LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đề tài Khóa luận “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu thường của các công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên Thị trường chứng
Tổng quan về lợi tức cổ phiếu thường
Lợi tức chứng khoán là lợi nhuận mà nhà đầu tư nhận được từ việc sở hữu và giao dịch chứng khoán Có hai loại lợi tức chính khi đầu tư chứng khoán: lợi tức từ cổ tức và lợi tức từ tăng giá chứng khoán Lợi tức từ cổ tức là số tiền mà một công ty trả cho cổ đông từ lợi nhuận đạt được Cổ tức thường được trả hàng năm hoặc theo khoảng thời gian cụ thể Cổ tức tùy thuộc vào hiệu suất kinh doanh và quyết định của công ty
Lợi tức từ tăng giá chứng khoán xảy ra khi giá trị của một cổ phiếu tăng lên so với giá mua ban đầu của nhà đầu tư Nhà đầu tư có thể bán chứng khoán để thu về lợi nhuận từ sự tăng giá này
Lợi tức chứng khoán được ước tính dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm tình hình kinh tế, hiệu suất công ty, thị trường chứng khoán và các yếu tố khác Quá trình đầu tư chứng khoán có thể mang lại lợi tức cao nhưng cũng gắn liền với rủi ro
Lợi tức chứng khoán là một khoản thu nhập mà các nhà đầu tư nhận được từ việc nắm giữ các chứng khoán, như cổ phiếu hoặc trái phiếu Lợi tức chứng khoán có thể bao gồm các khoản tiền thưởng, lãi suất, cổ tức hoặc lợi nhuận từ việc bán chứng khoán Đối với cổ phiếu, lợi tức chủ yếu bao gồm cổ tức mà công ty trả cổ đông Đối với trái phiếu, lợi tức chủ yếu bao gồm lãi suất mà người nắm giữ trái phiếu nhận được từ công ty phát hành trái phiếu Quyết định đầu tư vào chứng khoán thường phụ thuộc vào ước tính về lợi tức và tỷ suất sinh lời mà nhà đầu tư có thể nhận được từ việc nắm giữ chứng khoán đó
Lợi tức cổ phiếu thường là các khoản thu nhập đạt được từ hoạt động đầu tư cổ phiếu thường Thu nhập từ đầu tư cổ phiếu thường bao gồm cổ tức cổ phiếu thường và thu nhập từ chênh lệch giá
Lợi tức cổ phiếu thường được đo lường bằng số tuyệt đối như sau:
Thu nhập từ đầu tư cổ phiếu thường = Cổ tức cổ phiếu thường + Giá bán – Giá mua Lợi tức cổ phiếu thường được đo lường bằng số tương đối như sau
Thư viện ĐH Thăng Long
Lợi tức cổ phiếu thường
(SR) = Cổ tức cổ phiếu thường + Giá bán – Giá mua
Các lý thuyết và mô hình phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến lợi tức cổ phiếu thường
Lý thuyết thị trường vốn và mô hình định giá tài sản tài chính (CAPM) 2 1.2.2 Lý thuyết định giá kinh doanh chênh lệch giá và mô hình đa nhân tố
Lý thuyết thị trường vốn mở rộng lý thuyết danh mục đầu tư và phát triển mô hình định giá cho tất cả các tài sản rủi ro Sản phẩm cuối cùng là mô hình định giá tài sàn vốn – Capital Asset Pricing Model (CAPM) Mô hình này cho phép nhà đầu tư xác định tỷ suất lợi tức kỳ vọng cho bất kỳ tài sản rủi ro nào Những giả định của lý thuyết thị trường vốn như sau:
Thứ nhất là những giả định về tâm lý các nhà đầu tư bao gồm: Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của mình đều dựa trên việc phân tích 2 yếu tố là lợi suất và rủi ro của chứng khoán Các nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết hợp nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục đầu tư của mình Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc, các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về thông số đầu vào sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu Đó là các thông số như mức lợi suất, độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ
Thứ hai là những giả định về thị trường vốn: Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, điều này có nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và người mua Giá cả trên thị trường chỉ chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ cung cầu Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ một sự cản trở nào trong cung và cầu của một chứng khoán Trên thị trường tồn tại loại chứng khoán không có rủi ro mà nhà đầu tư có thể đầu tư Hơn thế nữa, nhà đầu tư có thể vay với lãi suất không rủi ro Nói cách khác lãi suất và lãi suất cho vay cùng bằng nhau và bằng lãi suất không rủi ro
Trên cơ sở những giả định về lý thuyết thị trường vốn, ba nhà kinh tế William Sharpe, John Lintnet và Jack Treynor phát triển mô hình CAPM nhằm mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng Trong mô hình này, lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán bằng lợi nhuận phi rủi ro (risk-free) cộng với một khoản bù đắp rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống của chứng khoán đó
Giả định của mô hình CAPM như sau: Các nhà đầu tư đánh giá danh mục chứng khoán dựa trên thu nhập kỳ vọng và độ lệch chuẩn của danh mục trong giới hạn một khoảng thời gian; Nhà đầu tư không bao giờ thỏa mãn; Các nhà đầu tư là những người ngại rủi ro; Các chứng khoán có thể phân chia vô hạn; Có một mức lãi suất không rủi ro mà nhà đầu tư có thể vay hoặc cho vay không hạn chế; Không xem xét các yếu tố thuế và chi phí giao dịch trong mô hình; Thời kỳ phân tích giống nhau giữa tất cả các nhà đầu tư; Mức lãi suất không rủi ro được áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư; Các thông tin trên thị trường là miễn phí và sẵn có đối với tất cả các nhà đầu tư; Các nhà đầu tư có kỳ vọng đồng nhất, họ có cùng nhận thức và quan điểm về thu nhập kỳ vọng, độ lệch chuẩn và đồng phương sai của các chứng khoán
Trong mô hình CAPM độ rủi ro của mỗi chứng khoán không được đo bằng độ lệch chuẩn vì một phần của độ lệch chuẩn đã bị triệt tiêu bởi sự đa dạng hóa danh mục đầu tư
Rp: Lợi tức chứng khoán
RF: Lợi tức của chứng khoán phi rủi ro
RM: Lợi tức của danh mục thị trường
Về mặt hình học, mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng cổ phiếu và hệ số rủi ro beta được biểu diễn bằng đường thẳng có tên gọi là đường thị trường chứng khoán SML (security market line) (Hình 1.1)
Thư viện ĐH Thăng Long
1.2.2 Lý thuyết định giá kinh doanh chênh lệch giá và mô hình đa nhân tố
Lý thuyết định giá kinh doanh chênh lệch có thể hiểu đơn giản nhất đây là lý thuyết định giá tài sản đa yếu tố dựa trên ý tưởng rằng, lợi nhuận của một tài sản có thể được dự đoán bằng cách sử dụng mối quan hệ tuyến tính giữa lợi nhuận kì vọng của tài sản và một số biến kinh tế vĩ mô có rủi ro hệ thống Lý thuyết định giá kinh doanh chênh lệch là một công cụ hữu ích để phân tích danh mục đầu tư từ góc độ đầu tư theo giá trị, mục đích để xác định chứng khoán có thể tạm thời bị định giá sai
Lý thuyết định giá kinh doanh chênh lệch cho rằng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của tài sản tài chính có thể được đo lường thông qua các yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau hoặc là yếu tố thị trường Sự nhạy cảm của tài sản với sự thay đổi trong mỗi yếu tố được đại diện bằng đại lượng xác định gọi là hệ số beta Xuất phát từ lý thuyết này, mô hình xác định tỷ suất sinh lợi cho các chứng khoán đã được sử dụng để định giá tài sản một cách chính xác và giá của tài sản phải bằng với mức kỳ vọng vào cuối giai đoạn đầu tư chiết khấu về hiện tại với mức chiết khấu được tính toán trong mô hình Nếu theo các giá khác nhau, cơ hội kinh doanh chênh lệch sẽ đưa nó về lại đúng đường thẳng như mô hình Khi nhà đầu tư nắm giữ tài sản và bán khống danh mục hoặc ngược lại, nhà đầu tư đang tạo ra một vị thế có tỷ suất sinh lợi kỳ vọng dương cụ thể đó chính là sự khác biệt giữa tỷ suất sinh lợi tài sản và tỷ suất sinh lợi danh mục Nhà kinh doanh chênh lệch ở vào vị thế kiếm lợi nhuận phi rủi ro
Khoản gia tăng bù đắp rủi ro
Lợi nhuận phi rủi ro Đường thị trường chứng khoán
Mô hình APT đòi hỏi 4 giả định sau: Tỷ suất sinh lợi có thể được mô tả bằng một mô hình nhân tố; Không có các cơ hội kinh doanh chênh lệch; Có một lượng chứng khoán đủ lớn để có thể xây dựng một danh mục đầu tư đa dạng hóa tốt, loại bỏ các rủi ro riêng có của các chứng khoán đơn lẻ; Thị trường tài chính là hiệu quả
Mô hình đa nhân tố cho rằng giá cả/lợi suất chứng khoán thay đổi tùy thuộc vào rất nhiều nhân tố chứ không riêng gì một hoặc hai nhân tố
Trong đó: β i,j : là độ nhạy của chứng khoán i với yếu tố j
RPj: là phần bù rủi ro/giá trị của yếu tố j so với Rf
Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi suất chứng khoán, theo APT, là các nhân tố vĩ mô Theo Richard Roll và Stephen A Ross cho rằng có 5 nhân tố quan trọng quyết định lợi nhuận cổ phiếu là: Sự thay đổi tỷ lệ lạm phát kỳ vọng; Sự thay đổi bất ngờ của tỷ lệ lạm phát; Sự thay đổi bất ngờ của tình hình sản xuất trong ngành; Sự thay đổi bất ngờ của chênh lệch lợi tức giữa trái phiếu xếp hạng thấp và trái phiếu xếp hạng cao; Sự thay đổi bất ngờ chênh lệch lợi tức giữa trái phiếu ngắn hạn và trái phiếu dài hạn Ba yếu tố đầu ảnh hưởng đến dòng tiền tệ thu nhập của công ty, do đó, ảnh hưởng đến cổ tức và tốc độ gia tăng cổ tức Hai yếu tố sau cùng ảnh hưởng đến giá trị thị trường hoặc tỷ suất chiết khấu Ngoài ra, còn tùy thuộc vào nền kinh tế hay chính bản chất cổ phiếu mà có thể có nhiều yếu tố khác Có thể xét tới là: Rủi ro chu kỳ kinh doanh; Rủi ro niềm tin nhà đầu tư; Biến động lãi suất ngắn hạn; Thay đổi sự chênh lệch giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn; Sự thay đổi trong giá vàng hoặc giá các kim loại quý khác; Sự thay đổi giá yếu tố đầu vào quan trọng (dầu mỏ, ); Sự thay đổi tỷ giá hối đoái…
Tuy CAPM và APT khác nhau về cách tiếp cận ban đầu, nhưng có thể nhận thấy CAPM thực chất chỉ là một hình thức đặc biệt, thực chất là đơn giản nhất, của APT khi chỉ sử dụng một biến duy nhất là mức đền bù rủi ro thị trường Cả mô hình CAPM và APT đều sử dụng các yếu tố rủi ro hệ thống và không xét rủi ro phi hệ thống.Về điểm khác nhau, mô hình APT cho phép đưa vào nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau để tăng cường mức độ thích hợp với những ngành kinh tế đặc thù vào những giai đoạn cụ thể còn CAPM chỉ xét một biến duy nhất là mức đền bù rủi ro cho tập hợp chứng
Thư viện ĐH Thăng Long
6 khoán thị trường Bên cạnh đó, mô hình APT không đòi hỏi nhiều giả định và có thể lựa chọn trong số các biến quan sát được còn CAPM đòi hỏi nhiều giả định chặt chẽ phải có một tập hợp chứng khoán thị trường nhất định
Tuy nhiên có thể thấy cả hai mô hình đều có nhược điểm chưa đề cập đến các yếu tố nội sinh (bên trong) ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường Điều này được chứng minh thông qua mô hình thực nghiệm ba nhân tố của Fama- French và sau đó được mở rộng và phát triển thành nhiều nhân tố nội tại khác.
