Buick Motor Company 1916 10 trở thành phán quyết mang tính lịch sử mà theo đó, nhà sản xuất các sản phẩm có khuyết tật thuộc loại “nguy hiểm từ trong nội tại” inherently dangerous sẽ ph
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ANH NGỌC
CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Hà Nội – 2020
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ANH NGỌC
CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Phương Châm
Hà Nội – 2020
Trang 33
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận này là nghiên cứu của riêng tôi Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Anh Ngọc
Trang 44
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 3
MỤC LỤC 4
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM 9
1.1 Lịch sử phát triển của trách nhiệm sản phẩm 9
1.2 Một số khái niệm cơ bản 13
1.2.1 Sản phẩm 13
1.2.2 Sản phẩm khuyết tật 16
1.2.3 Trách nhiệm sản phẩm 18
1.2.4 Luật trách nhiệm sản phẩm 20
1.3 Các nguyên lý cơ bản của trách nhiệm sản phẩm 21
1.3.1 Học thuyết về sự bất cẩn 21
1.3.2 Học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm 23
1.3.3 Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt 25
1.4 Bồi thường thiệt hại 28
1.5 Miễn trừ trách nhiệm liên quan đến sản phẩm khuyết tật 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31
2.1 Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm 31
2.2 Hậu quả pháp lý do vi phạm luật trách nhiệm sản phẩm 37
2.2.1 Quy định về thu hồi hàng hóa có khuyết tật 37
2.2.2 Quy định về điều kiện cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra 39
2.2.3 Quy định về miễn bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra 43
2.3 Các cơ chế hiện hành giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm sản phẩm 44
2.4 Vướng mắc, tồn tại trong pháp luật thực định về trách nhiệm sản phẩm 49
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM Ở VIỆT NAM 50
3.1 Nhu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam 50
3.2 Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam 53
Trang 55
3.2.1 Xác định học thuyết “Trách nhiệm nghiêm ngặt” làm nguyên lý cơ bản trong pháp luật
trách nhiệm sản phẩm Việt Nam 53
3.2.2 Hoàn thiện khái niệm sản phẩm trong pháp luật trách nhiệm sản phẩm Việt Nam 57
3.2.3 Giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản pháp luật liên quan 60
KẾT LUẬN 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
Trang 66
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, do để cạnh tranh, do để chiếm lĩnh thị phần hoặc do lợi nhuận, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tung ra thị trường những sản phẩm có chất lượng thấp với giá rẻ mà không tính đến tác hại của chúng đối với người tiêu dùng Nhiều doanh nghiệp đã dùng tới biện pháp cạnh tranh không lành mạnh bằng việc sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng không đảm bảo độ an toàn cho người tiêu dùng nhằm thu lợi nhuận, gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong đó có thiệt hại về sức khoẻ, thậm chí cả tính mạng
Hơn nữa, với việc là thành viên của WTO, ký kết các Hiệp định CPTPP, EVFTA, Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, một kỷ nguyên mới với nhiều cơ hội và thách thức Với các doanh nghiệp, đó chính là cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn Tuy nhiên đi đôi với cơ hội là thách thức Các doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu sâu sắc và tuân thủ nghiêm ngặt các quy chế quốc tế như tiêu chuẩn chát lượng, vệ sinh an toàn thực phàm, trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất, nhà xuất khấu, vấn đề đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng Các nước càng phát triển và thị trường càng hấp dẫn thì họ càng quan tâm đến các vấn đề nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và bản thân người tiêu dùng ở những thị trường phát triển đó cũng rát kỹ tính và khắt khe trong việc lựa chọn sản phẩm
Trong bối cảnh đó, hoàn thiện các các quy định pháp luật, trong đó có các quy định về trách nhiệm sản phẩm để bảo vệ người tiêu dùng trở thành yêu cầu có tính chất
thường trực với Việt Nam Chính vì vậy, tôi đã chọn vấn đề "Các quy định về trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt Nam" làm đề tài khóa luận của mình
2 Tình hình nghiên cứu
Dù là một đề tài nghiên cứu còn mới mẻ, nhưng đã có các bài báo, khóa luận nghiên cứu về đề tài trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này thường chỉ đánh giá trách nhiệm sản phẩm ở một góc độ nhất định mà
Trang 77
chưa có sự đánh giá toàn diện, nhất là thực tiễn các quy định về trách nhiệm sản phẩm
ở Việt Nam hiện tại Có thể đề cập đến một số sách chuyên khảo, bài tạp chí có viết về trách nhiệm sản phẩm như: Lê Hồng Hạnh, Trương Hồng Quang (2010), “Các nguyên
lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ và một số quốc gia trên thế giới”, Nguyễn Minh Thư (2013), “Kiến nghị xây dựng khái niệm sản phẩm trong luật trách nhiệm sản phẩm Việt Nam”, Ngô Thu Trang (2016),”Chế định trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Nguyễn Thị Tường Vi (2009), Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Cộng đồng Châu Âu và Việt Nam (Khoá luận tốt nghiệp)…
3 Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Bởi pháp luật Việt Nam còn quy định về trách nhiệm sản phẩm một cách rải rác
và thiếu liên kết, mục đích của khóa luận này là nhằm đề xuất hướng hoàn thiện quy định về trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt Nam Khóa luận sẽ nghiên lý thuyết tổng quan về trách nhiệm sản phẩm, về thực tiễn pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam để làm cơ sở cho đề xuất của mình
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đặt ra một số nhiệm vụ như sau: (i) Làm rõ lý thuyết tổng quan về chế định trách nhiệm sản phẩm trên các khía cạnh: lịch sử hình thành, các khái niệm chung, nguyên lý nền tảng;
(ii) Làm rõ quy định của pháp luật Việt Nam hiện tại về trách nhiệm sản phẩm; (iii) Các kiến nghị hoàn thiện quy định về trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khóa luận nghiên cứu một cách tổng quát lý luận về trách nhiệm sản phẩm, thực tiễn pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam để đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam, qua
đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
5 Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trang 88
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp lịch sử, phương pháp luật học so sánh, phương pháp tổng hợp nhằm giải quyết vấn đề một cách hợp lý và rõ ràng nhất
6 Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của khóa luận bao gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tổng quan về trách nhiệm sản phẩm
Chương 2: Thực trạng các quy định về trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam
Trang 99
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM
1.1 Lịch sử phát triển của trách nhiệm sản phẩm
Trách nhiệm sản phẩm là một vấn đề pháp lý được các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm, nhất là các nước phát triển, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và trật tự sản xuất, lưu thông hàng hóa trên thị trường một cách an toàn, lành mạnh Để có cơ sở pháp lý cho mục tiêu đó, rất nhiều nước đã xây dựng chế định trách nhiệm sản phẩm thành một đạo luật riêng hoặc xây dựng chế định này trong luật bảo vệ người tiêu dùng nhằm điều chỉnh tích cực vấn đề này Chế định pháp luật này được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ và sau đó được tiếp nhận bởi các quốc gia ở Châu
