừa và xuyên suốt trong các đạo luật về hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1959 đền nay Nguyên tắc này thể hiện sự tự do ý chí của các chủ thể, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, bảo vệ bình đẳng giới, xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ Không những vậy, nguyên tắc này đã phủ nhận hoàn toàn chế độ hôn nhân đa thê hay quan niệm "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy" tồn tại từ rất lâu trong xã hội phong kiến Việt Nam Ngoài ra, nguyên tắc một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng khẳng định tư tưởng tiến bộ của Nhà nước ta trong việc xây dựng nền tảng xã hội vững chắc, tự do và tiên tiến.

Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ hôn nhân Nguyên tắc hôn nhân không có sự phân biệt giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau đã được ghi nhận từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 11 Thời điểm này, quy định về nguyên tắc điều chỉnh cho quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài chưa được ghi nhận Hiện tại, đối với chính sách đổi mới, mở cửa, Luật Hôn nhân và gia đình đã kế thừa, phát triển nội dung của nguyên tắc này và quy định như sau: "Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ" 12 Nguyên tắc này đã cho thấy pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quan hệ hôn nhân giữa các chủ thể, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng hay giữa những người có quốc tịch khác nhau.

11 Điều 1 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Hôn nhân giữa công nhân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ”.

12 Khoản 2 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Thứ ba, nguyên tắc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc Với mục tiêu xây dựng gia đình theo tư tưởng tiền bộ, các nhà lập pháp Việt Nam đã xác định nguyên tắc: các thành viên trong gia đình phải có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà không được phân biệt đối xử giữa các con, các cháu Đây là một trong những nguyên tắc mang tính nhân văn và thể hiện sự tiến bộ về tư duy của các nhà lập pháp Nguồn gốc của nguyên tắc này đã được ghi nhận từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, là Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên sau ngày đất nước giành được độc lập Cụ thể, tại Điều 1 và Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm

1959 quy định: "Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiền bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ"; "Xoa bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái" Như vậy, trong giai đoạn sơ khởi đó, Luật Hôn nhân và gia đình mới ban hành đã có những quy định nhằm xóa bỏ những tư tưởng Nho giáo đã tồn tại trước đó hàng ngàn năm, kìm hãm sự bình đăng và hạnh phúc của các cá nhân trong xã hội 13

Thứ tư, nguyên tắc bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, quyền lợi của bà mẹ và trẻ em Nguyên tắc này cũng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 kế thừa từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm

2010 Khoản 4 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình" Kể từ lần đầu tiên được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sửa đối, bổ sung năm 2010 cho đến nay, rất nhiều các quy định chi tiết liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền lợi người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ và trẻ em đã được ban hành như: Luật Người cao tuổi năm 2009, Luật Người khuyết tận năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, sửa đổi, bổ sung năm 2018 Việc này cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước với mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho nhóm người yếu thế, tạo sự bình đẳng cho các chủ thể này tham gia vào các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình.

Thứ năm, nguyên tắc kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình Trong thời đại mà xu hướng toàn cầu hóa phổ biến như hiện nay, nhiều tư tưởng, văn hóa từ các quốc gia phương Tây du

13 Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Cần Thơ, 2023, tr 21 - 23. nhập ngày càng mạnh mẽ vào Việt Nam Mặc dù cũng góp phần tích cực làm thay đổi nhiều về nếp sống và cách nghĩa còn lạc hậu của một bộ phận không nhỏ người Việt Nam, song những tư tưởng tiêu cực về tình yêu, hôn nhân và gia đình cũng theo đó có sự ảnh hưởng sâu sắc 14 Để bảo đảm lưu giữ được những giá trị, nét đẹp trong truyền thống gia đình văn hóa Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng thì đây là một nguyên tắc phù hợp với tình hình xã hội hiện nay Đồng thời, nguyên tắc này là kim chỉ nam để việc quy định các nội dung trong pháp luật hôn nhân và gia đình, cũng như giải quyết các vấn đề hoặc tranh chấp phát sinh, vừa đảm bảo sự tiền bộ, hiện đại của xã hội vừa mang đặc trưng văn hóa dân tộc.