Mô hình ba nhân tố Fama – French
Eugene Fama và Kenneth French tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ giữa lợi nhuận của cổ phiếu, quy mô công ty, tỷ số giá trị sổ sách trên giá trị thị trường (book-to-price ratio – B/P, nghịch đảo của tỷ số M/B) và hệ số beta Họ quan sát hai nhóm cổ phiếu: một là nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa nhỏ, và hai là nhóm cổ phiếu của các công ty có giá trị sổ sách trên giá trị thị trường cao
Kết quả kiểm định dựa vào số liệu thời kỳ 1963 – 1990 cho thấy rằng các biến quy mô và tỷ số B/P là những biến ảnh hưởng mạnh đến lợi nhuận cổ phiếu Khi những biến này được đưa vào phân tích hồi quy trước rồi mới thêm biến beta vào thì kết quả cho thấy rằng biến beta không mạnh bằng các biến kia trong việc giải thích lợi nhuận cổ phiếu Fama phản biện khả năng sử dụng mô hình CAPM để giải thích lợi nhuận cổ phiếu, kết luận rằng beta không phải là biến duy nhất giải thích lợi nhuận và đề nghị bổ sung biến quy mô và biến tỷ số M/B thích hợp để giải thích lợi nhuận hơn là biến rủi ro, đưa ra mô hình Fama – French ba nhân tố:
E(Ri) = Rf + βi,m (E(Rm) – Rf) + βi,SMB SMB + βi,HML HML
E(Ri) là lợi suất sinh lợi kỳ vọng của cổ phiếu I; Rf là lãi suất phi rủi ro;
E(Rm) (hoặc Rm) là lãi suất danh mục thị trường;
(E(Rm) – Rf) là phần bù rủi ro thị trường;
SMB (Small Minus Big) là phần bù quy mô, đo bằng lợi suất trung bình của danh mục gồm các cổ phiếu có giá trị vốn hóa nhỏ trừ đi lợi suất trung bình của danh mục gồm các chứng khoán có giá trị vốn hóa lớn;
HML (High B/P Minus Low B/P) là phần bù giá trị, đo bằng lợi suất trung bình của danh mục gồm các chứng khoán có giá trị sổ sách trên giá trị thị trường (B/P) cao
(cổ phiếu có giá trị) trừ đi lợi suất trung bình của danh mục gồm các chứng khoán có giá trị sổ sách trên giá trị thị trường (B/P) thấp (cổ phiếu tăng trưởng) βi,m , βi,SMB , βi,HML : Độ nhạy của các nhân tố thị trường, nhân tố quy mô và nhân tố giá trị đối với chứng khoán
Những nghiên cứu tương tự có thể được thấy ở những năm sau đó, như Amihud
(2002), Pástor và Stambaugh (2003), Liu (2006), Marcato và các cộng sự (2018) và Butt Hilal và Suleman (2017) kiểm tra ảnh hưởng của tính thanh khoản của công ty đến lợi tức chứng khoán Hay các nghiên cứu của Novy-Marx (2013) và Fama và French (2015) sử dụng biến lợi nhuận để giải thích sự thay đổi trong lợi nhuận cổ phiếu
Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường
Trong nhiều thập kỷ qua, có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường Các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường được chia thành hai nội dung là các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài
Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường bao gồm khả năng sinh lời (ROA, ROE, ROS), khả năng thanh toán (CR và QR), tốc độ tăng trưởng công ty, đặc trưng hội đồng quản trị… Tuy nhiên, trong phạm vi khoá luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu ba nhân tố bên trong ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường bao gồm khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và tốc độ tăng trưởng của công ty Các nghiên cứu về các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu cụ thể như sau: Nghiên cứu của Sorongan (2016) và Chandra (2016), nghiên cứu của Anjani và Syarif (2019), nghiên cứu của Tumonggor (2017), nghiên cứu của Hertina (2019), nghiên cứu của Anwaar (2016), nghiên cứu của Sari (2016), nghiên cứu của Aish và Mandala (2016)
… tập trung phân tích ảnh hưởng của khả năng sinh lời đến lợi tức của cổ phiếu Nghiên cứu của Anwaar (2016), nghiên cứu của Zunaini (2016), nghiên cứu của Tyani
(2018), nghiên của Rosiana (2016), nghiên cứu của Eni (2017), nghiên cứu của Ardiani (2017), nghiên cứu của Pradiana và Yadnya (2019) phân tích ảnh hưởng của khả năng thanh toán đến lợi tức cổ phiếu thường hay nghiên cứu của Hanif (2017) phân tích ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng công ty đến lợi tức cổ phiếu thường
Thư viện ĐH Thăng Long
Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường bao gồm lạm phát, cung tiền, tăng trưởng GDP, giá dầu thô, thất nghiệp, lãi suất, chỉ số chứng khoán … Tuy nhiên, trong phạm vi khoá luận, tác giả chỉ tập trung vào các nhân tố như lạm phát, cung tiền, tăng trưởng GDP và chỉ số chứng khoán, cụ thể: Nghiên cứu của Fisher (1930), nghiên cứu của Bodie (1976), nghiên cứu của Fama và Schwert (1977), nghiên cứu của Zhao (1999), nghiên cứu của Rao và Bhole (1990) phân tích ảnh hưởng của lạm phát đến lợi tức cổ phiếu thường Nghiên cứu của Tsoukalas (2003), nghiên cứu của Liu và Shrestha (2008) phân tích ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tỷ giá, cung tiền …đến lợi tức cổ phiếu thường.
Ảnh hưởng của các nhân tố đến lợi tức cổ phiếu thường
Ảnh hưởng của các nhân tố bên trong đến lợi tức cổ phiếu thường
1.4.1.1 Ảnh hưởng của khả năng sinh lời đến lợi tức cổ phiếu thường
Theo nghiên cứu của Wiagustini năm (2014) thì khả năng sinh lời được đo lường bằng ba thước đo là tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) Khả năng sinh lời là các yếu tố bên trong bởi vì các chỉ số này được đo lường trực tiếp dựa trên hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty (Doanh thu, Lợi nhuận, Tài sản , Nguồn vốn) qua từng thời kỳ
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) cho thấy khả năng tạo lợi nhuận từ việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của công ty Vì vậy tỷ suất sinh lời trên doanh thu được tính toán bằng lợi nhuận sau thuế chia cho doanh thu thuần của các công ty Theo nghiên cứu của Manoppo (2015) đã chứng minh được ROS có tác động đáng kể đến giá cổ phiếu hay ROS có khả năng dự đoán xu hướng giá cổ phiếu trong tương lai Về lý thuyết và thực tế, các nhà đầu tư đánh giá hiệu quả tài chính của công ty thông qua một số chỉ tiêu, trong đó bao gồm chỉ tiêu ROS Công ty có ROS cao tạo ra sự tăng trưởng về thu nhập cho cổ đông, từ đó kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ gia tăng Như vậy, có thể thấy ROS và lợi tức cổ phiếu có mối quan hệ cùng chiều với nhau
Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) thể hiện hiệu quả đầu tư vào tài sản của các công ty (Fahmi, 2018) ROA là một chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng tạo lợi nhuận của các công ty tương ứng với mức độ góp vốn của các nhà đầu tư Vì vậy, Tandelilin (2010) cho rằng ROA có tác động tích cực đến lợi tức cổ phiếu Đồng quan điểm với Tandelilin (2010), các nghiên cứu của Wulansari (2018), Sorongan (2016),
Putra và cộng sự (2018), Mahampang (2016) cũng chứng minh được rằng ROA có xu hướng làm gia tăng giá cổ phiếu trong tương lai Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại chỉ ra rằng ROA không có ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu như nghiên cứu của Afrini và Masudi (2019), Hertina và cộng sự (2019), Aisah và Mandala (2016) và Tumonggor và cộng sự (2017)
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) đo lường khả năng tạo ra lợi nhuận của công ty trên vốn chủ sở hữu Tỷ lệ này đo lường mức độ mà công ty có thể sử dụng các nguồn lực của mình để tạo ra lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (Fahmi, 2018) Theo Tandelilin (2010), ROE càng cao thì hiệu quả hoạt động của công ty sẽ càng tốt và có tác động làm tăng giá cổ phiếu trên thị trường Các nghiên sau này của Sorongan
(2016) và Chandra (2016), Anjani cùng Syarif (2019), Tumonggor (2017) đã khẳng định rằng ROE có tác động tích cực đến lợi tức cổ phiếu Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại không chứng minh được ảnh hưởng của ROE đến lợi tức cổ phiếu như nghiên cứu của Hertina (2019), nghiên cứu của Anwaar (2016), nghiên cứu của Sari (2016), nghiên cứu của Aish và Mandala (2016)
1.4.1.2 Ảnh hưởng của khả năng thanh toán đến lợi tức cổ phiếu thường
Trong bài nghiên cứu, Tác giả nghiên cứu các khả năng thanh toán có thể tác động tới lợi tức cổ phiếu thường bao gồm hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán ngắn hiện hành
Hệ số thanh toán nhanh (Quick ratio - QR) là chỉ số dùng để xác định khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thông qua việc chuyển hóa tài sản ngắn hạn sang tiền mặc mà không cần bán hàng tồn kho Các nghiên cứu được thực hiện bởi Anwaar (2016), Zunaini (2016), Tyani (2018) đã chứng minh được tác động tích cực của QR đến lợi tức cổ phiếu Công ty có khả năng trả nợ ngắn hạn tốt hơn thì khả năng nhà đầu tư sẽ nhận được lợi nhuận bằng tiền mặt từ chi trả lợi tức cho cổ phiếu cao hơn, do đó sẽ có tác động tích cực đến kỳ vọng của nhà đầu tư đối với cổ phiếu, kết quả là giá cổ phiếu có xu hướng tăng Ngược lại, nghiên cứu của Rosiana