Âu (ở cấp độ Liên minh Châu Âu1 và quốc gia thuộc Liên minh2), ở Châu Á (Nhật Bản3, Hàn Quốc4, Trung Quốc5, các quốc gia ASEAN6) Nhà sản xuất, nhà phân phối hay nhà xuất khẩu nếu vi phạm các quy định của luật trách nhiệm sản phẩm thì sẽ phải hứng chịu những hậu quả rất nặng nề như thu hồi toàn bộ hàng hóa, đền bù thiệt hại và đặc biệt là người tiêu dùng sẽ mất lòng tin đối với sản phẩm của doanh nghiệp Và một khi doanh nghiệp đã có những tiền lệ bị kiện cáo liên quan đến trách nhiệm sản phẩm thì khó mà có thế được chấp nhận ở những thị trường này nữa
Quá trình hình thành pháp luật về trách nhiệm sản phẩm về căn bản xảy ra đồng thời với xu hướng suy yếu của học thuyết về tính quan hệ mật thiết của hợp đồng (The doctrine of Privity) hay còn gọi là quy tắc phải có quan hệ hợp đồng Theo học thuyết
về tính quan hệ mật thiết của hợp đồng, không thể trao quyền hay áp đặt nghĩa vụ theo hợp đồng cho bất kỳ chủ thể nào không phải là một bên của hợp đồng đó Tính quan hệ
1 Chỉ thị số 85/374/EEC ban hành ngày 25/7/1985 của Uỷ ban của EC để hài hoà hoá các quy định bắt buộc trong lĩnh vực pháp luật và hành chính của quốc gia thành viên về trách nhiệm của các sản phẩm bị khuyết tật
2 Cộng hoà Liên bang Đức đã ban hành Luật trách nhiệm sản phẩm năm 1989 với nhiều nội dung lấy từ các chỉ thị của EU về trách nhiệm sản phẩm; Vương quốc Tây Ban Nha ban hành Luật trách nhiệm sản phẩm số 22 ngày 06/04/1994; Vương quốc Hà Lan ban hành Luật trách nhiệm sản phẩm số 53 ngày 13/09/1990.vv
3 Luật trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản có hiệu lực vào tháng 7 năm 1995
4 Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc ban hành năm 2000
Trang 1010
mật thiết của hợp đồng đưa đến một cách hiểu là chỉ có các bên trong quan hệ hợp đồng mới có thể kiện để yêu cầu thực thi quyền hay đòi bồi thường thiệt hại cho mình7
Với quan niệm của học thuyết tính quan hệ mật thiết của hợp đồng thì một người bị thiệt hại chỉ có thể kiện một người có hành vi bất cẩn nếu người đó mà là một bên trong giao dịch với người bị thiệt hại Như vậy, nghĩa vụ của một người phải có sự cẩn trọng hợp lý chỉ xuất phát từ hợp đồng và chỉ người nào cùng tham gia quan hệ hợp đồng đó mới có thể kiện vì sự vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng này Điều đó cũng
có nghĩa là khi một nhà sản xuất bất cẩn bán một sản phẩm cho một người kinh doanh bán lẻ và người kinh doanh bán lẻ đó lại bán sản phẩm cho khách hàng thì người sản xuất không phải chịu trách nhiệm gì cả8 Khách hàng khi đó không có bất kỳ biện pháp nào để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vì không phải người bán lẻ mà chính nhà sản xuất mới là người gây ra thiệt hại Đây là quan điểm được tái khẳng định trong án lệ
Torgeson v Schultz (1908) năm 1908 của Tòa Phúc thẩm New York9 Quan điểm ấy
phải đợi đến năm 1916, trong vụ MacPherson v Buick Motor Company, 216 N.Y 382 (1916) mới bị bãi bỏ
Phán quyết của vụ MacPherson v Buick Motor Company (1916) 10 trở thành
phán
quyết mang tính lịch sử mà theo đó, nhà sản xuất các sản phẩm có khuyết tật thuộc loại
“nguy hiểm từ trong nội tại” (inherently dangerous) sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường
đối với các thiệt hại mà người sử dụng sản phẩm đó phải gánh chịu ngay cả khi giữa người sử dụng sản phẩm và nhà sản xuất không có quan hệ hợp đồng trực tiếp Thuật
7 Jane Stapleton (1994), Product liability (Law in context), Cambrigde University Press, London, United
Trang 1111
ngữ “nguy hiểm từ trong nội tại” được giải thích theo nghĩa là đặc biệt nguy hiểm với
lý do xuất phát từ chính khuyết tật chứ không phải giải thích bằng chính sự nguy hiểm Chẳng hạn như cái giàn đỡ bị lỗi, hay một lọ cà phê gây nổ có thể được xem như là nguy hiểm từ trong nội tại Với phán quyết này, lần đầu tiên, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được pháp luật Hoa Kỳ coi là một nguồn để truy cứu trách nhiệm sản phẩm đối với nhà sản xuất11 Tuy nhiên, cơ sở để quy trách nhiệm trong vụ việc này là chế định bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn (lỗi vô ý) Nhà sản xuất đã có lỗi không kiểm tra về khả năng chịu tải của sản phẩm (chiếc mô tô) khi chạy với tốc độ tối
đa cho phép và không đưa ra các cảnh báo cần thiết Với việc công nhận lý thuyết về
sự bất cẩn, vụ việc có tính ngoại lệ này được xem như là đã phá bỏ quy tắc về tính
quan hệ mật thiết của hợp đồng Án lệ MacPherson nhanh chóng trở thành một quy
định có tính dẫn dắt, và trong các vụ việc có xem xét về sự bất cẩn, thì quy tắc phải có quan hệ hợp đồng đã không còn được áp dụng Sự đồng cảm ngày càng tăng của công chúng đối với các nạn nhân của sự bất cẩn trong các ngành sản xuất cũng đóng góp vào
sự suy vong của quy tắc này
Từ những năm 1930 đến những năm 1960 tại Mỹ, các nhà luật gia và các luật sư đưa ra những quan điểm về việc áp dụng trách nhiệm sản phẩm mà không cần lỗi của nhà sản xuất12 hay còn gọi là trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt (strict liability) Một loạt các lý giải đã được đưa ra cho trách nhiệm nghiêm ngặt: sự bất cẩn thường rất khó
để chứng minh; trách nhiệm nghiêm ngặt có thể được hình thành do một loạt các hành động vi phạm nghĩa vụ đảm bảo; trách nhiệm nghiêm ngặt khuyến khích các nhà sản xuất tạo ra sự an toàn cần thiết đối với sản phẩm; các nhà sản xuất ở vị trí tốt nhất để hoặc là loại trừ tính gây hại, hoặc là bảo hiểm hoặc phân bổ chi phí rủi ro; nhà sản xuất
11
G.Edward White, “The Origins of Consumer Rights in Tort Law” trong John W Johnson (ed.) (2001), Historic U.S Court Cases: An Encyclopedia (2nd ed), New York: Routledge, pp 577-581
12 Nguyễn Thị Tường Vi (2009), Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Cộng đồng Châu Âu và Việt Nam, Khoá
luận tốt nghiệp, ĐH Luật Tp HCM, tr 9, 10
Trang 1212
một sản phẩm tạo ra niềm tin cho người tiêu dùng rằng sản phẩm là an toàn và cần
được gắn với sản phẩm
Phán quyết của tòa án tối cao bang California (Hoa Kỳ) về vụ Escola v Coca
Cola Bottling Co of Fresno, 24 Cal 2d 453, 150 P.2d 436 (1944) là phán quyết đầu
tiên cho loại trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt của nhà sản xuất Trong vụ kiện này,
nguyên đơn là một nữ bồi bàn, trong quá trình phục vụ thì vỏ chai Coca Cola phát nổ
làm nguyên đơn bị thương ở tay Trong quá trình tranh tụng, mặc dù nguyên đơn
không chứng minh được lỗi của công ty sản xuất vỏ chai trên, nhưng thẩm phán Roger
John Traynor cho rằng, bị đơn là người chịu trách nhiệm sản xuất và đưa ra thị trường
các loại vỏ chai đảm bảo an toàn cho người sử dụng, đồng thời cũng phải chịu trách
nhiệm đối với các khuyết tật xảy ra trong điều kiện thông thường mà bị đơn không thể
lường trước được13
Cuối cùng, vào năm 1963, trong vụ việc Greenman kiện Yuba Power Products,
Inc., 59 Cal 2d 57, 377 P.2d 89714, Toà án tối cao California đã khẳng định quy tắc về
trách nhiệm nghiêm ngặt đối với các sản phẩm có khuyết tật Trong một thời gian
ngắn, quy tắc về trách nhiệm nghiêm ngặt đã được thừa nhận và áp dụng rộng rãi ở
Hoa Kỳ
Đối với trách nhiệm bảo đảm, một sự giới hạn tương tự về việc phải có quan hệ
hợp đồng cũng được áp dụng, một phẩn bởi vì bảo đảm được xem là một phần không
tách rời của các hợp đồng bán hàng Bắt đầu vào đầu thế kỷ 20, một ngoại lệ của quy
tắc phải có quan hệ hợp đồng cũng đã hình thành với các vụ việc liên quan đến sản
phẩm tiêu dùng (thức ăn, đồ uống, thuốc) và cuối cùng là các sản phẩm sử dụng trực
tiếp cho cơ sở (ví dụ mỹ phẩm), và bảo đảm trong các vụ việc này được mở rộng đến