Ngoài những nguyên tắc chung cơ bản nêu trên, còn có những nguyên tắc chung khác cũng tham gia điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, cụ thể:

Một là, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên 15 Theo nguyên tắc này, các bên chủ thể tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được pháp luật tôn trọng và bảo vệ Khi quyền lợi các chủ thể bị xâm phạm, họ có thể sử dụng các biện pháp giải quyết mà pháp luật cho phép hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi cho mình Tuy nhiên, các biện pháp bảo vệ này phải phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với pháp luật Việt Nam thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế, tức là các quy định của điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên hơn so với pháp luật trong nước 16

Hai là, nguyên tắc bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế" 17 Từ trước đến nay, công dân Việt Nam ở nước ngoài luôn được Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng 18 Nguyên tắc này đã một phần thể hiện được chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bao gồm công dân Việt Nam, người gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích để họ giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương Bên

14 Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Cần Thơ, 2023, tr 23.

15 Khoản 1 Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình 2014

16 Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr 481 - 482

17 Khoản 3 Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

18 Khoản 3 Điều 17 Hiến pháp năm 2013 cạnh việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước nước ngoài thì pháp luật Việt Nam cũng bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người nước ngoài tại Việt Nam Theo khoản 2 Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 có quy định thêm: "Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam có các quyền, nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác" Có thể thấy rằng, nguyên tắc này là sự tôn trọng quyền bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, không chỉ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân Việt Nam mà còn cho cả người nước ngoài như đối với công dân Việt Nam.

Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

Nguồn của pháp luật là hình thức chứa đựng các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định 25 Nguồn pháp luật cơ bản điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài gồm pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế và tập quán quốc tế Riêng đối với quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, do áp dụng những phương pháp điều chỉnh đặc thù mang tính mệnh lệnh, cho nên đến nay Việt Nam vẫn chưa áp dụng được tập quán quốc tế để điều chỉnh quan hệ này.

1.3.1 Nguồn pháp luật quốc gia

Nguồn pháp luật quốc gia là nguồn pháp luật chính điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài Trên thực tế, ta không chỉ áp dụng pháp luật của Việt Nam mà còn áp dụng cả pháp luật của các quốc gia liên quan để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống pháp luật thành văn, chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật trong đó có các nguyên tắc, các quy phạm pháp

24 Khoản 1 Điều 126 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

25 Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 113. luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, được quy định trong một số loại văn bản pháp luật chính, cụ thể:

Thứ nhất, Hiến pháp Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất hiện tại, quy định các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng Quyền về hôn nhân và gia đình là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận từ các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp

1959, Hiến pháp 1980, Hiếp pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) và hiện tại là Hiến pháp năm 2013 Kế thừa từ các văn bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định quyền về hôn nhân và gia đình là quyền cơ bản của công dân được pháp luật quy định và bảo hộ Đây là cơ sở để các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa, đưa luật vào cuộc sống và ban hành các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ kết hôn.

Thứ hai, Bộ luật Dân sự Bộ luật Dân sự là bộ luật chung điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, chứa đựng các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh các quan hệ dân sự trong nước và cả quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là một trong các loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nên quan hệ này cũng được điều chỉnh trong Bộ luật dân sự Hiện tại, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã có những bước cải tiến, quy định chi tiết và rõ ràng hơn đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định đối với các trường hợp được áp dụng Bộ luật Dân sự để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nếu Luật Hôn nhân và gia đình không có quy định khác 26

Thứ ba, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam Luật Hôn nhân và gia đình là luật chuyên biệt để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình, bao gồm cả quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm

2014 là văn bản hiện hành Ngoài các quy định chung đối với tất cả các quan hệ hôn nhân và gia đình thì các quy định tại chương XIII là những quy định chuyên biệt dùng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Tuy nhiên, để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, thì chỉ áp dụng những văn bản chính nêu trên là chưa đủ Vì vậy, một số văn bản pháp luật khác có chứa đựng những quy định liên quan điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đan xen như: Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã

26 Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Luật Hộ tịch năm 2014 và Luật Điều ước quốc tế năm 2016.