(2016), Eni (2017), không chứng minh được tác động của QR đến lợi tức cổ phiếu thường hay nghiên cứu của Ardiani (2017), Pradiana và Yadnya (2019) lại cho rằng
QR có tác động tiêu cực tới lợi tức cổ phiếu
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio - CR) là chỉ số tài chính cho thấy khả năng bảo đảm trả được các khoản nợ đến hạn bất cứ lúc nào của doanh
Thư viện ĐH Thăng Long
10 nghiệp Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của người đi vay có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi của một khoản nợ Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là xem xét tình hình thanh toán của các khoản phải thu, các khoản phải trả và tình hình thanh toán đúng hạn các khoản nợ của doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu đã nghiên cứu tác động của hệ số khả năng thanh toán hiện hành và đưa ra nhiều kết quả khác nhau Theo Shkeel (2018), Marwadi và cộng sự (2016) và Meri (2013), CR có tác động ngược chiều đến lợi tức chứng khoán Trong khi theo Suantari và cộng sự (2016), SR có tác động tích cực tới lợi tức cổ phiếu Và theo nghiên cứu của Rio (2016), Hafnidan và Anggraini (2018) lại cho rằng CR không có tác động đến lợi tức cổ phiếu
1.4.1.3 Ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng đến lợi tức cổ phiếu thường
Tốc độ tăng trưởng doanh thu (Sales Growth Ratio) là phần trăm thay đổi doanh thu của một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian cụ thể Tỷ lệ tăng trưởng phụ thuộc vào 2 quá trình là tích lũy tài sản như vốn, lao động, cơ sở vật chất và đầu tư những tài sản có năng suất hơn Tuy tiết kiệm và đầu tư đều là những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh gia tăng doanh thu được Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu là một chỉ số đóng vai trò rất quan trọng trong việc kinh doanh của doanh nghiệp Là chỉ số giúp doanh nghiệp biết được kết quả kinh doanh trong một thời gian nhất định, để có thể xem xét cơ hội đầu tư trong tương lai
Tăng trưởng về doanh thu là một trong những dấu hiện cho thấy sự phát triển của công ty, nhà đầu tư cần xem xét và đưa ra đánh giá về tình trạng của công ty trước khi đầu tư Sự phát triển nhanh chóng của công ty cũng là một dấu hiệu tốt trước một quyết định đầu tư Hanif (2017) đã chứng minh rằng tốc độ tăng trưởng doanh thu có ảnh hướng tích cực đến giá cổ phiếu và lợi tức cổ phiếu.
Ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài đến lợi tức cổ phiếu thường
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát được hiểu là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ Khi so sánh với các nước khác, lạm phát được hiểu là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác Tỷ lệ lạm phát được đo lường dựa trên giá trị chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Theo lý thuyết thị trường vốn và mô hình định giá tài sản tài chính CAPM, Richard Roll và Stephen A Ross cho rằng có 5 nhân tố quan trọng quyết định lợi nhuận cổ phiếu là: Sự thay đổi tỷ lệ lạm phát kỳ vọng; Sự thay đổi bất ngờ của tỷ lệ lạm phát; Sự thay đổi bất ngờ của tình hình sản xuất trong ngành; Sự thay đổi bất ngờ của chênh lệch lợi tức giữa trái phiếu xếp hạng thấp và trái phiếu xếp hạng cao; Sự thay đổi bất ngờ chênh lệch lợi tức giữa trái phiếu ngắn hạn và trái phiếu dài hạn Ba yếu tố đầu đầu bao gồm: Sự thay đổi tỷ lệ lạm phát kỳ vọng; Sự thay đổi bất ngờ của tỷ lệ lạm phát; Sự thay đổi bất ngờ của tình hình sản xuất trong ngành ảnh hưởng đến dòng tiền tệ thu nhập của công ty, do đó, ảnh hưởng đến lợi tức và tốc độ gia tăng lợi tức cổ phiếu
Mối quan hệ giữa lợi nhuận chứng khoán và tỷ lệ lạm phát đã nghiên cứu rộng rãi trong các tài liệu Tuy nhiên, những kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm này là khác nhau Fisher (1930) đã kết luận rằng có lạm phát có tác động tích cực đến lợi tức cổ phiếu thường và Bodie (1976) cũng đưa ra kết luận tương tự như Fisher (1930) Tuy nhiên, nghiên cứu của Fama và Schwert (1977) lại ghi nhận mối quan hệ nghịch đảo giữa lạm phát kỳ vọng và lợi tức chứng khoán Nghiên cứu của Zhao (1999) được tiến hành tại Trung Quốc cũng nhận định rằng có mối quan hệ tiêu cực đáng kể giữ lạm phát là lợi tức chứng khoán Theo Rao và Bhole (1990) đã điều tra tác động của lạm phát đến lợi nhuận thị trường chứng khoán tại thị trường chứng khoán Ấn Độ và cũng chứng minh được mối quan hệ nghịch biến giữa lạm phát và lợi tức chứng khoán Việc tham khảo, xem xét tài liệu nghiên cứu liên quan đã chứng minh rằng lạm phát và lợi tức chứng khoán có mối liên hệ với nhau nhưng không có sự nhất trí về việc liệu mối quan hệ tồn tại giữa lạm phát và lợi nhuận chứng khoán là tích cực, tiêu cực hay không tác động
Cung tiền tệ (Money Supply) là tổng lượng tiền trong lưu thông trong nền kinh tế Cung tiền bao gồm: tiền trong dân cư, tiền trong hệ thống ngân hàng và tiền của cơ quan doanh nghiệp Cung tiền có các hình thức: tiền mặt, tiền xu, tiền gửi ngân hàng, séc được phép lưu hành trên thị trường theo quy định Nhà nước Liên quan đến chính sách tiền tệ và giá cổ phiếu, nghiên cứu của Sun và Wang (2018) thực hiện tại Trung Quốc, sử dựng mô hình VAR phi tuyến tính để tiến hành phân tích xung lực và phân tích phương sai Qua kiểm định, kết quả nghiên cứu đã xác định được mối tương quan
Thư viện ĐH Thăng Long
12 giữa chính sách tiền tệ và thị trường chứng khoán Nghiên cứu chỉ ra rằng cung tiền có ảnh hưởng nhất định đến giá cổ phiếu: M1 có tác động không đáng kể đến giá cổ phiếu; M2 có tác động đáng kể đến giá cổ phiếu Theo nghiên cứu của Tsoukalas
(2003) xem xét mối quan hệ giữa giá của cổ phiếu ở thị trường chứng khoán chứng khoán Cyprus và các yếu tố kinh tế vĩ mô Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm chuỗi giá của các cổ phiếu, giá trị sản xuất công nghiệp, CPI, cung tiền và tỷ giá hối đoái theo thời gian với tuần suất quý được thu thập cho khoảng thời gian từ 1975 đến 1998 Sử dụng kiểm định Ganger, kết quả nghiên cứu cho thấy giá của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán chứng khoán Cyprus có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế vĩ mô được chọn để nghiên cứu Và theo kết quả nghiên cứu của Liu và Shrestha (2008) đã kiểm định mối quan hệ giữa giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Trung Quốc với các yếu tố vĩ mô, bao gồm giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ giá, lạm phát, cung tiền và lãi suất Nghiên cứu này sử dụng số liệu thứ cấp cho tất cả các biến số trong giai đoạn từ 01/1992 đến 12/2001 Sử dụng kiểm định đồng kết hợp (cointegration test), các tác giả đã tìm thấy mối tương quan thuận giữa giá cổ phiếu với giá trị sản xuất công nghiệp và cung tiền và mối tương quan nghịch giữa giá cổ phiếu với tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá
GDP (Gross Domestic Product), có nghĩa là tổng sản phẩm quốc nội hay còn gọi là sản phẩm nội địa Đây là một chỉ tiêu dùng để đo lường giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một vùng lãnh thổ quốc gia trong thời gian khoảng một kỳ nhất định thường là một năm hoặc một quý Chỉ số GDP thường được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau Với mỗi phương pháp sẽ có một công thức riêng biệt để tính toán Eita (2012) nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến giá của các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Namibia Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thời gian với tần suất quý của giá cổ phiếu, cung tiền, lạm phát, GDP, lãi suất và tỷ giá trong giai đoạn 1998 – 2009 Thống nhất với kết quả của các nghiên cứu trước đó, nghiên cứu này chỉ ra rằng giá của các cổ phiếu có mối tương quan nghịch với lãi suất và lạm phát Ngược lại, các nhân tố GDP, tỷ giá và cung tiền có mối tương quan thuận với giá của các cổ phiếu
Chỉ số giá chứng khoán là chỉ số báo giá cổ phiếu phản ánh xu hướng phát triển của thị trường cổ phiếu, thể hiện xu hướng thay đổi của giá cổ phiếu và tình hình giao dịch trên thị trường Chỉ số giá chứng khoán là giá bình quân cổ phiếu tại một ngày nhất định so với ngày gốc (Bui, 2013) Tại Việt Nam, chỉ số VN-Index là chỉ số giá chứng khoán của sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), thể hiện xu hướng biến động giá của toàn bộ cổ phiếu niêm yết trên HOSE Chỉ số VN-Index thể hiện mức biến động giá, được tính theo phương pháp bình quân gia quyền của toàn bộ các cổ phiếu trong rổ tính toán so với phiên giao dịch gần nhất hoặc so với ngày gốc và được tính theo điểm Theo nghiên cứu của Tác giả Nguyễn Thị Như Quỳnh &
Võ Thị Hương Linh (Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh) năm 2019 nghiên cứu tác động của một số yếu tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá chứng khoán tại Việt Nam đã chỉ ra chỉ số VNIndex có mối quan hệ cùng chiều với lãi suất, cung tiền, giá dầu và quan hệ ngược chiều với lạm phát và tỷ giá, tức là khi VN Do đó, chỉ số