người sử dụng cuối cùng Trong các trường hợp mà có sự bảo đảm rõ ràng, chẳng hạn
như sự bảo đảm được tuyên bố đối với công chúng nói chung, thì yêu cầu phải có quan
13 Escola v Coca Cola Bottling Co of Fresno, 24 Cal 2d 453, 150 P.2d 436 (1944)
14 Greenman v Yuba Power Products, Inc, 59 Cal.2d 57, 377 P.2d 897 (1963)
Trang 1313
hệ hợp đồng đã được loại bỏ trong những năm 30 thế kỷ XX Chẳng hạn như một tuyên bố trong tài liệu kèm theo sản phẩm ô tô rằng kính chắn gió chống vỡ sẽ tạo thành một sự bảo đảm rõ ràng đối với người mua về việc kính chắn gió không thể vỡ15
Đối với sự bảo đảm ngầm định, việc mở rộng các ngoại lệ đối với quy tắc phải
có quan hệ hợp đồng không áp dụng đối với các sản phẩm không phải là thức ăn, đồ uống hay các sản phẩm tương tự cho tới khi có vụ việc Henningsen kiện Công ty ô
tô Bloomfield (32 N.J 358, 161 A.2d 69 (1960)) Trong vụ việc này, Toà án Tối cao
New Jersey đã bác bỏ ngoại lệ về sự hạn chế của yêu cầu phải có quan hệ hợp đồng và xác định rằng sự đảm bảo ngầm định sẽ là đảm bảo với người sử dụng hoặc tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm16 Quyết định Henningsen, với tác dụng làm vô hiệu các miễn
trách đối với đảm bảo ngầm định của nhà sản xuất, đã được học tập trong phần lớn các phán quyết toà án khác sau này
Có thể nhận định rằng Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn của pháp luật cũng như các lý thuyết về trách nhiệm sản phẩm Các lý thuyết này đã trở thành những luận điểm nền tảng, là cơ sở kiện đòi bồi thường thiệt hại trong các vụ án liên quan đến trách nhiệm sản phẩm Các quốc gia trên thế giới đã học hỏi, tiếp thu các quy định pháp luật Hoa Kỳ, góp phần đưa chế định trách nhiệm sản phẩm ngày càng lan tỏa mạnh mẽ ra khắp thế giới với những mức độ khác nhau
1.2 Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Sản phẩm
Khái niệm sản phẩm thể hiện sự quy định của mỗi nhà nước về trách nhiệm của nhà sản xuất kinh doanh và mức độ nghiêm khắc của pháp luật đối với họ Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia, danh mục các
15 Baxter v Ford Motor Co (1932) - 168 Wash 456, 12 P.2d 409 (1932)
16 Henningsen v Bloomfield Motors, Inc., 161 A.2d 69 (N.J 1960)
Trang 14vô hình như phát minh, sáng chế, nhãn hiệu thương mại…đều không được điều chỉnh bởi pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản Tuy nhiên, án lệ của Nhật lại có nhìn nhận khác Theo án lệ của Nhật thì hải sản tươi sống không qua chế biến cũng được xem là đối tượng điều chỉnh khi áp dụng Luật trách nhiệm sản phẩm
Cũng giống với Nhật Bản, nhưng Luật Trách nhiệm sản phẩm của Cộng hòa
Liên bang Đức định nghĩa một cách hoàn chỉnh hơn khi coi sản phẩm “bao gồm những động sản được sản xuất hoặc chế biến 19 ”
Theo Chỉ thị số 34/1999 về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu thì sản phẩm là mọi động sản kể cả động sản sáp nhập trong động sản hoặc bất động sản khác, sản phẩm bao gồm cả điện20 Như vậy, sản phẩm với tư cách là đối tượng điều chỉnh của Liên minh châu Âu mở rộng hơn quan điểm của Luật Trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản, xem xét sản phẩm trên góc độ đặc tính của chúng Động sản ở đây có thể
17
Nguyễn Minh Thư (2013), “Kiến nghị xây dựng khái niệm sản phẩm trong luật trách nhiệm sản phẩm Việt
Nam”, Tạp chí luật học, số 8/2013, tr 60
18 Khoản 1 Điều 2 Luật Trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản (Luật số 85 ban hành năm 1994)
19 Theo điều 2 điểm 2 luật Trách nhiệm sản phẩm của Cộng hòa Liên bang Đức (produkthaftungsgetz sửa đổi 2002)
20
Directive 1999/34/EC of the European Parliament and of the Council of 10 May 1999 amending Council Directive 85/374/EEC on the approximation of the laws, regulations and administrative provisions of the Member States concerning liability for defective products
Trang 15Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì: “sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng22” Theo quy định này thì sản phẩm sẽ bao gồm cả sản phẩm vô hình (dịch vụ) và sản phẩm hữu hình (hàng hóa) Song Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam lại không có quy định cụ thể về sản phẩm mà chỉ quy định về hàng hoá có khuyết tật
Từ đó, chúng ta có thể hiểu dưới góc độ quy định về trách nhiệm sản phẩm của Việt Nam, pháp luật mới chỉ đề cập sản phẩm là hàng hoá hữu hình Điều này thể hiện sự tương đồng với quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhiều quốc gia trên thế giới
Từ một số định nghĩa về sản phẩm trên, có thể xác định khái niệm sản phẩm do Luật Trách nhiệm sản phẩm của Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa là rõ ràng nhất
khi coi “sản phẩm bao gồm những động sản được sản xuất hoặc chế biến” 23 , tuy nhiên việc giải thích thế nào là sản xuất và chế biến thì phải hiểu như sau: “sản phẩm không phụ thuộc vào việc sản xuất theo dây chuyền công nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất
21
“Restatements 3rd Torts” (Luật Bồi thường thiệt hại, bản sửa đổi lần thứ 3) năm 1997 của Hoa Kỳ
22
Khoản 1, điều 3, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007
23 Theo điều 2 điểm 2 luật Trách nhiệm sản phẩm của Cộng hòa Liên bang Đức (produkthaftungsgetz sửa đổi 2002)
Trang 1616
thủ công những sản phẩm riêng lẻ 24 ” Cách hiểu này tương đồng với quy định của
pháp luật ở nhiều nước về sản phẩm đồng thời mang tính chất đặc thù của pháp luật trách nhiệm sản phẩm Ngoài ra, chỉ có duy nhất hai quốc gia như Philippines,Indonesia mở rộng khái niệm sản phẩm đối với các dịch vụ trong pháp luật về trách
nhiệm sản phẩm
1.2.2 Sản phẩm khuyết tật
Một sản phẩm tiêu dùng có khuyết tật có thể sẽ trở thành đối tượng của trách nhiệm sản phẩm Theo từ điển Black’s Law thì sản phẩm có khuyết tật được hiểu là sản phẩm gây ra sự thiếu an toàn (nguy hiểm) một cách bất hợp lý trong điều kiện sử dụng bình thường mà không đáp ứng được yêu cầu mà một người sử dụng mong đợi, không phù hợp với những tiêu chuẩn thiết kế ban đầu hoặc có lỗi kĩ thuật trong thiết kế, sản xuất sản phẩm25 Khuyết tật của sản phẩm có thường có 3 loại26:
Thứ nhất, khuyết tật do thiết kế (design defects): xảy ra khi sản phẩm được sản xuất theo đúng thiết kế, nhưng bản thân sản phẩm có những dấu hiệu có thể gây ra nguy hiểm bất hợp lý cho người sử dụng theo cách thức thông thường Những khuyết tật này là do trong quá trình thiết kế, nhà thiết kế, nhà sản xuất đã không lường trước được những nguy hiểm trong quá trình thiết kế hoặc không đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện an toàn thông thường cho một thiết kế của sản phẩm27
Các vụ tranh chấp về trách nhiệm sản phẩm có liên quan đến trường hợp khuyết tật trong thiết kế ngày nay xảy ra tương đối phổ biến chẳng hạn, các tác dụng phụ gây nguy hiểm của vacxin, các loại dược phẩm khác, các loại vải dễ cháy, rồi các vụ tranh chấp về dụng cụ, thiết bị điện tử gây nguy hại… Nói chung, khuyết tật trong thiết kế có thể xảy ra trong nhiều trường hợp mà việc thiết kế sản phẩm làm cho nó trở nên nguy hiểm một cách bất hợp
24 TS Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế”, Tạp chí Nhà nước
Trang 1717
lý và gây tai nạn cho người tiêu dùng theo cách thức thông thường Việc đánh giá những nguy hiểm do lỗi thiết kế của sản phẩm trong nhiều trường hợp là tương đối phức tạp
Thứ hai, khuyết tật do sản xuất (manufacturing defects): Khuyết tật trong giai đoạn sản xuất sản phẩm xuất hiện khi mà thành phẩm không tuân theo thiết kế dự kiến hoặc quy cách phẩm chất của nhà sản xuất đề ra Ví dụ, những sản phẩm có khuyết tật