Các văn bản dưới luật cũng là nguồn luật quan trọng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, cụ thể: Pháp lệnh lãnh sự năm 1990; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Thông tư số 07/TT-BTP ngày 16 tháng

12 năm 2002 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 68/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002; Nghị định số 158/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định số 69/NĐ-CP ngày

21 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch;

Bên cạnh nguồn pháp luật Việt Nam, các chủ thể là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn phải tuân theo pháp luật của nước mà chủ thể đó có quốc tịch Từ những quy định về điều kiện kết hôn, trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn ở mỗi quốc gia khác nhau sẽ có những quy định điều chỉnh khác nhau, nên việc áp dụng pháp luật quốc gia mang tính chất tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định trong việc kết hôn giữa công dân

Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn Ngoài ra, việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam về điều kiện kết hôn 30 Quy định này chỉ mang tính chất dẫn chiếu mà không trực tiếp quy định pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Theo Điều 122 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định này sẽ dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật Việt Nam hoặc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài Tuy nhiên, đối với việc dẫn chiếu buộc áp dụng pháp luật nước ngoài thì cần phải có từng trường hợp cụ thể là quan hệ kết hôn của những chủ thể nào thì cơ quan có thẩm quyền mới có đủ căn cứ để xem xét áp dụng pháp luật của nước mà chủ thể mang quốc tịch sao cho phù hợp Trong luận văn này, mục tiêu hướng đến là tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam nên người viết sẽ chỉ tập trung vào phân tích và trình bày việc áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Do vậy, xét về điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định đối với các chủ thể như sau: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên,

30 Điều 126 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; Không bị mất năng lực hành vì dân sự; Không thuộc các trường hợp cấm kết hôn 31 Để tìm hiểu và làm rõ những điều kiện kết hôn nêu trên trong khuôn khổ những quy định của pháp luật Việt Nam, người viết sẽ phân tích cụ thể trong nội dung luận văn từ mục 2.1.1 đến mục 2.1.4.

2.1.1 Điều kiện về độ tuổi kết hôn Độ tuổi kết hôn là một trong những điều kiện kết hôn quan trọng trong luật hôn nhân và gia đình của nhiều quốc gia trên thế giới Việc quy định về độ tuổi kết hôn không chỉ nhằm bảo vệ sức khỏe của các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn mà còn là điều kiện cơ bản bảo vệ cuộc sống gia đình của họ Một gia đình không thể bền vững, không thể hạnh phúc khi mà chủ thể trong gia đình đó là những người chưa phát triển đầy đủ về thể lực và trí lực để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của gia đình 32 Tuy nhiên, do sự khác nhau về trình độ kinh tế, phong tục tập quán mà pháp luật các nước có những quy định không giống nhau về độ tuổi đủ điều kiện kết hôn.

Trước đây, tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định về độ tuổi đủ điều kiện kết hôn như sau: "Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuối trở lên" Theo quy định này, đối với bên nam không bắt buộc phải từ đủ hai mươi tuổi và bên nữ không bắt buộc phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn, mà chỉ cần nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi mười tám là đủ tuổi kết hôn.