VN Index sẽ có mối quan hệ cùng chiều với lợi tức cổ phiếu thường
Thư viện ĐH Thăng Long
Khung nghiên cứu lý thuyết
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường, khung nghiên cứu lý thuyết của tác giả được xây dựng như sau:
Hình 1.1 Khung nghiên cứu lý thuyết
Nguồn: Tổng hợp từ các nghiên cứu trước
Lợi tức cổ phiếu thường
Các nhân tố bên trong:
- Khả năng thanh toán (CR, QR)
- Tăng trưởng công ty (tốc độ tăng trưởng doanh thu)
Các nhân tố bên ngoài:
- Lạm phát (tỷ lệ lạm phát)
- Cung tiền ( tốc độ tăng trưởng M2)
- Tăng trưởng GDP (Tỷ lệ tăng trưởng
Tóm lại, chương 1: Cơ sở lý thuyết về lợi tức cổ phiếu thường và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu thường đã đưa ra những cơ sở lý luận nền tảng cho đối tượng nghiên cứu là lợi tức cổ phiếu thường bao gồm khái niệm, các thước đo, các lý thuyết về ảnh hưởng của các nhân tố tới lợi tức cổ phiếu thường Trong chương này, Tác giả đưa ra các nhân tố liên quan được đánh giá là sẽ ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường các công ty nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Các yếu tố được xem xét gồm cả nhưng yếu tố nội tại bên trong doanh nghiệp và yếu tố vĩ mô của nền kinh tế
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp được xem xét sẽ tác động tới sự biến động của lợi tức cổ phiếu thường tại các công ty cổ phần thuộc nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là : Khả năng sinh lời (ROE, ROA, ROS), khả năng thanh toán (Hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán hiện thời), Tốc độ tăng trưởng doanh thu Một số nhân tố vĩ mô được xem xét bao gồm Tốc độ tăng trưởng GDP, Cung tiền M2, chỉ số giá tiêu dùng CPI, chỉ số giá chứng khoán VN Index và Lạm phát
Thư viện ĐH Thăng Long
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Quy trình nghiên cứu
Sơ đồ 2.1 Quy trình nghiên cứu
Bước 1: Xác định nội dung cần nghiên cứu:
Dựa vào nên tảng lý thuyết, cơ sở lý luận về lợi tức cổ phiếu thường và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu thường, Tác giả xây dựng mô hình và thước đo cho lợi tức cổ phiếu thường và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu thường Trong phạm vi nghiên cứu, Tác giả đo lường lợi tức cổ phiếu thường và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường bao gồm: Khả năng sinh lời (ROS, ROA, ROE); tốc độ tăng trưởng doanh thu và các yếu tố vĩ mô (CPI, Cung tiền M2, Tốc độ tăng trưởng GDP, Chỉ số VN Index) dựa trên số liệu của 41 CTCP ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam có đủ số liệu từ quý 1/2019 đến hết quý 2/2023 Việc xác định rõ các nội dung cần phân tích như trên sẽ giúp cho việc thu thập số liệu được tiến hành nhanh chóng, đầy đủ và chính xác hơn Trên cơ sở lý luận, Tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu lý thuyết
Bước 2: Thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu:
Dựa trên những yếu tố cơ bản được xác định ở trên, Tác giả thu thập dữ liệu nghiên cứu tài chính thông qua các CTCP ngành bán buôn niêm yết trên TTCK Việt Nam, trên website chính thức của Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh định Xác các nội dung nghiên cứu thập Thu và xử lý dữ liệu
Phân tích thống kê mô tả
Kiểm định đa cộng tuyến
Kiểm định phương sai của sai số thay đổi
Kiểm định tương tự quan
17 và Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hà Nội Dữ liệu nghiên cứu sau khi thu thập được kiểm tra, làm sạch và xử lý dưới sự hỗ trợ của phần mềm Stata 14
Bước 3: Phân tích thống kế mô tả:
Trên cơ sở những số liệu đã được xử lý, Tác giả phân tích thống kê mô tả về lợi tức cổ phiếu thường của các CTCP nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu thường Mô tả những dữ liệu đã được xử lý bằng các phép tính, các chỉ số thống kê, trên cơ sở đó đánh giá xu hướng trung bình, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất và độ phân tán của biến phụ thuộc và các biến độc lập
Bước 4: Kiểm định đa cộng tuyến:
Sau khi phân tích thống kê mô tả, Tác giả thực hiện kiểm định đa cộng tuyến xem xét xem mối quan hệ của các biến độc lập trong trong mô hình Nếu các biến độc lập có quan hệ chặt với nhau, các biến độc lập có mối quan hệ tuyến tính, nghĩa là các biến độc lập có tương quan mạnh với nhau thì sẽ có hiện tượng đa cộng tuyến Hiện tượng đa cộng tuyến vi phạm giả định của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển là các biến độc lập không có mối quan hệ tuyến tính với nhau Tác giả dựa vào hệ số phóng đại phương sai VIF để nhận diện hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình
Tác giả tiếp tục kiểm định Hausman để đưa ra sự lựa chọn mô hình phù hợp với nghiên cứu của mình giữa mô hình tác động cố định Fixed effect (FE) và mô hình tác động ngẫu nhiên Random effect (RE) Kiểm định Hausman là một phương thức kiểm tra giả định thống kê trong kinh tế lượng nhằm xem xét liệu có tồn tại tự tương quan giữa sai số và các biến độc lập là các nhân tố ảnh hưởng tới lợi tức cổ phiếu thường hay không Tác giả kiểm định Hausman cho 2 giai đoạn trong thời kỳ dịch bệnh Covid và sau thời kỳ Covid với giả thuyết thống kê như sau: H0: Không có tương quan giữa sai số và các biến độc lập; H1: Có tương quan giữa sai số và các biến độc lập Lựa chọn mô hình tác động cố định (FE) khi có sự tương quan giữa sai số và biến độc lập và ngược lại, lựa chọn mô hình tác động ngẫu nhiên (RE) khi không có sự tương quan giữa sai số và các biến độc lập
Bước 6: Kiểm định phương sai của sai số thay đổi:
Một trong các giả định quan trọng khi thực hiện hồi quy tuyến tính đa biến là giả định phương sai không thay đổi Nếu xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi, kết quả
Thư viện ĐH Thăng Long
18 của phương trình hồi quy sẽ không chính xác, làm sai lệch kết quả so với thực tế, từ đó khiến người nghiên cứu đánh nhầm chất lượng của phương trình hồi quy tuyến tính Tác giả sử dụng phần mềm Stata để kiểm định phương sai của số thay đổi, kiểm tra khuyết tật và sau đó tìm cách khắc phục khuyết tật này của mô hình
Bước 7: Kiểm định tự tương quan:
Theo dữ liệu đã xử lý, tác giả tiếp tục đi kiểm định tự tương quan cho mô hình Kiểm định tự tương quan trong kinh tế lượng là hiện tượng mà tại đó sai số tại thời điểm t có sự tương quan với sai số tại thời điểm t-1 hoặc bất cứ sai số nào trong quá khứ Thường xảy ra trong bộ dữ liệu bảng (panel data) hay trong bộ dữ liệu chuỗi thời gian (time-series) Đối với dữ liệu bảng trong bài nghiên cứu, Tác giả sử dụng lệnh xtset để kiểm định mô hình, phát hiện hiện tượng tự tương quan và khắc phục
Bước 8: Kiểm định thừa biến:
Thừa biến là mô hình có chứa các biến không liên quan, điều này xảy ra sẽ làm giảm độ chính xác của công cụ ước lượng bình phương nhỏ nhất, bình phương tối thiểu không chệch tuy nhiên sai số tiêu chuẩn của các hệ số sẽ không còn min Một trong những tiêu chuẩn đánh giá một ước lượng là dựa vào phương sai của ước lượng đó, ước lượng càng tốt khi phương sai càng nhỏ Do đó, Tác giả thực hiện kiểm định thừa biến nhằm kiểm tra xem phương sai của ước lượng trên cho mô hình đã đạt min chưa
Bước 9: Phân tích hồi quy
Sau khi xử lý dữ liệu, kiểm định và khắc phục các khuyết tật của mô hình, Tác giả sử dụng phân tích hồi quy bảng để ước lượng phương trình phù hợp nhất với các tập hợp kết quả quan sát của biến phụ thuộc lợi tức cổ phiếu thường và các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường bao gồm khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tốc độ tăng trưởng doanh thu và các yếu tố vĩ mô
Trong bài Khóa luận này, Tác giả sử dụng hệ số xác định R (R – squared) và giá trị P_value để kiểm định sự phù hợp của mô hình Dựa vào R ta sẽ đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập trong mô hình tới biến phụ thuộc, P_value giúp đánh giá được mức độ phù hợp, ý nghĩa thống kê của mô hình
Cuối cùng ta sẽ xây dựng mô hình hồi quy bội để phản ánh mối quan hệ lợi tức cổ phiếu thường và các yếu tố tác động đến tỷ lệ lợi tức cổ phiếu thường tại các CTCP
Phương pháp nghiên cứu
nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giải thích và đưa ra mô hình cuối cùng phù hợp nhất
2.2.1 Mô hình nghiên cứu và các biến nghiên cứu
Dựa vào cơ sở lý thuyết và lý luận đã nêu ở những phần trên, Tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu sau:
Trong giai đoạn 2019 – 2021, nền kinh tế bị ảnh hưởng khá nhiều bởi đại địch Covid 19 Đây là một nhân tố khách quan không thể kiểm soát của nền kinh tế Do đó, các yếu tố vĩ mô như lạm phát, GDP, cung tiền cũng lần lượt bị biến động theo bởi các nhà chức trách nhằm kiểm soát nền kinh tế Bởi vậy, Covid 19 có thể là nhân tố quan trọng trong việc xem xét sự ảnh hưởng tới biến đồng của lợi tức cổ phiếu thường của các CTCP ngành bán buôn niêm yết trên TTCK Việt Nam, vì vậy tác giả bổ sung biến COVID là biến kiểm soát của mô hình