do khi sản xuất đã sử dụng những vật liệu không đúng tiêu chuẩn, không tuân theo các thông số kĩ thuật đã thiết kế
Thứ ba, khuyết tật do không cảnh báo sự nguy hiểm, không cảnh báo sự an toàn (warrant defects): khuyết tật này thường xuất hiện trong giai đoạn chào bán, đưa sản phẩm vào quá trình tiêu dùng Theo đó nhà sản xuất, nhà phân phối đã không cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng về những nguy hiểm có thể xảy ra khi sử dụng sản phẩm28 Loại khuyết tật này xảy ra phổ biến ở các loại dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm… khi nhà sản xuất, nhà phân phối, người bán lẻ không chỉ dẫn cách sử dụng hoặc những tác động phụ của các loại sản phẩm trên
Còn theo Luật trách nhiệm sản phẩm của Nhật thì thuật ngữ "khuyết tật sàn phẩm" được định nghĩa như sau: “khuyết tật" có nghĩa là sự thiếu an toàn mà một sản phẩm bình thường cần có, bao gồm bản chất tự nhiên của sản phẩm, cách sử dụng có thế của sản phẩm, thời gian mà người sản xuất có thể đưa sản phẩm vào lưu thông trên thị trường phân phối sản phẩm, và những trường hợp khác liên quan đến sản phẩm Trên thực tế, mức độ của mỗi yếu tố là khác nhau và phụ thuộc vào từng tình huống cụ thế của sản phẩm, bao gồm các vấn đề như giới thiệu về sản phẩm (hướng dẫn sử dụng, những điều cần chú ý để sử dụng sản phẩm một cách an toàn), các tính năng, tác dụng của sản phẩm, chi phí mức độ an toàn của sản phẩm so với các sàn phẩm cùng một mức giá khả năng gây ra tốn thất và thời gian sử dụng sản phẩm trong điều kiện
28 Noel, Dix W (1969) "Products Defective because of Inadequate Directions or Warnings" Southwestern Law Journal 256(23), pp 260
Trang 1818
thông thường Thời gian này được hiểu là việc sử dụng sản phẩm phải đảm bảo an toàn cho người sử dụng kể từ khi sản phẩm đó được sản xuất và đưa vào lưu thông trên thị trường trong một khoảng thời gian nhất định do nhà sản xuất đưa ra29
khi xảy ra thiệt hại Vấn đề cơ bản của chế định này cần giải quyết là: khi xảy ra thiệt hại từ quá trình tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ đã được nhà sản xuất, nhà cung ứng sản phẩm, dịch vụ bán, thì ai sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý về thiệt hại đó (nhà sản xuất, nhà phân phối hay người tiêu dùng sản phẩm)?31
Ngoài ra, trách nhiệm sản phẩm là lĩnh vực pháp luật trong đó các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà cung cấp, nhà bán lẻ và những người khác cung cấp sản phẩm cho công chúng phải chịu trách nhiệm về những tổn thương mà các sản phẩm đó gây ra Mặc dù từ "sản phẩm" có ý nghĩa rộng, trách nhiệm sản phẩm là một lĩnh vực pháp luật được giới hạn theo truyền thống đối với các sản phẩm dưới dạng tài sản cá nhân hữu hình32
Với cách hiểu này, trách nhiệm sản phẩm có những đặc điểm sau33:
29 Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm ờ các nưắc phát triền”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 2/2008, tr 45
30 Bryan A Garner editor (2009), Black Law (Black’s Law Dictionary), Nxb Thomas Reuters, Mỹ, pp 1328
31 David G Owen, "Product Liability", trong Christopher Berry Gray (ed) (1999), The Philosophy of Law - An Encyclopedia, Vol II, K-Z, New York & London: Garland Publishing Inc, pp 689-691
32
Restatement (Third) of Torts (1997): Products Liability, pp 19
33
Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang (2004), “Một số vấn đề chung về chế định trách nhiệm sản phẩm
và vai trò của chế định này dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2004,
tr.25-34
Trang 1919
Thứ nhất, trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tức là một loại trách nhiệm dân sự đòi hỏi người có trách nhiệm phải bù đắp bằng một cách thức phù hợp đối với thiệt hại mà người khác phải gánh chịu, dựa trên những cơ
sở nhất định làm phát sinh trách nhiệm theo quy định của pháp luật
Thứ hai, chủ thể của trách nhiệm là người sản xuất hoặc người bán hàng, tức là phải là một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm hàng hoá đến tay người tiêu dùng Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với người tiêu dùng hoặc không có mối liên hệ trực tiếp Điều kiện cần để xác định một chủ thể có thuộc diện phải chịu trách nhiệm chỉ phụ thuộc vào việc người đó trực tiếp có mối liên hệ đối với sản phẩm mà người tiêu dùng đã sử dụng hay không Và mối liên hệ trực tiếp đối với sản phẩm có thể là một trong các hình thức sau: (i) là người sản xuất ra sản phẩm: người sản xuất ra sản phẩm bao gồm cả người sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh hoặc là người sản xuất ra một phần, một bộ phận trong sản phẩm hoàn chỉnh đó; (ii) là người thực hiện vai trò phân phối trung gian đối với sản phẩm hoặc (iii) là người cung cấp sản phẩm đến tay của người tiêu dùng Như vậy, về mặt nguyên tắc, trong bất kỳ trường hợp nào, đối với một sản phẩm xuất hiện trên thị trường luôn tồn tại chủ thể
phẩm này
Thứ ba, cơ sở để xác định trách nhiệm phát sinh trên thực tế là việc sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng nó: khuyết tật của sản phẩm là đặc điểm nhất định về thiết kế, chất liệu sử dụng, sự kết hợp giữa các bộ phận, thành phần hay cách thức sử dụng, vận hành… mà có khả năng gây ra thiệt hại cho người sử dụng nó trong điều kiện thông thường
Tuy nhiên, giống như bất kỳ chế định bồi thường thiệt hại nào, sự tồn tại thực tế của khuyết tật có thể sẽ không phát sinh trách nhiệm nếu như không có thiệt hại thực tế xảy ra Chỉ khi có một thiệt hại thực tế xảy ra và thiệt hại đó thực sự là do khuyết tật của sản phẩm gây ra thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phạm vi
Trang 2020
trách nhiệm cũng sẽ nằm trong phạm vi, mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế gây ra bởi khuyết tật của sản phẩm đó Như vậy, cơ sở xác định trách nhiệm phải bao gồm sự tồn tại của khuyết tật của sản phẩm, có thiệt hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra với khuyết tật của sản phẩm
Thứ tư, trách nhiệm sản phẩm là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Việc xác định trách nhiệm đối với sản phẩm không có bất kỳ đòi hỏi nào về việc giữa người bị thiệt hại và nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm phải tồn tại một quan hệ hợp đồng Như đã phân tích, mối liên hệ giữa người phải chịu trách nhiệm và người được xác định thông qua một sản phẩm mà người phải chịu trách nhiệm là người
sử dụng Trước kia do được điều chỉnh bởi học thuyết quan hệ mật thiết của hợp đồng, trách nhiệm sản phẩm chỉ phát sinh trong khuôn khổ của những hợp đồng cụ thể, nói cách khác chỉ có những bên có liên quan trong hợp đồng mới có thể kiện đòi bồi thường thiệt hại
Ngày nay, luật trách nhiệm sản phẩm đã phát triển quan điểm cho phép bất cứ ai
bị thiệt hại bởi một sản phẩm khuyết tật có thể dẫn đến trách nhiệm bồi thường do bất
kỳ bên nào trong chuỗi phân phối sản phẩm, có thể là nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà bán lẻ, thậm chí là người sản xuất một bộ phận linh kiện Với cách thức này, luật trách nhiệm sản phẩm góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng cũng như một chế độ sản xuất hàng hóa an toàn, lành mạnh
Trang 2121
1.3 Các nguyên lý cơ bản của trách nhiệm sản phẩm
Để xác định liệu nhà sản xuất hay người bán có phải chịu trách nhiệm đối với người tiêu dùng về các thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm gây ra hay không, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm dựa trên ba chuẩn pháp lý cơ bản là học thuyết về sự bất cẩn (negligence), học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm (warranty) và học thuyết
về trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability)34
1.3.1 Học thuyết về sự bất cẩn
Trong việc áp dụng trách nhiệm sản phẩm, học thuyết về sự bất cẩn được coi là một cơ sở quan trọng Sự bất cẩn (tắc trách) là việc nhà sản xuất không quan tâm ở mức độ cần thiết, tức là mức độ mà một nhà sản xuất hay cung ứng bình thường cần có khi sản xuất hay cung ứng sản phẩm của mình ở trong điều kiện và hoàn cảnh tại thời điểm sản xuất Để xác định việc nhà sản xuất, cung ứng có bất cẩn hay không, cần phải chứng minh được sự hiểu biết của bên gây thiệt hại về khả năng xảy ra thiệt hại Tuy nhiên, không phải bất cứ sự thiếu hiểu biết nào cũng tạo ra được cơ sở để miễn trách nhiệm Công thức: biết và cần phải biết luôn được áp dụng ở đây Ví dụ, nếu nhà sản xuất sữa sử dụng nguyên liệu từ những vùng bị dịch thì phải biết rằng sản phẩm của mình có thể tác động xấu đến sức khoẻ của người tiêu dùng35
Điểm quan trọng khác khi xác định trách nhiệm do bất cẩn là sự tồn tại của nghĩa
vụ quan tâm của người gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại Bên bị thiệt hại phải chứng minh được là giữa hai bên có một liên hệ về nghĩa vụ quan tâm Hai người không
có mối liên hệ nào với nhau thì không thể phát sinh nghĩa vụ Mối liên hệ nghĩa vụ này phát sinh căn cứ vào các tình huống cụ thể Điểm quan trọng tiếp theo trong việc xác
34
Lê Hồng Hạnh, Trương Hồng Quang (2010), “Các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại
Hoa Kỳ và một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 262(2), tr 35 – 42
35 Lê Hồng Hạnh (2010), Trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp - Công cụ pháp lí bảo vệ người tiêu dùng, Đề
tài cấp bộ - Viện khoa học pháp lí, Hà Nội, tr 198
Trang 2222
định trách nhiệm sản phẩm là việc người có sản phẩm vi phạm nghĩa vụ quan tâm đến sức khoẻ và tính mạng của người sử dụng sản phẩm Người bị thiệt hại phải chứng minh
được là người bán sản phẩm đã vi phạm nghĩa vụ của mình và chính sự vi phạm này đã làm phát sinh thiệt hại Trong chừng mực nhất định có thể áp dụng tương tự mối quan
hệ nhân quả được sử dụng rộng rãi trong các nước theo truyền thống luật dân sự khi xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Tóm lại, để có cơ sở cho việc khởi kiện dựa trên sự bất cẩn từ phía người sản xuất, người bị hại phải chứng minh được: (1) Nghĩa vụ của người sản xuất; (2) Sự vi phạm nghĩa vụ đó; (3) Thiệt hại; (4) Mối liên hệ giữa vi phạm đó với thiệt hại Học thuyết về sự bất cẩn là căn cứ để người tiêu dùng khởi kiện nhà sản xuất khi nhà sản xuất có lỗi36
Do đó, học thuyết về sự bất cẩn đặt gánh nặng chứng minh lên người tiêu dùng
vì rất khó có khả năng người tiêu dùng có thể chứng minh cả bốn yếu tố37 Nếu một sản phẩm có lỗi thiết kế và gây ra thương tích cho người tiêu dùng, người tiêu dùng phải chứng minh rằng hành vi của nhà sản xuất khi thiết kế ra sản phẩm là không hợp lý Đương nhiên, thông tin về việc nhà sản xuất thiết kế sản phẩm như thế nào lại nằm trong tay của nhà sản xuất, vì vậy rất khó cho người tiêu dùng để có thể có các thông tin này Chính sự bất cập trong thực hiện trách nhiệm chứng minh đã đưa đến việc hình thành học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt – một học thuyết đang có xu hướng chiếm ưu thế trong việc vận dụng chế định trách nhiệm sản phẩm ở các quốc gia
36
Digges, Edward S Jr and Billmyre, John G (1986) "Product Liability in Maryland: Traditional and Emerging
Theories of Recovery and Defense," University of Baltimore Law Review, Vol 16: Iss 1, Article 2, pp 24
37 Currie, David P (1977) "Thoughts on Directed Verdicts and Summary Judgments", The University of Chicago Law Review, 45 (1), pp 72–79
Trang 2323
1.3.2 Học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm
Học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm đưa ra những căn cứ để người tiêu dùng khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp người sản xuất, cung ứng vi phạm nghĩa vụ bảo đảm Theo học thuyết về sự bảo đảm, người sản xuất, cung ứng khi đưa sản phẩm ra thị trường thì cũng có nghĩa là đưa ra những bảo đảm nhất định về sản phẩm của mình đối với người tiêu dùng Khi sản phẩm đó có khuyết tật và gây thiệt hại cho người tiêu dùng tức là người sản xuất, cung ứng đã vi phạm nghĩa vụ bảo đảm và
vì vậy họ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng Theo Bộ luật thương mại thống nhất của Hoa Kỳ, có ba nghĩa vụ đảm bảo là: (i) đảm bảo công khai (Express warranty); (ii) đảm bảo ngầm định bao gồm đảm bảo ngầm định về tính thương mại của sản phẩm (Implied warranty of merchantability) và (iii) đảm bảo ngầm định về tính phù hợp về công dụng của sản phẩm (Implied warranty of fitness)38
(i) Bảo đảm công khai được tạo ra khi người bán bảo đảm với người mua rằng
sản phẩm / dịch vụ được cung cấp có những phẩm chất nhất định Để tồn tại bảo đảm công khai thì phải đáp ứng: 1) Một tuyên bố/ giới thiệu liên quan đến sản phẩm / dịch
vụ phải được đưa ra cho người mua và 2) Tuyên bố/ giới thiệu phải đóng vai trò trong việc quyết định mua sản phẩm / dịch vụ của người mua Nếu sau khi mua, người mua cảm thấy rằng tuyên bố đã đưa ra là sự trình bày sai về sản phẩm/dịch vụ thực tế, người mua có thể nộp đơn vi phạm bảo hành rõ ràng39
Ví dụ là bảo đảm công khai có thể được xác định bởi tuyên bố hay giới thiệu của người bán hay người cung cấp sản phẩm rằng sản phẩm A hoặc X của họ có những công dụng nhất định Ví dụ, nhà sản xuất dược phẩm Y ghi trên toa thuốc rằng dược phẩm này chữa được bệnh hen Với đảm bảo này, nhà sản xuất cam kết rằng dược phẩm có công dụng chữa hen Bảo đảm công khai cũng có thể thể hiện bằng lời nói đưa
ra trong quá trình thương lượng hoặc được đưa vào các bản hợp đồng mua bán, vào
38
Article 2-313, 2-314, The Uniform Commercial Code (UCC)
39 Bagley, Constance; Dauchy, Craig (2018), The Entrepreneur's Guide to Law and Strategy (Fifth ed), Boston,
Cengage Learning, Inc, pp 313–315
Trang 2424
mẫu thử, trong lần mua trước đối với cùng một loại sản phẩm, hoặc khẳng định trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc những thứ đi kèm theo sản phẩm
(ii) Bảo đảm ngầm định xuất hiện khi nhà sản xuất hay cung ứng không đưa ra
sự thay đổi hoặc sự khước từ nào đối với tính thương mại của sản phẩm Trong trường hợp đó, sản phẩm được coi là mang tính thương mại và phải đáp ứng những tiêu chuẩn chung đối với sản phẩm cùng loại, bao gồm cả những yêu cầu về mức độ an toàn hợp
lý40
(iii) Bảo đảm về công dụng (sự phù hợp với một mục đích cụ thể) 41 xuất hiện khi người bán biết hoặc có lý do để biết về mục đích cụ thể mà người mua sản phẩm mong đạt được Khi đó, người bán được coi là bảo đảm rằng sản phẩm sẽ là phù hợp cho mục đích mà vì thế người mua đã mua nó Ví dụ, trong trường hợp khách hàng nói với người bán máy vi tính rằng anh ta cần một chiếc máy vi tính tốc độ cao để quản lý kho
dữ liệu và các hoạt động thu chi trong hoạt động kinh doanh của mình và người bán đã khuyên người mua mua một chiếc máy tính cụ thể để xử lý các yêu cầu này Điều này
có nghĩa là người bán đang đưa ra một bảo đảm ngầm định Nếu người mua chiếc máy
đó phát hiện thấy máy đã mua không đáp ứng được yêu cầu quản lý kho dữ liệu và các khoản thu chi của mình thì có thể kiện
Bảo đảm ngầm định được thiết lập theo quy định của pháp luật, và đi kèm với việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa, trừ trường hợp bảo đảm ngầm định bị hạn chế hoặc loại trừ một cách rõ ràng bởi hợp đồng Tuy nhiên, trong trường hợp thiệt hại gây ra là thương tích về thân thể, Bộ luật thương mại thống nhất của Hoa Kỳ không cho phép bất kỳ sự hạn chế hay loại trừ trách nhiệm nào trong hợp đồng Những hạn chế và loại trừ như vậy đều đương nhiên vô hiệu42 Trong thực tiễn toà án Mỹ liên quan đến trách nhiệm sản phẩm, người tiêu dùng ít sử dụng nghĩa vụ đảm bảo để làm cơ sở khởi kiện Lý do là để áp đặt trách nhiệm trên cơ sở nghĩa vụ đảm bảo, cần phải chứng