Hiện tại, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định điều kiện về độ tuổi kết hôn của nam và nữ là: "Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên" Tức là kể từ ngày đúng vào ngày, tháng, ghi trong giấy khai sinh vào năm 20 tuổi của nam và năm 18 tuổi của nữ thì họ mới đủ tuổi kết hôn Quy định này tạo nên sự đồng nhất về cách tính tuổi trong các văn bản khác như

Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, từ đó tạo nên sự dễ dàng trong việc áp dụng pháp luật trong thực tế 33

2.1.2 Điều kiện về sự tự nguyện của nam và nữ

Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ nhằm xây dựng gia đình Sau khi kết hôn, vợ chồng gắn bó với nhau, có quyền và nghĩa vụ với

31 Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014

32 Hoàng Thị Hương Lan: Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại VIệt Nam, Luận văn Thạc sĩ, 2015, tr 36

33 Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Cần Thơ, 2023, tr 49. nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, sinh để và nuôi dạy con chung Sự phát triển và tồn tại của hôn nhân phụ thuộc vào tình cảm và tinh thần trách nhiệm của vợ chồng 34 Điều kiện về sự tự nguyện của nam và nữ trong quan hệ kết hôn cũng được pháp luật của các quốc gia trên thế giới quan tâm và phát triển Tại Việt Nam, điều kiện này đã được quy định từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, cụ thể là việc kết hôn phải do nam nữ tự nguyện quyết định, không ai được ép buộc, cưỡng ép hoặc cản trở 35 Tại điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện hành đã kế thừa và sửa đổi quy định này với nội dung: "Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định" Mặc dù, cách diễn đạt đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với xu thế của xã hội nhưng nhìn chung vẫn được giữ nguyên về bản chất của điều kiện này.

Yếu tố tự nguyện trong quan hệ kết hôn nói chung và trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo cho hạnh phúc của vợ chồng, con cái, bảo đảm cho quan hệ hôn nhân được tồn tại bền vững và phát triển. Bởi lẽ, nếu việc kết hôn mà hai bên nam nữ không tự nguyện vì nhiều lý do như bị cưỡng ép, ép buộc, lừa đối thì cuộc sống hôn nhân không thể hạnh phúc được, trừ những trường hợp chấp nhận sau đó Không những vậy, việc kết hôn không tự nguyện còn có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề trong quan hệ vợ chồng và cả quan hệ giữa cha mẹ và con cái sau này.

2.1.3 Điều kiện về năng lực hành vi dân sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần" Do đó, người bị mất năng lực hành vi dân sự không thể tự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình, cũng như không tự thể hiện được ý chí, mong muốn của mình khi tham gia quan hệ kết hôn.

Pháp luật về hôn nhân và gia đình trước đây từng có quy định rằng, một người bị mất năng lực hành vi dân sự sẽ bị cấm kết hôn Theo quan niệm hiện nay, việc cấm kết hôn là không phù hợp vì đây là quyền con người được pháp luật bảo vệ và có quy định trong Hiến pháp năm 2013 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện hành không còn dùng từ cấm kết hôn đối với những người bị mất năng lực hành vi dân sự mà thay đổi thành việc nam, nữ kết hôn với nhau phải không bị mất năng lực hành vi

34 Ngô Thị Hường: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,

35 Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 dân sự 36 Có thể thấy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã không còn xem đây là một trường hợp bị cấm kết hôn và chỉ xem người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa đáp ứng đủ về điều kiện kết hôn 37

Ngoài ra, Luật Hộ tịch năm 2014 có quy định thêm về một số điều kiện khi đăng ký kết hôn, trong đó có quy định rằng hai bên nam, nữ khi đăng ký kết hôn ngoài việc nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định thì còn phải nộp thêm giấy xác nhận của tổ chức y tế có thầm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch 38 Đây là quy định góp phần đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khi tham gia quan hệ kết hôn, kể cả quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Hiện tại, vẫn còn nhiều trường hợp kết hôn trong đó có kết hôn có yếu tố nước ngoài thực hiện không đúng thủ tục hoặc bị kẻ xấu lợi dụng kẽ hở pháp luật để thực hiện các hành vi trái pháp luật Nhiều trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự nhưng không được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, theo quy định vẫn đủ điều kiện kết hôn, dẫn đến những quan hệ kết hôn không vì mục đích hôn nhân, gây tác động xấu cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.

Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

2.3.1 Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã khu vực biên giới

Người yêu cầu đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã tại khu vực biên giới phải xuất trình giấy tờ sau đây: Bản chính một trong các giây tờ là hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng để chứng minh về nhân thân Trong giai đoạn chuyển tiếp, người yêu cầu đăng ký kết hôn còn phải xuất trình giấy tờ chứng minh nơi cư trú 53

52 Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Cần Thơ, 2023, tr 334.

Hồ sơ đăng ký kết hôn phải được nộp trực tiếp tại Ủy ban nhân dân cấp xã tại khu vực biên giới, bao gồm: tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định; hai bên nam, nữ có thể sử dụng 01 tờ khai chung; giấy tờ do cơ quan có thầm quyền của nước láng giềng cấp không quá 06 tháng tính đến ngày nhận hồ sơ xác nhận công dân nước láng giềng hiện tại là người không có vợ hoặc không có chồng; bản sao giấy tờ chứng minh nhân thân, chứng minh nơi thường trú tại khu vực biên giới của công dân nước láng giềng.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp - hộ tịch kiềm tra, xác minh hồ sơ và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã quyết định Trường hợp cần xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 08 ngày làm việc. Nếu hai bên nam, nữ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã tại khu vực biên giới ký Giấy chứng nhận kết hôn, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký, ghi rõ họ tên trong Sổ hộ tịch, Giấy chứng nhận kết hôn; mỗi bên vợ, chồng được cấp

01 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn 54

2.3.2 Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện

Khi thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, các đương sự phải thực hiện đúng thủ tục và trình tự theo pháp luật về hộ tịch, được quy định cụ thể:

Thứ nhất, về thủ tục Các đương sự phải lập hồ sơ đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật Hộ tịch năm 2014 và Điều 30 Nghị định 123/2015/ NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, bao gồm:

- Nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định Hai bên nam, nữ có thể khai chung vào một Tờ khai đăng ký kết hôn;

- Nộp giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch;

- Nộp giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài, là giấy do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp, còn giá trị sử dụng xác nhận hiện tại người đó không có vợ hoặc không có chồng; trường hợp nước ngoài không cấp xác nhận tình trạng hôn nhân thì thay bằng giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài xác nhận

53 Khoản 1 Điều 2 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch

54 Khoản 2 Điều 18 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch người đó có đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật nước đó Nếu giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài không ghi thời hạn sử dụng thì giấy tờ này và giấy xác nhận của tổ chức y tế theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 của Luật Hộ tịch chi có giá trị 6 tháng, kể từ ngày cấp;

- Đối với công dân Việt Nam phải xuất trình chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng để chứng minh về nhân thân; người nước ngoài phải xuất trình hộ chiếu Trường hợp người nước ngoài không có hộ chiếu để xuất trình theo quy định thì có thể xuất trình giấy tờ đi lại quốc tế hoặc thẻ cư trú.

Ngoài những giấy tờ theo những quy định nêu trên, nếu bên kết hôn là công dân Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì còn phải nộp bản sao trích lục hộ tịch về việc đã ghi vào sổ việc ly hôn hoặc hủy việc kết hôn do bị từ chối ghi vào sổ việc kết hôn theo văn bản thông báo của Phòng tư pháp; nếu là công chức, viên chức hoặc đang phục vụ trong lực lượng vũ trang thì phải nộp văn bản của cơ quan, đơn vị quản lý xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không trái với quy định của ngành đó.