Biến phụ thuộc được sử dụng trong nghiên cứu là lợi tức cổ phiếu thường (SR), lợi tức cổ phiếu thường của mỗi CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn niêm yết trên TTCK Việt Nam hàng quý từ quý 1/2019 đến quý quý 2/2023 được tính toán như sau:
Lợi tức chứng khoán i,t = MP t,i
MP t là giá đóng cửa trung bình tại quý t của chứng khoán i
MP t−1 là giá đóng cửa trung bình tại quý trước quý t của chứng khoán i t tương ứng với các quý trong 1 năm từ quý 1 đến quý 4
Trong bài Khóa luận, Tác giả sử dụng tốc độ tăng trưởng của giá đóng cửa trung bình hàng quý là thước đo lợi tức cổ phiếu thường Giá trị trung bình này được tính dựa vào giá đóng cửa phiên cuối hàng ngày trong quý Do giá thị trường là giá giao dịch trên thị trường tập trung nên chịu ảnh hưởng nhiều bởi tâm lý của nhà đầu tư khi phản ứng trước biến động của thị trường, nên với đặc trưng của giá đóng cửa thì đó là
Thư viện ĐH Thăng Long
20 giá cuối cùng trong phiên giao dịch, hay cuối cùng của chu kỳ theo dõi biến động giá Giá này sẽ được ấn định bởi lệch khớp cuối cùng trong ngày là giá tham chiếu cho phiên tiếp theo ngày hôm sau, phản ánh phần nào tâm lý nhà đầu tư trong phiên trước đó, từ đó giúp nhà đầu tư xác định mức độ dao động của mã chứng khoán trong phiên trước và biên dao động trong phiên tiếp theo Giá đóng cửa là giá tham chiếu của ngày hôm sau nên tạo ra sự tuần hoàn và liên tục của giá cả trên thị trường
Trong phạm vi bài Khóa luận, Tác giả sử dụng các biến độc lập: Sự ảnh hưởng của đại dịch Covid (Covid), Khả năng sinh lời (ROS, ROE, ROA), Khả năng thanh toán nhanh (QR), Khả năng thanh toán hiện hành (CR), Tốc độ tăng trưởng của Doanh thu (SALESGROWTH) và các yếu tố vĩ mô bao gồm: Tốc độ tăng trưởng GDP (GDPGrowth), chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và Tăng trưởng cung tiền M2 (M2)
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp:
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS): Hiệu quả tài chính là một trong các yếu tố quan trọng sẽ ảnh hưởng tới giá cổ phiếu, làm biến động giá và từ đó có thể ảnh hưởng nhiều tới lợi tức cổ phiếu thường ROS là tỷ suất sinh lời trên doanh thu, phản ánh 1 đồng doanh thu bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận Tác giả sử dụng ROS của các CTCP nhóm ngành bán buôn niêm yết trên TTCK Việt Nam từ quý 1/2019 đến quý 2/2023 làm thước đo ROS được tính toán như sau:
Doanh thu thuần i,t Trong đó:
ROS i,t : Tỷ suất sinh lời trên Doanh thu thuần của công ty i tại thời điểm t
Doanh thu thuần i,t : Doanh thu thuần của công ty i tại thời điểm t
EAT i,t : Lợi nhuận sau thuế của công ty i tại thời điểm t
Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA): ROA là biến độc lập phản ánh 1 đồng tài sản bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận Trong bài khóa luận, ROA sẽ được đo lường từ dữ liệu của các CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn và tính toán với công thức sau:
ROA i,t : Tỷ suất sinh lời trên Tài sản của công ty i tại thời điểm t
Tài sản i,t : Tổng tài sản của công ty i tại thời điểm t
EAT i,t : Lợi nhuận sau thuế của công ty i tại thời điểm t
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữn (ROE): ROE cũng là một chỉ số cần thiết đánh giá hiệu quả tài chính của một doanh nghiệp, giúp phản ánh 1 đồng vốn của chủ sở hữu bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận Biến độc lập này cũng được sử dụng dữ liệu từ năm 2019 cho tới quý 2/2023 để tính toán ROE có công thức như sau:
ROE i,t : Tỷ suất sinh lời trên VCSH của công ty i tại thời điểm t
VCSH i,t : Vốn chủ sở hữu của công ty i tại thời điểm t
EAT i,t : Lợi nhuận sau thuế của công ty i tại thời điểm t
Khả năng thanh toán nhanh (QR): Hệ số khả năng thanh toán nhanh chính là chỉ số tài chính được sử dụng để làm thước đo phản ánh khả năng chi trả của doanh nghiệp với các khoản nợ bằng tài sản ngắn hạn trong thời gian ngắn hạn Biến độc lập Khả năng thanh toán nhanh được tính toán như sau:
QR i,t (Lần) = Tiền i,t + Khoản đầu tư tài chính ngắn hạn i,t
Nợ ngắn hạn i,t Trong đó:
QR i,t : Hệ số thanh toán nhanh của công ty i tại thời điểm t
Tiền i,t : Tài sản Tiền của doanh nghiệp i tại thời điểm t
Khoản đầu tư tài chính ngắn hạn i,t : Khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp i tại thời điểm t
Nợ ngắn hạn i,t : Tổng nợ ngắn hạn của công ty i tại thời điểm t
Khả năng thanh toán hiện hành (CR): Đây là biến độc lập cho biết tỉ số giữa tài sản lưu động hiện có và nợ ngắn hạn, phản ánh khả năng hiện tại của doanh nghiệp trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đó Tỉ số này được đo lường bằng công thức dưới đây:
Thư viện ĐH Thăng Long
CR i,t (Lần) = Tài sản ngắn hạn i,t
CR i,t : Tỷ số thanh toán hiện hành của công ty i tại thời điểm t
Tài sản ngắn hạn i,t : Tổng tài sản ngắn hạn của công ty i tại thời điểm t
Nợ ngắn hạn i,t : Tổng nợ ngắn hạn của công ty i tại thời điểm t
Tốc độ tăng trưởng doanh thu (SALESGROWTH): Chỉ số này nhằm để đo lường và dự đoán mức độ tăng trưởng của một doanh nghiệp trong một thời gian cụ thể, xem xét xem sự biến động của số tiền mà doanh nghiệp thu được từ việc bán sản phẩm là tăng hay giảm so với các kỳ trước và có thể đưa ra chiến lược phù hợp cho doanh nghiệp mình Biến độc lập Tốc độ tăng trưởng doanh được tính toán theo dữ liệu từ quý 4/2018 đến quý 2/2023 bằng công thức sau:
SALESGROWTH i,t (%) = Doanh thu i,t − Doanh thu i,t−1
SALESGROWTH i,t : Tốc độ tăng trưởng doanh thu của công ty i tại thời điểm t so với thời điểm t-1 tước đó
Doanh thu i,t : Tổng doanh thu của công ty i tại thời điểm t
Doanh thu i,t−1 : Tổng doanh thu của công ty i tại thời điểm t -1
Các nhân tố bên ngoài:
Tốc độ tăng trưởng GDP (GDP): GDP (Gross Domestic Product) là tổng giá trị các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong một khu vực (thường là quốc gia) trong một khoảng thười gian nhất định Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe và sự phát triển của nền kinh tế Tốc độ tăng trưởng GDP là biến độc lập đo lường sự thay đổi của GDP giữa các khoảng thời gian khác nhau Biến sẽ được đo lường bằng công thức tính toán sau:
GDPGrowth t : Tốc độ tăng trưởng GDP tại tời điểm t
GDP t : Tổng sản phẩm trong nước tại thời điểm t
GDP t−1 : Tổng sản phẩm trong nước tại thời điểm t -1, thời điểm trước thời điểm t
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Biến độc lập này dùng để đo lường mức độ thay đổi tương đổi về giá cả hàng tiêu dùng theo thời gian và được tính bằng phần trăm (%) CPI được tính theo công thức sau:
𝐶𝑃𝐼 𝑛 : là chỉ số giá tiêu dùng bình quân của mỗi tháng trong quý t t tương ứng là tháng thứ 1 tới tháng thứ 3 trong 1 quý
Trong bài khóa luận này, Tác giả sử dụng chỉ số trung bình giá tiêu dùng của từng tháng trong 1 quý để đo lường chỉ số giá tiêu dùng của một quý
Tăng trưởng cung tiền M2 (M2): Cung tiền M2 là bao gồm tất cả lượng tiền cung ứng M1 cộng với các dạng tiền tương đối đối lỏng khác Tốc độ tăng trưởng cung tiền phản ánh sự thay đổi của lượng tiền cung ứng trong quốc gia tại thời điểm hiện tại so với thời điểm trước đó Biến độ độc lập M2 được tính toán theo công thức sau:
M2 n : là chỉ số giá tiêu dùng bình quân của một tháng trong quý t n tương ứng là tháng tháng 1 tới tháng 12
Tác giả sử dụng tốc độ tăng trưởng trung bình cung tiền của 3 tháng trong 1 quý để đo lường tốc độ tăng trưởng của một quý Trong đó:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng quan chung về các công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
thị trường chứng khoán Việt Nam
Doanh nghiệp bán buôn là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu vào hoạt động mua hàng hóa với khối lượng từ một hay nhiều nhà sản xuất để dự trữ, phân loại, chia nhỏ và bán lại cho nhiều người bán lẻ với khối lượng nhỏ hơn Trong thời đại ngày nay khi nền kinh tế ngày một phát triển, ngành bán buôn giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bán buôn là một hình thức quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa Trong thị trường chứng khoán Việt Nam, thì ngành bán buôn cũng là một trong những ngành có lợi tức cổ phiếu hấp dẫn bởi tính ổn định của nó Tính đến thời điểm hiện tại thì ngành bán buôn gồm có 57 mã chứng khoán được niêm yết và giao dịch tại hai sàn chứng khoán lớn của Việt Nam: HNX (Hanoi Stock
Exchange – Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội) và HOSE (Hochiminh Stock
Exchange – Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh) Với các công ty cổ phần được niêm yết trên sàn HNX yêu cầu vốn điều lệ là 30 tỷ đồng còn đối với sàn HOSE thì vốn điều lệ yêu cầu 120 tỷ đồng.
Thực trạng lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Biểu đồ 3.1 Diễn biến giá cổ phiếu thường trung bình ngành giai đoạn 2019 - 2023
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Thư viện ĐH Thăng Long
Biểu đồ 3.2 Diễn biến lợi tức cổ phiếu thường ngành bán buôn giai đoạn
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm đa dạng các sản phẩm, trong đó một số sản phẩm tiêu biểu như: bán buôn quần áo, vải và vật tư liên quan; bán buôn thực phẩm, tạp hóa và các sản phẩm có liên quan; bán buôn máy móc, thiết bị, vật tư hay bán buôn kim loại và khoáng sản (trừ dầu khí) Trong giai đoạn từ 2019 – 2023, tình hình nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid 19, kéo dài liên tục từ cuối năm 2019 đến hết năm 2021 đã tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại, dịch vụ Lệnh phong tỏa nội địa, quốc tế cũng đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc lưu thông hàng hóa cả trong và ngoài nước, ảnh hưởng trực tiếp tới nhóm ngành bán buôn và đặc biệt là tới lợi tức cổ phiếu thường của nhà đầu tư tại các công ty cổ phần thuộc nhóm ngành này Điều này được thể hiện rất rõ qua biểu đồ 3.1 Diễn biến giá cổ phiếu thường trung bình ngành giai đoạn 2019 – 2023
Nhìn vào biểu đồ 3.2 Diễn biến lợi tức cổ phiếu thường ngành bán buôn 2019 –
2023 có thể thấy giá cổ phiếu thường 2019 - 2020 toàn ngành biến động ở mức thấp, trung bình giá cổ phiếu giao động năm 2020 là 10.561,87 đồng/cổ phiếu giảm ở mức không đáng kể khoảng 9% so với năm 2019 là 11.589,66 đồng/cổ phiếu, theo đó thì lợi tức cổ phiếu thường toàn ngành cũng không có nhiều biến động ở giai đoạn này Trải qua một năm đầy khó khăn khi phải đối mặt với đại dịch, thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2021 đã phục hồi và có sự bứt phá mạnh mẽ trên toàn thị trường nói chung và nhóm ngành bán buôn nói riêng Nguyên nhân của sự tăng trưởng này là do lãi suất
37 trên thị trường giảm, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển sang đầu tư các loại tài sản sinh lời khác tiêu biểu là cổ phiếu Năm 2021, giá trị trung bình cổ phiếu thường toàn ngành bán buôn là 17.721,75 đồng/ cổ phiếu tăng mạnh mẽ so với năm trước đó, cùng với sự biến động giá cổ phiếu thường, lợi tức cổ phiếu thường trung bình cũng tăng cao đạt gần 25% Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho các nhà đầu tư Cho tới năm
2022, giá cổ phiếu thường trung bình toàn ngành có giảm nhẹ nhưng không đáng kể giao động ở mức 17.595,43 đồng/cổ phiếu, vẫn tiếp tục đà tăng kỷ lục từ năm 2021 Tuy nhiên tại thời điểm này, tỷ lệ lợi tức toàn ngành lại có xu hướng giảm mạnh xuống, giá cổ phiếu thường giảm dần khi càng về thời điểm cuối năm và tới quý 4/2022 thì mức giá cổ phiếu thường trung bình toàn ngành chỉ đạt 13.018 đồng/cổ phiếu Nguyên nhân xuất phát từ tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trước những bất ổn và triển vọng kém tích cực về kinh tế - chính trị thế giới và có sự đồng pha với diễn biến trên TTCK thế giới Bên cạch đó, thời điểm này đã xuất hiện một số vụ việc và biểu hiện không an toàn trên thị trường cổ phiếu và trái phiếu, như thao túng thị trường, che giấu thông tin, trục lợi, cũng là các yếu tố ảnh hưởng mạnh tới diễn biến của TTCK Tại thời điểm năm 2023, nền kinh tế dần mở cửa trở lại sau hai năm ứng phó với dịch bệnh, giá cổ phiếu thường trung bình trên thị trường trong 2 quý đầu năm là khoảng 12.527 đồng/cổ phiếu, lợi tức cổ phiếu thường có xu hướng tăng dần ở mức khoảng 2,43% tính đến hết thời điểm quý 2/2023 Trên đây là những đánh giá chung về nhóm ngành bán buôn cũng như diễn biến biến đổi lợi tức cổ phiếu thường chung của các công ty trong giai đoạn từ năm 2019 tới hết quý 2/2023 Từ đánh giá thực trạng chung, Tác giả có cái nhìn chung nhất về xu hướng phát triển của nhóm ngành bán buôn để từ đó có đánh giá chi tiết hơn về tình hình biến động lợi tức cổ phiếu thường của các CTCP nhóm ngành bán buôn niêm yết trên TTCK Việt Nam
Thư viện ĐH Thăng Long
3.2.1 Thực trạng lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2019
Biểu đồ 3.3 Diễn biến lợi tức cổ phiếu thường ngành bán buôn năm 2019
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Nhìn chung năm 2019 là một năm đầy biến động của thị trường tài chính toàn cầu, nhưng lại là khoảng thời gian khá trầm đối với chứng khoán Việt Nam nói chung và đối với nhóm ngành bán buôn nói riêng Theo dữ liệu đã thu thập, Tác giả tính toán được lợi tức cổ phiếu thường trung bình toàn ngành năm 2019 là -0,41% Trong số đó có 25 mã chứng khoán có giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình nhỏ hơn giá trị trung bình toàn ngành, 25 mã cổ phiếu này tập trung vào các mã chứng khoán của các công ty có quy mô nhỏ và của các công ty có quy mô vừa phải (vốn hóa ở mức trung bình từ 1,000 tỷ đồng đến 10,000 tỷ đồng) Mã chứng khoán có giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình nhỏ nhất là TDG của CTCP Đầu tư TDG GLOBAL với giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình năm 2019 là -18,58% Từ quý 1 tới quý 4, TDG vẫn thuộc mã chứng khoán có giá trị lợi tức cổ phiếu thường nhỏ nhất toàn ngành Trong năm 2019, giá đóng cửa trung bình trong quý của doanh nghiệp ở mức rất thấp chỉ khoảng 2.225,24 đồng/cổ phiếu Nguyên nhân là do lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp giảm mạnh so với năm 2018 do chi phí doanh nghiệp lớn, doanh thu chỉ đủ bù đắp các khoản chi phí nên lợi nhuận khá ít, lãi cơ bản trên cổ phiếu giảm từ 1.075,31 đồng xuống chỉ còn 217,41 đồng Hơn nữa năm 2019, tình hình thế giới đầy những biến động phức tạp: Nền kinh tế toàn cầu suy thoái được hồi phục chậm chạp, mâu thuẫn giữa giữa các nước lớn, sự cạnh tranh giữa các nước sản xuất và tiêu thụ dầu khí
39 lớn tăng cường, kéo theo an ninh chính trị - quân sự trên hầu hết các châu lục không bình thường Trước tình hình này, dầu khí là loại hàng hóa chiến lược nên bị ảnh hưởng không nhỏ, giá hàng hóa bị đẩy cao tạo áp lực lớn với các doanh nghiệp kinh doanh dầu khí nói chung và với TDG nói riêng CTCP Vật tư Kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ (TSC) là công ty có giá trị trung bình lợi tức cổ phiếu thường cao nhất toàn ngành năm 2019, đạt 21,29% với mức giá trị trung bình của cổ phiếu thường là 1929,01 đồng/cổ phiếu Mặc dù đây không phải mã chứng khoáng có giá trị cổ phiếu thường cao, nhưng đây là mã chứng khoán có tốc độ tăng trưởng tốt nhất tại thời điểm năm 2019, công ty có mức giá cổ phiếu thường tăng trưởng tăng dần qua các quý từ quý 1 tới quý 4 Do đó, ảnh hưởng tích cực tới lợi tức cổ phiếu thường của công ty Nhìn chung, tình hình lợi tức cổ phiếu thường năm 2019 của các CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn đều không có quá nhiều biến động và nổi bật
3.2.2 Thực trạng lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2020
Biểu đồ 3.2 cho thấy năm 2020 giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình của cổ phiếu toàn ngành tăng so với năm 2019 Cụ thể giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình của toàn ngành trong năm 2020 là 2,06%, tăng 2,47% so với năm 2019 Mặc dù đây là giai đoạn nền kinh tế bắt đầu chịu sự ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid
19 Các hoạt động mua bán, sản xuất và lưu thông hàng hóa của các CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn gặp nhiều khó khăn TTCK Việt Nam bước vào năm 2020 đầy suôn sẻ, các nhóm cổ phiếu thường đồng loạt tăng trong tháng 1, nhưng dịch bệnh Covid đã xuất hiện và trở nên nghiêm trọng hơn, thị trường chứng khoán Việt Nam lao dốc ngay sau đó Nhận thấy tình hình này, chính phủ đưa ra những gói kích thích kinh tế, bơm tiền ra nền kinh tế, thị trường chứng khoán dần hồi phục từ quý 2/2020 Lợi tức cổ phiếu thường nhóm ngành bán buôn tăng dần về thời điểm cuối năm, cụ thể tại quý 1/2020 lợi tức chỉ đạt -5,61% nhưng sang quý 2 đã có sự cải thiện, lợi tức cổ phiếu thường quý 2 đạt -2,72% cho tới quý 3 lợi tức cổ phiếu thường tăng trưởng dương đạt 4,9% và quý 4 là 11,68%
Thư viện ĐH Thăng Long
Biểu đồ 3.4 Diễn biến lợi tức cổ phiếu thường ngành bán buôn năm 2020
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Biểu đồ 3.4 cho thấy khoảng 50% các CTCP ngành bán buôn niêm yết trên TTCK trong năm 2020 có giá trị lợi tức cổ phiếu thường thấp hơn hơn giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình toàn ngành (25/47 công ty, chiếm khoảng 53,19% trong dữ liệu nghiên cứu), trong số này CTCP Tập đoàn Thành Nam (TNI) là công ty có giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình năm 2020 thấp nhất trong các công ty thuộc nhóm ngành bán buôn, chỉ khoảng -21,32% Năm 2020 là một năm đầy khó khăn cho các doanh nghiệp, các sản phẩm thép xây dựng ghi nhận giảm số lượng tiêu thụ do ảnh hưởng từ thị trường xây dựng trong nước bắt đầu diễn biến chậm từ năm 2019 Sang năm 2020, Covid-19 càng làm chậm sự phục hồi nguồn cung và tiến độ xây dựng các dự án bất động sản Doanh thu bán hàng và cung cấp của TNI năm 2020 giảm 20,37% so với năm 2019, giá vốn hàng bán cũng giảm 24,22% song các khoản doanh thu phải bù đắp khoản chi phí hoạt động tăng khá cao, doanh nghiệp phải trả chi phí lãi vay cao hơn so với năm 2019, dẫn tới lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp giảm mạnh khoảng 84,82% so với lợi nhuận sau thuế năm 2019 của công ty Doanh nghiệp có giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình cao nhất toàn ngành năm 2020 là CTCP Thế hệ số ( DGW), ở mức 32,03% Năm 2020, doanh thu thuần của DGW tăng 48% và lợi nhuận sau thuế tăng 50% Theo giải trình kết quả kinh doanh năm 2020 của công ty như sau: năm 2020, tổng doanh thu tăng mạnh 48% so với cùng kỳ năm trước với mạng máy tính xách tay và máy tính bảng tăng trưởng ấn tượng 46% nhờ nhu cầu làm việc và học tập tại nhà tăng cao do dịch bệnh Covid 19 Mảng điện thoại di động tăng trưởng 64%
41 nhờ sự tiếp tục gia tăng của thị phần Xiaomi và doanh thu từ việc phân phối các dòng Iphone của Apple Tuy chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid 19, mảng thiết bị văn phòng tăng trưởng ổn định 13% Năm 2020, doanh thu công ty đã đạt 123% kế hoạch
3.2.3 Thực trạng lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2021
Biểu đồ 3.5 Diễn biến lợi tức cổ phiếu thường ngành bán buôn năm 2021
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Giá trị trung bình của lợi tức cổ phiếu thường nhóm ngành bán buôn năm 2021 là 23,8% (biểu đồ 3.2) Năm 2021, có 27 mã chứng khoán có giá trị nhỏ hơn giá trị trung bình lợi tức cổ phiếu thường toàn ngành (chiếm khoảng 57,44% dữ liệu thu thập được) Giá trị lợi tức cổ phiếu thường trung bình nhỏ nhất toàn ngành là -7,94% thuộc về công ty CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt Mỹ (AMV) Năm 2021, theo báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Tổng cục Thống kê, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm Mặc dù có sự tăng trưởng của ngành nhưng AMV lại có sự tăng trưởng không cao Tổng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp giảm khoảng 9,6% so với năm 2020 Lãi cơ bản trên cổ phiếu thường của doanh nghiệp năm 2021 là 926 đồng/cổ phiếu, thấp hơn so với năm 2020 là 1592 đồng/cổ phiếu Mặc dù doanh nghiệp có sự tăng trưởng về bán hàng và cung cấp dịch vụ, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng nhưng lỗ lợi nhuận từ hoạt động khác nên lợi nhuận của công ty giảm Lợi tức cổ phiếu thường trung bình toàn ngành cao nhất là của công ty CTCP Công nghệ Viễn Thông Sài Gòn (SGT) Lợi nhuận sau thuế của
Thư viện ĐH Thăng Long
42 doanh nghiệp tăng cao từ 12.508.385.402 VND lên tới 68.276.045.666 VND, tăng gấp gần 4,5 lần Lãi cơ bản trên cổ phiếu thường tăng 754 đồng, năm 2021 là 923 đồng/cổ phiếu Có thể nói, năm 2021 là một năm thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh mạng, máy tính, điện tử do nhu cầu sử dụng làm việc và học tập tại nhà của người dân tăng cao do đại dịch Covid 19 kéo dài
3.2.4 Thực trạng lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2022
Biểu đồ 3.2 cho thấy giá trị trung bình lợi tức cổ phiếu thường năm 2022 giảm mạnh, chỉ còn ở mức -13.28% Nguyên nhân xuất phát từ tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trước những bất ổn và triển vọng kém tích cực về kinh tế - chính trị thế giới và có sự đồng pha với diễn biến trên TTCK thế giới Bên cạch đó, thời điểm này đã xuất hiện một số vụ việc và biểu hiện không an toàn trên TTCK nên đã tác động mạnh tới diễn biến của TTCK
Biểu đồ 3.6 Diễn biến lợi tức cổ phiếu thường ngành bán buôn năm 2022
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Biểu đồ 3.6 cho thấy đa số các CTCP nhóm ngành bán buôn niêm yết trên TTCK Việt Nam năm 2022 có giá trị lợi tức cổ phiếu thường khá thấp, hầu hết các giá trị đều âm Trong đó, có 22 mã cổ phiếu nhỏ hơn mức lợi tức cổ phiếu thường trung bình ngành Mã cổ phiếu có mức lợi tức cổ phiếu thường thấp nhất năm 2022 là KLF của CTCP Đầu tư Thương mại và Xuất nhập khẩu CFS với mức giá cổ phiếu trung bình năm 2022 chỉ khoảng 3621 đồng/cổ phiếu Nguyên nhân là do giá cổ phiếu thường của công ty giảm mạnh, cho tới quý 4/2020 thì giá cổ phiếu thường của công ty chỉ dao
43 động ở mức 897 đồng/cổ phiếu Theo giải trình báo cáo tài chính thì lợi nhuận sau thuế quý 4/2020 lỗ 74,27 tỷ đồng giảm 3,73% so với cùng kỳ năm 2021, nguyên nhân chủ yếu do Công ty lập bổ sung quỹ dự phòng của một số khoản nợ phải thu Tiếp tục đà tăng trưởng như năm 2021, mã DGW của CTCP Thế Giới Số tiếp tục là mã có mức lợi tức cổ phiếu thường cao nhất toàn ngành năm 2022, bằng 32,03%
3.2.5 Thực trạng lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nửa đầu 2023
Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường của công ty cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 44 1 Thực trạng của khả năng sinh lợi
cổ phần nhóm ngành bán buôn niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
3.3.1 Thực trạng của khả năng sinh lợi
Biểu đồ 3.8 Diễn biến ROS ngành bán buôn giai đoạn 2019 – 2023
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Biểu đồ 3.8 Diễn biến ROS ngành bán buôn giai đoạn 2019 – 2023 cho thấy giá trị trung bình của khả năng sinh lời trên doanh thu qua các năm từ 2019 tới 2023 có khá nhiều biến động Cụ thể giai đoạn năm 2019, ROS trung bình của các CTCP nhóm ngành bán buôn là 4,73%, năm 2020 là 4,1% Sau đó tăng trưởng khá tốt vào năm
2021 và năm 2022, ROS lần lượt năm 2021 là 6,16% và năm 2022 là 10,92% Nhưng cho tới năm 2023, trong 6 tháng đầu năm, giá trị sụt giảm xuống chỉ còn -2,08% Để phân tích sự biến động của ROS, Tác giả đi vào phân tích chi tiết từng năm:
Bảng 3.1 Biến động giá trị ROS giai đoạn từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2023
Thời gian Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Nửa đầu năm 2023
Số lượng công ty có ROS < GTTB 30 34 31 34 6
Số lượng công ty có ROS > GTTB 11 7 10 7 35
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Bảng 3.1 Biến động giá trị ROS qua các năm cho thấy trong cả 4 năm từ 2019 đến năm 2022, đa số các CTCP nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam đều có giá trị ROS nhỏ hơn giá trị trung bình toàn ngành, tuy nhiên đến năm
2023, trong 6 tháng đầu năm, số lượng các công ty có ROS nhỏ hơn giá trị ROS trung bình ngành lại giảm hơn hẳn, ngược lại với 4 năm trước đó, chỉ có 6 công ty có ROS nhỏ hơn giá trị ROS trung bình ngành và có tới 35 công ty có ROS lớn hơn giá trị ROS trung bình Đầu tiên là giai đoạn 2019 – 2022, qua biểu đồ 3.8 có thể thấy giá trị ROS của các năm này đều dương và có xu hướng tăng từ 2019 tới 2022 ROS là chỉ số phản ánh lợi nhuận trên doanh thu, khi giá trị trung bình ROS dương cũng thể hiện rằng đa số doanh nghiệp có lời, thuận lợi trong việc kinh doanh, đầu tư và cung cấp hàng hóa dịch vụ Mặc dù không có quá nhiều công ty có ROS lớn hơn giá trị ROS trung bình ngành nhưng đa phần các doanh nghiệp có ROS lớn hơn 0 Một số công ty có ROS âm, chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành xuất nhập khẩu, thương mại và ngành thép Dịch bệnh bắt đầu bùng nổ vào cuối năm 2019 và lan rộng vào năm 2020 đến năm 2021, do đó các doanh thu sụt giảm do khó khăn trong lưu thông hàng hóa của các doanh nghiệp trên
Thư viện ĐH Thăng Long
46 Biểu đồ 3.9 Lợi tức cổ phiếu thường và ROS giai đoạn 2019 – 2023
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Biểu đồ 3.9 Lợi tức cổ phiếu thường và ROS giai đoạn 2019 – 2023 cho thấy mối quan hệ giữa lợi tức cổ phiếu thường của các CTCP nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam và khả năng sinh lời trên doanh thu (ROS) đa số có mối quan hệ cùng chiều Nhưng trong một vài giai đoạn thì mối quan hệ này chưa được thể hiện quá rõ Phần lớn các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành bán buôn sẽ có biến động giống như sự biến động của CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt Mỹ (HAT) Năm 2019, chỉ số ROS trung bình của HAT là 1,07% với mức lợi tức cổ phiếu thường là -4,3% Cho tới năm 2020, ROS trung bình của HAT là -0,99% với mức lợi tức cổ phiếu thường là -6,75%, giảm so với năm 2019 2,45% Chỉ số ROS của HAT năm 2021 là -0,43%, lợi tức cổ phiếu thường giai đoạn này là - 2,84%, tăng so với năm 2020 Năm 2022, chỉ số ROS của HAT tăng lên 1,02% với lợi tức cũng tăng 1,46%, tăng cùng chiều so với tốc độ tăng của ROS Và tới 6 tháng đầu
Thư viện ĐH Thăng Long
48 năm 2023, chỉ số ROS tăng 1,52%, tăng 0,5% thì lợi tức cổ phiếu thường của công ty cũng tăng mạnh tới 11,72%
Tóm lại, thông qua dữ liệu đã thu thập về khả năng sinh lời trên doanh thu ROS và lợi tức cổ phiếu thường của CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam giai đoạn từ năm 2019 đến quý 2 năm 2023, Tác giả thấy rằng mối quan hệ giữ khả năng sinh lời ROS và lợi tức cổ phiếu thường của doanh nghiệp thuộc nhóm ngành bán buôn là mối quan hệ cùng chiều Tuy nhiên, đây mới là những phân tích về mặt thống kê mô tả, để chứng minh ROS có ảnh hưởng đến lợi tức cổ phiếu thường và ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực thì cần ước lượng hồi quy và kiểm định dựa trên cơ sở mô hình hồi quy ước lượng được Nội dung này sẽ được Tác giả phân tích trong phần 3.4.Kết quả hồi quy
Biểu đồ 3.10 Diễn biến ROA ngành bán buôn giai đoạn 2019 – 2023
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Biểu đồ 3.10 Diễn biến ROA ngành bán buôn giai đoạn 2019-2023 cho thấy diễn biến của giá trị trung bình ROA, tức là khả năng sinh lời trên tài sản của các CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam thay đổi qua các năm từ năm 2019 cho tới nửa năm đầu 2023 Nhìn chung, ROA của 5 giai đoạn đều dương, cho thấy đa số các doanh nghiệp thuộc ngành bán buôn đều có lợi nhuận từ việc đầu tư tài sản Trong đó, năm 2019 là năm giá trị ROA trung bình toàn ngành cao nhất với ROA bằng 1,22% và năm 2023, trong 6 tháng đầu năm, ROA trung bình toàn
49 ngành thấp nhất và bằng 0,32% Để phân tích sự biến động, Tác giả đi phân tích chi tiết từng năm như sau:
Bảng 3.2 Biến động giá trị ROA qua các năm từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2023
Thời gian Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Nửa đầu năm 2023
Số lượng công ty có ROA < GTTB 27 27 26 27 26
Số lượng công ty có ROA > GTTB 14 14 15 14 15
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Bảng 3.2 Biến động giá trị ROS qua các năm từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm
2023 cho thấy sự biến động của số lượng mã chứng khoán các CTCP thuộc nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam có giá trị ROA cao hoặc thấp hơn so với ROA trung bình ngành Qua bảng biến động có thể thấy hầu hết số lượng công ty biến động thấp hoặc cao hơn trung bình ngành trong các khoảng thời gian đều khá giống nhau Số lượng công ty có ROA lớn hơn giá trị trung bình qua 5 năm từ
2019 tới 2023 đều dao động ở mức 14 – 15 công ty, và số lượng công ty có ROA nhỏ hơn trung bình ngành qua 5 giai đoạn đều ở mức 26 - 27 công ty Năm 2019, toàn ngành có 3 công ty có ROA âm, trong đó CTCP Xuất nhập khẩu Quảng Bình (QBS) có giá trị ROA thấp nhất, chỉ khoảng -2,25% Nguyên nhân là do lợi nhuận sau thuế của công ty giảm mạnh, tại quý 1 là 4849 triệu đồng và giảm dần cho tới quý 4 là - 41.722 triệu đồng Tổng tài sản của doanh nghiệp cũng có xu hướng giảm dần qua 4 quý, song do lợi nhuận thu được quá thấp, hoạt động kinh doanh không có hiệu quả nên ROA giảm mạnh Mã cố phiếu có ROA cao nhất trong năm 2019 là AMV của CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt Mỹ Qua 4 quý năm
2019, nhìn chung ROA của AMV tăng trưởng đều, cao nhất là quý 4/2019 với ROA là 14,21% Năm 2020, ROA trung bình toàn ngành là 0,73%, có 27 doanh nghiệp có ROA thấp hơn giá trị trung bình và 14 doanh nghiệp có ROA cao hơn giá trị trung bình Trong đó, toàn ngành cũng chỉ có 3 doanh nghiệp có giá trị ROA âm, thấp nhất là CTCP Thiết bị Phụ tùng Sài Gòn (SMA) Nguyên nhân là do ngành sản xuất kinh
Thư viện ĐH Thăng Long
50 doanh chính của công ty là sản xuất điện năng, là ngành sản xuất chủ yếu dựa vào biến đổi khí hậu và thời tiết Năm 2020, lưu lượng nước về hồ rất thấp, thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nước phát diện dẫn đến sản lượng điện và doanh thu thấp, do vậy lợi nhuận sau thuế giảm mạnh CTCP Vinam (CVN) là doanh nghiệp có ROA cao nhất năm 2020 với mức giá trị ROA bằng 4,23% Nhìn chung, qua 4 quý năm 2020, ROA của CVN đều tăng trưởng khá tốt do tổng tài sản, tổng doanh thu và lợi nhuận đều tăng trưởng tốt ROA trung bình ngành năm 2021 là 1,02%, trong đó 15 mã chứng khoán có ROA lớn hơn trung bình ngành và 26 mã có ROA nhỏ hơn trung bình ngành Toàn ngành vẫn chỉ có 3 doanh nghiệp có ROA âm, thấp nhất là PIT của CTCP Xuất nhập khẩu Petrolimex Năm 2021 doanh thu công ty tăng so với cùng kỳ năm 2020 do sản lượng xuất khẩu tốt hơn Tuy nhiên do phải trích lập dự phòng công nợ phải thu quá hạn và dự phòng giảm giá đầu tư tài chính theo quy định nên kết quả kinh doanh năm
2021 của công ty bị lỗ và giảm quá 10% so với năm trước đó Mã cổ phiếu có ROA cao nhất năm 2021 thuộc về DGW của CTCP Thế Giới Số với giá trị ROA bằng 4,02% Do tình hình dịch bệnh kéo dài, nhu cầu làm việc và học tập tại nhà tăng cao, người dân có nhu cầu sử dụng máy tính, điện thoại nhiều hơn cho nên doanh nghiệp cung ứng nhiều sản phẩm ra thị trường hơn Vì vây, doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng khá cao dẫn tới giá trị ROA cũng cao Năm 2022, ROA trung bình ngành bán buôn có giá trị bằng 0,83% Trong đó, số lượng doanh nghiệp có ROA lớn hơn trung bình ngành là 15 doanh nghiệp, 26 doanh nghiệp còn lại có ROA nhỏ hơn giá trị trung bình ngành CTCP Đầu tư Thương mại SMC (SMC) là công ty có ROA thấp nhất toàn ngành, chỉ khoảng -1,58% Năm 2022, SMC có nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh không thuận lợi Nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận giảm mạnh là do tác động từ việc giá thép giảm liên tục và kéo dài trong khi nhu cầu tiêu thụ chậm, nhiều mặt hàng kinh doanh dưới giá vốn làm cho biên độ lãi gộp giảm mạnh Năm 2022, ST8 của CTCP Đầu tư phát triển ST8 là mã cổ phiếu có ROA cao nhất toàn ngành Doanh thu thuần của ST8 năm 2022 tăng trưởng mạnh, tăng xấp xỉ 36% so với năm 2021, lợi nhuận sau thuế cũng tăng mạnh gấp đến 12 lần năm 2021, tài sản của doanh nghiệp cũng tăng nhẹ khoảng 10% so với năm 2021 Năm 2023 trong 6 tháng đầu năm, ROA trung bình của ngành bán buôn là 0,32%, giá trị này đã bị sụt giảm so với 4 năm trước Điều này có thể đánh giá rằng khả năng sinh lời của các công ty đối với tài sản sụt giảm Trong nửa năm 2023, toàn ngành có 7 doanh nghiệp có ROA âm Theo dữ liệu
51 đã thu thập, mã cổ phiếu có ROA thấp nhất là SMC của CTCP Đầu tư Thương mại SMC với giá trị ROA là -2,3% Nguyên nhân là bởi trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình kinh doanh của công ty tiếp tục chịu sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế vĩ mô, tình hình chính trị, cụ thể như sau: Thị trường bất động sản đóng băng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp khó khăn, lãi suất tăng cao, và thị trường dân dựng sức mua yếu trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng chậm nên nhu cầu thép trong nước giảm sút đáng kể; Tình hình chính trị thế giới vẫn chưa ổn định nên dẫn tới sản lượng xuất khẩu cũng không cao Bên cạnh đó, các chi phí quản lý của doanh nghiệp tăng do phải trích lập dự phòng nên mặc dù công ty đã tiến hành nhiều chính sách, biện pháp nhằm tiết kiệm, hợp lý sản xuất, tổng tài sản của công ty cũng giảm 9,32% so với cùng kỳ năm
2022 nhưng ROA của doanh nghiệp vẫn âm Mã cổ phiếu có ROA cao nhất toàn ngành 6 tháng đầu năm 2023 là HAT của CTCP Thương mại Bia Hà Nội với giá trị ROA bằng 3,13% Sự tăng trưởng này là do sự dần hồi phụ của nên kinh tế sau đại dịch Covid 19 Hơn nữa, tại Việt Nam nhu cầu của người tiêu khá cao nên doanh thu của các công ty tăng mạnh
Thư viện ĐH Thăng Long
52 Biểu đồ 3.11 Lợi tức cổ phiếu thường và ROA giai đoạn 2019 – 2023
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán dựa trên số liệu công bố)
Biểu đồ 3.11 cho thấy mối quan hệ giữa lợi tức cổ phiếu thường của các CTCP nhóm ngành bán buôn được niêm yết trên TTCK Việt Nam với khả năng sinh lời trên tài sản ROA đa số là mối quan hệ cùng chiều Phần lớn các doanh nghiệp đều có sự biến động giống như sự biến động của SGT Năm 2019, khả năng thanh toán trên tài sản ROA trung bình của SGT là 0,15% và giá trị lợi tức cổ phiếu thường bằng 3,21% Tới năm 2020, chỉ số ROA trung bình của SGT giảm còn 0,13% với mức lợi tức cổ phiếu thường giảm còn -8,29% Tới năm 2021, khi nền kinh tế dần phục hồi, doanh nghiệp có những ảnh hưởng tích cực, chỉ số ROA của SGT tăng lên 0,45%, đồng thời lợi tức cổ phiếu thường tăng mạnh lên 87.13% Chỉ số ROA của SGT năm 2022 là 0,64%, tăng 0,19% so với năm 2021 nhưng lợi tức cổ phiếu thường lại giảm mạnh - 18,22% Năm 2023, chỉ số ROA tiếp tục giảm còn 0,19% nhưng lợi tức cổ phiếu thường trung bình lại tăng 1,39% Như vậy, có thể thấy đa số lợi tức cổ phiếu thường sẽ biến động cùng chiều với ROA nhưng trong một số các giai đoạn sự biến đồng này không được thể hiện rõ
Thư viện ĐH Thăng Long