40
Article 2-314(1), The Uniform Commercial Code (UCC)
41 Article 2, The Uniform Commercial Code (UCC)
42 Article 2-719 (3), The Uniform Commercial Code (UCC)
Trang 2525
minh bản chất mối quan hệ giữa người bán, người cung ứng và người mua Việc chứng minh mối liên hệ này không đơn giản Hơn nữa, mức bồi thường được chấp nhận trong các vụ kiện bảo vệ người tiêu dùng thường thấp hơn mức bồi thường có được nếu khởi kiện trách nhiệm sản phẩm dựa trên những cơ sở khác
1.3.3 Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt
Khái niệm trách nhiệm nghiêm ngặt (trách nhiệm không dựa trên yếu tố lỗi) xuất phát từ Hoa Kỳ43, sau đó phát triển ở châu Âu Trách nhiệm nghiêm ngặt là cơ sở thuận lợi nhất cho việc kiện đòi bồi thường thiệt hại theo chế định trách nhiệm sản phẩm Trách nhiệm nghiêm ngặt được hiểu là người sản xuất phải chịu trách nhiệm nếu như sản phẩm bị kém chất lượng và việc sử dụng sản phẩm kém chất lượng này trong điều kiện bình thường gây ra những thiệt hại cho người sử dụng.Về cơ bản, học thuyết trách nhiệm nghiêm ngặt không quan tâm đến hành vi của các bên mà chỉ quan tâm đến chất lượng của sản phẩm gây ra thiệt hại Người tiêu dùng không còn bị buộc phải chứng minh hành vi của nhà sản xuất khi thiết kế sản phẩm là không hợp lý mà chỉ cần chỉ ra rằng bản thân sản phẩm là có khuyết tật44
Để xác định khuyết tật, có bảy yếu tố có thể được phân tích: 1) tính hữu ích của sản phẩm, 2) sự tồn tại của các sản phẩm đáp ứng cùng một nhu cầu nhưng an toàn hơn, 3) khả năng xảy ra thiệt hại và mức độ nghiêm trọng của thiệt hại, 4) mức độ rõ ràng của mối nguy hiểm, 5) khả năng nhìn thấy nguy hiểm của công chúng, 6) khả năng người sử dụng tránh được nguy hiểm bằng sự cẩn trọng, có tính đến cả tác dụng của các hướng dẫn và cảnh báo, 7) khả năng loại trừ các mối nguy hiểm của sản phẩm bởi người sản xuất hoặc người bán mà không làm cho sản phẩm mất đi tác dụng hoặc làm tăng giá thành của sản phẩm một cách quá mức45
43
Phillips, Jerry J (2003), Products Liability in a Nut Shell (6th edn),West Academic Publishing, USA, p 48 44
Miller, C.J & Goldberg (2004), R.S., Product Liability (2nd edn), OUP, Oxford, pp 210 - 211
45 John W Wade(1965), “Strict Tort Liability of Manufacturers”, SMU Law review, Volume 19, Issue 1, Article
2, pp 17
Trang 2626
Đối với các sản phẩm có thiết kế lý tưởng thì các khuyết tật được loại trừ Trong trường hợp khuyết tật không được loại trừ, người ta có thể đưa ra các biện pháp để khắc phục trong chính sản phẩm Còn trong trường hợp không thể khắc phục thì biện pháp cuối cùng cần được thực hiện là cảnh báo cho người sử dụng về nguy cơ của rủi
ro mà sản phẩm có thể mang lại Khi không có biện pháp nào trong số các biện pháp nêu trên được áp dụng thì sản phẩm sẽ được coi là có khuyết tật và người sản xuất hay bán hàng sẽ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại và khuyết tật đó gây ra cho người tiêu dùng
Có thể nhận thấy nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt nên được áp dụng thay cho trách nhiệm dựa trên yếu tố lỗi nhằm bảo vệ người tiêu dùng hiệu quả hơn vì nó giúp người bị thiệt hại giảm gánh nặng chứng minh Nhiều người, đặc biệt là người nghèo thậm chí còn không biết rằng họ bị thiệt hại là do lỗi của người khác vì họ thiếu thông tin về những rủi ro và nguy hiểm46 Đôi khi, họ có thể biết rằng mình đang gánh chịu thiệt hại, nhưng họ không biết vì sao Thực tế chỉ có một số ít người là nạn nhân của những trường hợp vi phạm pháp luật liên quan đến sản phẩm kiện đòi bồi thường thiệt hại bởi vì họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chứng minh lỗi cũng như xác định mối quan hệ nhân – quả47
Thêm nữa, người tiêu dùng chỉ có thể được bảo vệ một cách đầy đủ, thống nhất khi họ không phải chứng minh những yếu tố lỗi xảy ra trong quá trình sản xuất, mà họ được giả định là không biết và gặp rất nhiều khó khăn nếu muốn biết được điều đó48 Bên cạnh đó, nếu áp dụng trách nhiệm nghiêm ngặt, người tiêu dùng phải sẽ không phải gánh chịu hậu quả giá thành của sản phẩm cao do nhà sản xuất chi trả phí bảo hiểm cho những sản phẩm của họ Nếu nhà sản xuất đưa ra thị trường những hàng hóa
46 Phạm Thị Phương Anh (2010), “Trách nhiệm nghiêm ngặt và miễn, giảm trách nhiệm trong pháp luật về trách
nhiệm sản phẩm”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 10/2010, tr 26-33
Trang 2727
không bị khuyết tật, thì họ sẽ không bị kiện liên quan đến trách nhiệm sản phẩm và họ
có thể thương lượng mức phí bảo hiểm thấp Điều đó dẫn đến giá thành của sản phẩm cũng thấp Hơn nữa, việc áp dụng trách nhiệm sản phẩm cũng góp phần làm cho các nhà sản xuất cẩn thận hơn, có trách nhiệm hơn đối với sản phẩm của mình Các nhà sản xuất phải luôn ý thức rằng họ đang kinh doanh trong môi trường cạnh tranh khốc liệt Nếu họ không đưa ra những chính sách giá cả hợp lý, công ty của họ chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn
Nhìn chung, việc lựa chọn sử dụng các học thuyết về sự bất cẩn, sự bảo đảm
hay trách nhiệm nghiêm ngặt là yếu tố cơ bản làm nên sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật về trách nhiệm sản phẩm trên thế giới
Hiện nay, chỉ có Hoa Kỳ là áp dụng cả ba học thuyết này làm cơ sở khởi kiện và xác định trách nhiệm bồi thường trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của mình Còn các nước thuộc khối Liên minh Châu Âu và các nước đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc chỉ áp dụng duy nhất học thuyết trách nhiệm nghiêm ngặt để xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể vi phạm pháp luật trách nhiệm sản phẩm Riêng với Canada, chế định trách nhiệm sản phẩm của quốc gia này chỉ dựa trên nguyên tắc về lỗi bất cẩn (negligence liability) trong pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chứ không dựa trên nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt49
Ngoài ra, cũng chỉ có Hoa Kỳ là áp dụng học thuyết về sự bảo đảm làm cơ sở khởi kiện và xác định trách nhiệm bồi thường trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm Còn các nước theo hệ thống civil law như Pháp, Đức,…thì lại áp dụng học thuyết này trong quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng50 và nghĩa vụ cung cấp thông tin này phải là một nghĩa vụ trong hợp đồng chứ không phải là ngoài hợp đồng
49
Allen M Linden, Lewis N Klar, Bruce Feldthusen (2004), Canadian Tort Law: Cases, Notes and Materials,
12th edition, Ontario: LexisNexis Butterworths, pp 542-546
50 Alexandre David (2010), Kỷ yếu hội thảo “Dự thảo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Nhà pháp luật
Việt – Pháp, Hà Nội, tr 1-2
Trang 2828
1.4 Bồi thường thiệt hại
Như đã phân tích ở trên, trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tức là một loại trách nhiệm dân sự theo đó người gây thiệt hại có trách nhiệm phải bù đắp theo những hình thức và mức độ phù hợp những thiệt hại đã gây ra cho người khác dựa trên căn cứ pháp luật
Về bồi thường thiệt hại do vi phạm quy định về trách nhiệm sản phẩm thì mỗi quốc gia lại có những quy định riêng
Ở Hoa Kỳ, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm là các qui định của trong các văn bản và các án lệ về bồi thường những tổn hại về sức khoẻ và tài sản xảy ra do việc sử dụng các sản phẩm có khiếm khuyết, những sản phẩm có nguy cơ gây hại vô lý cũng như do việc người sản xuất hay người bán đã không cảnh báo về nguy hiểm của sản phẩm
Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm ở Mỹ chủ yếu là pháp luật bang Các bang
có các qui định riêng về trách nhiệm đối với sản phẩm và những điểm khác nhau trong pháp luật của các bang chủ yếu là về mức độ bồi thường Trên nền tảng của các án lệ, nhiều bang đã có các qui định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm Bản chất của chế định này trong pháp luật các bang là người sử dụng sản phẩm nếu bị thiệt hại thì có thể được bồi thường tất cả những tổn thất, bao gồm tổn thất về kinh tế và tổn thất phi kinh
tế Thiệt hại phát sinh trước tiên được bồi thường bao gồm thiệt hại về tài sản và tính mạng, sức khỏe của người bị thiệt hại, được bồi thường bởi một trong hai hình thức: một là bồi thường thông thường hay bồi thường cho thiệt hại phi kinh tế (Non-economic compensation), hai là bồi thường đặc biệt hay bồi thường cho thiệt hại kinh
tế (Economic compensation)51
Tổn thất kinh tế bao gồm những chi phí hợp lý và cần thiết cho viêc điều trị, sự mất mát thu nhập, chi phí cho người chăm sóc Những thiệt hại phi kinh tế là sự đau
51 Nguyễn Thái Hoàng (2008), Pháp luật Trách nhiệm sản phẩm và một số đề xuất xây dựng Luật Trách nhiệm
sản phẩm tại Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội, tr 32
Trang 2929
đớn, sự bức xúc về tinh thần, sự mất mát trong việc hưởng thụ cuộc sống Những thiệt hại phi kinh tế không thể xác định bằng tiền chính xác nên thường pháp luật giới hạn mức nhất định Ví dụ, pháp luật bang Kansas giới hạn mức bồi thường thiệt hại phi kinh tế tối đa là 250.000 USD Trong những điều kiện thông thường nhất, các bồi thường thiệt hại kinh tế thường được biểu hiện bằng hình thức bồi thường bằng tiền cho thiệt hại đó và đang phát sinh trong quá khứ và có thể tiếp diễn tới tương lai như là bồi thường cho các hóa đơn tiền thuốc (cho cả quá khứ, hiện tại và tương lai), bị mất thu nhập, mất khả năng kiếm tiền và các thiệt hại tài sản52…
Bồi thường thiệt hại phi kinh tế lại gây nhiều tranh cãi bởi thiệt hại phát sinh để bồi thường lại rất khó định lượng như là bồi thường cho sự ức chế và tổn thương (Pain and suferring), bồi thường cho thiệt hại về tinh thần và tình cảm (Mental anguish and emotional distress), bồi thường cho người bị thiệt hại vì họ mất cơ hội tận hưởng cuộc sống (Loss of enjoyment of life) và nguy cơ bị bệnh trong tương lai (The reasonable fear of future illness) Chế tài bồi thường cho thiệt hại phi kinh tế cũng có thể áp dụng cho cả trường hợp làm tổn thương tình cảm gia đình như trường hợp các cặp vợ chồng, con cái của người bị thiệt hại kiện nhà sản xuất đòi bồi thường vì khuyết tật sản phẩm gây thiệt hại tới người thân của họ, làm ảnh hưởng tới mối quan hệ gia đình và tình cảm yêu thương của gia đình họ
Còn với Liên minh Châu Âu, luật trách nhiệm sản phẩm không đặt ra vấn đề trách nhiệm bồi thường tiền đau đớn cũng như khắc phục các thiệt hại khác về tinh thần mà theo luật khác có thể áp dụng trong từng trường hợp cụ thể Đây là một trong những điểm khác biệt quan trọng so với pháp luật về trách nhiệm sản phẩm tại Hoa kỳ
Về Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc cũng như thông lệ chung ở Hàn Quốc thì không chấp nhận hình thức bồi thường có tính chất trừng phạt (punitive
52
Nguyễn Thái Hoàng (2008), Pháp luật Trách nhiệm sản phẩm và một số đề xuất xây dựng Luật Trách nhiệm
sản phẩm tại Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội, tr 33
Trang 3030
damages) nhưng Luật không đưa ra bất cứ giới hạn nào về mức bồi thường (nhất là trong trường hợp thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, thân thể…)53
1.5 Miễn trừ trách nhiệm liên quan đến sản phẩm khuyết tật
Giống như tất cả các trường hợp trách nhiệm khác thì đối với trách nhiệm sản phẩm cũng sẽ có các trường hợp mà thương nhân được miễn trừ trách nhiệm Nguyên
lý chung của việc miễn trừ là đối với những trường hợp thương nhân đó không biết và đồng thời cũng không thể biết về những khuyết tật trong sản phẩm của mình Căn cứ vào hai yếu tố là không biết và không thể biết thì pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã xác định các trường hợp miễn trừ cụ thể là:
- Trường hợp người tiêu dùng có lỗi đối với thiệt hại xảy ra:
Thứ nhất, người tiêu dùng sử dụng sản phẩm quá hạn sử dụng
Thứ hai, người tiêu dùng sử dụng sản phẩm đã có thông báo thu hồi
Ví dụ, Luật Bảo vệ người tiêu dùng 1987 của Anh quy định rằng Tòa án có thể quyết định người sản xuất, người nhập khẩu hay “người sở hữu thương hiệu” được miễn trừ trách nhiệm khi người bị thiệt hại hoàn toàn biết về khuyết tật của sản phẩm nhưng vẫn chọn để sử dụng sản phẩm đó Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc “tự nguyện nhận lấy rủi ro” Nguyên lý cơ bản của học thuyết này là một người không thể nhận tiền bồi thường thiệt hại vì ông ta biết rõ rủi ro đối với những hậu quả phát sinh thiệt hại Nói cách khác, một người không thể được bồi thường thiệt hại cho những thiệt hại mà ông ta tự gánh chịu, và ông ta biết rõ về sự nguy hiểm đó54
- Trường hợp khuyết tật của sản phẩm phát sinh do thương nhân buộc phải tuân thủ quy định của pháp luật hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền55 Ví dụ việc thực hiện các đơn đặt hàng của Chính phủ cũng là cơ sở giải phóng trách nhiệm của nhà sản xuất Nhà sản xuất có thể chứng minh rằng sản phẩm sản xuất đúng theo
53
Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc ban hành năm 2000
54
Tobin, Philip Chase (2007), 25 Doctrines of Law You Should Know, Algora Publishing, New York, pp 151
55 Quy định này tương tự với khoản d, Điều 7 của Chỉ thị 85/374/EEC ngày 25/7/1985 của Cộng đồng châu Âu Tất cả các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu cũng đã thực thi điều khoản này trong luật của họ
Trang 3131
thiết kế và những chỉ dẫn mà Chính phủ đã phê duyệt, bằng những thiết bị phù hợp với những chỉ dẫn đó và đã thông báo với Chính phủ về mối nguy hiểm mà mình có thể biết được về sản phẩm đã sản xuất theo đơn đặt hàng
- Trường hợp khuyết tật của sản phẩm phát sinh do trình độ khoa học, kỹ thuật chung tại thời điểm đưa sản phẩm vào lưu thông không cho phép thương nhân phát hiện khuyết tật sản phẩm56
- Trường hợp thương nhân cung cấp sản phẩm cho người khác không vì mục đích lợi nhuận57: Nếu thương nhân sử dụng sản phẩm để tặng, tài trợ, làm từ thiện thì không phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại mà khuyết tật của những sản phẩm đó gây ra Quy định này khuyến khích các thương nhân làm công tác từ thiện, giúp đỡ những người khó khăn Tuy nhiên, có ý kiến nghi ngờ rằng, thương nhân có thể lợi dụng những đối tượng bất hạnh để thử nghiệm những sản phẩm mới của họ Những lo lắng này không phải là không có cơ sở, nhưng nếu thương nhân chọn cách này, họ cũng có thể gặp rủi ro, có thể đi đến phá sản do ảnh hưởng của dư luận xã hội
- Trường hợp thương nhân không cung cấp sản phẩm ra thị trường58: Nếu như sản phẩm bị đánh cắp, đưa ra thị trường mà có khuyết tật gây thiệt hại cho người tiêu dùng, thương nhân không phải chịu trách nhiệm bồi thường
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có một chế định riêng về trách nhiệm sản phẩm, nhưng có rất nhiều văn bản quy định có liên quan đến vấn đề này như: Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá; Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
56
Tham khảo Điểm e, Khoản 1, Điều 4 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng 1987 của Anh