Thứ hai, về trình tự đăng ký kết hôn Trình tự đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện được quy định tại Điều 31 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng

11 năm 2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, cụ thể:

Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Phòng Tư pháp tiền hành nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ và xác minh nếu thấy cần thiết Trưởng phòng Phòng Tư pháp chịu trách nhiệm về kết quả thẩm tra và đề xuất của Phòng Tư pháp trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn Nếu hồ sơ hợp lệ, các bên có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, không thuộc trường hợp từ chối đăng ký kết hôn do vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình hoặc không đủ điều kiện kết hôn thì Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký 02 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn Ngoài ra, căn cứ tình hình cụ thể, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ quý định bố sung thủ tục phỏng vấn khi giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và hiệu quả quản lý Nhà nước khi thấy cần thiết trong quá trình thực hiện đăng ký kết hôn.

Khi đăng ký kết hôn cả hai bên nam, nữ phải có mặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân,công chức làm công tác hộ tịch hỏi ý kiến hai bên nam, nữ, nếu các bên tự nguyện kết hôn thì ghi việc kết hôn vào sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn " 55

Phòng Tư pháp sẽ tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho các đương sự trong vòng thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký Giấy chứng nhận kết hôn Giấy chứng nhận kết hôn có giá trị kể từ ngày được ghi vào sổ và trao cho các bên theo quy định tại Khoản này Trường hợp một hoặc hai bên nam, nữ không thể có mặt để nhận Giấy chứng nhận kêt hôn thì theo đề nghị bằng văn bản của họ, Phòng Tư pháp gia hạn thời gian trao Giấy chứng nhận kết hôn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ký Giấy chứng nhận kết hôn Hết 60 ngày mà hai bên nam, nữ không đến nhận Giấy chứng nhận kết hôn thì Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hủy Giấy chứng nhận kết hôn đã ký Nếu sau đó hai bên nam, nữ vẫn muốn kết hôn với nhau thì phải tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn từ đầu.

2.3.3 Đăng ký kết hôn tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam

Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài được quy định từ khoản 2 đến khoản 5 Điều 7 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-BNG-BTP ngày 30/6/2016 của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của việt nam ở nước ngoài.

Thứ nhất, về thủ tục Hai bên nam, nữ yêu cầu đăng ký kết hôn phải nộp các giấy tờ theo quy định, bao gồm:

- Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định; hai bên nam, nữ có thể khai chung vào một Tờ khai đăng ký kết hôn;

Thực trạng và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài

Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những cải tiến, đổi mới mang tính đột phá trong việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng Tuy nhiên, với xu hướng phát triển và thay đổi không ngừng của xã hội thì việc hoàn thiện tổng thể đối với các quy định này là điều không dễ dàng Bên cạnh những cập nhật mang tính tích cực, thì vân còn những hạn chế, bất cập mà các nhà làm luật chưa thể lý giải và hướng dẫn rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật.

Trong những vấn đề mà các nhà làm luật còn bõ ngõ trong các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam, người viết sẽ trình bày một số thực trạng còn tồn tại trong nội dung tại mục 2.4.1 và 2.4.2.

2.4.1 Vấn đề xác định pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch

Việt Nam là quốc gia theo hệ thống luật Civil Law nên Việt Nam cũng thường sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch hơn là hệ thuộc luật nơi cư trú Tuy nhiên trong trường hợp mà đương sự là người không quốc tịch thì sự hoán đổi từ hệ thuộc luật quốc tịch sang hệ thuộc luật nơi cư trú là hoàn toàn phù hợp Để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, thì ngoài việc phải thực hiện các quy định theo Luật Hôn nhân và gia đình còn phải xem xết ở các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng là một văn bản chứa đựng nhiều quy phạm điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung cũng như quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

Trong quy định tại khoản 1 Điều 672 Bộ luật Dân sự năm 2015, các nhà làm luật đã đưa ra cụm từ "nước nơi người đó có mối liên hệ gắn bó nhất" để giải quyết việc xác định pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch Cụm từ "nước nơi người đó có mối liên hệ gắn bó nhất" trong quy định này chỉ mang hàm ý chung chung mà chưa thật sự dưa ra được quy định chi tiết để giải quyết việc chọn pháp luật áp dụng cụ thể là pháp luật nước nào.

Trường hợp đối với chủ thể tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là người không quốc tịch, nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ quan hệ kết hôn, thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có mối liên hệ gắn bó nhất.

Ta thấy rằng, cụm từ "có mối liên hệ gắn bó nhất" chưa đưa ra được quy định cụ thể để xác định nơi cư trú của đương sự trong trường hợp này Vì vậy, trong việc hoàn thiện vấn đề này, người viết xin đưa ra ý kiến điều chỉnh quy định tại khoản 1 Điều

672 Bộ luật Dân sự năm 2015 với nội dung như sau:

"Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người không quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó thường xuyên cư trú, hoặc nơi mà phần lớn tài sản của họ toa lạc ở đó".

Hướng hoàn thiện này tuy chỉ mang ý chí chủ quan của người viết nhưng với tinh thần mong muốn hoàn thiện pháp luật, người viết thấy được việc xác định nơi cư trú của các chủ thể là người không quốc tịch cần có sự cụ thể, từ đó thuận tiện cho quá trình áp dụng pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

2.4.2 Vấn đề xác định pháp luật áp dụng đối với người mang nhiều quốc tịch

Trường hợp đối với chủ thể tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là người có nhiều quốc tịch cũng có quy định tương tự Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú hoặc nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất.

Hiện nay, không có quy định chung nào để xác định một quốc gia có quan hệ gắn bó thân thiết với cá nhân Nên trong vấn đề này, người viết cũng có ý kiến sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 672 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

"Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú hoặc nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có phần lớn tài sản của họ tọa lạc ở đó" Đây cũng là hướng hoàn thiện cơ bản mà người viết nhận thấy quy định này cần có sự điều chỉnh phù hợp Vì xét trên các trường hợp thực tế xảy ra, nếu việc xác định pháp luật chỉ mang tính chất chung chung, có thể bị chi phối bởi ý chí cá nhân của các cơ quan thi hành, làm cho việc áp dụng pháp luật chưa thực sự mang tính dân chủ và công minh.

Vì vậy, tùy vào từng trường hợp, hoàn cảnh, từng loại quan hệ mà cơ quan có thẩm quyền có những quyết định khác nhau để giải quyết lựa chọn pháp luật áp dụng trong việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu, người viết đã phát hiện một số thực trạng còn tồn tại và đã đưa ra hướng đề xuất hoàn thiện những vấn đề đó trong tiểu luận. Người viết cũng mong muốn rằng, bản thân sẽ có thể góp một phần sức trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như pháp luật điều chỉnh các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng Từ đó, đảm bảo việc thực hiện pháp luật được chặt chẽ hơn, không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân Việt Nam mà còn cho các chủ thể khác khi tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Ngày đăng: 15/08/2024, 10:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
16. Hoàng Thị Hương Lan: Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
17. Lê Thị Thu: Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận văn Thạc sĩ, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hộinhập quốc tế
18. Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tốnước ngoài trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Nhà XB: Nxb. Tư pháp
19. Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb.Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2023 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình
Nhà XB: Nxb.Chính trị Quốc gia Sự Thật
20. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật dân sự: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2016.Trang thông tin điện tử Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình LuậtHôn nhân và gia đình Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung)
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
22. Phương Linh: "Một số thông tin cần biết về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống", Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/145244/36/Mot-so-thong-tin-can-biet-ve-tao-hon-va-hon-nhan-can-huyet-thong.html, đăng ngày 20/11/2023 [truy cập ngày 21-11- 2023] Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số thông tin cần biết về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống
5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 (hết hiệu lực) Khác
9. Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 Khác
10. Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch Khác
11. Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hỗ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã Khác
12. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Khác
13. Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-BNG-BTP ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của việt nam ở nước ngoài.Văn bản hành chính Khác
14. Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân Tối cao về công tác tương trợ tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài.Sách, giáo trình, luận văn thạc sĩ Khác
15. Bành Quốc Tuấn, Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w