57 Tham khảo Khoản a, c, Điều 7 Chỉ thị 85/374/EEC ngày 25/7/1985 của Cộng đồng châu Âu
58 Tham khảo Khoản a, c, Điều 7 Chỉ thị 85/374/EEC ngày 25/7/1985 của Cộng đồng châu Âu
Trang 32và đưa sản phẩm tới người tiêu dùng: cụ thể là người sản xuất và nhà nhập khẩu còn có thêm trách nhiệm sửa chữa; người bán chỉ chịu trách nhiệm đối với người mua trong khi nhà sản xuất và nhập khẩu còn phải chịu trách nhiệm đối với cả nhà phân phối của
họ và người tiêu dùng
Luật Chất lượng sản phẩm cũng đặt ra cơ chế cho phép người tiêu dùng khiếu nại, kiện đòi bồi thường cho thiệt hại gây ra bởi sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng63 Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường là 2 năm, kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hoá có ghi hạn sử dụng và 5 năm
kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hoá không ghi hạn sử dụng64 Các thiệt hại được yêu cầu bồi thường có thể là: 1 Thiệt hại về giá trị hàng hóa, tài sản bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại; 2 Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người; 3 Thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác hàng hóa, tài sản và 4 Chi phí hợp lý để
59 Nguyễn Hữu Phúc (2016), “Yêu cầu pháp lý của trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật liên mình Châu Âu - Bài
học cho Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 9 (294), tr 60-64
60 Khoản 7 Điều 10 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007
61
Khoản 8 Điều 12 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007
62
Khoản 10 Điều 16 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007
63 Điều 54 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá 2007
64 Điều 56 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá 2007
Trang 3333
phục thiệt hại65
Với các quy định này, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá rõ ràng đã thể hiện
sự tiếp cận gần hơn đối với chế định trách nhiệm sản phẩm Tuy nhiên, khi đánh giá các quy định này ở góc độ trách nhiệm sản phẩm thì luật này lại bộc lộ hạn chế bởi các quy định về trách nhiệm của nhà sản xuất không thể vượt qua được giới hạn của cách tiếp cận từ góc độ quản lý chất lượng Theo cách tiếp cận của Luật này, các trường hợp làm phát sinh trách nhiệm sản phẩm khi thì quá rộng, khi lại quá hẹp Cụ thể là Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá tiếp cận khái niệm chất lượng ở góc độ “mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”66
Như vậy, không đảm bảo chất lượng đồng nghĩa với không đáp ứng được tiêu chuẩn, quy chuẩn tương ứng Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì trước hết cần xác định sản phẩm, hàng hoá có phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn mà sản phẩm, hàng hoá đó phải tuân thủ hay không, xác định sản phẩm đó có gây thiệt hại hay không67
Điều này có nghĩa là trong nhiều trường hợp có thể không có mối liên hệ giữa
sự không đáp ứng một tiêu chuẩn, quy chuẩn nhất định với thiệt hại mà sản phẩm, hàng hoá gây ra, trong khi trách nhiệm bồi thường vẫn phát sinh (vì trong phạm vi hữu hạn của các tiêu chuẩn và quy chuẩn, rất có thể một đặc tính của sản phẩm mặc dù không đáp ứng được tiêu chuẩn, quy chuẩn nhưng lại không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại) Khi đó, mặc dù không có mối quan hệ nhân quả giữa việc không đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn với thiệt hại xảy ra nhưng vẫn có khả năng quy trách nhiệm bồi thường Ngược lại, có thể có những sản phẩm, hàng hoá đã tuân thủ đầy đủ các tiêu
65 Điều 60 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá 2007
66
Khoản 5 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá 2007
67Lê Hồng Hạnh (2010), Trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp - Công cụ pháp lí bảo vệ người tiêu dùng, Đề
tài cấp bộ - Viện khoa học pháp lí, Hà Nội, tr 118
Trang 3434
chuẩn, quy chuẩn nhưng vẫn có khuyết tật khác nằm ngoài tiêu chuẩn, quy chuẩn và có khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng Trong trường hợp này, không có cơ sở để quy trách nhiệm theo quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá Điều này có nghĩa là chỉ cần tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn thì bất kỳ nhà sản xuất hay bán hàng nào cũng đều không phải đối mặt với trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng, trong khi các tiêu chuẩn, quy chuẩn là do nhà nước ban hành hay nhà sản xuất tự công bố áp dụng và chắc chắn là không thể bao hàm hết các yêu cầu về
an toàn đối với tất cả các sản phẩm Cách tiếp cận hẹp này cũng khiến Luật này thiếu các quy định về phân định trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm toàn bộ với người sản xuất các chi tiết trong sản phẩm toàn bộ đó
Ngoài các quy định nêu trên, một số luật khác cũng đã có những quy định liên quan đến vấn đề trách nhiệm sản phẩm, trong đó có thể kể đến các quy định sau:
Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định “Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại
nhất định cơ chế về trách nhiệm sản phẩm đối với những người sản xuất, kinh doanh dựa trên hai cơ sở quan trọng: thứ nhất là việc vi phạm nghĩa vụ bảo đảm (có thể coi như là nghĩa vụ bảo đảm đương nhiên liên quan đến chất lượng hàng hoá) và thứ hai là việc vi phạm đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng
Khác với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cả dịch vụ không đảm chất lượng Đây là một quy định khá tiến bộ Việc áp dụng trách nhiệm sản phẩm đối với dịch vụ là cần thiết trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay Những năm gần đây, chất lượng của các loại dịch vụ ngày càng đi xuống, vi phạm nghiêm trọng quyền lợi của người tiêu dùng Mặc dù đặc thù của sản phẩm dịch vụ là quá trình sản xuất và tiêu dùng gắn liền với nhau nên người sử dụng dịch vụ có thể kiểm soát
68 Điều 608, Bộ luật Dân sự năm 2015
Trang 3535
chất lượng và tính an toàn của sản phẩm song rõ ràng với thực tế phát triển của việc cung ứng các loại hình dịch vụ hiện nay, đặc biệt là đối với những ngành cung ứng dịch vụ công nghệ cao thì việc xác định chủ thể trực tiếp cung ứng dịch vụ để chịu trách nhiệm trước trách nhiệm sản phẩm là điều không dễ dàng Tuy nhiên, dù là điều khoản khá tiến bộ, thì xét trong cả hệ thống luật vẫn không có quy định thống nhất về
cơ chế chịu trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng dịch vụ nên cho đến thời điểm này Như vậy, có thể thấy hiện nay pháp luật Việt Nam chỉ mới có cơ chế áp dụng trách nhiệm sản phẩm đối với hàng hóa, mà chưa có cơ chế rõ ràng để áp dụng đối với dịch vụ
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng đã tiếp thu tinh thần của trách nhiệm sản phẩm và đã bước đầu định hình chính thức trách nhiệm sản phẩm qua những quy định như: 1 Xác định khái niệm hàng hóa có khuyết tật 2 Áp dụng trách nhiệm nghiêm ngặt, 3 Thu hồi sản phẩm có khuyết tật, 4 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật và 5 Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa
có khuyết tật gây ra
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã xác định khái niệm hàng hóa có khuyết tật, theo đó khái niệm này được hiểu là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm: (i) Hàng hóa sản xuất hàng loạt
có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; (ii) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh
từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; (iii) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho