1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các chuyên đề triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh thuộc khối ngành kinh tế, tài chính - ngân hàng)

495 3 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Chuyên Đề Triết Học (Dùng Cho Học Viên Cao Học Và Nghiên Cứu Sinh Thuộc Khối Ngành Kinh Tế, Tài Chính - Ngân Hàng)
Tác giả Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, TS. Ông Văn Năm, TS. Lê Thị Thùy Nhung, THS. Nguyễn Quốc Toàn
Trường học Trường Đại Học Ngân Hàng Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Triết học
Thể loại tài liệu học tập
Năm xuất bản 2017
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 495
Dung lượng 6,04 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC (14)
    • 1. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học (14)
      • 1.1. Triết học và đối tượng của triết học (0)
        • 1.1.1. Khái niệm Triết học (14)
        • 1.1.2. Đối tượng của Triết học (0)
      • 1.2. Vấn đề cơ bản của triết học và chức năng cơ bản của triết học (16)
        • 1.2.1. Vấn đề cơ bản của Triết học (16)
        • 1.2.2. Chức năng cơ bản của Triết học (17)
    • 2. Sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử (19)
      • 2.1. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học (19)
      • 2.2. Quá trình xuất hiện và phát triển của triết học phương Đông (22)
        • 2.2.1. Quan niệm về triết học phương Đông (22)
        • 2.2.2. Một số đặc điểm chung của triết học phương Đông (22)
      • 2.3. Quá trình xuất hiện và phát triển của triết học phương Tây (31)
        • 2.3.1. Triết học Hy Lạp cổ đại (31)
        • 2.3.2. Triết học Tây Âu thời kì trung cổ (33)
        • 2.3.3. Triết học thời kì Phục hưng (35)
        • 2.3.4. Triết học Tây Âu thời cận đại (38)
        • 2.3.5. Triết học cổ điển Đức cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX (39)
        • 2.3.6. Các trào lưu triết học phương Tây hiện đại (41)
      • 2.4. Khái lược về sự ra đời và phát triển tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ phong kiến (56)
        • 2.4.1. Một số thành tựu và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam (57)
        • 2.4.2. Nội dung và giá trị cơ bản của tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến (58)
    • 3. Triết học Mác-Lênin và vai trò của nó trong đời sống xã hội (60)
      • 3.1. Triết học Mác-Lênin (60)
      • 3.2. Vai trò của triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội (64)
        • 3.2.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin đối với công cuộc cách mạng hiện nay ở Việt Nam (66)
    • 4. Sự kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng (69)
  • Chương 2: BẢN THỂ LUẬN (74)
    • 1. Khái niệm bản thể luận và nội dung bản thể luận trong lịch sử triết học phương Đông, phương Tây (74)
      • 1.1. Khái niệm bản thể luận (74)
      • 1.2. Một số nội dung cơ bản của bản thể luận trong triết học phương Đông và giá trị của nó (76)
        • 1.2.1. Bản thể luận trong triết học Phật giáo Ấn Độ (76)
        • 1.2.2. Bản thể luận trong triết học Kinh Dịch (79)
      • 1.3. Một số nội dung cơ bản của bản thể luận triết học phương Tây và giá trị của nó (81)
        • 1.3.1. Democritus (460 - 370 TCN) (81)
        • 1.3.2. Plato (428 - 347 TCN) (83)
        • 1.3.3. Aristotle (384 - 322 TCN) (83)
        • 1.3.4. Bản thể luận trong triết học phương Tây trung đại (đại diện là Thomas Aquinas) (84)
        • 1.3.5. Bản thể luận trong triết học nước Anh và Pháp cận đại (đại diện là Bacon và Descartes) (87)
        • 1.3.6. Bản thể luận trong triết học cổ điển Đức (đại diện là Kant, Hegel) (89)
        • 1.3.7. Bản thể luận trong triết học phương Tây đương đại (đại diện là Heidegger) (100)
    • 2. Nội dung bản thể luận trong triết học Mác-Lênin (101)
      • 2.1. Cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin (101)
      • 2.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất (102)
      • 2.3. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức (107)
      • 2.4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn (109)
      • 3.1. Mối quan hệ khách quan và chủ quan (113)
      • 3.2. Nguyên tắc kết hợp tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan (114)
      • 3.3. Vấn đề kết hợp tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan (118)
  • Chương 3: PHÉP BIỆN CHỨNG (121)
    • 1. Khái quát về sự hình thành, phát triển của phép biện chứng trong lịch sử (121)
      • 1.1. Khái niệm “siêu hình” và khái niệm “biện chứng” (121)
      • 1.2. Khái quát lịch sử phép hiện chứng (122)
        • 1.2.1. Phép biện chứng trong triết học cổ đại (122)
        • 1.2.2. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức (125)
        • 1.2.3. Khái quát lịch sử ra đời của phép biện chứng duy vật (128)
    • 2. Các nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật (130)
      • 2.1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật (130)
        • 2.1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến (130)
        • 2.1.2. Nguyên lí về sự phát triển (134)
      • 2.2. Các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật (138)
        • 2.2.1. Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật (143)
        • 2.2.2. Các quy luật của phép biện chứng duy vật (159)
    • 3. Những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật (173)
      • 3.1. Những nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật (173)
        • 3.1.1. Nội dung của các nguyên tắc phương pháp luận hiện chứng duy vật (173)
      • 3.2. Sự vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật trong quá trình đổi mới ở Việt Nam (184)
  • Chương 4: NHẬN THỨC LUẬN (193)
    • 1. Các quan niệm chính trong lịch sử triết học về nhận thức (193)
      • 1.1. Mục đích, bản chất và nguồn gốc của nhận thức (193)
        • 1.1.1. Mục đích của nhận thức (193)
        • 1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của nhận thức (194)
      • 1.2. Chủ thể, khách thể và đối tượng của nhận thức (0)
        • 1.2.1. Chủ thể của nhận thức (195)
        • 1.2.2. Khách thể và đối tượng của nhận thức (0)
      • 1.3. Về khả năng nhận thức của con người (196)
      • 1.4. Sự thống nhất và đa dạng các kiểu tri thức (199)
      • 1.5. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm về nhận thức (200)
      • 1.6. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật về nhận thức (201)
    • 2. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng (202)
      • 2.1. Các nguyên tắc và đối tượng của lý luận nhận thức duy vật biện chứng (0)
      • 2.2. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức (203)
      • 2.3. Biện chứng của quá trình nhận thức (208)
      • 2.4. Quan điểm biện chứng duy vật về chân lý (212)
    • 3. Phương pháp đặc thù của nhận thức xã hội (216)
      • 3.1. Các hình thức, phương pháp nhận thức khoa học (216)
      • 3.2. Đặc thù của nhận thức xã hội (223)
      • 3.3. Những nguyên tắc cơ bản của nhận thức khoa học xã hội và nhân văn (227)
      • 3.4. Cách hiểu duy vật lịch sử trong nhận thức xã hội (228)
    • 4. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt (230)
  • Chương 5: HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI (257)
    • 1. Các phương pháp tiếp cận khác nhau về xã hội và sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại (257)
      • 1.1. Phương pháp tiếp cận duy tâm về xã hội (257)
      • 1.2. Phương pháp tiếp cận duy vật về xã hội (260)
    • 2. Những nội dung khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (263)
      • 2.1. Sản xuất vật chất là nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội (263)
        • 2.1.1. Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội (263)
        • 2.1.2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (0)
    • 3. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay (282)
      • 3.1. Vấn đề lựa chọn con đường phát triển của xã hội Việt Nam (282)
  • Chương 6: TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ (291)
    • 1. Các quan niệm về chính trị trong lịch sử triết học (291)
      • 1.1. Quan niệm của triết học ngoài mácxít về chính trị (291)
        • 1.1.1. Quan điểm về chính trị trong lịch sử triết học trước Mác (291)
        • 1.1.2. Quan điểm của triết học đương đại về chính trị (298)
      • 1.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về chính trị (315)
        • 1.2.1. Các tiền đề hình thành quan niệm về chính trị trong triết học Mác (315)
        • 1.2.2. Định nghĩa của Lênin về chính trị (316)
        • 1.2.3. Các đặc trưng cơ bản của chính trị (0)
      • 1.3. Quan niệm đương đại về hệ thống chính trị (320)
        • 1.3.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chuyên chính vô sản (320)
        • 1.3.2. Hệ thống chính trị - cấu trúc chính trị phổ biến trong xã hội hiện đại (321)
        • 1.3.3. Hệ thống chính trị xã hội tư bản và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa (0)
    • 2. Các phương diện cơ bản về chính trị trong đời sống xã hội (323)
      • 2.1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp (323)
        • 2.1.1. Các quan điểm triết học ngoài mácxit về giai cấp và đấu tranh giai cấp (323)
        • 2.1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc và bản chất của giai cấp (327)
      • 2.2. Dân tộc và vấn đề quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại (335)
      • 2.3. Nhà nước – tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị (339)
      • 2.4. Quan điểm của Alvin Toffler về quyền lực tri thức – bước chuyển mới của quyền lực chính trị (348)
        • 2.4.1. Thực chất, hạn chế của tư tưởng Alvin Toffler về quyền lực tri thức (348)
        • 2.4.2. Giá trị của tư tưởng Alvin Toffler về quyền lực tri thức (367)
    • 3. Vấn đề đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay (373)
      • 3.1. Vấn đề phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay (373)
      • 3.2. Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay (377)
      • 3.3. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay (382)
      • 3.4. Ý nghĩa của đổi mới chính trị đối với việc nghiên cứu, phát triển khoa học xã hội và nhân văn (387)
  • Chương 7:Ý THỨC XÃ HỘI (392)
    • 1. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội (392)
      • 1.1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản hợp thành tồn tại xã hội (392)
      • 1.2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu cơ bản của ý thức xã hội (395)
        • 1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội, ý thức cá nhân và ý thức giai cấp (395)
        • 1.2.2. Hai trình độ phản ánh của ý thức xã hội (396)
        • 1.2.3. Các hình thái ý thức xã hội (398)
    • 2. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội (404)
      • 2.1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội (404)
      • 2.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội (410)
    • 3. Xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay (417)
      • 3.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay (417)
      • 3.2. Một số vấn đề cơ bản của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay (419)
  • Chương 8: TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI (425)
    • 1. Khái lược các quan điểm về con người trong lịch sử triết học (425)
      • 1.1. Con người trong lịch sự triết học phương Đông (425)
      • 1.2. Con người trong lịch sự triết học phương Tây trước Mác (427)
      • 1.3. Quan niệm về con người trong một số trào lưu triết học phi Mácxít đương đại (429)
    • 2. Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người (431)
      • 2.1. Khái niệm con người (431)
      • 2.2. Các phương diện tiếp cận nguồn gốc, bản chất con người (432)
      • 2.3. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người (436)
    • 3. Vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh (438)
      • 3.1. Quan niệm về con người (438)
      • 3.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng và tiến bộ xã hội 428 3.3. Phương thức phát huy, sử dụng vai trò động lực con người (441)
  • Chương 9: MỘT SỐ ỨNG DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT (474)
    • 1. Phép biện chứng duy vật trong hoạt động quản lý doanh nghiệp (474)
      • 1.1. Những ưu điểm và hiệu quả của việc vận dụng phép biện chứng duy vật vào (474)
      • 1.2. Những khuyết điểm và hạn chế của việc vận dụng phép biện chứng duy vật (477)
      • 1.3. Những điều cần biết khi vận dụng phép duy vật biện chứng vào thực trạng (479)
    • 2. Phép biện chứng duy vật trong hoạt động quản trị nhân lực (483)
    • 3. Phép biện chứng duy vật với nguyên lý kế toán (491)

Nội dung

Khi đó, triết học duy vật phát triển gắn liền với yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản và sự phát triển của khoa học tự nhiên.. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm "t

KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC

Triết học và vấn đề cơ bản của triết học

1.1 Triết học và đối tƣợng của triết học

Triết học xuất hiện từ khoảng thế kỷ VIII đến VI trước Công Nguyên, ghi dấu ấn với những thành tựu nổi bật trong triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.

Triết học, bắt nguồn từ chữ Hán, là quá trình tìm kiếm bản chất của sự vật, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới xung quanh và khám phá các nguyên tắc đạo lý cơ bản.

Theo quan niệm của người Ấn Độ, triết học được gọi là darshana, mang ý nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí Đây là con đường suy ngẫm giúp con người hướng tới lẽ phải.

Theo nghĩa gốc từ tiếng Hy Lạp, triết học (philosophia) có nghĩa là yêu mến sự thông thái Nhà triết học được xem là người thông thái, có khả năng nhận thức chân lý và làm sáng tỏ bản chất của sự vật.

Triết học, dù xuất phát từ phương Đông hay phương Tây, luôn được xem là đỉnh cao của trí tuệ, thể hiện sự nhận thức sâu sắc về thế giới Nó giúp con người khám phá và nắm bắt chân lý, quy luật cũng như bản chất của sự vật.

Triết học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều quan điểm khác nhau, nhưng vẫn tồn tại những điểm chung giữa các hệ thống triết học Tất cả đều là hệ thống tri thức khái quát, nghiên cứu thế giới một cách toàn diện, nhằm tìm ra các quy luật chi phối trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người Tóm lại, triết học có thể được hiểu là một hệ thống tri thức lý luận sâu sắc.

2 luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó

1.1.2 Đối tƣợng của Triết học

Triết học xuất hiện từ thời cổ đại tại cả phương Đông và phương Tây, trải qua nhiều giai đoạn phát triển với những thăng trầm khác nhau Theo từng thời kỳ lịch sử, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng đã có sự thay đổi đáng kể.

Trong thời cổ đại, tri thức của nhân loại còn hạn chế, chưa có sự phân chia rõ ràng giữa triết học và các khoa học khác, tất cả đều được gọi là triết học Ở Trung Hoa, triết học liên quan đến các vấn đề chính trị-xã hội; ở Ấn Độ, nó gắn liền với tôn giáo và tâm linh; trong khi ở Hy Lạp, triết học kết hợp với khoa học tự nhiên, được gọi là triết học tự nhiên Do đó, triết học nghiên cứu mọi lĩnh vực tri thức, dẫn đến quan niệm "Triết học là khoa học của các khoa học" Thời kỳ này, triết học đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ, tạo nền tảng cho sự phát triển không chỉ của triết học mà còn của khoa học tự nhiên và xã hội sau này.

Trong thời Trung cổ ở Tây Âu, triết học chịu sự chi phối mạnh mẽ của Giáo hội Thiên Chúa giáo, trở thành công cụ phục vụ cho thần học Nhiệm vụ chính của triết học lúc bấy giờ là giải thích và chứng minh tính đúng đắn của Kinh Thánh, dẫn đến sự hình thành triết học kinh viện Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của Đêm Trường Trung cổ, triết học phát triển một cách chậm chạp.

Vào thế kỷ XV-XVI, sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự phát triển của khoa học tự nhiên đã thúc đẩy triết học duy vật Đến thế kỷ XVII-XVIII, trong bối cảnh cách mạng tư sản diễn ra ở Tây Âu, triết học duy vật phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo Thời kỳ này chứng kiến sự phân ngành sâu sắc trong khoa học tự nhiên, với những thành tựu nổi bật như cơ học của I Newton Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trong giai đoạn này được thể hiện qua các đại biểu tiêu biểu như Ph Bêcơn, T Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvetiuýt (Pháp), và Xpinôda (Hà Lan).

Vào thời kỳ này ở Hà Lan, mặc dù các bộ môn khoa học tự nhiên đã phát triển thành những lĩnh vực độc lập, triết học vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên và chưa xác định rõ ràng đối tượng nghiên cứu riêng của mình.

Vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, trong khi Anh và Pháp đã trở thành các nước tư bản, Đức vẫn là một nước phong kiến với giai cấp tư sản đang hình thành Dưới ảnh hưởng của Anh, Pháp và nhu cầu phát triển của giai cấp tư sản Đức, triết học Đức đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là triết học Hêghen Hêghen coi triết học của mình là một hệ thống tri thức khoa học phổ quát, trong đó các ngành khoa học cụ thể được xem như những mắt xích trong tổng thể triết học Triết học Hêghen được xem là hệ thống triết học cuối cùng, xác định triết học là khoa học của các khoa học.

Vào những năm 1840, triết học Mác ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của giai cấp vô sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên Triết học Mác đã từ bỏ quan niệm "triết học là khoa học của các khoa học" và xác định đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức từ góc độ duy vật Nó nghiên cứu các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội theo hướng tiến bộ.

Với sự phát triển mâu thuẫn trong xã hội tư bản và những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, các nước tư bản đã xuất hiện nhiều trào lưu triết học đa dạng, được gọi là "triết học phương Tây hiện đại" Những trào lưu này bao gồm triết học duy khoa học, triết học nhân bản phi lý tính và triết học tôn giáo.

1.2 Vấn đề cơ bản của triết học và chức năng cơ bản của triết học

1.2.1 Vấn đề cơ bản của Triết học

Theo Ph Ăngghen, từ thời cổ đại, con người đã đối mặt với vấn đề mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác Qua việc giải thích giấc mơ, họ đã hình thành quan niệm về sự tách rời giữa linh hồn và thể xác, cũng như sự bất tử của linh hồn Điều này cho thấy con người đã bắt đầu suy nghĩ về mối liên hệ giữa linh hồn và thế giới bên ngoài Khi triết học ra đời, vấn đề này tiếp tục được nghiên cứu với một khái niệm cao hơn, đó là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.

Sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử

2.1 Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử

Lịch sử triết học có hai đặc điểm quy luật chính: thứ nhất, sự phản ánh từ các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và khoa học trong các giai đoạn lịch sử khác nhau; thứ hai, tính giao lưu, bao gồm giao lưu đồng loại và khác loại Giao lưu đồng loại chia thành giao lưu theo lịch đại, thể hiện tính thừa kế và phát triển tư tưởng triết học qua thời gian, và giao lưu theo đồng đại, cho thấy sự liên hệ và ảnh hưởng giữa các học thuyết triết học trong cùng một thời điểm Giao lưu khác loại bao gồm sự tương tác giữa triết học và các hình thái ý thức xã hội khác, cũng như sự ảnh hưởng giữa các hệ thống triết học khác nhau, cho thấy sự phát triển của lịch sử tư tưởng triết học chịu sự chi phối của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu thực tiễn của xã hội Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tư tưởng triết học luôn gắn liền với nền sản xuất vật chất Đồng thời, triết học phản ánh nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội, chịu ảnh hưởng từ các cuộc đấu tranh giai cấp và chính trị - xã hội Trong xã hội công xã nguyên thủy, triết học chưa xuất hiện do cộng đồng chưa thể tách rời khỏi tự nhiên Triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển, với sự phân hóa lao động và phân chia giai cấp.

Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học gắn liền với sự tiến bộ của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội Trình độ phát triển của tư duy triết học phản ánh sự tiến bộ trong các lĩnh vực này, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa triết học và các ngành khoa học khác.

Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội tạo ra 7 loại phụ thuộc trình độ nhận thức chung của nhân loại, trong đó triết học vừa là cơ sở vừa là điều kiện cho sự phát triển khoa học Triết học, với vai trò là một khoa học, cần phải dựa vào sự phát triển của khoa học để tiến bộ Đồng thời, triết học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các khoa học cụ thể Lịch sử cho thấy rằng điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ phát triển khoa học là những yếu tố quyết định nội dung và hình thức của các luận thuyết triết học.

Sự hình thành và phát triển của triết học phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đây là quy luật nội tại quyết định sự tiến bộ của triết học trong lịch sử Quá trình này không chỉ là sự đối kháng giữa khoa học và tôn giáo mà còn là cuộc chiến để mỗi học thuyết khẳng định bản thân và phát triển Cuộc đấu tranh này cũng đồng thời thể hiện sự giao lưu, tiếp biến giữa các trường phái triết học Sự cạnh tranh giữa hai khuynh hướng này tạo ra động lực chính cho sự phát triển tư tưởng triết học, cho phép mỗi hệ thống triết học có thể vượt lên hoặc thụt lùi so với điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và khoa học của thời đại Do đó, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt lịch sử tư tưởng triết học.

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp nhận thức: biện chứng và siêu hình Lịch sử triết học phản ánh sự tiến bộ trong nhận thức và phương pháp tư duy của nhân loại, qua đó thể hiện cuộc chiến giữa hai phương pháp này Cuộc đấu tranh này không chỉ là sự đối lập mà còn tạo ra động lực nội tại cho sự phát triển tư tưởng triết học trong xã hội.

Cuộc tranh luận giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai thế giới quan đối lập: thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm trong lịch sử triết học Sự khác biệt này không chỉ ảnh hưởng đến cách tiếp cận tri thức mà còn định hình tư duy và quan điểm về thực tại của con người.

Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học nhân loại luôn phụ thuộc vào sự kế thừa trong lịch sử Sự phát triển của ý thức xã hội mang tính kế thừa, do đó, tư duy triết học cũng phát triển theo cách này Đây là quy luật giao lưu tư tưởng triết học trong lịch sử, giúp triết học không ngừng tiến bộ Mỗi thời đại triết học đều dựa vào di sản của các thời kỳ trước, coi đó là nền tảng cho hệ thống triết học mới Tuy nhiên, những tư tưởng này được chọn lọc, bổ sung và phát triển để phù hợp với điều kiện lịch sử hiện tại Điều này thể hiện sự phủ định biện chứng, bao gồm kế thừa và cải tạo có phê phán những thành tựu tư tưởng có giá trị Do đó, sự phát triển của các trường phái và hệ thống triết học luôn diễn ra trong khuôn khổ kế thừa biện chứng.

Tư tưởng triết học hình thành và phát triển dựa vào mối liên hệ và ảnh hưởng giữa các học thuyết của các dân tộc và quốc gia trên toàn cầu.

Tư tưởng triết học nhân loại không chỉ là tổng hợp các hệ thống triết học lịch sử, mà còn phản ánh sự liên kết và tương tác giữa các trường phái triết học ở các quốc gia và khu vực khác nhau Mỗi học thuyết triết học, dù phát sinh từ những phương pháp khác nhau, đều có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau và phát triển trong bối cảnh giao lưu văn hóa và lịch sử Sự phát triển này thể hiện tính quy luật của sự giao thoa tư tưởng triết học giữa các vùng miền và dân tộc, là kết quả của sự thống nhất và tác động qua lại trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế.

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học gắn liền với mối quan hệ tương tác với các hình thái tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo và nghệ thuật Điều này thể hiện tính quy luật trong sự giao lưu giữa các hình thái ý thức triết học và các hình thái ý thức xã hội khác Đồng thời, nó cũng phản ánh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, nơi mà các hình thái ý thức xã hội có sự liên kết và tác động lẫn nhau.

Chín hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức và nghệ thuật luôn tác động đến nội dung tư tưởng triết học Ngược lại, tư tưởng triết học cũng có thể trở thành nền tảng lý luận cho các lĩnh vực như chính trị, pháp quyền, đạo đức và nghệ thuật Qua sự giao lưu giữa các nền văn hóa, một dân tộc dù có trình độ phát triển kinh tế không cao vẫn có thể đạt được trình độ phát triển triết học vượt trội so với các dân tộc khác.

2.2 Quá trình xuất hiện và phát triển của triết học phương Đông

2.2.1 Quan niệm về triết học phương Đông

Triết học phương Đông đề cập đến nền triết học của các quốc gia ngoài phương Tây, chủ yếu là các nước châu Á Nó kế thừa và phát triển từ các truyền thống triết học lớn có nguồn gốc từ Ấn Độ và Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại.

Một số triết gia phương Tây cho rằng triết học phương Đông thiếu các học thuyết về bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận và nhận thức luận Họ cho rằng điều này dẫn đến việc phương Đông không có triết học, hoặc nếu có, thì chỉ là những triết lý không có hệ thống và không có cơ sở khoa học.

Quan niệm cho rằng triết học chỉ nên được đánh giá một cách đơn giản là không đúng Để hiểu và đánh giá bất kỳ nền triết học nào, cần xem xét các điều kiện lịch sử và kinh tế - xã hội cụ thể Từ những điều kiện này, nhu cầu phát triển tư duy và lý luận đã xuất hiện Ở phương Đông, những nền triết học tiêu biểu như Ai Cập, Lưỡng Hà – Babilon, Ấn Độ và Trung Quốc đã phát triển từ rất sớm, trong khi phương Tây chưa có những nền văn hóa lớn Nghiên cứu lịch sử triết học của phương Đông giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhận định này.

2.2.2 Một số đặc điểm chung của triết học phương Đông

Triết học Mác-Lênin và vai trò của nó trong đời sống xã hội

Khái niệm triết học Mác-Lênin

Triết học Mác-Lênin đánh dấu một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học, phản ánh sự phát triển tất yếu của tư tưởng triết học và khoa học nhân loại Nó là sự kết hợp giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, tạo thành hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy Triết học này cung cấp một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng, giúp giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhận thức và cải tạo thế giới.

Triết học Mác-Lênin là triết học duy vật biện chứng, bao gồm hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên và xã hội Trong triết học này, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng kết hợp chặt chẽ với nhau Là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học, triết học Mác-Lênin thể hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng Đồng thời, với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác-Lênin cũng là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, tức là phép biện chứng duy vật.

Triết học Mác-Lênin ra đời từ sự kế thừa và phát triển các thành tựu tư duy triết học nhân loại, đồng thời khái quát hóa những tiến bộ của khoa học tự nhiên, xã hội và thực tiễn Điều này khiến triết học Mác-Lênin trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng nhất, đại diện cho giai cấp công nhân trong việc nhận thức và cải tạo xã hội Ngày nay, triết học Mác-Lênin vẫn đứng ở đỉnh cao tư duy triết học nhân loại, tiếp tục phát triển như một học thuyết về sự phát triển thế giới trong dòng chảy văn minh nhân loại.

Triết học Mác - Lênin, với tư cách là một hình thái phát triển cao của tư tưởng triết học nhân loại, có đối tượng nghiên cứu vừa đồng nhất vừa khác biệt so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.

Lịch sử triết học cho thấy, dù mỗi hệ thống có đối tượng nghiên cứu riêng, tất cả đều phải giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức từ lập trường duy vật hoặc duy tâm Điều này dẫn đến việc mọi hệ thống triết học tập trung vào những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, cũng như mối quan hệ giữa tư duy con người và thế giới xung quanh, phản ánh các quan điểm nhân sinh quan khác nhau, tích cực hoặc tiêu cực.

Triết học Mác - Lênin khắc phục những hạn chế và sai lầm của các hệ thống triết học khác bằng cách xác định đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức từ lập trường duy vật biện chứng Nó nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy Bằng cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên nền tảng duy vật biện chứng, triết học Mác - Lênin chỉ ra các quy luật chung của thế giới và làm rõ mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan Tất cả các quá trình trong thế giới khách quan, nhận thức và tư duy của con người đều tuân theo các quy luật biện chứng, trong đó nội dung là khách quan nhưng hình thức phản ánh lại mang tính chủ quan Biện chứng chủ quan chính là sự phản ánh của biện chứng khách quan.

Triết học Mác - Lênin vượt qua những hạn chế của các hệ thống triết học trước đó bằng cách xác định đối tượng nghiên cứu bao gồm các quy luật tự nhiên và lịch sử - xã hội Nó không chỉ tập trung vào lý thuyết mà còn nhấn mạnh vai trò của con người và thực tiễn trong quá trình phát triển xã hội Mục tiêu chính của triết học Mác - Lênin là nâng cao hiệu quả nhận thức và thực tiễn, từ đó phục vụ lợi ích của con người.

Trong triết học Mác - Lênin, có sự phân biệt rõ ràng giữa đối tượng của triết học và các khoa học cụ thể Các khoa học cụ thể tập trung vào việc nghiên cứu các quy luật trong từng lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội hoặc tư duy, trong khi triết học lại hướng tới việc nghiên cứu các vấn đề tổng quát hơn.

49 những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy

Triết học Mác - Lênin và các khoa học cụ thể có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau và không loại trừ nhau Các khoa học cụ thể cung cấp dữ liệu và đặt ra vấn đề mới, tạo tiền đề cho sự phát triển triết học Mặc dù mỗi khoa học có đối tượng và chức năng riêng, nhưng đều dựa vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất định Triết học Mác - Lênin tổng hợp kết quả của các khoa học cụ thể, chỉ ra quy luật chung của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học cụ thể Mối quan hệ giữa quy luật triết học và quy luật khoa học cụ thể là sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng, cho thấy rằng bất kỳ khoa học cụ thể nào cũng cần một cơ sở triết học nhất định.

Chức năng của triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin thực hiện nhiều chức năng quan trọng, bao gồm chức năng thế giới quan, phương pháp luận, nhận thức, giáo dục, dự báo và phê phán Trong đó, chức năng thế giới quan và phương pháp luận được coi là hai chức năng cơ bản nhất, đóng vai trò then chốt trong việc định hình tư duy và nhận thức của con người.

-Chức năng thế giới quan

Thế giới quan bao gồm tất cả các quan điểm về thế giới và vị trí, vai trò của con người trong đó Triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan, trong đó triết học Mác là một hệ thống tư tưởng quan trọng, định hình cách nhìn nhận và hiểu biết về xã hội và con người.

Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng

Thế giới quan duy vật biện chứng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng nhận thức của con người về thế giới hiện thực Hệ thống quan điểm duy vật Mácxít là lăng kính triết học giúp con người nhận diện và đánh giá các sự vật, hiện tượng, đồng thời phản biện chính mình Nó cung cấp cơ sở khoa học để con người hiểu sâu về bản chất của tự nhiên và xã hội, cũng như nhận thức rõ mục đích và ý nghĩa của cuộc sống.

Thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ hình thành quan điểm khoa học cho con người mà còn định hướng mọi hoạt động của họ Điều này giúp con người xác định thái độ và phương thức hành động Trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan cũng đóng vai trò quan trọng như một phương pháp luận, thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa hai khái niệm này.

Thế giới quan duy vật biện chứng khẳng định vai trò tích cực và sáng tạo của con người, đồng thời là nền tảng cho nhân sinh quan tích cực Sự phát triển của thế giới quan được xem là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự trưởng thành của cá nhân và cộng đồng xã hội.

Các khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan đúng đắn cho con người Trong số đó, triết học được coi là hạt nhân lý luận, giúp thế giới quan của con người phát triển một cách tự giác và có hệ thống.

Sự kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng

Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, hai nhu cầu lịch sử lớn đã xuất hiện: giải thích sự thất bại của triều Nguyễn và tìm kiếm con đường cứu nước Các nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ này đã quay về với các hệ tư tưởng lịch sử, sử dụng lý luận của Nho giáo và Phật giáo để giải thích sự kiện và tìm kiếm giải pháp giải phóng dân tộc Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là một ví dụ tiêu biểu Tuy nhiên, mọi nỗ lực đều thất bại do sự thất bại của triều Nguyễn phản ánh sự lạc hậu của phương thức sản xuất phong kiến so với tư bản chủ nghĩa, vốn đã chứng minh sức mạnh của mình bằng việc tiêu diệt phương thức sản xuất phong kiến và mở rộng ảnh hưởng toàn cầu.

Tư tưởng tư bản phát triển cao hơn ý thức hệ phong kiến nhờ vào việc dựa trên một thế giới quan duy vật của thời kỳ cận đại, kết hợp với các tri thức khoa học tự nhiên từ thế kỷ XVII - XVIII.

Trong gần một nghìn năm lịch sử độc lập tự chủ, ý thức hệ phong kiến Việt Nam được hình thành dựa trên thế giới quan duy tâm, gắn liền với các quan niệm tôn giáo và tín ngưỡng, chủ yếu là Nho giáo và Phật giáo.

Thế giới quan Nho giáo, bất kể là ở Trung Quốc hay Việt Nam, chủ yếu thể hiện quan điểm duy tâm về lịch sử Nhiều nhà tư tưởng triết học Trung Quốc trong thời kỳ phong kiến đã nỗ lực xây dựng nền tảng biện chứng cho tư tưởng này.

Nho giáo lý giải các nguyên lý cai trị dựa trên biến dịch luận trong Chu Dịch, nhưng thực chất chỉ phản ánh các nguyên lý biến đổi tuần hoàn của vạn vật, không phải là học thuyết biện chứng về sự phát triển Do đó, các nguyên lý xã hội học của Nho giáo chủ yếu phù hợp với việc cai trị trong thời bình, ổn định của nền văn minh nông nghiệp, và không còn phù hợp với thực trạng biến đổi và phát triển của xã hội công nghiệp-thị trường hiện nay.

Thế giới quan Phật giáo cổ đại chứa đựng nhiều yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng sâu sắc Tuy nhiên, khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo chủ yếu mang những tư tưởng đã bị Trung Quốc hoá Tổng thể, thế giới quan này vẫn chủ yếu là duy tâm.

Hơn nữa, trọng tâm của Phật giáo không phải hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn chính trị mà là hướng vào mục tiêu nhân sinh

Sự nỗ lực của các nhà tư tưởng Việt Nam thời cận đại trong việc tìm kiếm nguyên nhân thất bại của triều đại nhà Nguyễn và con đường giải phóng dân tộc đã không đạt được kết quả Thực dân Pháp, nhằm phục vụ cho mục tiêu khai thác thuộc địa, đã thiết lập một hệ thống giáo dục - đào tạo Tây học, chủ yếu tập trung vào các kiến thức khoa học kỹ thuật Tuy nhiên, quá trình này cũng đã mở ra cơ hội cho việc du nhập những tư tưởng triết học phương Tây vào Việt Nam.

Tư tưởng triết học phương Tây du nhập vào Việt Nam chủ yếu từ tầng lớp trí thức Tây học, mang đặc trưng của triết học cận đại ở Tây Âu Những tư tưởng này thường thể hiện một thế giới quan duy vật siêu hình, nhưng không triệt để, khi các nhà triết học chỉ áp dụng duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà vẫn giữ lập trường duy tâm trong các quan điểm xã hội Do đó, thế giới quan này không thể giải thích đúng đắn các nguyên nhân thực sự của sự kiện lịch sử dựa trên cơ sở kinh tế xã hội, cũng như không làm sáng tỏ quá trình lịch sử-tự nhiên của nhân loại Mặc dù một số nhà tư tưởng Tây học thể hiện lòng yêu nước, nhưng với quan điểm triết học duy vật siêu hình và duy tâm, họ không đáp ứng được những nhu cầu cấp bách của lịch sử Việt Nam.

Trước sự thất bại của các thế giới quan và phương pháp luận truyền thống như Nho học, Phật học và Tây học, Hồ Chí Minh đã tìm kiếm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc Mục tiêu của ông không phải là tìm kiếm một triết lý mới, mà là những lý luận và biện pháp thực tiễn để lãnh đạo phong trào yêu nước đạt được thành công trong chính trị, nhằm giành độc lập cho dân tộc, đảm bảo cuộc sống ấm no cho người dân và quyền được học hành Qua ba mươi năm tìm kiếm, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin như một tất yếu lịch sử.

Học thuyết Mác-Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bao gồm ba bộ phận lý luận chính: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học Trong đó, Triết học giữ vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung, tạo nên sự thống nhất vững chắc cho toàn bộ học thuyết.

Triết học Mác-Lênin là một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, mang tính cách mạng sâu sắc, thể hiện thành quả vĩ đại của lịch sử triết học toàn cầu Linh hồn và sức sống mãnh liệt của triết học này nằm ở phép biện chứng duy vật, đạt đến trình độ lý luận cao nhất và khoa học nhất, vượt qua cả phép siêu hình của triết học duy vật cận đại Tây Âu và phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức.

Thế giới quan duy vật của triết học Mác-Lênin đã vượt qua những hạn chế của thế giới quan duy vật cận đại Tây Âu bằng cách cung cấp một cái nhìn duy vật và biện chứng về quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội là trung tâm của những quan điểm duy vật về lịch sử, giúp làm rõ sự tiến hóa của nhân loại.

Thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin là công cụ duy nhất có khả năng lý giải khoa học chính xác các sự kiện lịch sử, bao gồm cả những sự kiện ở phương Tây và phương Đông châu Á.

Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng giá trị của các học thuyết lịch sử, đặc biệt là chủ nghĩa Mác, nằm ở phương pháp làm việc biện chứng Ông khẳng định rằng điều quan trọng không chỉ là phương pháp tư duy biện chứng, mà còn là phương pháp biện chứng duy vật trong tổ chức hoạt động thực tiễn.

Hồ Chí Minh đã áp dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật để giải thích một cách khoa học những vấn đề lịch sử Việt Nam thời cận đại, điều mà không một nhà tư tưởng nào khác có thể thực hiện Đỉnh cao của sự vận dụng này là việc tìm ra lý luận và phương pháp giải quyết con đường giải phóng dân tộc, đồng thời xác định hướng phát triển xã hội Việt Nam lên hình thái kinh tế - xã hội mới sau khi giành được độc lập, đó là con đường phát triển xã hội chủ nghĩa.

BẢN THỂ LUẬN

Khái niệm bản thể luận và nội dung bản thể luận trong lịch sử triết học phương Đông, phương Tây

1.1 Khái niệm bản thể luận

Bản thể luận (ontology) là lý thuyết nghiên cứu về bản chất của sự tồn tại Từ nguyên của thuật ngữ này trong tiếng Hy Lạp bao gồm “on” (ontos) có nghĩa là “hữu thể, tồn tại” và “logos” (logia) nghĩa là “khoa học, nghiên cứu, học thuyết”, thể hiện một học thuyết về sự tồn tại tự thân.

Bản thể luận trong triết học phương Tây trước triết học Mác có hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp Theo nghĩa rộng, bản thể luận đề cập đến bản chất tối hậu của mọi tồn tại, mà để hiểu được cần thông qua nhận thức luận Do đó, nghiên cứu bản chất tối hậu là bản thể luận, trong khi nghiên cứu nhận thức lại thuộc về nhận thức luận, tạo ra sự đối lập giữa hai lĩnh vực này Trong nghĩa hẹp, bản thể luận chia thành hai nội dung: nghiên cứu khởi nguyên và kết cấu của vũ trụ (vũ trụ luận) và nghiên cứu bản chất của vũ trụ (bản thể luận) Sự phân chia này cũng tạo ra sự đối lập giữa bản thể luận và vũ trụ luận Hai nghĩa này vẫn được áp dụng trong triết học phương Tây hiện đại, với nhiều trường phái triết học trước Mác thường hiểu "bản thể luận" theo nghĩa rộng để xây dựng hệ thống lý thuyết của họ.

62 thuyết bản thể luận và nhận thức luận của mình, tuy nhiên giữa bản thể luận và nhận thức luận có mối quan hệ tương hỗ với nhau

Học thuyết của Plato và Aristotle đều liên quan đến bản thể luận và nhận thức luận, với Plato nhấn mạnh lí luận hồi ức và Aristotle trình bày thuyết bốn nguyên nhân Trong triết học kinh viện, bản thể luận được đồng nhất với "siêu hình học phổ biến" và "siêu hình học đặc thù" Descartes phát triển nhị nguyên luận, thể hiện mối quan hệ giữa bản thể luận và nguyên nhân của cái ngẫu nhiên Spinoza kết hợp bản thể luận với nhận thức về thể chất và tâm thức Kant nhấn mạnh cần giải quyết bản chất lí tính để có một bản thể luận mới, trong khi Hegel hợp nhất bản thể luận, nhận thức luận và logic học, cho rằng lí tính tuyệt đối là quá trình tự nhận thức Nhiều nhà triết học phương Tây hiện đại tiếp tục khai thác mối quan hệ giữa bản thể luận và nhận thức luận từ mô hình của Kant và Hegel.

Johann Friedrich Herbart (1776 - 1841), triết gia và nhà tâm lý học người Đức, đã phân biệt giữa bản thể luận và phương pháp luận, cho rằng phương pháp luận nghiên cứu các sự vật mâu thuẫn trong nhận thức cảm tính, trong khi bản thể luận tìm hiểu các tồn tại chân thực không mâu thuẫn Edmund Gustav Albrecht Husserl (1859 - 1938), triết gia người Đức sáng lập ra Hiện tượng học, phân chia bản thể luận thành hai loại: bản thể luận hình thức và bản thể luận chất liệu Ông cho rằng bản thể luận hình thức nghiên cứu bản chất hình thức và phổ biến, là nền tảng cho mọi khoa học, trong khi bản thể luận chất liệu tập trung vào bản chất vật chất và cục bộ, là cơ sở của khoa học ứng dụng Martin Heidegger, triết gia thuộc chủ nghĩa hiện sinh Đức, lại coi bản thể luận là phân tích về tồn tại, khám phá tính hữu hạn của vật tồn tại và tìm hiểu điều gì khiến vật từ tiềm năng trở thành hiện thực.

1.2 Một số nội dung cơ bản của bản thể luận trong triết học phương Đông và giá trị của nó

1.2.1 Bản thể luận trong triết học Phật giáo Ấn Độ

Phật giáo Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa, tập trung vào việc khám phá bản thể cuối cùng của vạn vật trong vũ trụ, bản tính chân thực của tất cả tồn tại và bản chất của chúng sinh Qua quá trình lịch sử dài, tư tưởng bản thể luận đã phát triển mạnh mẽ, tạo nên sự khác biệt giữa các giai đoạn, nhưng vẫn duy trì ba nội dung chính: thuyết bản thể “Thực hữu”, thuyết bản thể “Tính không” và thuyết bản thể “Tâm thức”.

Thứ nhất, thuyết bản thể Thực hữu

Khi Thích Ca Mâu Ni sáng lập Phật giáo, ông không chú trọng đến việc thảo luận về cái tôi (“ngã”) như một thực thể có tồn tại hay không Ông tập trung vào việc truyền đạt những giáo lý nhằm giải thoát con người khỏi khổ đau và đạt được sự giác ngộ.

Khái niệm “vô ngã” yêu cầu chúng ta không chấp vào quan niệm về “cái tôi” hay “cái của tôi”, nhằm giải thoát khỏi những ràng buộc của tự ngã Điều này chủ yếu nhấn mạnh rằng “vô ngã” mang ý nghĩa chứng ngộ trong quá trình tu tập đạo đức tôn giáo, không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại của cái tôi như một thực thể.

Trong thời kỳ bộ phái của Phật giáo, nhiều trường phái đã phát triển các lý thuyết bản thể luận khác nhau, nổi bật nhất là lý thuyết của phái Nhất thiết hữu bộ với mệnh đề “ngã không pháp hữu”, nhấn mạnh rằng sự tồn tại của con người không có bản chất thực tại chân chính Mệnh đề này cho rằng đời sống con người được hình thành từ "ngũ uẩn" (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), tức là năm yếu tố vật chất, tâm lý và ý thức hòa hợp với nhau, không tồn tại một thực thể cố định.

Một trong những luận điểm quan trọng của phái này là mọi tồn tại đều có thể phân chia thành hai phương diện: bản thể và hiện tượng Các loại tồn tại khác nhau được quy về hai yếu tố cuối cùng là thể tính và công năng Ví dụ, cứng, ẩm, nóng, động được xem là bản tính của đất, nước, lửa, gió (“tứ đại”), những nhân tố này chính là “pháp thể” mang tính vĩnh cửu Bản thể, với tư cách là yếu tố đa dạng của bản thể thường hằng, sẽ hiển hiện thành hiện tượng khi phát sinh tác dụng.

Bản thể là vĩnh hằng và bất biến, tuy nhiên, nó có thể phát sinh tác dụng hoặc không, dẫn đến sự tồn tại với các hình dáng và vị trí khác nhau Khi bản thể phát sinh tác dụng, nó được gọi là “quá khứ pháp”; khi đang phát sinh tác dụng, gọi là “hiện tại pháp”; và khi sẽ phát sinh tác dụng, được gọi là “vị lai pháp”.

Thứ hai, thuyết bản thể Tính không

Lý luận của phái Trung quán trong Phật giáo Đại thừa (Không tông) phản bác thuyết vạn pháp hữu của phái Nhất thiết hữu bộ, nhấn mạnh rằng không chỉ con người mà mọi tồn tại đều là "không" Học thuyết “nhân pháp nhị không” của phái này cho rằng tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, không có bản chất cố định Mặc dù đề cao khái niệm “không”, phái Trung quán không phủ nhận sự tồn tại mà khẳng định rằng “không” và “có” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau Kết luận của phái Trung quán bác bỏ thuyết “thực hữu” của phái Nhất thiết hữu bộ và các phái khác, đồng thời kế thừa tư tưởng pháp vô thực thể của Phật giáo Tiểu thừa, tạo nên một học thuyết bản thể luận độc đáo - thuyết Tính không hay thuyết Thực tướng.

Long Thọ, một đại diện tiêu biểu của phái Trung quán, đã định nghĩa "không" là “Chúng nhân duyên sinh pháp, ngã thuyết tức thị không”, có nghĩa là mọi sự vật đều do nhân duyên sinh ra và do đó không có bản chất cố định Ông cho rằng vũ trụ và tất cả vật chất đều là duyên khởi, không có tự tính hay tự thể Phái Trung quán khẳng định rằng "không" không phải là một thực thể hay bản nguyên để sinh ra vạn vật; chính vì "không" không có thực thể cố định mà mới có thể duyên khởi và tạo ra mọi thứ Nếu "không" có bản chất cố định, thì không thể hòa hợp với nhân duyên, và vạn vật cũng không thể tồn tại.

Sắc và không là hai khái niệm không tách rời, sắc không khác biệt với không, và không cũng không khác biệt với sắc Sự tồn tại của sắc chính là sự hiện hữu của không, và ngược lại Các yếu tố như thụ, tưởng, hành, thức cũng tương tự như vậy, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa các hiện tượng trong cuộc sống.

10 “Trung luận”, quyền 4; “Đại chính tạng”, quyển 30, sđd., tr.33

11 “Đại chính tạng”, quyển 8, sđd., tr.848

Khái niệm "65 chính là không, không chính là sắc" thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa các yếu tố vật chất và tinh thần, cho thấy rằng mọi tồn tại đều bao gồm cả hai khía cạnh này và đều gắn liền với "không" Điều này có nghĩa là "không" không chỉ đơn thuần là sự trống rỗng, mà là một phạm trù triết học sâu sắc về bản chất của thế giới Học thuyết "tính không" của phái Trung quán không phủ định sự tồn tại mà tách rời tư duy và ngôn ngữ con người khỏi bản chất của thế giới trực giác, nhấn mạnh rằng "không" và mọi tồn tại đều không thể tách rời.

Thứ ba, thuyết bản thể “Tâm thức”

Từ góc độ tu tập, thuyết bản thể của phái Trung quán có thể gây ra những nguy hiểm trong tư duy và sự tu dưỡng tâm tính của con người Một số nhà Phật học, dựa trên quan điểm "vạn vật tính không", đã chuyển hướng nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề này.

Nội dung bản thể luận trong triết học Mác-Lênin

2.1 Cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin

Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng thế giới tồn tại như một chỉnh thể, với bản chất của sự tồn tại là vật chất Ăngghen đã đưa ra một cách tiếp cận mới về bản chất, nguồn gốc và tính thống nhất của mọi tồn tại, nhấn mạnh rằng sự tồn tại là tiền đề cho sự thống nhất, nhưng sự thống nhất không chỉ nằm ở sự tồn tại Ông viết rằng “tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó”, mặc dù tồn tại là điều kiện cần thiết Sự khác biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không nằm ở việc thừa nhận tính thống nhất của thế giới, mà ở việc chủ nghĩa duy vật cho rằng cơ sở cho sự thống nhất chính là tính vật chất Ăngghen khẳng định rằng “tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó”, được chứng minh qua sự phát triển lâu dài của triết học và khoa học tự nhiên Quan niệm này thể hiện nguyên luận duy vật triệt để, dựa trên thành tựu nhân loại trong thực tiễn, triết học và khoa học.

Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng bản chất của thế giới là vật chất, và tính thống nhất của thế giới được thể hiện qua tính vật chất Những điểm cơ bản này nhấn mạnh sự quan trọng của vật chất trong việc hiểu biết về thế giới xung quanh chúng ta.

Thế giới vật chất là một thực thể duy nhất, tồn tại khách quan, độc lập và có trước ý thức con người.

Tất cả các bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất, thể hiện qua việc chúng là những dạng cụ thể và kết cấu vật chất, được sinh ra từ vật chất và chịu sự chi phối của các quy luật khách quan phổ biến.

Vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và không bị sinh ra hay mất đi, mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác Trong thế giới, mọi thứ chỉ là những quá trình vật chất đang biến đổi và tương tác lẫn nhau, tạo thành nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của mọi hiện tượng.

2.2 Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất

15 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.67

16 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.67

Dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và phê phán các quan điểm duy tâm, siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện về phạm trù vật chất.

Lênin định nghĩa “vật chất” với tư cách là “phạm trù triết học”, là một phạm trù

Phạm trù vật chất được hiểu là "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người, và được ý thức con người phản ánh" Phương pháp định nghĩa thông thường không thể áp dụng hiệu quả cho vật chất, vì không có phạm trù nào rộng hơn để quy chiếu Điều này cho thấy rằng nhận thức luận vẫn chưa đạt đến mức độ thấu hiểu đầy đủ về bản chất của vật chất.

Phạm trù vật chất, theo Lênin, được định nghĩa là “thực tại khách quan” mà con người cảm nhận và phản ánh, tồn tại độc lập với cảm giác Lênin nhấn mạnh rằng thuộc tính khách quan là yếu tố quan trọng trong việc nhận biết vật chất, và khách quan được hiểu là “cái đang tồn tại độc lập với loài người và cảm giác của con người” Trong xã hội, khách quan không chỉ đơn thuần là sự tồn tại của những sinh vật có ý thức, mà còn là sự tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người.

Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm ba nội dung chính: Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan, tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con người Thứ hai, vật chất là nguồn gốc gây ra cảm giác ở con người thông qua sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan Thứ ba, cảm giác, tư duy và ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

17 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.18, tr.172

18 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.18, tr.322

19 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.18, tr.151

20 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.18, tr.374

Theo định nghĩa của Lênin, vật chất được xác định là thực tại khách quan, tồn tại độc lập với ý thức con người Định nghĩa này khẳng định rằng vật chất không chỉ là thực tại mà còn phản ánh khả năng nhận thức của con người, từ đó phân biệt rõ ràng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri Hơn nữa, đặc tính nổi bật của vật chất là tính khách quan, giúp khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đây khi đồng nhất vật chất với hình dạng hay cấu trúc cụ thể.

Trong triết học Mác - Lênin, vật chất và vận động là hai khái niệm không thể tách rời, trong đó vận động được xem là phương thức tồn tại và thuộc tính cơ bản của vật chất Vận động bao gồm mọi biến đổi và quá trình phát sinh, từ những thay đổi đơn giản nhất cho đến các quá trình phức tạp như tư duy, như Ăngghen đã chỉ ra.

Theo Ăngghen, vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất và là phương thức tồn tại của nó Điều này có nghĩa rằng vật chất chỉ có thể tồn tại thông qua vận động, và các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình thông qua quá trình này Khi khám phá thế giới khách quan, việc nhận thức sự vận động của vật chất trong các hình thức khác nhau đồng nghĩa với việc hiểu rõ bản chất của vật chất Các hình thức và dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể được nhận thức qua vận động, và thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ khi có sự vận động; một vật thể không vận động không thể được nói đến.

Theo triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự vận động của vật chất, phản ánh sự tác động lẫn nhau giữa các tồn tại vật chất Quan điểm này khác biệt hoàn toàn với các lý thuyết duy tâm hay siêu hình, nhấn mạnh rằng không có sức mạnh nào bên ngoài vật chất tác động đến sự vận động của nó.

21 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.519

22 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.89

23 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.743

Vật chất có khả năng vận động, và điều này không phụ thuộc vào sự sáng tạo của con người Vận động là phương thức tồn tại tất yếu của vật chất, vì vật chất không thể bị tiêu diệt và luôn tồn tại trong không gian.

Triết học Mác - Lênin không phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật chất, mà cho rằng quá trình vận động không ngừng của nó bao hàm hiện tượng đứng im tương đối Nếu không có hiện tượng đứng im tương đối, thì sự vật sẽ không tồn tại Mỗi sự vận động tương đối đều có xu hướng khôi phục lại trạng thái đứng im, tạo ra sự cân bằng tạm thời, điều này là điều kiện cần thiết cho sự phân hoá của vật chất Như Ăngghen đã khẳng định, “mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời” trong bối cảnh vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất.

PHÉP BIỆN CHỨNG

Khái quát về sự hình thành, phát triển của phép biện chứng trong lịch sử

Thuật ngữ “siêu hình” hay Metaphysica, có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại, lần đầu tiên được sử dụng vào thế kỷ IV TCN để chỉ các tác phẩm của Aristotle về “tồn tại tự thân”, mà ông gọi là “triết học thứ nhất”, nghiên cứu các “khởi điểm và nguyên nhân đầu tiên” Mặc dù vậy, phương thức tư duy siêu hình đã xuất hiện từ trước Aristotle và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt vào cuối thế kỷ XVIII, cùng thời điểm hầu hết các khoa học ra đời, thực hiện việc phân tích và chia nhỏ đối tượng nghiên cứu thành các phần ngày càng nhỏ hơn.

Thuật ngữ “siêu hình” theo Hegel ám chỉ phương pháp khảo sát mà trong đó sự tồn tại của đối tượng được phản ánh vào ý thức con người trong trạng thái cô lập và tĩnh tại, không có sự liên hệ với các đối tượng khác Phương pháp này chỉ chú trọng vào một khía cạnh duy nhất của đối tượng, phủ nhận sự chuyển hoá và mối liên hệ giữa chúng Những người áp dụng tư duy siêu hình thường dựa vào các luận điểm tuyệt đối, không thể hòa giải, theo nguyên tắc đồng nhất trừu tượng, dẫn đến quan niệm rằng một đối tượng chỉ có thể tồn tại hoặc không tồn tại, không thể đồng thời là chính nó và một cái khác.

Phương pháp tư duy siêu hình, theo Ăngghen, chỉ chú trọng vào những sự vật riêng lẻ mà không nhận ra mối liên hệ giữa chúng Nó chỉ ghi nhận sự tồn tại của các sự vật mà không xem xét quá trình hình thành và tiêu vong của chúng Đồng thời, phương pháp này chỉ nhận thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà bỏ qua sự vận động và phát triển của chúng, dẫn đến việc chỉ thấy một phần mà không nhìn thấy toàn cảnh.

Thuật ngữ "biện chứng" trong triết học, đối lập với "siêu hình", vừa là lý luận vừa là phương pháp khảo sát các đối tượng trong mối liên hệ và tác động qua lại Phương pháp tư duy biện chứng cho phép nhận diện không chỉ các đối tượng riêng lẻ mà còn các mối quan hệ giữa chúng, cũng như sự sinh thành và tiêu vong của chúng Theo Ăngghen, phương pháp này xem xét các sự vật và phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong sự ràng buộc và vận động của chúng Phương pháp biện chứng cũng linh hoạt, cho phép chấp nhận những trường hợp mà bên cạnh "hoặc là hoặc là ", còn có "cả cái này lẫn cái kia".

Nhận thức và vận dụng "phép biện chứng" có một lịch sử lâu dài và khác biệt với "phép siêu hình", đồng thời vẫn đang được tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong thời đại ngày nay.

1.2 Khái quát lịch sử phép hiện chứng

1.2.1 Phép biện chứng trong triết học cổ đại

Phép biện chứng đã xuất hiện từ thời cổ đại ở cả phương Đông và phương Tây, trải qua nhiều giai đoạn phát triển liên quan đến sự tiến bộ của khoa học và thực tiễn Trong triết học Phật giáo phương Đông, các khái niệm như nhân duyên, vô ngã và vô thường phản ánh những tư tưởng biện chứng sâu sắc Đồng thời, Biến dịch luận của Âm - Dương gia trong triết học Trung Quốc cổ - trung đại cũng thể hiện sự tồn tại và tương tác giữa Âm và Dương.

35 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.37-38

36 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.38

37 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.696

Mối liên hệ quy định lẫn nhau giữa cái bất biến và cái biến đổi, giữa cái một và cái nhiều trong thuyết Ngũ hành thể hiện qua năm hành chất Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tồn tại trong mối quan hệ tương sinh, tương khắc Những hành chất này tương tác và chuyển hóa lẫn nhau, tạo ra sự đa dạng và phong phú của vạn vật Lão Tử, vào thế kỷ VI TCN, nhấn mạnh rằng vạn vật được điều khiển bởi hai luật phổ biến: quân bình và phản phục Luật quân bình duy trì sự cân bằng trong tự nhiên, trong khi luật phản phục đảm bảo rằng khi sự vật phát triển đến cực điểm, chúng sẽ chuyển thành cái đối lập Đạo đức kinh còn chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc, cho thấy mỗi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập, vừa xung khắc vừa nương tựa vào nhau.

Lần đầu tiên thuật ngữ “biện chứng” xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại và được hiểu là

“Biện chứng” là nghệ thuật tranh luận nhằm giải thích tư tưởng và thuyết phục người đối thoại đồng ý với chúng Đây là sự kết hợp giữa nghệ thuật chứng minh và nghệ thuật bắt bẻ, nơi những người biết sắp xếp tri thức thành hệ thống rõ ràng được gọi là nhà biện chứng Họ giúp phân biệt đúng sai trong lập luận, đặc biệt là với các đối thủ tư tưởng Phép biện chứng trở thành phương pháp quan trọng trong việc tìm kiếm và chứng minh chân lý, thường được xem đồng nghĩa với thuật ngữ “logic” Thuật ngữ này đã xuất hiện từ trước thời Plato, với Socrates được coi là người đầu tiên sử dụng nó Plato đã mở rộng nghĩa của biện chứng, coi nó như một “phương pháp khoa học” và định nghĩa tồn tại chân thực là cái đồng nhất và bất biến, cho rằng để hình dung các loại tồn tại cấp cao, cần nhìn nhận chúng vừa hiện tồn vừa không hiện tồn.

Tồn tại chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc: nó vừa mang tính duy nhất vừa đa dạng, vừa vĩnh viễn vừa tạm thời, vừa bất biến vừa khả biến, vừa đứng im vừa vận động Những mâu thuẫn này là bản chất của sự tồn tại.

111 kiện cần thiết để kích thích linh hồn tư duy Nghệ thuật đó, theo Plato, chính là nghệ thuật biện chứng

Triết học Hy Lạp cổ đại nhấn mạnh tính biến đổi của vạn vật và hiểu hiện thực như một quá trình, làm rõ vai trò của sự chuyển hóa mọi tính chất thành mặt đối lập, thể hiện qua tư tưởng của Heraclitus và các trường phái như Mile và Pythagoras Aristotle coi Denon ở Ele là người phát minh ra phép biện chứng, phân tích các mâu thuẫn trong khái niệm “vận động” và “nhiều” Ông phân biệt giữa “biện chứng” và “phân tích”, xem phép biện chứng là khoa học về những ý kiến xác suất, khác với khoa học về chứng minh.

Trong triết học Hy Lạp cổ đại, thuật ngữ “biện chứng” không chỉ mang nghĩa ban đầu mà còn chỉ một giai đoạn khởi đầu của khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người Phép biện chứng đã có một lịch sử dài trước khi trở thành một quan niệm khoa học thực sự, và thuật ngữ này đã trải qua nhiều biến đổi, mở rộng ý nghĩa vượt ra ngoài định nghĩa ban đầu.

Trong triết học Hy Lạp cổ đại, khái niệm "biện chứng" được hiểu là sự kết hợp giữa "biện chứng khách quan", một thuật ngữ mà Hegel đã áp dụng.

Biện chứng tự phát, khái niệm do Ăngghen đề xuất và được Lênin đồng tình, phản ánh tính chất biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy Những tư tưởng biện chứng khách quan tự phát của các nhà tư tưởng Hy Lạp tồn tại ở hai dạng khác nhau.

(1) Biện chứng khẳng định, tức là khẳng định và phân tích các quy luật khách quan khác nhau tác động trong tự nhiên, xã hội và tư duy

Biện chứng phủ định là quá trình tìm kiếm và phát hiện mâu thuẫn trong tư tưởng về sự vật, từ đó phủ định tính chân thực của những ý nghĩ và tư tưởng đó dựa trên sự tồn tại của sự vật.

Triết học Hy Lạp cổ đại đã khởi đầu với những tư tưởng biện chứng khách quan, đặc biệt là từ các nhà triết học tự nhiên thuộc trường phái Milê Heraclitus là một trong những đại diện tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng, nơi ông nhấn mạnh sự biến đổi và tính không ngừng nghỉ của mọi sự vật Tư tưởng biện chứng phủ định được thể hiện rõ nét hơn qua các quan điểm của những triết gia khác trong thời kỳ này, cho thấy sự phát triển sâu sắc của triết học trong bối cảnh xã hội và tư tưởng thời bấy giờ.

Các nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

2.1 Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

2.1.1 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

Khái niệm mối liên hệ

Khi các đối tượng cùng tồn tại, chúng không chỉ tương tác mà còn thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong của mình, từ đó khẳng định sự hiện hữu thực sự của chúng.

47 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.201

48 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.694

Sự tồn tại của một đối tượng và các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác với những đối tượng khác Những thay đổi trong các tương tác này có thể làm biến đổi đối tượng, thậm chí dẫn đến sự biến mất hoặc chuyển hóa thành một đối tượng khác Điều này chứng tỏ rằng mỗi đối tượng đều có mối liên hệ chặt chẽ với các đối tượng xung quanh Vậy, mối liên hệ giữa các đối tượng là gì?

"Mối liên hệ" là khái niệm triết học thể hiện sự tương tác, ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố hoặc đối tượng Khái niệm này cũng có thể được thay thế bằng từ "quan hệ", nhưng "mối liên hệ" thường mang ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc phân tích các mối quan hệ phức tạp trong tự nhiên và xã hội.

"Quan hệ" có phạm vi rộng hơn "liên hệ", trong đó "liên hệ" chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa hai đối tượng mà sự thay đổi của một đối tượng sẽ tác động đến đối tượng còn lại Ví dụ, vận động của vật thể có liên quan trực tiếp đến khối lượng của nó, vì sự thay đổi vận tốc sẽ ảnh hưởng đến khối lượng Tương tự, các sinh vật luôn có liên hệ với môi trường xung quanh, và những biến đổi trong môi trường sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cơ thể Ngoài ra, công cụ lao động cũng có liên quan đến đối tượng lao động, nơi mà sự thay đổi của công cụ sẽ tạo ra những thay đổi nhất định trong đối tượng mà nó tác động, và ngược lại, sự biến đổi của đối tượng lao động cũng sẽ ảnh hưởng đến các công cụ lao động.

Cô lập là trạng thái mà sự thay đổi của một đối tượng không ảnh hưởng đến các đối tượng khác Ví dụ, sự biến đổi trong các nguyên tắc đạo đức không tác động đến hạt nhân nguyên tử, và ngược lại, sự thay đổi trong hạt nhân cũng khó làm thay đổi các nguyên tắc đạo đức.

Liên hệ và cô lập không hoàn toàn tách biệt; mọi đối tượng đều có sự tương tác và cô lập lẫn nhau Trong khi một số khía cạnh của các đối tượng có thể liên hệ, thì ở những khía cạnh khác, chúng lại tách biệt Sự biến đổi của một đối tượng có thể ảnh hưởng đến đối tượng khác, nhưng cũng có những biến đổi không tác động đến chúng Điều này cho thấy liên hệ và cô lập tồn tại song song, ví dụ điển hình là mối quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường Cơ thể sống vừa gắn bó với môi trường, vừa giữ được tính độc lập tương đối.

Một số thay đổi trong môi trường có thể tác động đến cơ thể sống, trong khi những thay đổi khác không ảnh hưởng đến nó Chỉ những biến đổi môi trường liên quan đến hoạt động sống của cơ thể mới gây ra sự thay đổi, còn những biến đổi không liên quan thì không có tác động Do đó, mối liên hệ và sự cô lập luôn tồn tại song song, là những khía cạnh thiết yếu trong mọi mối quan hệ giữa các đối tượng.

Các nhà siêu hình phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, trong khi các nhà duy tâm cho rằng mối liên hệ này xuất phát từ ý thức và tinh thần Hegel cho rằng ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các mối liên hệ, trong khi Berkeley lại cho rằng cảm giác là cơ sở của chúng Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng mọi tồn tại trong thế giới là những trạng thái khác nhau của một thực thể vật chất duy nhất, tạo ra mối liên hệ phổ biến giữa các đối tượng Thế giới không phải là một hỗn loạn mà là một hệ thống các liên hệ, với tính thống nhất vật chất là nền tảng cho mọi mối quan hệ Nhờ sự thống nhất này, các đối tượng không thể tồn tại cô lập mà luôn có sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau.

Tính khách quan của mối liên hệ

Mối liên hệ giữa các đối tượng là khách quan và không mang tính chủ quan, vì không có đối tượng nào tồn tại cô lập Mỗi đối tượng chỉ thể hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động và tác động lẫn nhau, và bản chất của chúng chỉ bộc lộ qua liên hệ với các đối tượng khác Để hiểu tính khách quan của một đối tượng, con người cần xuất phát từ các mối liên hệ vốn có của chính nó Điều này là yêu cầu quan trọng để phân biệt phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm và thuật ngụy biện.

Tính phổ biến của mối liên hệ

Mỗi đối tượng đều có mối liên hệ với các đối tượng khác, không có đối tượng nào tách biệt Mối liên hệ này xuất hiện trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy Các hình thức biểu hiện của mối liên hệ phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể, nhưng tất cả đều phản ánh mối liên hệ phổ biến và chung nhất Tính phổ biến của các mối liên hệ này là một yếu tố quan trọng trong việc hiểu biết về đối tượng.

Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, nơi mọi đối tượng, từ tự nhiên đến xã hội, đều liên hệ và tác động lẫn nhau Các yếu tố bên trong mỗi đối tượng có kết cấu nội tại, tạo nên sự tương tác phổ biến Thực tiễn xã hội hình thành các mối liên hệ riêng có của loài người, phản ánh phương thức tương tác giữa con người và tự nhiên Như Lênin đã nhấn mạnh, mỗi sự vật đều có mối quan hệ đa dạng và toàn diện với các sự vật khác Sự phát triển khoa học và kinh nghiệm thực tiễn đã chứng minh rằng mọi đối tượng đều nằm trong mạng lưới liên hệ thống nhất, thể hiện tính phổ biến của chúng.

Tính đa dạng của các mối liên hệ

Trong một hệ thống có nhiều đối tượng tương tác và phát triển, các mối liên hệ giữa chúng rất đa dạng và phong phú Các mối liên hệ này được phân loại thành nhiều dạng như liên hệ bên trong và bên ngoài, liên hệ chủ yếu và thứ yếu, liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên, cũng như liên hệ trực tiếp và gián tiếp Các cặp mối liên hệ này có quan hệ biện chứng với nhau, và sự phân chia giữa chúng chỉ mang tính tương đối, vì chúng chỉ là một phần trong mối liên hệ tổng thể Ngoài ra, mỗi loại liên hệ có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy thuộc vào phạm vi và kết quả của sự phát triển của các đối tượng.

Mỗi đối tượng tồn tại thông qua mối liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác, và sự liên hệ này là điều kiện cần thiết để bộc lộ các thuộc tính của nó Để nhận thức đầy đủ về đối tượng và các thuộc tính đặc trưng của nó, cần khảo sát trong mối liên hệ với những đối tượng khác, đồng thời xem xét tổng hòa các quan hệ này.

49 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.29, tr.239

Để có được nhận thức chân thực về sự vật, cần phải xem xét nhiều khía cạnh và mối quan hệ của nó với các sự vật khác Việc nhìn tổng quát và nghiên cứu tất cả các mặt, cũng như các "quan hệ gián tiếp" của sự vật là điều cần thiết để hiểu rõ hơn về bản chất của nó.

Để hiểu rõ bản chất con người, cần khảo sát trong bối cảnh các quan hệ sản xuất và phân phối của cải vật chất, cùng với các mối quan hệ chính trị, tư tưởng, gia đình và những lĩnh vực khác Để nắm bắt bản chất của tư bản, việc nghiên cứu các quan hệ tiền hàng và sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa, cũng như mối quan hệ giữa người lao động và chủ sở hữu tư liệu sản xuất là rất quan trọng.

Những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật

3.1 Những nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật

3.1.1 Nội dung của các nguyên tắc phương pháp luận hiện chứng duy vật

Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật, xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự tồn tại của đối tượng trong mối liên hệ giữa các bộ phận và thuộc tính của nó, cũng như mối liên hệ với các đối tượng khác, nhằm tránh cách nhìn phiến diện Bên cạnh đó, cần đánh giá từng khía cạnh và mối liên hệ, đồng thời nắm bắt mối liên hệ cơ bản quy định sự vận động và phát triển của đối tượng, tránh chiết trung và ngụy biện, để không làm sai lệch bản chất của đối tượng.

Lênin nhấn mạnh rằng để hiểu biết sâu sắc về sự vật, cần phải xem xét một cách toàn diện, nghiên cứu tất cả các khía cạnh và mối liên hệ của nó Điều này bao gồm việc tính đến tổng hòa các mối quan hệ đa dạng của sự vật với những sự vật khác Mặc dù con người gặp khó khăn trong việc thực hiện điều này một cách hoàn toàn, việc xem xét mọi khía cạnh sẽ giúp quá trình nhận thức và giải quyết vấn đề thực tiễn tránh được những sai lầm cứng nhắc và một chiều Sự khó khăn này xuất phát từ việc đối tượng trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, và không phải lúc nào cũng bộc lộ hết các mối liên hệ bên trong và bên ngoài.

73 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.42, tr.364

74 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.42, tr.239

Mối liên hệ giữa các yếu tố chỉ được thể hiện trong những điều kiện nhất định, trong khi chủ thể nhận thức thường bị hạn chế bởi các yếu tố lịch sử và xã hội Điều này dẫn đến việc chưa thể nắm bắt toàn diện các mối liên hệ bên trong và bên ngoài của các đối tượng.

Nguyên tắc toàn diện yêu cầu nhận thức đối tượng con người phải được xem xét trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của họ Mối liên hệ này rất đa dạng, và trong từng hoàn cảnh, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ phù hợp với nhu cầu hiện tại, dẫn đến nhận thức về đối tượng mang tính tương đối Điều này giúp tránh việc coi tri thức đã có là chân lý bất biến Khi xem xét toàn diện, cần chú ý đến sự phát triển cụ thể của từng mối liên hệ, từ đó nhận diện vai trò của chúng trong từng giai đoạn Việc xem xét toàn diện không chỉ là dàn trải mà cần có trọng tâm, xác định vị trí của từng yếu tố trong tổng thể, từ đó khái quát và rút ra mối liên hệ cơ bản nhất, chi phối sự tồn tại và phát triển của đối tượng.

Quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức đối tượng bao gồm nhiều giai đoạn, bắt đầu từ quan niệm về cái toàn thể, sau đó nhận thức từng khía cạnh và mối liên hệ cụ thể của đối tượng Cuối cùng, từ những tri thức phong phú này, chúng ta rút ra được bản chất của đối tượng Thực chất, đây là hành trình từ sự cụ thể cảm tính đến sự cụ thể trong tư duy.

Trong nghiên cứu khoa học, cần quán triệt nguyên tắc xem xét toàn diện, bởi vì các nghiên cứu không tách rời mà luôn có mối liên hệ và tương tác với nhau Việc nghiên cứu liên ngành là cần thiết để hiểu rõ bản chất của các hiện tượng xã hội, vì chúng không thể được tách rời khỏi các mối liên hệ khác Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, việc phân tích toàn diện các mối liên hệ là cực kỳ quan trọng để đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ của đất nước trong từng giai đoạn và lĩnh vực cụ thể.

Việc đánh giá đầy đủ các cơ hội, thách thức và khó khăn trong sự nghiệp xây dựng đất nước nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh là rất cần thiết.

Nguyên tắc xem xét toàn diện yêu cầu tính đồng bộ trong hoạt động thực tiễn, đòi hỏi áp dụng một hệ thống biện pháp đồng bộ để thay đổi các khía cạnh của đối tượng Trong từng giai đoạn, cần xác định đúng khâu trọng tâm để tập trung sức lực giải quyết Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích bản chất xã hội Việt Nam và chỉ ra hai mâu thuẫn cơ bản: giữa dân tộc với đế quốc xâm lược và giữa nhân dân với giai cấp địa chủ, phong kiến Mâu thuẫn giữa dân tộc và đế quốc được ưu tiên giải quyết trước, dẫn đến thắng lợi của cuộc cách mạng Hiện nay, trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng xác định phát triển kinh tế là trung tâm và xây dựng Đảng là then chốt.

Thực tiễn quá trình đổi mới gần 30 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đó

Nguyên tắc phát triển là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và thực tiễn, dựa trên nguyên lý biện chứng duy vật Để hiểu sự tự vận động và phát triển của đối tượng, cần nhận diện sự thống nhất giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất Đồng thời, cần chỉ ra nguồn gốc và động lực bên trong, tức là xử lý mâu thuẫn vốn có của sự vật Việc xác định xu hướng phát triển của đối tượng cũng rất quan trọng, bởi sự phủ định biện chứng quy định sự ra đời của đối tượng mới, phù hợp với quy luật vận động và phát triển, từ đó ủng hộ các nhân tố mới và tiến bộ.

Nguyên tắc phát triển yêu cầu phải xem xét đối tượng trong trạng thái vận động và biến đổi, không chỉ nhận thức ở hiện tại mà còn dự đoán xu hướng tương lai Để thực hiện điều này, cần phân tích nguồn gốc và động lực phát triển, mà mâu thuẫn là yếu tố cơ bản Nguyên tắc này nhấn mạnh việc phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó Lênin đã chỉ ra rằng sự phân đôi này là cốt lõi của phép biện chứng Để hiểu bản chất của đối tượng như một chỉnh thể sinh động, cần làm rõ những mâu thuẫn và xu hướng đối lập, theo dõi cuộc đấu tranh giữa chúng và sự vận động của đối tượng qua các giai đoạn Lênin cũng nhấn mạnh rằng để nhận thức các quá trình của thế giới, cần xem chúng như sự thống nhất của các mặt đối lập.

Việc xem xét đối tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập là rất quan trọng, vì nó giúp phát triển những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong và hiểu rõ hơn về sự đấu tranh giữa chúng Điều này không chỉ hỗ trợ trong việc nhận thức đối tượng đang vận động và phát triển, mà còn giúp giải thích sự đa dạng của các thuộc tính và các mặt đối lập vốn có trong các trạng thái chất khác nhau Hơn nữa, nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ ra những chuyển hoá từ trạng thái chất này sang trạng thái chất khác.

Nguyên tắc phát triển nhấn mạnh rằng sự phát triển là một quá trình diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp và từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn Mỗi giai đoạn mang những đặc điểm và hình thức riêng, do đó cần phải phân tích cụ thể để xác định các hình thức tác động phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển.

Nguyên tắc phát triển yêu cầu trong hoạt động thực tiễn cần nhạy bén với cái mới và nhanh chóng nhận diện nó Cần ủng hộ những đổi mới phù hợp với quy luật, đồng thời chống lại các quan điểm bảo thủ.

75 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.42, tr.378

76 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.42, tr.379

Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là một quá trình phức tạp, trong đó cái mới phải đấu tranh để vượt qua cái cũ Trong giai đoạn này, cái mới có thể gặp phải thất bại tạm thời, dẫn đến con đường phát triển trở nên quanh co Tuy nhiên, nhận thức rõ ràng về điều này sẽ giúp các chủ thể kiên định hơn với cái mới, tìm cách vượt qua các rào cản và tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng Đồng thời, trong quá trình thay thế, cần kế thừa có chọn lọc và cải tạo những yếu tố tích cực từ cái cũ để phát triển sáng tạo trong cái mới.

Nguyên tắc phát triển là nền tảng của phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, đóng vai trò quan trọng trong xây dựng lý thuyết khoa học "Cái cụ thể" có hai nghĩa: thứ nhất, là những gì được cảm nhận trực tiếp; thứ hai, là hệ thống các định nghĩa khoa học làm rõ mối liên hệ của các đối tượng Ban đầu, chủ thể tiếp cận cái cụ thể qua biểu tượng cảm tính, nhưng khi tư duy phát triển, cái cụ thể trở thành chỉnh thể được phân tách và hiểu rõ hơn Cái cụ thể trong tư duy là tri thức phong phú, đối lập với cái trừu tượng, vốn là tri thức phiến diện và không đầy đủ Cái trừu tượng chưa hẳn là khái niệm mà chỉ là hình ảnh trực quan về đối tượng.

NHẬN THỨC LUẬN

Các quan niệm chính trong lịch sử triết học về nhận thức

1.1 Mục đích, bản chất và nguồn gốc của nhận thức

1.1.1 Mục đích của nhận thức

Nhân loại luôn khao khát tri thức mới, thể hiện qua quá trình khám phá những bí mật của tồn tại Trong hàng chục nghìn năm phát triển, con người đã trải qua một hành trình nhận thức dài lâu, từ những hiểu biết hạn hẹp đến việc thâm nhập sâu sắc vào bản chất của cuộc sống Trên con đường này, nhiều thuộc tính và quy luật của tự nhiên, xã hội và con người đã được phát hiện, tạo nên bức tranh thế giới liên tục thay đổi Tri thức phát triển song song với sự tiến bộ của sản xuất và nghệ thuật, không chỉ để thỏa mãn sự tò mò mà còn nhằm cải biến thực tiễn tự nhiên và xã hội, hướng tới một cuộc sống hài hòa Hệ thống tri thức của nhân loại là một kho tàng phức tạp, được lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nhờ vào cơ chế di truyền xã hội và văn hóa.

Nhận thức mang tính xã hội và bị ảnh hưởng bởi văn hóa, cho phép con người tiếp nhận tri thức về hiện thực thông qua di sản của các thế hệ trước Để phát triển tri thức, con người cần đối chiếu nhận thức của mình với những kiến thức đã tích lũy Từ xa xưa, khi nhận thức được vị trí của mình trong tự nhiên, con người đã bắt đầu suy ngẫm về bản chất của nhận thức và cách thu nhận tri thức Qua thời gian, việc tự giác đặt ra và giải quyết các vấn đề nhận thức đã hình thành tri thức về chính tri thức, một lĩnh vực mà các nhà triết học đã phân tích sâu sắc.

1.1.2 Nguồn gốc và bản chất của nhận thức

Nhận thức luận, một phân môn triết học nền tảng, nghiên cứu bản chất và khả năng nhận thức của con người về thực tại, các thuộc tính và mối liên hệ của nó Nó khám phá các quy luật cơ bản của quá trình nhận thức, từ những quan niệm hời hợt đến việc nắm bắt bản chất của đối tượng, cùng với nguồn gốc và phương pháp nhận thức Lênin nhấn mạnh rằng "Sự sống sinh ra bộ óc", cho thấy rằng con người đạt tới chân lý khách quan thông qua việc kiểm nghiệm và áp dụng các phản ánh của mình vào thực tiễn Tuy nhiên, để nhận thức chân lý, con người cần trải qua sai lầm, do đó, lý luận nhận thức cũng nghiên cứu nguyên nhân và cách khắc phục những sai lầm này.

Vấn đề tri thức đáng tin cậy về thế giới, bản thân con người và xã hội loài người luôn là chủ đề thời sự trong nhận thức luận Các vấn đề này, cùng với những thách thức từ các lĩnh vực khoa học khác và thực tiễn xã hội, đã hình thành một hệ vấn đề rộng lớn, dẫn đến câu hỏi cốt lõi: tri thức là gì Chỉ khi hiểu rõ bản chất của đối tượng, con người mới có thể sử dụng tri thức một cách hiệu quả và phù hợp.

79 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.29, tr.215

Tri thức là cầu nối giữa tự nhiên, tinh thần con người và hoạt động thực tiễn, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức Nó bao gồm các mô hình về các đối tượng trong thế giới bên ngoài, nơi mà thế giới khách quan và tự nhiên là nguồn gốc của cảm giác, ý thức và tư duy Nhận thức không thể tồn tại nếu thiếu sự tác động từ các đối tượng và điều kiện bên ngoài lên ý thức con người Qua những tác động này, các mô hình về đối tượng mới xuất hiện trong tâm trí con người Do đó, quá trình nhận thức diễn ra qua sự tương tác biện chứng giữa chủ thể và khách thể.

Mục đích chính của mọi nhận thức là tạo ra các loại tri thức ở những trình độ khác nhau, trong khi mục tiêu cuối cùng của nhận thức là phục vụ cho sự phát triển của thực tiễn.

1.2 Chủ thể, khách thể và đối tƣợng của nhận thức

1.2.1 Chủ thể của nhận thức

Chủ thể nhận thức là con người, vì chỉ có cá nhân cụ thể mới có khả năng phản ánh thực tại vào ý thức Nhận thức không chỉ dựa vào các thuộc tính sinh học mà còn phụ thuộc vào vai trò của con người trong xã hội và các hình thái ý thức xã hội Tư duy nhận thức là quá trình phản ánh tích cực hiện thực thông qua khái niệm, phán đoán và lý thuyết khoa học, đòi hỏi sự hiện diện của chủ thể xác định mục tiêu và phương tiện để đạt được chúng Trí tuệ nhân tạo không thể thay thế con người trong quá trình nhận thức, vì nó không có khả năng thực hiện các thao tác tư duy như con người Do đó, trí tuệ nhân tạo chỉ có thể hỗ trợ con người trong nhận thức, chứ không thể trở thành chủ thể của nhận thức.

1.2.2 Khách thể và đối tƣợng của nhận thức

Khách thể nhận thức là những đối tượng vật chất hoặc tinh thần mà chủ thể tập trung vào trong quá trình nhận thức Những đối tượng này không bao gồm toàn bộ thực tại, mà chỉ những lĩnh vực đã được chú ý và nghiên cứu Khi trình độ phát triển của khoa học và nhận thức con người ngày càng cao, thì phạm vi nghiên cứu cũng mở rộng, dẫn đến sự gia tăng số lượng khách thể nhận thức.

Khái niệm đối tượng nhận thức và khách thể nhận thức thường bị nhầm lẫn, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau Đối tượng nhận thức là một phần cụ thể hơn của hiện thực, được tách ra từ tổng thể các khách thể trong quá trình nhận thức Một khách thể nhận thức có thể trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, như tư duy, được nghiên cứu trong các ngành như logic học, lý luận nhận thức, tâm lý học và sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao.

Sự đối lập giữa đối tượng và khách thể nhận thức chỉ mang tính tương đối Cấu trúc của đối tượng nhận thức khác với khách thể ở chỗ chỉ những thuộc tính chủ yếu và căn bản của khách thể, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, mới được xem là đối tượng của nhận thức.

1.3 Về khả năng nhận thức của con người

Trong suốt hàng thế kỷ, con người đã luôn tìm hiểu về cách thức nhận thức của mình đối với thế giới Liệu con người có thể nhận thức được thực tại? Đây không chỉ là một vấn đề lý thuyết mà còn là một thách thức thực tiễn, bởi vì thực tại là vô tận trong khi con người lại có giới hạn Trong bối cảnh kinh nghiệm hạn chế, việc nắm bắt cái vô hạn trở nên khó khăn Vấn đề này đã luôn là nguồn cảm hứng cho nhiều trường phái triết học khác nhau.

Có ba xu hướng chính liên quan đến khả năng nhận thức thế giới: khả tri luận, hoài nghi luận và bất khả tri luận Khả tri luận cho rằng thế giới có thể được nhận thức, trong khi bất khả tri luận phủ nhận khả năng này Hoài nghi luận không bác bỏ khả năng nhận thức nhưng lại nghi ngờ tính đáng tin cậy của tri thức Vấn đề này thực sự phức tạp, vì sự phủ nhận của bất khả tri luận không phải lúc nào cũng thiếu cơ sở.

Bất khả tri luận chỉ ra rằng con người không thể nhận thức được bản chất thực sự của thế giới, vì mọi thông tin đều bị khúc xạ qua lăng kính của giác quan và tư duy Dù con người cố gắng sử dụng các khái niệm, mô hình và lý thuyết để nắm bắt tính vĩnh hằng và vô hạn của thế giới, nhưng điều này vẫn không đảm bảo rằng những hiểu biết đó là đáng tin cậy Kết quả là, con người tự khép kín trong những cách nhận thức của mình và không thể đưa ra những nhận định chính xác về thế giới như nó vốn có.

Logic cho rằng con người không thể hiểu biết về thế giới đang dần bị khoa học bác bỏ Vào giữa thế kỷ XIX, nhà sáng lập chủ nghĩa thực chứng Comte từng khẳng định rằng nhân loại sẽ không bao giờ biết được thành phần hóa học của mặt trời, nhưng chỉ sau đó, phân tích quang phổ đã chứng minh điều ngược lại Hiện nay, nhiều quan điểm bất khả tri vẫn tồn tại, không chỉ do nguyên nhân nhận thức luận hay xã hội, mà còn có nguồn gốc từ triết học của Hume và Kant.

Bất khả tri luận trong triết học của Kant nhấn mạnh sự khác biệt giữa hiện tượng, tức là cách mà con người nhận thức được đối tượng, và bản chất thực sự của đối tượng đó.

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

2.1 Các nguyên tắc và đối tƣợng của lý luận nhận thức duy vật biện chứng

Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, C Mác và Ph Ăngghen đã phát triển lý luận về nhận thức, dựa trên các nguyên tắc cơ bản Những nguyên tắc này không chỉ khẳng định vai trò của thực tiễn trong việc hình thành tri thức mà còn nhấn mạnh mối liên hệ biện chứng giữa tư duy và hiện thực.

Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người

Thứ hai, thừa nhận khả năng nhận thức của con người Con người có khả năng

Con người có khả năng "chép lại, chụp lại, phản ánh" thế giới khách quan, điều này có nghĩa là về nguyên tắc, không có điều gì mà con người không thể hiểu biết Chỉ có những vấn đề mà con người vẫn chưa khám phá và nhận thức được.

Nhận thức có bản chất là sự phản ánh thế giới khách quan, diễn ra qua một quá trình chủ động, tích cực và sáng tạo Quá trình này bắt đầu từ việc cảm nhận trực quan sinh động, sau đó chuyển hóa thành tư duy trừu tượng, và cuối cùng là áp dụng vào thực tiễn.

Thứ tư, thừa nhận thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức

Phản ánh hiện thực khách quan - nguyên tắc nền tảng của nhận thức luận duy vật biện chứng

Khái niệm phản ánh là nguyên tắc cốt lõi trong nhận thức luận duy vật biện chứng, đã được nghiên cứu sâu trong lịch sử triết học Vai trò của khái niệm này trong việc chứng minh tri thức đã dẫn đến những luận giải duy tâm và duy vật từ thời cổ đại, ảnh hưởng đến sự phát triển của các hệ thống nhận thức Ví dụ, Democritus coi nhận thức là sự phản ánh và tri giác các mô hình đối tượng, trong khi Plato lại phản đối quan điểm này.

Các nhà triết học đã nhận thức rằng sự hồi tưởng liên quan đến linh hồn và những ấn tượng từ vương quốc cái đẹp và tư tưởng thuần tuý Chủ nghĩa duy vật thời cận đại coi phản ánh là một quá trình thụ động, tương tự như phản chiếu trong gương, nhưng vẫn khẳng định sự tồn tại của thế giới khách quan độc lập với ý thức con người Ngược lại, các nhà duy tâm từ trước đến nay phủ nhận khái niệm phản ánh, cho rằng nhận thức là quá trình chủ thể tạo ra các khái niệm trong sâu thẳm của ý thức, dẫn đến quan điểm rằng thế giới khách quan chỉ là sản phẩm của trí tuệ con người Mặc dù lý giải của chủ nghĩa duy tâm về bản chất nhận thức có nhiều sai lầm, nhưng nó vẫn phát huy được sự sáng tạo và khả năng của chủ thể nhận thức.

Triết học Mác - Lênin đã nâng cao nhận thức luận lên một tầm lý thuyết mới, kết nối chặt chẽ với thực tiễn lịch sử - xã hội, xem nhận thức như một hoạt động tích cực cải tạo thực tiễn Theo đó, tất cả ý niệm đều xuất phát từ kinh nghiệm và phản ánh hiện thực, có thể trung thành hoặc méo mó Lênin, trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đã nhấn mạnh rằng phản ánh hiện thực khách quan là nguyên tắc nền tảng của nhận thức luận duy vật biện chứng Ông xây dựng học thuyết về chân lý và thực tiễn như cơ sở, tiêu chuẩn và mục đích của nhận thức, qua đó làm sâu sắc thêm hiểu biết về tính tích cực sáng tạo của con người trong quá trình nhận thức Lí thuyết phản ánh do ông đề xuất đã trở thành một phần quan trọng trong triết học.

2.2 Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức

Sự phản ánh trực quan về hiện thực

Sự nhận thức về các đối tượng bắt nguồn từ quá trình quan sát sinh động, thông qua tri giác trực tiếp nhờ vào các giác quan của con người.

80 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.829

Để nhận thức một đối tượng chưa biết, trước tiên cần xem xét và xác định các thuộc tính cố hữu của nó Chất liệu thực nghiệm ban đầu sẽ là cơ sở cho quá trình tư duy tiếp theo Tư duy chỉ diễn ra dựa trên dữ liệu mà con người thu nhận qua giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp với đối tượng Như Lênin đã viết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý của sự nhận thức thực tại khách quan.”

Con người tiếp nhận tri thức và hiểu biết về thế giới thông qua các giác quan, đặc biệt là thị giác và thính giác Ngôn ngữ, cả nói và viết, là phương tiện để truyền đạt những thành tựu tri thức của nhân loại, nhưng nó cũng chỉ được tiếp thu qua các giác quan Khi con người bị tước đoạt các giác quan, khả năng nhận thức thế giới xung quanh sẽ hoàn toàn mất đi Ngoài các giác quan, không còn phương tiện nào khác để giao tiếp với thực tại, và điều này làm cho việc nhận thức hiện thực trở nên không thể.

Nhận thức qua các giác quan được xác định qua nhiều hình thức, trong đó cảm giác là hình thức quan trọng nhất của nhận thức cảm tính Các đối tượng bên ngoài tác động lên giác quan con người, tạo ra những cảm giác khác nhau như màu sắc, hình dạng, độ cứng và mùi Cảm giác chính là hình ảnh cảm tính đơn giản nhất, phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của đối tượng, và là kết quả của sự tác động từ các đối tượng khách quan tồn tại bên ngoài vào giác quan.

Tất cả tri thức về các hiện tượng bên ngoài bắt nguồn từ sự phản ánh cảm tính thành cảm giác Lênin nhấn mạnh rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết, và nếu không có cảm giác, chúng ta sẽ không thể nhận thức được các hình thức của vật chất và vận động.

Cảm giác chỉ phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của đối tượng, trong khi hình ảnh toàn diện của chúng được hình thành trong ý thức con người thông qua tri giác Tri giác là sự kết hợp chặt chẽ của các cảm giác, giúp con người hình dung đồng thời nhiều thuộc tính của đối tượng.

81 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.29, tr.179

82 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.18, tr.147

83 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.18, tr.374

192 xuất hiện từ cảm giác, nhưng không chỉ đơn thuần là tổng hợp các cảm giác Đó là một hình ảnh cảm tính đầy đủ về đối tượng, được phản ánh đồng thời qua nhiều giác quan khác nhau.

Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính thứ ba về thế giới vật chất, phản ánh hình ảnh của những đối tượng mà con người đã trải nghiệm trước đó Những hình ảnh này không còn tác động trực tiếp lên các giác quan mà được tái tạo trong ý thức từ những trải nghiệm đã qua, được lưu giữ trong trí nhớ.

Biểu tượng không chỉ là những bản sao mờ nhạt từ tri giác, mà chúng chứa đựng yếu tố khái quát hóa, tạo nên hình thức phản ánh cảm tính cao hơn Chúng xuất phát từ kinh nghiệm phong phú và tri giác quá khứ, đóng vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, góp phần vào nấc thang nhận thức thứ hai.

Tư duy trừu tượng và các hình thức của nó

Phương pháp đặc thù của nhận thức xã hội

3.1 Các hình thức, phương pháp nhận thức khoa học

Nhận thức khoa học là hình thức nhận thức cao của con người, phát triển qua ba giai đoạn: trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn Khoa học giúp xác định các thuộc tính và mối liên hệ mới của hiện thực, ghi nhận dưới dạng dữ kiện khoa học Phân tích tài liệu khoa học cho phép hình thành các khái quát và giả thuyết, và việc kiểm tra chúng trong thực tiễn sẽ dẫn đến việc xác lập chân lý và phát hiện các quy luật Xu hướng tích lũy tri thức tạo ra nhu cầu kết hợp chúng thành một chỉnh thể thống nhất, từ đó hình thành lý thuyết Sự phát triển của nhận thức yêu cầu chính xác hóa các lý thuyết hiện có, bổ sung các khái niệm mới hoặc thay thế lý thuyết cũ bằng lý thuyết mới phản ánh thực tế một cách đầy đủ và chính xác hơn.

Để nhận thức, chủ thể cần sử dụng các hình thức phản ánh hiện thực và các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp Việc lựa chọn các phương pháp này không phải là ngẫu nhiên, mà phụ thuộc vào đặc điểm của hiện thực, giai đoạn phát triển của nhận thức và tính chất nhiệm vụ cần giải quyết Trong bối cảnh đó, bài viết sẽ khảo sát các hình thức và phương pháp nhận thức khoa học theo các nấc thang phát triển chủ yếu của nó.

Thu thập dữ kiện khoa học

Công việc đầu tiên trong nhận thức khoa học là thu thập và xác định các dữ kiện liên quan đến thuộc tính và mối liên hệ của đối tượng Dữ kiện, được con người tri giác và ghi nhận, là những yếu tố quan trọng, với tính chân thực kiểm tra được bằng kinh nghiệm Chúng tạo thành nền tảng thực nghiệm cho khoa học, giúp nhà khoa học khám phá bản chất của đối tượng, xác định các thuộc tính, mối liên hệ và quy luật vận hành, phát triển của nó Để thu thập dữ kiện, khoa học thường áp dụng các phương pháp như quan sát, thí nghiệm và mô hình hóa.

Quan sát là quá trình tri giác có mục đích đối với các đối tượng quan tâm, đòi hỏi việc xác định mục tiêu và phương pháp thực hiện Các giác quan đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập thông tin từ môi trường xung quanh Tuy nhiên, khả năng tri giác của con người có giới hạn, vì vậy cần sử dụng các dụng cụ hỗ trợ để nâng cao hiệu quả quan sát và mở rộng phạm vi đối tượng Việc áp dụng thành công các dụng cụ trong nghiên cứu cho thấy khả năng nhận thức của giác quan là vô hạn.

Việc sử dụng dụng cụ trong nghiên cứu có thể mở rộng khả năng nhận thức của các giác quan, nhưng đồng thời cũng có thể làm biến đổi đối tượng nghiên cứu, dẫn đến việc người quan sát không thể tri nhận đối tượng như nó vốn có Tuy nhiên, điều này không ngăn cản việc nhận thức các thuộc tính khách quan của đối tượng; nó chỉ yêu cầu người quan sát phải xem xét tính chất của dụng cụ được sử dụng.

205 những hiệu ứng phụ do nó gây ra và các tính quy luật tương tác của chúng với đối tượng nghiên cứu

Trong khoa học hiện đại, việc ứng dụng các dụng cụ và phương tiện kỹ thuật vào tổ chức quan sát đối tượng đòi hỏi phải phân biệt giữa quan sát trực tiếp và gián tiếp Quan sát gián tiếp là quá trình mà sự tác động của đối tượng lên các giác quan của người quan sát được thực hiện thông qua các dụng cụ kỹ thuật Cả hai kiểu quan sát này thường được sử dụng song song, tạo thành một quá trình phức tạp và thống nhất để thu nhận thông tin về đối tượng.

Mô tả là công việc cần thiết sau khi quan sát, bao gồm việc ghi chép kết quả và thông tin về đối tượng được quan sát Nó sử dụng các phương tiện diễn đạt tự nhiên và nhân tạo như khái niệm khoa học, dấu hiệu, sơ đồ và biểu đồ Tính chính xác, logic chặt chẽ và sự đơn giản là những yêu cầu quan trọng trong mô tả khoa học, đặc biệt trong bối cảnh phát triển khoa học hiện nay, nơi ngôn ngữ nhân tạo được sử dụng rộng rãi Trong quá trình quan sát, các đặc trưng chất và lượng của đối tượng được ghi nhận, dẫn đến hai dạng mô tả: chất và lượng Mô tả chất tập trung vào các thuộc tính xác nhận đối tượng, trong khi mô tả lượng yêu cầu diễn đạt chính xác các thông số đo đạc của đối tượng Đo đạc là thao tác nhận thức đảm bảo việc diễn đạt số của các đại lượng được đo một cách chính xác.

Đo đạc được thực hiện thông qua việc so sánh các thuộc tính của đối tượng với chuẩn đơn vị đo đã chọn, cho phép ghi nhận cả các thuộc tính lẫn quan hệ của đối tượng Có hai dạng đo đạc: trực tiếp và gián tiếp Đo trực tiếp là so sánh ngay thuộc tính của đối tượng với chuẩn tương ứng, trong khi đo gián tiếp xác định đại lượng dựa trên sự phụ thuộc vào các đại lượng khác Phương pháp đo gián tiếp rất hữu ích khi việc đo trực tiếp trở nên phức tạp hoặc không khả thi.

Thí nghiệm là phương pháp nghiên cứu quan trọng trong khoa học, cho phép thu thập thông tin về các thuộc tính và mối liên hệ không quan sát được trong điều kiện thông thường Khác với quan sát, thí nghiệm yêu cầu sự can thiệp tích cực từ chủ thể vào đối tượng, nhằm thay đổi hoặc tái tạo nó trong các điều kiện được thiết lập trước Qua đó, nhà nghiên cứu có thể kích thích phản ứng của đối tượng, làm lộ ra những thuộc tính mà bình thường không thể thấy được Bằng cách điều chỉnh các điều kiện, chủ thể có thể theo dõi sự biến đổi của các thuộc tính và thu thập dữ liệu phong phú về hành vi của đối tượng trong những hoàn cảnh khác nhau.

Sự tác động có mục đích lên đối tượng để biến đổi các thuộc tính và mối liên hệ của nó là điều kiện quan trọng cho sự phát triển nhận thức khoa học Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc tác động trực tiếp vào đối tượng gặp khó khăn hoặc tốn kém Khi đó, thí nghiệm sẽ được thực hiện trên một đối tượng khác tương tự, gọi là thử nghiệm mô hình, và quá trình nghiên cứu này được gọi là mô hình hoá Mô hình là sự tái tạo các thuộc tính và mối liên hệ của đối tượng trong một đối tượng khác để nghiên cứu sâu hơn, có thể là mô hình vật chất hoặc tư tưởng.

Mô hình vật chất là những đối tượng do con người tạo ra hoặc chọn lựa, phản ánh các thuộc tính và mối liên hệ của đối tượng nghiên cứu Ngược lại, mô hình phi vật thể là các cấu trúc tư tưởng, lý thuyết thể hiện các đặc điểm và mối quan hệ của đối tượng một cách lý tưởng Những mô hình này thường được trình bày qua các hình vẽ, dấu hiệu hoặc phương tiện vật chất khác Điều quan trọng nhất là mô hình cần phải tương đồng với nguyên mẫu trong các thuộc tính và mối liên hệ cần nghiên cứu, từ đó cho phép chuyển giao tri thức từ mô hình sang nguyên mẫu thông qua phép loại suy và so sánh.

Trong phân tích khoa học, việc tách biệt các yếu tố đơn lẻ khỏi bối cảnh tổng thể là cần thiết để làm rõ thuộc tính và mối liên hệ bền vững Quá trình này giúp hình thành các biểu tượng chung, khái niệm, phán đoán và suy luận tương ứng Các phương pháp như so sánh, trừu tượng hoá và khái quát hoá thường được áp dụng để đạt được mục tiêu này.

So sánh là quá trình phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng, giúp xác định những đặc điểm chung và riêng biệt Qua việc so sánh đối tượng nghiên cứu với các đối tượng khác, cũng như giữa các dữ liệu trong những thời điểm và điều kiện khác nhau, người nghiên cứu có thể làm rõ những yếu tố đồng nhất và đặc thù của đối tượng.

Trong quá trình so sánh, các kết quả thu được được củng cố và tồn tại độc lập nhờ vào việc trừu tượng hoá, tức là phân tách các thuộc tính và mối liên hệ quan trọng của đối tượng, trong khi gác lại những đặc trưng khác Những thuộc tính và mối liên hệ này được tách biệt, biến thành các khách thể độc lập lý tưởng, thể hiện dưới dạng khái niệm hoặc biểu tượng thực nghiệm.

Trừu tượng hoá là một thủ thuật tư duy thiết yếu trong mọi giai đoạn phát triển của khoa học, thường kết hợp chặt chẽ với khái quát hoá Trong quá trình này, các thuộc tính được tách ra từ đối tượng và chuyển hoá thành mô hình lý tưởng, áp dụng cho tất cả các đối tượng cùng loại Kết quả là sự hình thành khái niệm hoặc biểu tượng thực nghiệm chung Quá trình khái quát hoá diễn ra thông qua quy nạp và suy lý, cho phép rút ra các kết luận chung từ các dữ kiện liên quan đến một phần của đối tượng.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt

4.1 Nội dung của nguyên tắc

"Lí luận" là một thuật ngữ đa nghĩa, có thể hiểu là kết quả của quá trình nhận thức, bao gồm các hệ thống lý thuyết và quan niệm được trình bày trong tài liệu khoa học và sách chuyên khảo Ngoài ra, lí luận còn được xem như một quá trình nhận thức, thể hiện qua hoạt động lý luận với các diễn biến nội tại và điều kiện bên ngoài Tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể, lí luận có thể được sử dụng theo hai nghĩa khác nhau, nhưng ở đây, chúng ta sẽ tập trung vào lí luận như một hoạt động nhận thức.

Lênin khẳng định rằng nhận thức lý luận cần phải phản ánh khách thể trong tính tất yếu, mối quan hệ toàn diện và sự vận động mâu thuẫn của nó Lý luận không chỉ là quá trình mà còn là kết quả của hoạt động nhận thức, nhằm nắm bắt bản chất và mối liên hệ bên trong của đối tượng Đồng thời, lý luận phải thể hiện những hiểu biết này qua hệ thống quan điểm và luận điểm Từ đó, có thể định nghĩa lý luận là nhận thức về bản chất và mối liên hệ tất yếu của đối tượng, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù và phán đoán về quy luật nội tại của nó.

Nội dung và lý luận phản ánh bản chất cùng mối liên hệ tất yếu của đối tượng, theo Lênin, thể hiện quy luật của đối tượng trong tính chỉnh thể và toàn vẹn, cũng như ở từng khía cạnh xác định của nó.

Về hình thức, lí luận diễn đạt nội dung trên bằng các khái niệm, phán đoán

Lý luận mang tính trừu tượng, khái quát và tổng hợp cao, nhờ vào việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như quy nạp, phân tích và so sánh Tính chất này không chỉ thể hiện trong quá trình hoạt động mà còn trong kết quả của hoạt động lý luận, đặc biệt là thông qua việc áp dụng các phạm trù và khái niệm trong nhận thức.

89 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.29, tr.227

Hoạt động lý luận có đặc điểm nổi bật là tính gián tiếp đối với đối tượng nhận thức, yêu cầu chủ thể vận dụng tư duy trừu tượng và khả năng trừu tượng hóa cao Điều này không chỉ đơn thuần là việc tiếp nhận các tác động trực tiếp từ giác quan, mà còn đòi hỏi sự tự giác và tích cực trong việc chủ động chiếm lĩnh đối tượng.

Cấu trúc của hoạt động lí luận

Hoạt động lí luận bao gồm bốn yếu tố cơ bản: 1) chủ thể, tức là người thực hiện hoạt động lí luận; 2) khách thể, hay đối tượng mà hoạt động lí luận hướng tới; 3) điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động lí luận; và 4) kết quả đạt được từ hoạt động lí luận.

Chủ thể hoạt động lý luận là con người xã hội với nhu cầu, mục đích và năng lực trí tuệ, thể lực, cùng kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết Họ có lợi ích và giá trị văn hóa - xã hội riêng, và mục đích trực tiếp là nắm bắt các quy luật bản chất của đối tượng để thỏa mãn lợi ích kinh tế - xã hội của cộng đồng mà họ thuộc về Chủ thể này có thể là cá nhân, tập thể hoặc cộng đồng, với sự phân công lao động rõ ràng khi làm việc nhóm Đối tượng của hoạt động lý luận là những khía cạnh cụ thể của khách thể mà chủ thể tác động vào để khám phá bản chất của chúng, có thể là hiện tượng tự nhiên, xã hội hoặc đời sống tinh thần Các đối tượng này được phân loại theo lĩnh vực và cấp độ hoạt động lý luận khác nhau, với mỗi lĩnh vực tiếp cận theo cách riêng Điều kiện cho hoạt động lý luận bao gồm môi trường tự nhiên và văn hóa - xã hội, với các yếu tố vật chất và tinh thần ảnh hưởng đến nội dung và phương thức hoạt động Điều kiện cơ bản nhất là chủ thể hoạt động phải được đáp ứng nhu cầu sinh sống tối thiểu.

Để đảm bảo cuộc sống tối thiểu, con người cần có đủ ăn, ở, mặc và phương tiện đi lại Hoạt động lý luận cần dựa trên những tiền đề lý luận đã có, được hình thành từ các hoạt động lý luận trước đó Chủ thể lý luận cần tích cực kế thừa và phê phán những tiền đề này nhằm nâng cao chất lượng kết quả lý luận, đáp ứng yêu cầu của thời đại.

Kết quả của hoạt động lý luận bao gồm những học thuyết và quan niệm mới, cùng với sự nâng cao năng lực tư duy sau mỗi chu kỳ hoạt động Điều này thể hiện sự kết tinh và chuyển hóa lý luận vào các lĩnh vực nhận thức khác nhau Sự đa dạng của kết quả lý luận phản ánh tính đa dạng của các chủ thể và lĩnh vực hoạt động trong xã hội.

Lí luận có thể được phân chia thành nhiều loại như tiên tiến, cách mạng, bảo thủ, phản cách mạng, giáo điều, chiết trung, ngụy biện, duy lí, phi duy lí, lí luận khoa học và phi khoa học Tuy nhiên, các loại hình lí luận này không hoàn toàn do thực tiễn quyết định, mà chủ yếu phụ thuộc vào lập trường triết học của từng chủ thể.

Mác đã phê phán những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, bao gồm cả chủ nghĩa duy vật của Feuerbach, và chỉ ra rõ ràng đặc trưng của thực tiễn Ông định nghĩa thực tiễn là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, bao gồm hoạt động khách quan, cảm tính và có tính biến đổi - cách mạng, đồng thời là cốt lõi của mọi đời sống xã hội Lênin trong Bút kí triết học cũng nhấn mạnh rằng thực tiễn vượt trội hơn nhận thức lý luận, nhờ vào tính phổ biến và tính hiện thực trực tiếp của nó.

Thực tiễn, theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, có những đặc trưng quan trọng: 1) Thực tiễn là hoạt động của con người, thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể; 2) Thực tiễn mang tính khách quan, cảm tính và là hoạt động vật chất phổ biến Điều này khác biệt với hoạt động nhận thức, vốn chỉ diễn ra trong tâm trí con người và chủ yếu tạo ra giá trị tinh thần Sự khác biệt này nổi bật ở tính vật chất phổ biến, một đặc trưng cơ bản của thực tiễn, bao trùm toàn bộ kết cấu của nó, bao gồm chủ thể, khách thể và nhu cầu.

90 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.9, 12

91 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, t.29, tr.230

Thực tiễn đóng vai trò quan trọng trong việc biến đổi hiện thực và là hoạt động căn bản, nền tảng cho mọi hoạt động của con người và xã hội Nó không chỉ là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội mà còn tạo ra những kết quả cuối cùng đáng kể.

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất và cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm chinh phục và cải biến các khách thể tự nhiên và xã hội Nó không chỉ là hoạt động của từng cá nhân mà chủ yếu là kinh nghiệm tổng thể của nhân loại qua các thời kỳ lịch sử Hoạt động thực tiễn có tính chất xã hội cả về nội dung lẫn phương thức thực hiện, phản ánh các mối quan hệ đa dạng giữa con người với tự nhiên và với nhau trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần Thực tiễn, như một phương thức tồn tại cơ bản của con người, có cấu trúc phức tạp bao gồm nhu cầu, mục đích, động cơ, hành động, đối tượng hướng đến, phương tiện đạt mục tiêu và kết quả cuối cùng Trong thực tiễn, luôn có sự tương tác giữa các yếu tố để tạo ra giá trị mới.

Thực tiễn không chỉ đơn thuần là "hoạt động vật chất", vì điều này không phân biệt được giữa hoạt động của con người và con vật Tất cả hoạt động của con người đều có sự tham gia của ý thức, ngay cả những lao động giản đơn nhất Do đó, thực tiễn phải được hiểu là hoạt động có ý thức, trong đó ý thức và tinh thần là những yếu tố quan trọng Mục đích của hoạt động con người thường chỉ tồn tại trong tư tưởng Để phân biệt thực tiễn với hoạt động lý luận hay tinh thần, cần nhấn mạnh rằng thực tiễn có tính chất vật chất phổ biến, tức là hoạt động vật chất là nền tảng của thực tiễn.

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

Các phương pháp tiếp cận khác nhau về xã hội và sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại

1.1 Phương pháp tiếp cận duy tâm về xã hội

Trong nghiên cứu xã hội và lịch sử nhân loại trước Mác, phương pháp tiếp cận chủ yếu là duy tâm, bao gồm cả quan điểm duy tâm khách quan và chủ quan Phương pháp luận này, được gọi là duy tâm về xã hội hay lịch sử, cho rằng mọi vấn đề trong đời sống xã hội không xuất phát từ cơ sở vật chất mà từ ý thức, tinh thần và tư duy của cá nhân hoặc cộng đồng (duy tâm chủ quan), hoặc từ “Ý niệm tuyệt đối” và “Tinh thần tuyệt đối” (duy tâm khách quan) Một ví dụ điển hình về quan điểm này có thể thấy trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ.

Trung đại phản ánh quan điểm của Nho gia, một trường phái do Khổng Tử sáng lập trong thời Xuân Thu và được hoàn thiện bởi Mạnh Tử trong thời Chiến Quốc, cùng với các nhà tư tưởng Nho gia khác trong suốt hơn hai nghìn năm lịch sử Nền tảng lý luận của Nho gia tập trung vào việc nghiên cứu bản tính thiện của con người, từ góc độ tư tưởng chính trị và đạo đức Trường phái này nhấn mạnh vai trò tối cao của tư tưởng chính trị và đạo đức trong xã hội.

Theo học thuyết này, bản tính con người được xác định bởi các giá trị tư tưởng chính trị và đạo đức nhân văn, bao gồm Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) Tất cả các quan hệ xã hội đều quy về các mối quan hệ chính trị và đạo đức cơ bản, được gọi là Tam cương và mở rộng thành Ngũ luân Những mối quan hệ này bao gồm: vua với bề tôi (quân thần), cha với con (phụ tử), chồng với vợ (phu phụ), anh với em trong gia tộc (huynh đệ) và quan hệ bè bạn ngoài gia tộc (bằng hữu).

Các nhà tư tưởng Nho gia đã phát triển học thuyết Nhân trị với mục tiêu xây dựng một xã hội hưng thịnh thông qua việc giải quyết hài hòa các quan hệ Ngũ luân Học thuyết này tập trung vào việc nâng cao giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức cho mọi người, từ vua chúa đến dân thường, nhằm phát huy bản tính thiện và hướng tới hình mẫu người quân tử Mặc dù mang giá trị nhân văn sâu sắc, nhưng tính không tưởng vẫn là đặc trưng cơ bản trong triết lý xã hội của Nho gia, cho thấy cách tiếp cận của họ chủ yếu thuộc về quan điểm duy tâm chủ quan.

Trong lịch sử triết học phương Tây, triết lý duy tâm đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều học thuyết từ thời Hy Lạp cổ đại đến các triết gia cận đại ở Tây Âu như Anh, Pháp và Đức Đặc biệt, Hegel nổi bật như một đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm khách quan trong triết học cổ điển Đức.

Theo triết học Hegel, giới tự nhiên và xã hội chỉ là hình thức tồn tại thứ hai, là sự "tha hoá" của Ý niệm tuyệt đối, vốn tự vận động trong bản thân nó Lịch sử nhân loại không phải là quá trình tiến hóa theo các quy luật khách quan hay nhu cầu phát triển sản xuất, mà là giai đoạn tự vận động cao nhất của Ý niệm tuyệt đối, khi nó trở thành Tinh thần tuyệt đối Qua quá trình này, Ý niệm tuyệt đối đã trở về với chính nó, khôi phục lại bản chất nguyên thủy của mình.

Trong Triết học tinh thần của Hegel, ông mô tả tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại như là sự tự phát triển của “Tinh thần”, trải qua ba giai đoạn: Tinh thần chủ quan, Tinh thần khách quan và Tinh thần tuyệt đối Từ Tinh thần chủ quan, liên quan đến mỗi cá thể, tiến đến Tinh thần khách quan, thể hiện qua các hình thái xã hội như gia đình, xã hội công dân và nhà nước, cuối cùng đạt tới Tinh thần tuyệt đối, nơi mâu thuẫn giữa khách quan và chủ quan được khắc phục Hegel cho rằng lịch sử nhân loại không chỉ là sự phát triển của các quan hệ vật chất mà là sự “tha hóa” của Tinh thần, tìm về sự thống nhất trong Ý niệm tuyệt đối, thể hiện qua nghệ thuật, tôn giáo và triết học Phương pháp biện chứng duy tâm của Hegel trong phân tích lịch sử nhân loại đã mở đường cho cách tiếp cận mới, mặc dù vẫn mang tính duy tâm khách quan.

Phương pháp tiếp cận duy tâm của Hegel trong nghiên cứu xã hội và lịch sử đã bị các nhà triết học Đức thế kỷ XIX chỉ trích, đặc biệt là từ Feurbach và các thành viên "Nhóm Hegel trẻ" như Bauer và Stirner Tuy nhiên, mặc dù phê phán Hegel, Feurbach và nhóm Hegel trẻ vẫn không thoát khỏi cách tiếp cận duy tâm trong lịch sử Sự phê phán của họ chủ yếu chỉ là việc thay thế các phạm trù mà không thực sự từ bỏ tư tưởng duy tâm.

Trong triết học Hegel, khái niệm “Ý niệm tuyệt đối” hay “Tinh thần tuyệt đối” được khám phá thông qua các phạm trù mới về ý thức con người, bao gồm “Tình yêu” theo quan niệm của Feuerbach, “Tự ý thức” theo Bauer, và “Cái Tôi duy nhất” Những khái niệm này mở ra những góc nhìn sâu sắc về bản chất của ý thức và mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.

Sự phê phán của Stirner chuyển từ quan điểm duy tâm khách quan của Hegel sang cách tiếp cận duy tâm chủ quan về xã hội và lịch sử.

1.2 Phương pháp tiếp cận duy vật về xã hội

Những ý tưởng tiếp cận duy vật trong nghiên cứu xã hội đã được phản ánh rõ nét trong các học thuyết của những triết gia duy vật Tây Âu thời cận đại như Lametri, Diderot, Holbach ở Pháp và Bacon, Hobbes ở Anh Feurbach đã kế thừa và phát triển những tư tưởng này trong triết học cổ điển Đức Tuy nhiên, cách tiếp cận của họ còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc sử dụng phương pháp siêu hình trong nghiên cứu xã hội và lịch sử Dù đã nhận diện vai trò quan trọng của nhân tố kinh tế và hoàn cảnh vật chất đối với đời sống tinh thần, nhưng họ chưa thực sự hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, cũng như giữa kinh tế với chính trị, pháp quyền, đạo đức và tôn giáo trong sự phát triển xã hội Họ cũng chưa xem xã hội như một hệ thống kết cấu thống nhất và vận động theo các quy luật khách quan.

Cách tiếp cận duy vật biện chứng của Mác, được trình bày hệ thống trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", thể hiện phương pháp nghiên cứu xã hội theo hướng thực thụ khoa học Tác phẩm này nhằm phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của các triết gia Đức đương thời, đặc biệt nhóm "Hegel trẻ", đồng thời xác định lập trường duy vật mới Mác đề xuất một cách nhìn mới về lịch sử và xã hội, từ đó rút ra những kết luận mới, góp phần xây dựng các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu xã hội.

Về điểm xuất phát hay tiền đề nghiên cứu về xã hội và lịch sử, Mác khẳng định:

Triết học của chúng ta đi từ thực tiễn cuộc sống lên lý thuyết, hoàn toàn trái ngược với triết học Đức, nơi mà tư duy thường bắt đầu từ các khái niệm trừu tượng Chúng ta không dựa vào những gì con người nói hay tưởng tượng, mà thay vào đó, chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết từ những trải nghiệm thực tế và hiện thực sống động, không chỉ dừng lại ở những biểu tượng hay ý niệm.

Chúng ta không chỉ đơn thuần xuất phát từ những con số hay dữ liệu khô khan, mà từ những con người cụ thể đang hành động trong thực tế Sự phát triển của tư tưởng và những phản ánh của nó chính là kết quả từ quá trình sống thực tế của họ.

Mác đã chỉ ra hai phương pháp tiếp cận đối lập trong nghiên cứu xã hội và lịch sử: phương pháp duy vật và phương pháp duy tâm Phương pháp duy tâm, như của Hegel và nhóm Hegel trẻ, bắt đầu từ con người trong ý nghĩ và biểu tượng của người khác, trong khi phương pháp duy vật của Mác xuất phát từ những con người đang hành động trong thực tế, từ quá trình sống của họ để mô tả sự phát triển của tư tưởng.

Như vậy, theo cách tiếp cận của Mác, cần phải xuất phát từ con người hiện thực để giải thích toàn bộ đời sống xã hội và lịch sử

Những nội dung khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

2.1 Sản xuất vật chất là nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội

2.1.1 Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội

Xã hội là khái niệm chỉ các cộng đồng người có tổ chức trong lịch sử, nhằm thiết lập và duy trì các mối quan hệ đa dạng giữa con người, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức và tôn giáo.

Cộng đồng thị tộc và bộ lạc là hình thức xã hội đầu tiên của nhân loại, với cấu trúc tổ chức đơn giản nhất Qua quá trình tiến hóa lịch sử, cộng đồng bộ tộc đã hình thành và phát triển, dẫn đến sự hình thành các hình thức xã hội phức tạp hơn.

Cơ cấu tổ chức quốc gia - dân tộc hiện nay đang chuyển mình để đáp ứng nhu cầu lịch sử mới trong thời đại hiện đại Sự xuất hiện của các hình thức liên minh rộng lớn giữa các quốc gia - dân tộc đã tạo ra những tổ chức xã hội mang tính khu vực và quốc tế.

Trong mọi hình thức tổ chức cộng đồng xã hội, ba quá trình sản xuất cơ bản bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người luôn hiện hữu và tương tác lẫn nhau Sản xuất vật chất liên quan đến việc con người hợp tác để cải biến môi trường tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển Sản xuất tinh thần tạo ra các giá trị văn hóa, từ tri thức đến nghệ thuật, đạo đức và triết học Đồng thời, quá trình sản xuất và tái sản xuất con người diễn ra liên tục, hình thành các mối quan hệ xã hội trên cả hai phương diện tự nhiên và xã hội Ba loại hình sản xuất này không chỉ tồn tại song song mà còn quy định, chi phối và làm biến đổi lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của đời sống xã hội.

Tính quyết định của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội bắt nguồn từ nhu cầu cơ bản của con người về thức ăn, nước uống, nhà ở và quần áo Hành vi lịch sử đầu tiên chính là sản xuất các tư liệu để đáp ứng những nhu cầu này, tạo ra đời sống vật chất Do đó, nghiên cứu lịch sử nhân loại cần bắt đầu từ hành vi lao động sản xuất của con người Mác nhấn mạnh rằng con người phân biệt với động vật ngay từ khi bắt đầu sản xuất tư liệu sinh hoạt Vì vậy, hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất là phương thức đặc trưng cho sự sinh tồn và phát triển của con người, đồng thời là yếu tố quyết định để con người làm ra lịch sử của chính mình.

113 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.40

114 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.29

Lao động sản xuất vật chất là hoạt động của con người nhằm cải biến đối tượng tự nhiên, yêu cầu sự liên kết giữa các cá nhân thành cộng đồng tổ chức Mác nhấn mạnh rằng sản xuất không chỉ là mối quan hệ với tự nhiên mà còn đòi hỏi sự hợp tác giữa con người để thực hiện hoạt động chung và trao đổi Để sản xuất hiệu quả, cần có mối quan hệ xã hội nhất định, trong đó hoạt động sản xuất diễn ra trong khuôn khổ các mối liên hệ này.

Mối quan hệ sản xuất trong xã hội phản ánh sự liên kết giữa con người nhằm đạt được lợi ích vật chất từ quá trình sản xuất Những quan hệ này không chỉ tạo ra các mối quan hệ xã hội khác trong các lĩnh vực chính trị, pháp luật, đạo đức và tôn giáo, mà còn là điều kiện cần thiết để xác lập và thực thi các quan hệ sản xuất Điều này cho thấy rằng quan hệ sản xuất không phải là ngẫu nhiên hay chủ quan, mà có cơ sở khách quan từ nhu cầu thực tiễn của sản xuất và trình độ kỹ thuật công nghệ trong từng giai đoạn lịch sử.

Cách tiếp cận duy vật của Mác khẳng định rằng sản xuất vật chất là nền tảng cho toàn bộ đời sống xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích những biến động lịch sử Tất cả sự biến đổi và phát triển trong các quan hệ xã hội giữa con người, cũng như sự chuyển đổi từ hình thức tổ chức xã hội này sang hình thức cao hơn, đều dựa trên cơ sở vật chất Phương pháp luận duy vật của Mác cung cấp một khung lý thuyết vững chắc để hiểu rõ hơn về sự tiến hóa của xã hội nhân loại.

115 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.552

Nghiên cứu xã hội và lịch sử cho thấy rằng sự tiến hóa văn minh của nhân loại phụ thuộc vào quá trình phát triển của trình độ sản xuất vật chất trong xã hội Để hiểu rõ sự phát triển này, cần xem xét mọi lĩnh vực của xã hội, bắt đầu từ thực trạng của nền sản xuất vật chất Cuối cùng, trình độ phát triển này lại gắn liền với phương thức sản xuất, tức là những cách thức mà xã hội áp dụng để tạo ra của cải vật chất trong từng giai đoạn lịch sử.

Mỗi quá trình sản xuất vật chất đều diễn ra theo hai phương thức chính: phương thức kỹ thuật, công nghệ và phương thức tổ chức kinh tế Phương thức tổ chức kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức kỹ thuật, công nghệ hiện có trong xã hội Do đó, trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ là yếu tố quyết định đến sự phát triển của nền sản xuất vật chất, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội trên mọi phương diện.

Sự khác biệt cơ bản giữa phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống và công nghiệp hiện đại thể hiện rõ trong cách tổ chức kinh tế Trong nông nghiệp truyền thống, kinh tế thường hoạt động theo quy mô nhỏ, tự sản - tự tiêu, với quy trình tái sản xuất giản đơn và sở hữu tư nhân nhỏ đối với tư liệu sản xuất Lao động và tư liệu sản xuất chủ yếu ở trình độ thủ công, được tích lũy từ kinh nghiệm truyền thừa trong phạm vi hẹp Ngược lại, phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại, phát triển từ các cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu thế kỷ XVIII, tổ chức kinh tế theo phương thức thị trường, mở rộng quy mô và tính cạnh tranh trong sản xuất.

Nền kinh tế hiện đại được hình thành từ ba chủ thể chính: tư nhân, hộ gia đình và nhà nước, kết hợp đa dạng các loại hình sở hữu Cách tổ chức này dựa vào sự vận hành của các giá trị tư bản trong quá trình sản xuất xã hội Về mặt kỹ thuật, sản xuất công nghiệp hiện đại phụ thuộc vào sự phát triển của công nghệ cao và hiện đại Do đó, phương thức sản xuất này được gọi là "phương thức công nghiệp - thị trường hiện đại", phản ánh sự thống nhất giữa các yếu tố trong sản xuất vật chất của các xã hội tiên tiến từ nửa cuối thế kỷ.

Quá trình chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất công nghiệp không chỉ thay đổi phương thức sản xuất mà còn cách mạng hóa các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng đến tổ chức chính trị, pháp luật, văn hóa, đạo đức và tôn giáo Theo Mác, sự phát triển kinh tế của một dân tộc hay thời đại sẽ tạo ra nền tảng cho việc hình thành các thể chế nhà nước, quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và cả những quan niệm tôn giáo của con người.

Mác đã chỉ ra rằng phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định trong nền sản xuất vật chất, ảnh hưởng đến trình độ phát triển của xã hội và sự tiến hóa của lịch sử nhân loại Ông phác họa lịch sử phát triển của xã hội thông qua sự thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất, từ thấp đến cao, thể hiện tư tưởng sâu sắc về mối liên hệ giữa kinh tế và xã hội.

Các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại có thể được xem như là những giai đoạn tiến triển liên tục của các hình thái kinh tế - xã hội, góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị.

Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

3.1 Vấn đề lựa chọn con đường phát triển của xã hội Việt Nam

Việc xác định mục tiêu và biện pháp thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kết quả của sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Điều này đặc biệt thể hiện qua học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và lý luận của các nhà kinh điển về quá trình quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội Sự sáng tạo này đã được thể hiện rõ nét trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.

- Kiên định mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, những sai lầm trong việc áp dụng nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đã dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định với lập trường xã hội chủ nghĩa, tiến hành đổi mới toàn diện dựa trên nghiên cứu và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đương đại.

Kể từ năm 1986, thực tiễn đổi mới đã khẳng định rằng kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa là con đường đúng đắn giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng, xóa nghèo, và phát triển Chúng ta hướng tới một xã hội mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ với nền kinh tế phát triển cao, văn hóa tiên tiến, và con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc Tất cả các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam cần bình đẳng, đoàn kết, và hỗ trợ lẫn nhau, cùng với một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân lãnh đạo và có quan hệ hữu nghị với các quốc gia trên thế giới.

- Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là tư tưởng của Lênin về quá trình quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam Con đường này bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại Quá trình này sẽ tạo ra những biến đổi sâu sắc trong xã hội, tuy nhiên, đây là một sự nghiệp khó khăn và phức tạp, đòi hỏi một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội khác nhau Trong quá trình thực hiện, sẽ diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

122 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) xác định mục tiêu tổng quát là xây dựng nền tảng kinh tế chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp Mục tiêu này nhằm tạo cơ sở cho nước ta trở thành một xã hội chủ nghĩa phồn vinh và hạnh phúc Đến giữa thế kỷ XXI, cần nỗ lực phấn đấu để xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cương lĩnh xác định tám phương hướng cơ bản để đạt được mục tiêu phát triển bền vững: 1) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường; 2) Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 3) Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội; 4) Bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội; 5) Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, hòa bình và tích cực hội nhập quốc tế; 6) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường đại đoàn kết toàn dân; 7) Thiết lập Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì nhân dân; và 8) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cương lĩnh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản, bao gồm: mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; đổi mới kinh tế và chính trị; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; cùng với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân, tránh các quan điểm phiến diện, cực đoan và duy ý chí.

Trong tám phương hướng cơ bản được nêu trong Cương lĩnh, phương hướng đầu tiên là đẩy mạnh công nghiệp hóa, song song với đó là phát triển kinh tế thị trường định hướng.

Hai phương hướng này nhằm xác lập phương thức sản xuất công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò quyết định trong việc phát triển nền sản xuất vật chất xã hội chủ nghĩa và đảm bảo thắng lợi cho chế độ xã hội mới này.

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, sự phát triển của mỗi xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Xã hội tư bản phát triển hơn xã hội phong kiến nhờ vào nền sản xuất công nghiệp tiên tiến Xã hội xã hội chủ nghĩa, với vai trò là một hình thức phát triển cao hơn, cũng cần phải dựa trên nền sản xuất công nghiệp Để đạt được điều này, Việt Nam, với nền sản xuất thủ công lạc hậu, cần tập trung vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu để nâng

Trong các văn kiện gần đây của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác định là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Phương thức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay được xác định là con đường có thể rút ngắn thời gian, kết hợp giữa các bước tuần tự và nhảy vọt Điều này nhằm phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghiệp tiên tiến, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học Đồng thời, cần ứng dụng ngày càng nhiều hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là nền tảng và động lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

123 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) nhấn mạnh vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại Khoa học và công nghệ không chỉ bảo vệ tài nguyên và môi trường mà còn nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ là thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được cải thiện Đây là bước tiến trong tư tưởng của Lênin, nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế nhiều thành phần và kinh tế hàng hóa trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn chuyển tiếp.

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, đặc trưng bởi việc phân bổ nguồn lực không theo cơ chế tập trung quan liêu mà dựa vào cơ chế thị trường Cơ chế này khuyến khích sự sáng tạo và huy động tối đa các nguồn lực cho sản xuất và kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các lực lượng sản xuất hiện có, góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.

TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ

Các quan niệm về chính trị trong lịch sử triết học

1.1 Quan niệm của triết học ngoài mácxít về chính trị

1.1.1 Quan điểm về chính trị trong lịch sử triết học trước Mác

Khái niệm "chính trị" xuất phát từ Hy Lạp cổ đại, được triết gia Aristotle đề xướng, mang ý nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý của những nhà lãnh đạo xuất sắc Chính trị cũng được hiểu là khoa học về việc giành và nắm giữ quyền lực trong xã hội.

Quan điểm về chính trị và các vấn đề cơ bản như quyền lực và tổ chức Nhà nước đã được thể hiện rõ ràng trong triết học cổ đại, khi xã hội loài người bắt đầu hình thành các giai cấp và cấu trúc nhà nước.

-Quan điểm về chính trị trong triết học Ấn Độ cổ đại

Triết học Ấn Độ cổ đại xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII TCN, trong bối cảnh chuyển biến mạnh mẽ từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ, dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp khác nhau Các quan điểm chính trị được thể hiện trong Veda và Upanishad, nhưng đến thời kỳ Phật giáo, những quan điểm này trở nên rõ nét hơn Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng và các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt, cho rằng khi lãnh đạo tham nhũng và bất công, xã hội sẽ rơi vào tình trạng tha hóa và đau khổ Do đó, để chống lại tham nhũng, chính phủ cần phải có khả năng quản trị hiệu quả.

Phật Giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp pháp trị và đức trị trong quản lý đất nước, thể hiện tư tưởng chính trị nhân ái Nguyên tắc nhân ái là nền tảng cho các quyết định chính trị và quản lý, nhằm xây dựng một xã hội hài hòa và công bằng.

Quan điểm về chính trị trong Triết học Trung Quốc cổ đại phản ánh sự hình thành xã hội chiếm hữu nô lệ từ thiên niên kỷ thứ 2 TCN, đánh dấu một lịch sử đầy đấu tranh giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội Các trường phái tư tưởng chính trị đã ra đời từ những xung đột này, với Nho giáo nổi bật trong việc liên kết các vấn đề đạo đức, triết học và chính trị-xã hội Nho giáo đặc biệt chú trọng đến phương pháp chính trị như một công cụ để duy trì trật tự xã hội, nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu chính trị đã đề ra Những nội dung chủ yếu của phương pháp chính trị trong Nho giáo góp phần quan trọng vào việc ổn định xã hội cổ đại Trung Quốc.

Người cầm quyền cần thường xuyên tu thân để quản lý đất nước và làm gương cho dân chúng Trong Nho giáo, "tu thân" được coi là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công và thực hiện lý tưởng trị quốc, bình thiên hạ.

Việc áp dụng đức vào chính sự (Vi chính dĩ đức) nhằm thực hiện vương đạo là một nguyên tắc quan trọng trong Nho giáo Giá trị đạo đức được nhấn mạnh và coi trọng tuyệt đối, đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng xã hội Đạo đức không chỉ là nền tảng của các mối quan hệ xã hội mà còn trở thành công cụ và vũ khí hữu hiệu để đạt được các mục tiêu chính trị.

Thứ ba, phải đi từ tề gia đến trị quốc, “muốn trị được quốc trước hết phải tề được gia”

Thứ tư, phải coi trọng vấn đề dưỡng dân và giáo dân, coi trọng vai trò của dân, dân là gốc nước

Trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại, ngoài Nho gia, Pháp gia, đại diện là Hàn Phi Tử (280-233 TCN) thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, đã có ảnh hưởng lớn đến sự thống nhất tư tưởng và chính trị xã hội Trong khi Nho gia chủ trương "nhân trị", Mặc gia đề cao "kiêm ái", và Đạo gia khuyến khích sống theo tự nhiên với phương pháp "vô vi", thì Pháp gia coi hình pháp là công cụ quan trọng để ổn định và phát triển xã hội.

Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị, tạo thành học thuyết hoàn chỉnh nhằm phê phán chế độ chuyên chế phong kiến của Trung Quốc Học thuyết này tổng hợp các yếu tố "pháp" và "thế", nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp trong việc duy trì trật tự xã hội và quyền lực chính trị.

"thuật" Trong đó "pháp" là nội dung chính của chính sách cai trị, "thế" và "thuật" là phương tiện để thực hiện chính sách đó

-Quan điểm về chính trị trong triết học Hy Lạp cổ đại

Trong triết học Hy Lạp cổ đại, Plato (429-347 TCN) nhấn mạnh rằng con người có vai trò quan trọng hơn xã hội Ông cho rằng việc nghiên cứu bản chất con người là cần thiết để xác định những đặc tính mong đợi của một xã hội lý tưởng Plato khẳng định rằng hiểu biết về con người sẽ dẫn đến việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

"Quốc gia phản ánh bản chất của con người sống trong đó, và chính quyền cũng thay đổi theo tính cách của người dân Các tư tưởng của Plato và Aristotle đã chỉ ra rằng cấu trúc và tính chất của một quốc gia phụ thuộc vào những phẩm chất của công dân Từ đó, có thể thấy rằng sự phát triển của xã hội gắn liền với sự phát triển của nhân cách con người."

Ông Aten khẳng định rằng con người là một động vật chính trị, với mối liên hệ chặt chẽ giữa luân thường và chính trị Ông phát triển học thuyết về Nhà nước lý tưởng dựa trên bản chất con người, nhấn mạnh vai trò và lợi ích của Nhà nước vượt lên trên quyền lợi cá nhân Ông cho rằng con người cần xã hội hơn là xã hội cần con người, vì xã hội mang giá trị đạo đức, phát sinh từ những nhu cầu thiết yếu của nhân loại.

Trong học thuyết về Nhà nước được thể hiện trong tác phẩm Nền Cộng hoà

Trong tác phẩm "Cộng hòa", Plato đã xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng, được coi là chế độ cộng sản, mà sau này các nhà Mácxít gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng Mối quan tâm chính của ông trong triết học xã hội là vấn đề đức hạnh, với bốn đức hạnh cốt lõi: tiết độ, gan dạ, khôn ngoan và công bằng Khôn ngoan được xem là đặc quyền của các triết gia – vua Plato cũng xác định bảng phân tầng quyền lực trong xã hội, dựa trên sự phân chia cơ cấu linh hồn thành ba phần.

- Thứ nhất, các triết gia – cai trị gia, còn gọi là đẳng cấp vàng, tương ứng với phần lý trí của linh hồn

- Thứ hai, các chiến binh, còn gọi là đẳng cấp bạc, tương ứng với phần ý chí của linh hồn

- Thứ ba, những người lao động chân tay và buôn bán, còn gọi là đẳng cấp đồng và sắt, tương ứng với phần dục vọng của linh hồn

Plato tin rằng nhà nước lý tưởng được xây dựng dựa trên ba yếu tố chính: sự lãnh đạo của các triết gia – cai trị gia thông thái, sức mạnh và lòng dũng cảm của các chiến binh, cùng với sự tuân thủ nghiêm túc từ đông đảo công dân trong xã hội.

Plato tin rằng xã hội nên được cai trị bởi các triết gia, tức là đẳng cấp vàng, vì họ sở hữu các phẩm chất cần thiết như đạo đức, trí tuệ và sự thông thái Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của tri thức và trí tuệ trong quản lý và lãnh đạo xã hội Theo ông, nguyên lý căn bản của nhà nước lý tưởng là công bằng, với mục tiêu là cái thiện tối cao và phương tiện để đạt được điều đó là giáo dục Tuy nhiên, để cai trị xã hội, việc áp dụng tiêu chuẩn của tri thức và lý trí là điều bắt buộc.

Các phương diện cơ bản về chính trị trong đời sống xã hội

2.1 Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp

2.1.1 Các quan điểm triết học ngoài mácxit về giai cấp và đấu tranh giai cấp

Thuật ngữ "giai cấp" xuất phát từ chữ "classis" trong tiếng Latinh, có nghĩa là tập đoàn, tầng lớp, nhóm Khi xã hội chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, sự phân chia giữa người giàu và người nghèo bắt đầu hình thành, dẫn đến sự xuất hiện của các tầng lớp và giai cấp cùng với những cuộc đấu tranh giữa chúng Ngay từ thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng đã phản ánh tình trạng phân chia giai cấp và các cuộc đấu tranh giai cấp trong các học thuyết của mình.

Lão Tử, sống vào khoảng thế kỷ VI-V trước Công Nguyên, đã nhận thức rõ về sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội phương Đông cổ đại Ông chỉ trích giai cấp thống trị và lên án sự bất bình đẳng xã hội, nhấn mạnh tình trạng áp bức và bóc lột của tầng lớp quý tộc đối với những người nông dân Sự phê phán này thể hiện quan điểm của ông về việc bảo vệ quyền lợi cho những người bị áp bức trong xã hội.

Ông nhấn mạnh quan điểm "vô vi", yêu cầu giai cấp thống trị tuân thủ quy luật tự nhiên và không can thiệp vào đời sống con người, nhằm đưa xã hội và con người trở về trạng thái tự nhiên, thuần phác.

Khổng Tử (551-479 Tr.CN) đã thể hiện quan điểm về giai cấp thông qua học thuyết "nhân", phân chia xã hội thành hai hạng người: tiểu nhân và quân tử, với sự đối lập rõ rệt về địa vị xã hội và nhân cách Người quân tử có quyền lực, địa vị cao và phẩm hạnh, trong khi tiểu nhân thiếu thốn về địa vị và tài năng, buộc phải phục tùng quân tử Ông phản đối những cuộc đấu tranh của quần chúng nghèo khổ chống lại giai cấp thống trị, mà thay vào đó, khuyến khích sự hòa bình và đồng thuận giữa các giai cấp với quan điểm "an bần nhi lạc" và "dĩ hòa vi quý", khuyên người nghèo nên chấp nhận số phận mà không oán trách hay chống đối.

Mặc Tử (479 - 381 TCN) trong học thuyết "kiêm ái" đã chỉ ra sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội, thừa nhận sự tồn tại của các đẳng cấp như sĩ, nông, công, thương Ông lên án sự bất bình đẳng giữa quý tộc và thường dân, đồng thời kêu gọi quyền bình đẳng giữa các tầng lớp Tuy nhiên, ông chưa giải thích rõ nguồn gốc của sự xuất hiện các đẳng cấp khác nhau Tương tự, trong Kinh Veda, một trong những tác phẩm cổ xưa nhất của Ấn Độ, cũng khẳng định về sự phân chia các đẳng cấp trong xã hội.

- Vaisya (bình dân tự do)

Trong hệ thống đẳng cấp, Brahman đứng ở vị trí cao nhất với đầy đủ quyền lực, trong khi Ksudra là đẳng cấp thấp nhất, chỉ có nghĩa vụ phục vụ Trật tự này được coi là thiên định và không thể thay đổi Ngược lại, Phật giáo nhấn mạnh rằng không có sự khác biệt căn bản giữa các giai cấp, bởi mọi sự vật đều từ "không" mà thành "có" và cuối cùng trở về "không", cho thấy sự bình đẳng trong khả năng giải thoát của mọi người Tương tự, trong xã hội Hy Lạp cổ đại, Plato và Aristotle cũng công nhận sự phân chia giai cấp, với Plato phân chia thành ba đẳng cấp chính: nhà thông thái, chiến binh và nông dân/thợ thủ công, trong khi nô lệ chỉ được xem như công cụ Aristotle cũng thừa nhận sự phân chia giữa người cầm quyền và kẻ bị trị, khẳng định rằng chế độ nô lệ là một phần của xã hội.

312 hiện tượng tự nhiên và việc con người được phân chia thành người tự do và nô lệ trong xã hội là việc làm có lợi và cần thiết

- Quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết học phưorng Tây thời trung, cận đại

Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc trở nên rõ ràng hơn, làm nổi bật quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp Các nhà tư tưởng như Thomas More và Tomado Campanella đã chỉ ra rằng giai cấp là những bộ phận khác nhau trong xã hội với quyền lực và địa vị không đồng đều, và sự xuất hiện của giai cấp cùng với đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế và việc sở hữu tài sản.

Trong phân tích về cấu trúc xã hội, các nhà tư tưởng như Adam Smith và Saint Simon đã đưa ra những quan điểm khác nhau về giai cấp Adam Smith phân chia xã hội thành ba giai cấp dựa trên phương thức thu nhập: những người hưởng địa tô, những người hưởng thặng dư và những người làm công ăn lương Trong khi đó, Saint Simon cho rằng xã hội gồm ba giai cấp: các nhà khoa học, chủ sở hữu và những người không có tài sản Ông cũng nhấn mạnh rằng đấu tranh giai cấp là đặc trưng của các xã hội có áp bức, phản ánh nguyện vọng của các giai cấp trong việc thiết lập trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của họ.

Công lao lớn nhất trong việc phát hiện và phân tích giai cấp thuộc về các nhà sử học Pháp như G Francois Ghido, O Guyxtanh Chiery và Francois Minhe Họ cho rằng sự thay đổi trong quan hệ sở hữu tài sản, đặc biệt là đất đai, đã dẫn đến sự biến đổi trong quan hệ giai cấp và chế độ chính trị Tuy nhiên, họ cũng cho rằng sự hình thành giai cấp và nhà nước chủ yếu dựa vào bạo lực và sự tan rã của xã hội cũ, cùng với sự nô dịch giữa các dân tộc và bộ lạc Mặc dù nhận thức được mâu thuẫn trong xã hội tư bản, họ lại mong muốn làm giảm sự đối kháng này thông qua việc điều hòa giai cấp.

Trong suốt các thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại, nhiều tư tưởng đã xuất hiện, phản ánh sự phân chia giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội.

Các tư tưởng trước Mác về giai cấp tuy còn đơn giản và thiếu định nghĩa khái quát, nhưng đã công nhận rằng giai cấp bao gồm những người có quyền lực và địa vị khác nhau trong xã hội Mặc dù chưa giải thích đầy đủ về nguồn gốc giai cấp và đấu tranh giai cấp, những luận điểm này vẫn có giá trị và là tiền đề quan trọng cho sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp sau này.

- Quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng tư sản hiện nay

Các nhà tư tưởng tư sản thường xuyên tìm cách bác bỏ học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin liên quan đến giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp.

Một số học giả tư sản phủ nhận học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của Mác, cho rằng ông đã quá nhấn mạnh sự đối lập giữa tư sản và vô sản Họ khẳng định quy luật đấu tranh giai cấp không phổ biến và không áp dụng cho xã hội tư bản chủ nghĩa Một số học giả khác thừa nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp nhưng bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thường dựa vào cơ sở sinh học hoặc các tiêu chí như ý thức, tâm lý, nghề nghiệp để giải thích sự phân chia này Các nhà kinh tế cũng sử dụng thu nhập để phân biệt giai cấp, nhưng tất cả những quan niệm này đều trái ngược với lý luận khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trong phong trào công nhân quốc tế, hai khuynh hướng tả khuynh và hữu khuynh luôn tồn tại Khuynh hướng hữu khuynh ủng hộ biện pháp cải lương để giải quyết mâu thuẫn giai cấp, tập trung vào đấu tranh kinh tế mà không chú trọng đến đấu tranh chính trị và cách mạng xã hội Các phái như Bécxtanh, Cauxki ở Đức, đảng Mensêvich ở Nga và “Mácxít Áo” đều theo lập trường cải lương, cho rằng đấu tranh giai cấp chỉ là cải cách điều kiện sống của công nhân trong chế độ tư bản và điều hòa lợi ích giữa giai cấp tư sản và công nhân Mặc dù chủ nghĩa cải lương xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, nhưng nó vẫn tồn tại đến ngày nay.

Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa xét lại đang là những nội dung quan trọng trong bối cảnh quốc tế hiện nay Đối lập với chủ nghĩa hữu khuynh là chủ nghĩa tả khuynh, mà theo Lênin, là biểu hiện của tư duy "cách mạng" tiểu tư sản Chủ nghĩa tả khuynh thường che giấu bản chất cơ hội của mình bằng những khẩu hiệu "cách mạng cực đoan", nhằm lợi dụng tình cảm quần chúng Họ thường có cái nhìn chủ quan về tình hình, muốn bỏ qua các bước quá độ và các biện pháp linh hoạt, dẫn đến việc phong trào cách mạng rơi vào tình trạng phiêu lưu, mạo hiểm và dễ bị tổn thất.

Vấn đề đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay

3.1 Vấn đề phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay

206 Alvin Toffler (2006), Thăng trầm quyền lực (2 tập), Khổng Đức (dịch), Nxb Thanh niên, tập 1, trang 156

207 Alvin Toffler (2006), Thăng trầm quyền lực (2 tập), Khổng Đức (dịch), Nxb Thanh niên, tập 1, trang 316

Khái niệm dân chủ đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, với thuật ngữ “demokratia” lần đầu được ghi nhận ở Hy Lạp cổ đại vào khoảng thế kỷ V đến IV trước Công Nguyên Thuật ngữ này được tạo thành từ hai từ “demos”, thể hiện sự liên kết giữa người dân và quyền lực.

Dân chủ, có nguồn gốc từ từ "demos" nghĩa là nhân dân và "kratos" nghĩa là quyền lực, là khái niệm chỉ thể chế chính trị tại một số thành bang của Hy Lạp, nơi quyền lực thuộc về nhân dân.

Khái niệm dân chủ đã xuất hiện từ sớm nhưng vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau Các triết lý phi Mácxít thường coi nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và sự bình đẳng của công dân là đặc trưng cơ bản của dân chủ, tách rời khỏi các điều kiện kinh tế - xã hội và vấn đề giai cấp Những quan niệm này thường mang tính hình thức và che đậy mục đích chính trị của giai cấp thống trị Ferdinand Lassalle, một nhà tư tưởng cơ hội chủ nghĩa, cho rằng dân chủ là sự ban ơn của giai cấp tư sản cho giai cấp công nhân Ngược lại, triết học Mác - Lênin nghiên cứu dân chủ từ vai trò của quần chúng nhân dân và coi các quan hệ kinh tế là cơ sở của mọi quyết định quản lý Điều này khẳng định rằng tính chất dân chủ của xã hội phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, tức là sở hữu tư liệu sản xuất Trong xã hội có giai cấp đối kháng, thực chất của "dân chủ" chỉ là dân chủ của giai cấp thống trị, phục vụ cho lợi ích của thiểu số bóc lột.

Dân chủ không phải là sự thống trị của đa số nhân dân lao động đối với thiểu số kẻ bóc lột, mà là quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, với sự bình đẳng trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội Các thiết chế như hiến pháp, pháp luật và nghị viện do giai cấp bóc lột lập ra chỉ nhằm mục đích duy trì quyền lực của họ, và không thể đảm bảo sự bình đẳng về kinh tế Khi không có sự công bằng trong sở hữu tư liệu sản xuất, thì dân chủ trong kinh tế cũng như chính trị trở nên không thể đạt được Các hình thức dân chủ như dân chủ chủ nô, phong kiến hay tư sản chỉ là những chiêu trò chính trị nhằm lừa dối nhân dân lao động.

Triết học Mácxít dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng khẳng định rằng dân chủ là sự bình đẳng giữa mọi công dân, cho phép họ tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quyết định quản lý xã hội Mác nhấn mạnh rằng mọi công dân đều có quyền tham gia và hưởng lợi ích từ các quyết định đó một cách bình đẳng Lênin bổ sung rằng việc phát triển dân chủ cần đảm bảo sự tham gia thực sự, bình đẳng và rộng rãi của toàn thể quần chúng nhân dân lao động vào mọi hoạt động của nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến bản chất của dân chủ một cách ngắn gọn, khái quát: “Dân chủ là dân làm chủ”

Dân chủ chỉ thực sự hiện hữu trong xã hội khi được xây dựng trên nền tảng công hữu về tư liệu sản xuất Cuộc cách mạng vô sản, do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập công hữu, là bước đi quan trọng để đạt được chủ nghĩa cộng sản Một nội dung cốt lõi trong xã hội này là nền dân chủ vô sản, được coi là chế độ dân chủ thật sự và hoàn hảo nhất trong lịch sử nhân loại, nơi mọi công dân đều có quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hội 363 tham gia vào các quyết định quản lý nhà nước liên quan đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và khoa học Trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, xã hội đang được xây dựng theo hướng tiến bộ, hướng tới một xã hội xã hội chủ nghĩa Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập để thích ứng với các điều kiện thực tiễn cụ thể trong xã hội này.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hay còn gọi là nền dân chủ vô sản, được thiết lập bởi giai cấp vô sản trong thời kỳ chuyên chính của họ Nó phản ánh bản chất của giai cấp này và được xây dựng trên nền tảng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất Đây là một hình thức dân chủ thực sự phục vụ cho đại đa số nhân dân lao động, vượt trội hơn các hình thức dân chủ trước đó Trong nền dân chủ này, mọi công dân, không phân biệt giới tính, nòi giống, dân tộc hay tôn giáo, đều có quyền bình đẳng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa, cũng như quyền tham gia vào các quyết định quản lý nhà nước và hưởng lợi ích một cách công bằng từ những quyết định đó.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và xây dựng một cách sáng tạo, phản ánh quá trình tìm tòi và khảo nghiệm công phu trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội Trước thời kỳ đổi mới, nền dân chủ dựa trên chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa gặp khó khăn do thiếu các điều kiện cần thiết, dẫn đến việc không tạo ra động lực phát triển xã hội mà còn cản trở sự tiến bộ Do đó, cần có sự đổi mới để xây dựng nội dung dân chủ phù hợp với thực tiễn đất nước Việc tiếp cận các tư tưởng dân chủ lịch sử và khảo nghiệm các mô hình dân chủ quốc tế là cần thiết để hoàn thiện và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay tại Việt Nam thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, được xây dựng dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo trong việc phát triển nền dân chủ này Cơ sở kinh tế cho nền dân chủ là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Trong nền dân chủ này, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng về quyền lực chính trị và có quyền tham gia vào các quyết định quản lý nhà nước, đồng thời được hưởng lợi ích từ các quyết định đó.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không ngừng được củng cố và phát huy trong đời sống xã hội, nhằm phát triển bền vững các giá trị dân chủ đã đạt được Mục tiêu là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Để đạt được điều này, cần nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân, cùng với việc tạo cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp Cần phát huy dân chủ ở tất cả các cấp, củng cố và phát triển dân chủ trong đảng, coi đó là hạt nhân thúc đẩy dân chủ toàn xã hội Quan điểm lấy dân làm gốc, và thường xuyên đổi mới hệ thống chính trị sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện.

3.2 Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay

Đổi mới hệ thống chính trị là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quá trình đổi mới chính trị tại Việt Nam, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Hệ thống chính trị không chỉ là thiết chế của kiến trúc thượng tầng mà còn là nơi sản sinh ra hệ tư tưởng chính trị, đồng thời tổ chức và lãnh đạo việc thực thi quyền lực chính trị của đất nước.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam có những đặc điểm cơ bản nổi bật Đặc điểm thứ nhất là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất, thể hiện tính phổ biến của các hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chính, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản Tính đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam được thể hiện qua sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như vị trí và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay Đặc điểm thứ hai là sự hình thành trong bối cảnh nông nghiệp lạc hậu và trải qua các cuộc chiến tranh khốc liệt, điều này ảnh hưởng đến tư duy, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành quyền lực chính trị Cuối cùng, đặc điểm thứ ba là tất cả các tổ chức chính trị - xã hội đều do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tạo nên sự thống nhất trong hệ thống chính trị.

Các tổ chức được thành lập và lãnh đạo có mối quan hệ chặt chẽ với Đảng và Nhà nước, đóng vai trò là cơ sở chính trị của hai tổ chức này Chúng cùng nhau thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng.

366 xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Các đặc điểm cơ bản này không chỉ xác định kết cấu và tổ chức của hệ thống chính trị mà còn phản ánh các mối quan hệ tương tác và những thách thức mà chúng ta cần vượt qua Đồng thời, chúng cũng nhấn mạnh nhu cầu đổi mới và cải thiện hệ thống chính trị để thích ứng kịp thời với thực tiễn hiện nay của đất nước.

THỨC XÃ HỘI

Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội

1.1 Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản hợp thành tồn tại xã hội

Khái niệm "tồn tại xã hội" đề cập đến các hoạt động vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, phản ánh những yếu tố khách quan cần thiết cho sự sinh tồn và phát triển của cộng đồng.

Hoạt động vật chất của xã hội chủ yếu là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, cần thiết cho sự sinh tồn và phát triển Đồng thời, quá trình này cũng thúc đẩy sự hình thành và phát triển các hình thức giao tiếp, trao đổi kết quả sản xuất giữa con người và các cộng đồng xã hội khác nhau.

Các điều kiện vật chất khách quan ảnh hưởng đến sự sinh tồn và phát triển của xã hội bao gồm nhiều yếu tố liên quan chặt chẽ, trong đó ba yếu tố chính là điều kiện tự nhiên, dân cư và phương thức sản xuất Phương thức sản xuất được xem là yếu tố quyết định nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội Điều kiện địa lý tự nhiên đóng vai trò quan trọng, tạo ra những điều kiện khách quan cho sự phát triển của cộng đồng người qua các thời kỳ lịch sử Rõ ràng, không thể tồn tại một cộng đồng người nào, dù là xã hội nguyên thủy hay hiện đại, mà không có những điều kiện vật chất này.

Con người tồn tại nhờ vào những điều kiện vật chất tự nhiên nhất định, trong đó giới tự nhiên được xem như "thân thể vô cơ" của con người Chính từ môi trường tự nhiên, con người thực hiện quá trình trao đổi chất và sản xuất, tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết cho sự sinh tồn và phát triển của mình.

Yếu tố dân cư bao gồm số lượng, cơ cấu, mật độ phân bổ và cấu trúc tổ chức, tạo điều kiện cho sự sinh tồn và phát triển xã hội Ví dụ, cấu trúc cư dân nông nghiệp lúa nước ở Việt Nam với tổ chức làng xã ổn định khác biệt rõ rệt so với cộng đồng dân du mục di động Sự phân bố và tổ chức dân cư trong xã hội nông nghiệp truyền thống, thường phân tán và nhỏ lẻ, chỉ có những mối liên kết ngẫu nhiên trong trao đổi hàng hoá Ngược lại, trong xã hội công nghiệp phát triển, tổ chức dân cư biến đổi mạnh mẽ, hình thành các khu công nghiệp và thành phố lớn, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại.

Các yếu tố tự nhiên và dân cư đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập phương thức sản xuất cụ thể Những yếu tố này không chỉ là nền tảng mà còn thay đổi theo yêu cầu của sự phát triển và vận động lịch sử của các phương thức sản xuất.

Phương thức sản xuất là yếu tố quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người cũng như cộng đồng xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động vật chất của mỗi xã hội Mỗi phương thức sản xuất bao gồm hai mặt: mặt vật chất - kỹ thuật, thể hiện qua trình độ phát triển công nghệ, và mặt kinh tế - xã hội, phản ánh trình độ tổ chức kinh tế Mặt kinh tế - xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của mặt vật chất - kỹ thuật, từ đó xác định tính chất và mức độ phát triển của một tồn tại xã hội nhất định.

Phương thức sinh tồn truyền thống của cư dân người Việt chủ yếu dựa vào kỹ thuật canh tác lúa nước với công cụ và lao động thủ công Hệ thống kinh tế được tổ chức theo quy mô nhỏ, phân tán, dựa trên mô hình hộ gia đình và cấu trúc làng xã truyền thống Sự liên kết giữa các công xã diễn ra không thường xuyên thông qua việc trao đổi hàng hóa dư thừa, nhằm duy trì sự cân bằng trong sinh hoạt vật chất giữa các cộng đồng Mô hình kinh tế này tạo ra sự ổn định theo nhịp điệu tuần hoàn, phù hợp với các chu kỳ sản xuất nông nghiệp truyền thống Trong suốt lịch sử, người Việt Nam chủ yếu theo đuổi phương thức sản xuất này.

Trong xã hội, các yếu tố hợp thành có mối quan hệ tương tác và chi phối lẫn nhau, dẫn đến sự biến đổi trong hoạt động và sinh hoạt của cộng đồng Phương thức sản xuất đóng vai trò chủ chốt, quyết định trình độ phát triển của xã hội Khi phương thức sản xuất được cải tiến nhờ tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, sẽ xảy ra những thay đổi trong việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và cấu trúc phân bố dân cư, nhằm thích ứng với phương thức sản xuất mới.

Người Việt Nam đã phát triển nông nghiệp lúa nước dựa vào điều kiện tự nhiên đặc thù của đất nước, dẫn đến việc hình thành tổ chức lao động gia đình và mô hình làng xã ổn định Sự kết hợp giữa nông nghiệp, tổ chức cộng đồng và môi trường sống đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự sinh tồn và phát triển của người Việt Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong sản xuất nông nghiệp hiện nay đang làm thay đổi cách sử dụng nguồn lực tự nhiên truyền thống, đồng thời biến đổi cấu trúc nông thôn Việt Nam và phát triển đời sống văn hoá - tinh thần của cộng đồng nông thôn mới.

1.2 Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu cơ bản của ý thức xã hội

1.2.1 Khái niệm ý thức xã hội, ý thức cá nhân và ý thức giai cấp

Ý thức xã hội là khái niệm phản ánh mặt tinh thần của đời sống xã hội, phát sinh từ tồn tại xã hội Nó bao gồm toàn bộ đời sống tư tưởng và tâm lý xã hội, được thể hiện phong phú qua sinh hoạt tư tưởng, văn hóa và tập quán của từng cộng đồng.

Ý thức xã hội là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội, không tồn tại một cách cảm tính mà phải thông qua các hình thức văn hóa Nó thường được nhận diện qua ba hình thức cơ bản: thứ nhất, các sinh hoạt tư tưởng mang tính học thuật như chính trị, pháp luật và khoa học; thứ hai, các hoạt động văn hóa của cộng đồng như lễ hội truyền thống, tôn giáo và nghệ thuật; và thứ ba, các tập tục và nếp sống đặc trưng của mỗi cộng đồng người.

Ý thức xã hội, như một phần của đời sống tinh thần cộng đồng, thể hiện qua nhận thức và lối sống của từng cá nhân Trong bối cảnh này, ý thức cá nhân là "cái riêng" chứa đựng biểu hiện của "cái chung" - ý thức xã hội, mà mỗi cá nhân tiếp nhận từ giáo dục xã hội.

Tình cảm yêu nước của dân tộc Việt Nam là một biểu hiện chung, thể hiện đa dạng trong đời sống tình cảm và sinh hoạt của mỗi người dân qua các thời kỳ lịch sử Sự biểu hiện này có mức độ và phương thức khác nhau tùy thuộc vào từng cá nhân và hoàn cảnh cụ thể Điều này liên quan đến ý thức giai cấp và tính giai cấp trong ý thức xã hội.

Ý thức giai cấp là khái niệm phản ánh đặc thù của mỗi giai cấp trong xã hội, thể hiện rõ ràng địa vị và lợi ích của họ Ví dụ, có sự đối lập rõ rệt giữa hệ tư tưởng của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, phản ánh những lợi ích và vị trí căn bản trái ngược giữa hai giai cấp này trong đời sống xã hội.

Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

2.1 Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Sự đối lập giữa quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy tâm, siêu hình thể hiện rõ nét trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội Quan điểm duy vật biện chứng nhấn mạnh rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, trong khi đó, quan điểm duy tâm cho rằng ý thức xã hội có thể ảnh hưởng đến tồn tại xã hội Sự khác biệt này không chỉ ảnh hưởng đến cách hiểu về xã hội mà còn định hình các chính sách và phương pháp phát triển xã hội trong thực tiễn.

Công lao to lớn của Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao và xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, giải quyết khoa học vấn đề hình thành và phát triển của ý thức xã hội Các ông đã chứng minh rằng đời sống tinh thần của xã hội phát triển dựa trên nền tảng đời sống vật chất, và nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội không thể tìm thấy trong chính bản thân nó mà phải từ thực tiễn vật chất Sự biến đổi của một thời đại không thể được giải thích chỉ dựa vào ý thức của thời đại đó; thay vào đó, cần phải xem xét các mâu thuẫn trong đời sống vật chất và xung đột giữa các lực lượng sản xuất xã hội cùng quan hệ sản xuất xã hội.

Những luận điểm trên đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, cho rằng ý thức tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội Chủ nghĩa duy tâm xem tinh thần và tư tưởng quyết định sự phát triển xã hội, tách rời lịch sử các hình thái ý thức xã hội khỏi cơ sở kinh tế và điều kiện thực tiễn.

210 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.15

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, với ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội Khi phương thức sản xuất thay đổi, các tư tưởng và lý luận xã hội, cũng như quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức và văn hóa sẽ biến đổi theo Do đó, sự khác biệt trong lý luận và tư tưởng xã hội qua các thời kỳ lịch sử là kết quả của các điều kiện sống vật chất khác nhau.

Quan điểm duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, nhưng sự phụ thuộc này không diễn ra một cách đơn giản mà thường trải qua các khâu trung gian Không phải mọi tư tưởng hay quan niệm đều phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại; chỉ khi phân tích sâu sắc, chúng ta mới nhận ra rằng các quan hệ kinh tế được phản ánh một cách gián tiếp trong các hình thái ý thức xã hội.

Có sự đối lập rõ rệt giữa quan điểm duy vật và duy tâm, cũng như giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

- Nội dung cơ bản của nguyên lí tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý nghĩa phương pháp luận của nó

Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng để phân tích mối quan hệ giữa lĩnh vực vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, ta nhận thấy rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội Điều này khẳng định rằng nguồn gốc, bản chất và nội dung của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội Hơn nữa, những biến đổi trong tồn tại xã hội sẽ dẫn đến những thay đổi tương ứng trong đời sống ý thức xã hội, thể hiện nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Như vậy, nội dung của nguyên lí này bao gồm hai luận điểm cơ bản:

Bản chất và nội dung của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội, đồng thời có nguồn gốc từ chính tồn tại xã hội đó.

Ý thức xã hội hình thành từ tồn tại xã hội, với mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần của cộng đồng đều xuất phát từ điều kiện sinh tồn và hoàn cảnh khách quan Các hiện tượng tâm lý xã hội được hình thành tự phát từ hoàn cảnh sống, trong khi các quan điểm và học thuyết lại ra đời qua phương thức tự giác Dù có vẻ như các lý thuyết khoa học và triết học không xuất phát từ tồn tại xã hội, nhưng thực chất, sự phát triển của chúng phản ánh nhu cầu cải tạo hiện thực khách quan của xã hội Các nhà khoa học và triết gia phải dựa vào thực tại khách quan để giải đáp những vấn đề xã hội Hiện tượng “bách gia tranh minh” trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc là minh chứng cho nhu cầu chấm dứt nội chiến, xuất phát từ một phương thức sản xuất mới Tương tự, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và tư tưởng Phục hưng ở Tây Âu cũng phản ánh nhu cầu cải tạo tự nhiên và phương thức sản xuất mới Do đó, ý thức xã hội, dù trực tiếp hay gián tiếp, luôn là sự phản ánh của tồn tại xã hội.

Bản chất của ý thức xã hội phản ánh các đặc tính cơ bản của đời sống tinh thần trong xã hội, được hình thành thành hệ giá trị tinh thần Điều này thể hiện rõ nét qua bản sắc văn hóa của các cộng đồng người, đặc biệt là trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa riêng biệt của từng nhóm.

Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là sự kết tinh của hệ giá trị ứng xử giữa con người với nhau trong xã hội và với thiên nhiên Nó phản ánh nhận thức của cộng đồng về cách ứng xử hợp lý trong những hoàn cảnh cụ thể, từ đó giúp bản sắc tồn tại và phát triển Ví dụ, một trong những đặc trưng của văn hóa Việt Nam là

Tinh thần cần cù trong lao động và dũng cảm trong chiến đấu phản ánh sự nhận thức sâu sắc của cộng đồng dân tộc trong bối cảnh cải tạo tự nhiên của nền văn minh nông nghiệp lúa nước Điều này diễn ra trong điều kiện kỹ thuật thủ công, đồng thời họ phải liên tục chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ sự sinh tồn suốt hàng nghìn năm qua.

Nội dung của ý thức xã hội bao gồm “những hình ảnh chủ quan” mang tính sáng tạo trong đời sống tinh thần, phản ánh sự tái tạo các hình ảnh từ hiện thực khách quan Những quan niệm này thường được thể hiện qua biểu tượng trong văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng và tôn giáo, cũng như trong các lý luận học thuật Ví dụ, biểu tượng “Rồng” ở Đông Nam Á và Nagar - thần rắn ở Nam châu Á là những hình ảnh sáng tạo liên quan đến sức mạnh tự nhiên, có mối liên hệ với hoạt động sản xuất của cư dân nông nghiệp Những biểu tượng này phản ánh sự sáng tạo tinh thần của cộng đồng, nhưng xuất phát từ thực tiễn khách quan của đời sống xã hội.

Nội dung của ý thức xã hội không chỉ phản ánh các đối tượng hiện thực khách quan mà còn thể hiện tính chất mâu thuẫn và sự vận động của các mâu thuẫn trong đời sống xã hội Những mâu thuẫn này cuối cùng được chuyển hóa thành mâu thuẫn trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện với những mức độ khác nhau trong tâm lý của từng thành viên trong cộng đồng.

Sự biến đổi và phát triển của ý thức xã hội chủ yếu xuất phát từ sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội, đặc biệt là những biến đổi trong các yếu tố kinh tế, văn hóa và chính trị.

Xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay

3.1 Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp vĩ đại, với mục tiêu cốt lõi là hình thành một hình thái kinh tế - xã hội mới, bao trùm tất cả các khía cạnh cơ bản của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến tư tưởng.

Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, ba nhiệm vụ cơ bản bao gồm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, và phát triển nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.

Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật quyết định sự phát triển của đời sống xã hội Trình độ phát triển của một xã hội phụ thuộc vào sự phát triển thực tế của lực lượng sản xuất, nhưng sự phát triển này lại bị ảnh hưởng bởi cấu trúc và cơ chế vận hành của kết cấu kinh tế Kết cấu kinh tế có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tùy thuộc vào sự phù hợp với yêu cầu khách quan Hơn nữa, kết cấu và cơ chế vận hành kinh tế chịu sự chi phối của thể chế và cơ chế chính trị, vì chúng luôn được xác lập theo yêu cầu của thiết chế chính trị và pháp luật, phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp đang nắm quyền Do đó, ba yếu tố: lực lượng sản xuất, kết cấu kinh tế và hệ tư tưởng chính trị - pháp luật luôn gắn bó chặt chẽ, và chỉ có sự đồng bộ giữa chúng mới tạo ra sự phát triển bình thường của một hình thái xã hội.

Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, trong khi cơ sở kinh tế ảnh hưởng đến thiết chế chính trị, pháp luật và các hình thái ý thức xã hội, đặc biệt là hình thái ý thức chính trị và pháp luật Để xây dựng xã hội mới từ xã hội cũ, cần bắt đầu từ công tác tư tưởng văn hóa nhằm tạo lập nền tảng tinh thần cho xã hội mới, với trọng tâm là xác lập ý thức hệ chính.

Để thiết lập một thể chế chính trị và pháp luật mới, cần phải có sự trị và pháp quyền vững chắc Điều này sẽ tạo ra tính pháp lý cho việc xác lập các cơ chế vận hành mới của nền kinh tế, từ đó tiến hành cải cách lực lượng sản xuất cũ và phát triển lực lượng sản xuất cho xã hội mới.

Công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là một phần quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thay đổi toàn diện các mặt sống của xã hội, từ lực lượng sản xuất đến kết cấu kinh tế và thượng tầng kiến trúc chính trị, pháp luật cũng như đời sống tinh thần Để đạt được điều này, cần đồng bộ hóa nhiều nhiệm vụ, trong đó công tác tư tưởng và phát triển văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập nền tảng tinh thần cho quá trình xây dựng xã hội mới Nhiệm vụ này cần phải luôn đi trước, mở đường cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác, đồng thời lấy các nhiệm vụ khác làm mục tiêu và động lực cho sự phát triển.

Để đảm bảo thành công trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa nhằm tạo lập nền tảng tinh thần cho xã hội xã hội chủ nghĩa Đây là một công việc phức tạp, khó khăn và lâu dài, đòi hỏi từng bước giải quyết các vấn đề chiến lược và sách lược phù hợp với từng giai đoạn cụ thể trong tiến trình xây dựng xã hội mới.

3.2 Một số vấn đề cơ bản của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay

Về đặc trưng của nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay

Nền tảng tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa được hình thành từ các yếu tố của ý thức xã hội, mang đặc trưng của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa Nội dung chủ yếu của nền tảng này là ý thức hệ của giai cấp công nhân, thể hiện rõ nhất qua các quan điểm chính trị và pháp quyền.

Nội dung của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay bao gồm các quan điểm khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết chính trị cung cấp các quan điểm khoa học nhằm giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi áp bức và bóc lột Hệ thống này xác lập vị thế làm chủ xã hội của người lao động, đồng thời thúc đẩy sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân trong cộng đồng Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội mà tự do của mỗi người trở thành điều kiện tiên quyết cho tự do của tất cả mọi người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện về con đường cách mạng Việt Nam, kết hợp tinh thần khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin với điều kiện cụ thể của đất nước, tạo nên di sản tinh thần quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Nó cần trở thành nội dung căn bản trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam, góp phần vào sự phát triển mọi lĩnh vực theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm chiến lược và sách lược, nhằm giải quyết nhiệm vụ cụ thể ở từng giai đoạn phát triển, dựa trên nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đời sống tinh thần của xã hội mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện những nội dung mang tính nhân dân, dân tộc và thời đại sâu sắc, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam Nó cũng thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân lao động trên toàn thế giới, đồng thời mang tính khoa học và nhân bản.

Về các nhiệm vụ cơ bản của tiến trình xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam Điều này bao gồm nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam theo hướng tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời hướng tới sự phát triển toàn diện và thống nhất.

Để xây dựng nền văn hóa theo tư tưởng chủ đạo trong Cương lĩnh, cần nhấn mạnh việc giải quyết các nhiệm vụ cơ bản, nhằm thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ Văn hóa cần gắn kết chặt chẽ với đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc và sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển.

Việc kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, cần hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, vì lợi ích và phẩm giá con người Điều này bao gồm việc phát triển chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật, khẳng định các giá trị chân, thiện, mỹ, và phê phán những biểu hiện phản văn hoá Bên cạnh đó, cần bảo đảm quyền thông tin và tự do sáng tạo của công dân, phát triển các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, cung cấp thông tin chân thực, đa dạng và kịp thời, phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI

Khái lược các quan điểm về con người trong lịch sử triết học

1.1 Con người trong lịch sự triết học phương Đông

Trong lịch sử triết học phương Đông, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc con người Quan điểm duy tâm và tôn giáo cho rằng con người được sinh ra bởi một vị thần tối cao và chịu sự điều khiển của ngài, điều này được phản ánh trong Kinh Veda (Ấn Độ) và Kinh Thi (Trung Quốc) Ngược lại, quan niệm duy vật mộc mạc cho rằng con người được hình thành từ các yếu tố tự nhiên như Thái cực, Ngũ hành, hoặc các nguyên tố như nước, khí, lửa.

Trong Nho giáo, quan niệm về nguồn gốc con người có hai khuynh hướng trái ngược: Khổng Tử cho rằng con người có số mệnh do Trời quy định, trong khi Tuân Tử cho rằng khí là nguồn gốc của mọi vật, bao gồm cả con người Lão Tử nhìn nhận đạo như một quy luật khách quan, là nguồn gốc của vạn vật và con người Phật giáo không thừa nhận sự sáng tạo của một đấng tối cao, mà cho rằng con người tồn tại và chuyển sinh theo luật nhân quả và luân hồi.

Trong triết học phương Đông cổ đại, quan điểm duy tâm và tôn giáo cho rằng con người được tạo ra bởi thần thánh và các lực lượng siêu nhiên, với cuộc sống của họ do Trời và thần sắp đặt Ngược lại, các quan niệm duy vật về nguồn gốc con người thường mang tính mộc mạc và ngây thơ, thiếu cơ sở khoa học vững chắc.

Triết học phương Đông đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về bản chất con người Đạo Giáo xem con người là một phần của tự nhiên và thần bí hóa bản chất xã hội Phật giáo nhấn mạnh sự khác biệt giữa con người và động vật qua tâm và thức Nho giáo tìm kiếm bản chất con người từ góc độ đạo đức và sự hợp quần, nhưng lại không chú ý đến các mối quan hệ kinh tế Mặc Tử nhấn mạnh lao động là yếu tố phân biệt con người với động vật Như vậy, triết học phương Đông đã sớm nghiên cứu bản chất xã hội của con người, mặc dù các cách giải thích còn đơn giản và khác nhau.

Trong triết học phương Đông, tính người là một khía cạnh quan trọng, đặc biệt được Nho giáo nghiên cứu và giải thích qua nhiều góc độ Khổng Tử cho rằng tính người vốn gần gũi, nhưng có thể trở nên xa cách do tập nhiễm Mạnh Tử tin rằng bản tính con người vốn thiện, nhưng có thể xấu đi do không tu dưỡng, trong khi Tuân Tử lại khẳng định rằng bản tính con người vốn ác, nhưng có thể cải biến để trở nên tốt Đến thời kỳ Hán, Đổng Trọng Thư phân chia tính người thành ba loại: toàn thiện, có thiện và ác, và chỉ có ác Hàn Dũ tiếp tục quan điểm này với ba phẩm tính: thượng phẩm (toàn thiện), trung phẩm (có thiện, có ác) và hạ phẩm (chỉ có ác) Chu Hy cũng phân biệt giữa tính người có nguồn gốc từ trời đất và tính khí chất.

Theo quan niệm của Cáo Tử, bản chất con người không hoàn toàn thiện hay ác, mà do hoàn cảnh và giáo dục quyết định Ngược lại, Hàn Phi Tử lại cho rằng bản tính con người mang tính ích kỷ, cá nhân và vụ lợi.

Phật giáo cho rằng tính người có hai thuộc tính: tính Phật và tính trần tục

Các quan điểm về tính người tuy khác nhau nhưng đều nhấn mạnh rằng tính người có thể cải biến và giữ được những giá trị tốt đẹp Sự khác biệt nằm ở phương thức cảm hóa con người, có thể thông qua giáo huấn đạo đức hoặc luật pháp Trong triết học phương Đông, có quan điểm "thiên nhân hợp nhất", tức là sự hòa hợp giữa trời và người, và lý thuyết "con người là một tiểu vũ trụ", thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa con người và vũ trụ.

414 là một phần của tự nhiên, mang trong mình các đặc tính và chịu ảnh hưởng từ môi trường tự nhiên Có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này, nhưng từ góc độ duy vật, những quan điểm này được coi là chính xác và có giá trị khoa học, đóng góp quan trọng cho tư tưởng triết học về nguồn gốc và bản chất con người Tuy nhiên, do hạn chế trong trình độ khoa học hiện tại, các quan điểm này vẫn chưa được giải thích một cách đầy đủ và sâu sắc.

1.2 Con người trong lịch sự triết học phương Tây trước Mác

Quan niệm về con người ở phương Tây đã bắt đầu từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ, trong thời kỳ tiền triết học, khi tư tưởng chủ yếu là duy tâm và thần bí Trong giai đoạn này, nguồn gốc và bản chất con người được xem là do một sức mạnh siêu nhiên quyết định, ảnh hưởng đến số phận, ân huệ và hình phạt đối với hành vi con người, cũng như phúc, hoạ sau khi chết Đồng thời, cũng tồn tại tư tưởng duy vật, nhấn mạnh vào sức mạnh của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên để sinh tồn.

Trong thời kỳ cổ đại, triết học duy vật và triết học duy tâm có những quan niệm khác nhau về con người Chủ nghĩa duy vật cổ đại giải thích nguồn gốc và bản chất con người từ góc độ vật chất đơn giản Các nhà triết học tự nhiên cho rằng con người là một phần của tồn tại và thế giới, mang bản chất vật chất xác định Đặc biệt, phái nguyên tử luận do Democritus đại diện khẳng định rằng mọi sinh vật, bao gồm cả linh hồn con người, đều được cấu tạo từ nguyên tử.

Chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại có những quan niệm đa dạng về nguồn gốc và bản chất con người Pythagoras cho rằng mọi vật và con người đều xuất phát từ con số, với linh hồn là bất tử Socrates phân chia con người thành hai hạng, cho rằng chỉ có quý tộc mới có đạo đức chân chính, trong khi nô lệ không có Plato xem thân thể như nhà tù của linh hồn, trong khi Aristotle lại cho rằng mọi sinh vật đều có linh hồn, phân loại theo thực vật, động vật và con người Đặc biệt, Aristotle nhấn mạnh con người là động vật chính trị, nghiên cứu cả khía cạnh tự nhiên lẫn xã hội của con người từ rất sớm.

Trong triết học thời kỳ trung cổ, con người được xem là bị chi phối bởi quan điểm duy tâm của tôn giáo, đặc biệt là giáo lý Kitô Theo đó, con người được Chúa sáng tạo với cả thể xác và linh hồn Thể xác sẽ mất đi, nhưng linh hồn vẫn tồn tại, thể hiện sự đối lập giữa cái thấp hèn và cái cao thượng.

Con người cần phải cứu vớt và chăm lo cho linh hồn cao quý của mình Theo nhà thần học Augustine, Chúa là lực lượng siêu tự nhiên, quyết định mọi số phận của con người và ban phước hay trừng phạt họ Thomas Aquinas cho rằng Chúa Trời tạo ra giới tự nhiên và con người, trong đó con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, và linh hồn con người được sinh ra cùng lúc với sự tạo ra của Chúa Trật tự của sự vật được Chúa sắp đặt theo thứ tự: Chúa Trời - Thần thánh - Con người - các sự vật không có linh hồn.

Trong thời kỳ Phục hưng và cận đại, triết học Tây Âu đã chứng kiến sự phát triển đáng kể trong quan niệm về con người, phản ánh những vấn đề khoa học và thực tiễn Các nhà triết học duy vật đã mạnh mẽ phê phán chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc và bản chất con người F.Bacon coi con người là thực thể vật chất, trong khi Descartes nhấn mạnh rằng tư duy trí tuệ là bản chất của con người Diderot khẳng định ý thức phát sinh từ vật chất, còn Helvetius cho rằng trí tuệ con người được hình thành qua giáo dục, không phải do bẩm sinh.

Trong triết học cổ điển Đức, quan niệm về con người đã phát triển mạnh mẽ với cả hai khuynh hướng duy tâm và duy vật Hegel nhấn mạnh con người lí tính và cho rằng ý niệm tuyệt đối đã tha hóa thành tự nhiên, xã hội và con người Ngược lại, Feuerbach chỉ trích quan điểm duy tâm và tôn giáo, khẳng định rằng con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của chính mình Chủ nghĩa duy vật nhân bản phê phán duy tâm nhưng lại tuyệt đối hoá con người tự nhiên mà không nhận ra bản chất xã hội - lịch sử của con người và vai trò hoạt động thực tiễn của họ Do đó, các quan điểm trước Mác về con người vẫn chưa thoát khỏi tính chất duy vật siêu hình hoặc duy tâm thần bí, mặc dù lịch sử triết học đã để lại những quan niệm quý giá.

Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người

Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và con người, triết học Mác - Lênin đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về bản chất con người Theo quan điểm này, con người được hiểu là một thực thể sinh học - xã hội, kết hợp giữa yếu tố sinh học và các mối quan hệ xã hội.

Con người là sinh vật xã hội, kết tinh cao nhất của tiến hóa tự nhiên và lịch sử xã hội, đồng thời là chủ thể sáng tạo văn hóa Theo triết học Mác, con người có hai mặt cơ bản: mặt sinh học và mặt xã hội Mặt sinh học bao gồm các yếu tố tự nhiên, vật chất, trong khi mặt xã hội thể hiện qua tinh thần, ngôn ngữ, ý thức và lao động Hai mặt này tạo thành một hệ thống năng động, luôn biến đổi và phát triển Triết học Mác - Lênin nhấn mạnh vai trò của con người như chủ thể hoạt động thực tiễn, từ đó sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, cũng như phát triển trí tuệ và tư duy của chính mình.

2.2 Các phương diện tiếp cận nguồn gốc, bản chất con người

Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất

Triết học Mác - Lênin, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, nhấn mạnh vai trò của lao động trong sự hình thành và phát triển của con người qua lịch sử sản xuất vật chất Lao động không chỉ giúp con người biến đổi điều kiện tự nhiên mà còn cải tạo bản năng sinh học, đồng thời hình thành và phát triển những phẩm chất xã hội cần thiết.

Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống hoàn toàn dựa vào tự nhiên, trong khi con người cần lao động sản xuất để cải tạo và tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao Lịch sử sản xuất vật chất phản ánh quá trình con người cải tạo tự nhiên theo nhu cầu tồn tại và phát triển Mác khẳng định rằng sản xuất biến tự nhiên thành tác phẩm của con người, làm cho tự nhiên trở nên “có tính người” và “nhân loại hoá” Sự phát triển của tự nhiên và xã hội loài người gắn bó chặt chẽ với nhau, vì vậy Mác nhấn mạnh rằng con người đứng trước một tự nhiên mang tính lịch sử và một lịch sử mang tính tự nhiên.

Con người được chuẩn bị sinh học để lao động và sáng tạo, một vấn đề mà sinh học và các khoa học tự nhiên tiếp tục nghiên cứu Triết học Mác - Lênin nhấn mạnh rằng qua lịch sử sản xuất vật chất, lao động đã tạo ra Homo sapiens - con người lý tính và xã hội Lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người, chứng minh rằng con người là tổ chức sinh vật phát triển cao nhất trên Trái Đất, là đỉnh cao của tiến hóa sau hàng trăm triệu năm Qua lao động, bản năng sinh học của con người đã được cải tạo, giúp con người vượt qua bản năng, phát triển thành một trạng thái mới về chất Mác khẳng định rằng trong con người, ý thức thay thế bản năng.

Lao động không chỉ là hoạt động cần thiết để sinh tồn mà còn là yếu tố quyết định trong việc hình thành và phát triển phẩm chất xã hội của con người Qua quá trình lao động, các mối quan hệ xã hội được hình thành, đồng thời thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ, nhận thức, cảm xúc, ý chí và phương pháp tư duy Vì vậy, Ăngghen nhấn mạnh rằng lao động chính là yếu tố sáng tạo ra bản thân con người.

Lao động đã giúp con người tách khỏi tự nhiên đồng thời hòa nhập với nó, trở thành một thực thể sáng tạo Hoạt động lịch sử đầu tiên mang tính sáng tạo của con người là chế tạo công cụ lao động, đánh dấu sự khởi đầu của lịch sử nhân loại Nhờ vào công cụ lao động, con người đã tách biệt khỏi tự nhiên và loài vật, trở thành chủ thể của các hoạt động xã hội thực tiễn Qua việc cải tạo tự nhiên, con người không chỉ hòa nhập mà còn biến đổi tự nhiên, tạo ra của cải, tri thức và tinh thần Do đó, sáng tạo chính là thuộc tính tối cao của con người, phản ánh bản chất sáng tạo vốn có ngay từ đầu.

Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, theo triết học Mác - Lênin Con người tồn tại và phát triển trong sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố này, tạo thành một chỉnh thể phức tạp và năng động, luôn trong trạng thái vận động và phát triển.

Con người tồn tại ở hai cấp độ: sinh học và xã hội Về mặt sinh học, con người thể hiện qua các hiện tượng sinh lý, di truyền, thần kinh và điện - hoá, tuân theo các quy luật tự nhiên Trong khi đó, ở cấp độ xã hội, con người được biểu hiện qua nhân cách, ý thức, tính cách và tính khí, đóng vai trò là chủ thể trong các mối quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp và tinh thần, phục tùng các quy luật xã hội.

Con người phát triển trong sự thống nhất giữa hai quá trình sinh học và xã hội Sự hình thành và phát triển của con người là kết quả của sự kết hợp giữa cơ chế di truyền và hoạt động xã hội Cơ chế di truyền không chỉ quyết định tiến hoá sinh học mà còn tạo nền tảng cho sự tiến hoá xã hội Tham gia vào hoạt động xã hội và bối cảnh văn hoá lịch sử của cộng đồng là yếu tố then chốt trong việc hình thành và phát triển các phẩm chất xã hội của con người.

212 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.44

421 là một quá trình thống nhất và phức tạp, trong đó cơ chế di truyền không chỉ quyết định khía cạnh sinh học mà còn liên quan đến sự phát triển "bản năng xã hội" của con người Đồng thời, quá trình tập nhiễm trong xã hội không chỉ ảnh hưởng đến khía cạnh xã hội mà còn biến đổi mặt sinh học, giúp sinh học thích nghi với hoạt động xã hội Do đó, Ăngghen cho rằng con người là kết quả của sự tự nhận thức của tự nhiên.

Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và mang thuộc tính xã hội - hành tinh - vũ trụ

Triết học Mác - Lênin nhấn mạnh mối quan hệ giữa con người và môi trường sống, từ trái đất đến vũ trụ Môi trường đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người, bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến đời sống con người Theo cách hiểu rộng rãi, môi trường được chia thành hai loại chính: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

Con người tồn tại trong một hệ thống tương tác với các lực lượng tự nhiên, là một phần của tự nhiên và phụ thuộc vào các quá trình cơ, lí, hóa, sinh học của hành tinh Chúng ta sống trên trái đất, giao tiếp với môi trường xung quanh và chịu ảnh hưởng từ nhiều hiện tượng tự nhiên chưa được khoa học giải thích Sự tương tác này diễn ra ở cả cấp độ chức năng của cơ thể lẫn cấp độ cảm xúc, tinh thần Khoa học tự nhiên đã chỉ ra mối liên hệ giữa "nhịp điệu vũ trụ" và "nhịp điệu sinh học", khẳng định rằng con người mang thuộc tính xã hội, hành tinh và vũ trụ, đồng thời phụ thuộc vào môi trường sống.

Con người sống trong môi trường xã hội và thích nghi với tự nhiên thông qua các mối quan hệ xã hội Xã hội là một phần quan trọng của giới tự nhiên, và sự tồn tại cũng như phát triển của con người chỉ có thể diễn ra khi có sự hài hòa với tự nhiên Mác đã nhấn mạnh rằng lịch sử của loài người và lịch sử tự nhiên có mối quan hệ tương hỗ Do đó, bản chất của con người là sự tổng hòa giữa các thuộc tính tự nhiên, sinh học và xã hội.

Con người là một thực thể cá nhân - xã hội

213 C.Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.267

Con người là một chỉnh thể đơn nhất, đồng thời cũng là sản phẩm của hệ thống các quan hệ xã hội, tạo thành một hệ thống năng động và phát triển giữa cái chung, cái đặc thù và cái riêng Nhân cách của con người mang những đặc trưng chung, đại diện cho nhân loại và các tộc loại, trong đó thuộc tính cao nhất là khả năng sáng tạo Bên cạnh đó, con người cũng mang những phẩm chất đặc thù phản ánh lịch sử cụ thể của xã hội, dân tộc, giai cấp và các tập thể xã hội Những phẩm chất này được hình thành từ dấu ấn của thời đại và các quan hệ xã hội Đặc điểm riêng biệt của mỗi cá nhân, từ di truyền đến điều kiện sống, tạo nên sự khác biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí và tính cách giữa các cá nhân Như Mác đã nói: “Con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân.”

Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân loại

Vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

3.1 Quan niệm về con người

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi việc giải phóng con người và mang lại hạnh phúc cho nhân loại là mục tiêu tối thượng Ông đã tóm gọn triết lý nhân văn của mình qua câu nói: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề là vấn đề ở đời và làm người Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức.”

Hồ Chí Minh không đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về con người, nhưng từ thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, Người đã phát triển tư tưởng về con người một cách toàn diện và sâu sắc Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người có thể tóm gọn là: Con người là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội - lịch sử, cũng như là người sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần trong xã hội.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người được xem như một thực thể xã hội, hình thành qua các mối quan hệ xã hội đa dạng Ông nhấn mạnh rằng "Chữ Người" không chỉ bao hàm gia đình, bạn bè mà còn mở rộng ra toàn thể đồng bào và nhân loại Điều này cho thấy mỗi cá nhân không chỉ là một thành viên cụ thể mà còn là phần của các cộng đồng lớn hơn Đặc biệt trong cộng đồng người Việt Nam, mối quan hệ gia đình và dòng họ đóng vai trò quan trọng, bên cạnh đó, khái niệm "đồng bào" thể hiện sự gắn kết sâu sắc giữa những người cùng nguồn gốc.

Hồ Chí Minh rất coi trọng sức mạnh cộng đồng người Việt Nam, điều này xuất phát từ câu nói "con Rồng, cháu Tiên" Ông đã tìm mọi cách để bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó trong quá trình cách mạng Việt Nam Đây là một trong những cơ sở sâu xa của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong lãnh đạo cách mạng và trong thời kỳ mới.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm Mác - Lênin, nhấn mạnh vai trò của con người trong lịch sử sản xuất vật chất Ông khẳng định rằng con người là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần, trong đó lao động sáng tạo được coi là giá trị nhân bản, cao nhất của con người Trong tư tưởng của Người, con người trước hết là người lao động, đại diện cho nhân dân lao động, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và bộ đội tại Việt Nam.

215 Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lí, Hà Nội, 1990, tr.174

216 Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.644

Họ chính là chủ thể sáng tạo xã hội mới Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh cho rằng

Trong bầu trời, nhân dân là tài sản quý giá nhất Cán bộ cần nhận thức và biết ơn những người lao động bình thường, bởi chính họ là những người đã tạo ra cơm ăn, áo mặc và các phương tiện mà chúng ta sử dụng hàng ngày.

Tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo lịch sử xã hội, tạo nền tảng lý luận cho Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mô hình chủ nghĩa xã hội với đặc trưng “một xã hội do nhân dân làm chủ” Trong việc hoạch định đường lối chính sách, Đảng và Nhà nước cần xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động; mọi chủ trương, chính sách không còn phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân phải được bãi bỏ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội, nhấn mạnh mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng Ông khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội không chỉ tôn trọng lợi ích cá nhân mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến từng con người cụ thể, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và chia sẻ niềm vui với mọi tầng lớp nhân dân, từ nông dân, công nhân đến thanh niên và người cao tuổi Trong thực tiễn, ông không chỉ khuyến khích tinh thần tập thể mà còn khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi cá nhân, giúp chúng nảy nở như hoa mùa xuân, từ đó giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa con người cá nhân và con người xã hội.

Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc giải quyết mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và tập thể, lợi ích gần và xa, cũng như lợi ích vật chất và tinh thần Điều này tạo ra động lực tích cực cho nhân tố con người, đóng vai trò là cơ sở khoa học trong thời kỳ mới của cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến các chính sách xã hội vì lợi ích con người, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lập hợp và tổ chức.

Đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất là yếu tố then chốt để tạo ra sức mạnh tổng hợp, từ đó thúc đẩy nhanh chóng sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính dân tộc và nhân loại, nhấn mạnh rằng con người luôn thuộc về một dân tộc, chủng tộc và quốc gia cụ thể Ông đặc biệt quan tâm đến con người giai cấp, phân chia thành "người bị áp bức" và "người bóc lột", và khẳng định chỉ có hai loại người trên thế giới Trong quá trình hoạt động, Hồ Chí Minh đã đặt mình về phía giai cấp lao động, phản đối áp bức và đấu tranh cho giải phóng con người Mặc dù ông coi đấu tranh giai cấp là phương tiện quan trọng, nhưng cũng nhấn mạnh lợi ích dân tộc cần được đặt lên trên lợi ích giai cấp trong các hoàn cảnh cụ thể Ông khẳng định con đường cách mạng Việt Nam phải dựa trên chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Mác - Lênin, với mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, là hoài bão suốt đời của mình.

Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, phát triển chủ nghĩa xã hội và đóng góp tích cực vào sự phát triển toàn cầu Ông đã khéo léo kết hợp giữa việc giải phóng giai cấp và dân tộc, tạo nên một tầm nhìn toàn diện cho sự nghiệp cách mạng.

Cách mạng Việt Nam là một phần không thể tách rời của cách mạng thế giới, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp sức mạnh giai cấp, dân tộc và thời đại, dẫn dắt cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

3.2 Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng và tiến bộ xã hội

Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm trong tư tưởng

Mục tiêu cao nhất mà Hồ Chí Minh cống hiến suốt cuộc đời là độc lập, tự do và hạnh phúc cho con người, vì đó là lợi ích lớn nhất của người Việt Nam Ông bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.”

Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng con người, với mục tiêu từ giải phóng những người nô lệ mất nước đến giải phóng toàn nhân loại Tình yêu Tổ quốc của Người luôn gắn liền với tình yêu thương sâu sắc dành cho nhân dân Hồ Chí Minh khẳng định rằng lòng yêu thương của Người dành cho nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi Trong Di chúc, Người để lại tình cảm sâu sắc cho toàn dân, Đảng, bộ đội, thanh niên và nhi đồng, đồng thời gửi lời chào thân ái đến các đồng chí và bạn bè quốc tế.

MỘT SỐ ỨNG DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Phép biện chứng duy vật trong hoạt động quản lý doanh nghiệp

1.1 Những ƣu điểm và hiệu quả của việc vận dụng phép biện chứng duy vật vào doanh nghiệp

Triết lý doanh nghiệp là yếu tố quyết định hình thức hoạt động của mỗi doanh nghiệp Sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn không chỉ tạo ra sự ngạc nhiên mà còn giúp người quản lý đưa ra những quyết định hợp lý hơn Khi dựa vào triết lý nhất quán, doanh nghiệp có thể nâng cao cơ hội thành công, bảo vệ tính đặc thù và làm nổi bật những thế mạnh của mình trước đối tác Điều này cũng giúp xác định rõ các yếu tố quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, từ đó tối ưu hóa quy trình làm việc và phát triển bền vững.

Mỗi doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu, phương pháp hành động và các ràng buộc từ môi trường kinh tế - xã hội Việc xây dựng triết lý doanh nghiệp đòi hỏi quá trình suy nghĩ lâu dài và cân nhắc kỹ lưỡng các quyết định Quy trình ra quyết định cần sự hợp tác và tham gia của toàn bộ nhân viên, đảm bảo mọi người đều hiểu rõ mục đích chung Mỗi doanh nghiệp sẽ hình thành triết lý riêng, tạo nên bản sắc và "yếu tố văn hoá doanh nghiệp" Trong môi trường làm việc, một số cá nhân thể hiện nhân cách nhất quán, trong khi những người khác có thể có sự khác biệt.

462 cần giải quyết các xung đột nội tâm; một số người thể hiện sự ổn định trong khi những người khác tìm kiếm sự tự khám phá Mỗi doanh nghiệp có những loại văn hóa và nhân cách kinh doanh riêng biệt.

Các nguyên tắc triết lý là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng doanh nghiệp, giúp cải thiện hiệu quả tác động vào đời sống hàng ngày và phát triển văn hóa doanh nghiệp Điều này không chỉ khắc phục được phương pháp quản lý quan liêu mà còn kiểm soát tốt hơn đội ngũ lao động, từ đó nâng cao hiệu suất quản lý và tạo sự đoàn kết trong công việc Quá trình phát triển triết lý doanh nghiệp cần bắt đầu từ việc xây dựng một hệ thống giá trị và niềm tin nhất quán, đồng thời phù hợp với tình hình thị trường và môi trường xã hội hiện tại.

Hoạt động của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi nhiều sự kiện và tư liệu sống, vì vậy người quản lý cần tinh luyện những tư liệu này thông qua việc xây dựng và điều chỉnh các văn bản triết lý Việc này không chỉ giúp tạo ra động lực cho hoạt động kinh doanh hiệu quả mà còn xác định rõ thái độ đối với các vấn đề mới phát sinh Tất cả nhân viên trong doanh nghiệp cần nắm vững và thực hiện các văn bản này, mặc dù không phải ai cũng đồng ý với nội dung của chúng.

Việc truyền đạt quyết định quản lý đến nhân viên là một thách thức lớn, đặc biệt là trong doanh nghiệp đông nhân viên Đối với các doanh nghiệp nhỏ, người quản lý có thể trực tiếp trò chuyện và đưa ra lời khuyên thiết thực cho từng nhân viên Tuy nhiên, trong môi trường có nhiều nhân viên, việc giao tiếp bằng lời nói không còn hiệu quả, do đó cần áp dụng phương pháp văn bản để truyền đạt các quyết định quan trọng, nhằm đảm bảo sự thành công cho doanh nghiệp.

Triết lý của doanh nghiệp không phải là một tuyên bố cứng nhắc hay được xây dựng từ con số không, mà là một quá trình linh hoạt, thích ứng với những thách thức và vấn đề mới phát sinh trong tổ chức Sự mềm dẻo trong triết lý này giúp doanh nghiệp truyền tải những giá trị cốt lõi và định hướng phát triển bền vững.

Quản lý doanh nghiệp hiệu quả đòi hỏi việc truyền đạt 463 nguyên tắc một cách sinh động và phù hợp với từng đối tượng và giai đoạn kinh doanh Ví dụ, người quản lý cần đưa ra ý tưởng phù hợp để đảm bảo nhân viên hiểu rõ và áp dụng các nguyên tắc này trong công việc hàng ngày.

Để đảm bảo chất lượng và tính thẩm mỹ của sản phẩm, doanh nghiệp cần truyền đạt triết lý này đến tất cả nhân viên, đồng thời định hướng nhận thức của khách hàng phù hợp với giá trị cốt lõi của mình Nếu không có biện pháp hiệu quả để chuyển tải ý tưởng này, quyết định quản lý dù đúng đắn cũng sẽ không đạt được mục tiêu và chỉ dừng lại ở lý thuyết Khi có quyết định mới, doanh nghiệp có thể gặp phải sự không nhất quán nội bộ và khách hàng có thể từ chối nếu không phù hợp với triết lý Tuy nhiên, nếu triết lý này chính xác và phù hợp, doanh nghiệp sẽ giữ được uy tín và phát triển bền vững, bởi khách hàng đến với doanh nghiệp đều là những người đồng nhất với giá trị mà chúng ta theo đuổi.

Triết lý doanh nghiệp xác định mục tiêu và phương pháp hoạt động cho cộng đồng nhân viên, hướng tới sự phát triển chung Trong bối cảnh luôn biến đổi, triết lý này cần được điều chỉnh và bổ sung theo thời gian để phù hợp với điều kiện và môi trường hoạt động Sự linh hoạt trong triết lý không chỉ tạo ra giá trị thực cho doanh nghiệp mà còn hình thành nét văn hóa đặc trưng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động.

Khi một doanh nghiệp mới được thành lập, triết lý kinh doanh phản ánh giá trị và tư duy của người sáng lập, dù có ý thức hay không Triết lý này thể hiện qua các quyết định trong việc giải quyết vấn đề, lựa chọn phương pháp và khắc phục khủng hoảng Do đó, triết lý của doanh nghiệp là nền tảng cho đạo đức của các thành viên, hình thành nên văn hóa và triết lý riêng biệt của doanh nghiệp theo thời gian Sự nhận thức về cái tốt và cái xấu của họ cũng sẽ phát triển cùng với sự trưởng thành của doanh nghiệp.

Các triết lý đã nêu đều mang "Phong cách" riêng biệt cho từng doanh nghiệp, mặc dù có thể tồn tại một số yếu tố chung Tất cả những triết lý này đều phản ánh bản sắc và giá trị cốt lõi của từng tổ chức.

Hiểu biết về mục đích tối cao của doanh nghiệp là yếu tố then chốt, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác để đạt được mục tiêu chung Mọi văn bản triết lý doanh nghiệp cần làm nổi bật các phương tiện hỗ trợ cho sự hợp tác này Để phát triển một cách nhất quán trong quản lý, các quyết định cần xác định rõ ba yếu tố: mối quan hệ của doanh nghiệp với môi trường kinh tế - xã hội, các mục tiêu lớn mà doanh nghiệp hướng tới, và những phương tiện chủ yếu để đạt được những mục tiêu đó.

1.2 Những khuyết điểm và hạn chế của việc vận dụng phép biện chứng duy vật

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc trang bị tri thức về thế giới quan và phương pháp luận khoa học của triết học Mác-Lênin là vô cùng cần thiết Hiểu rõ những sai lầm trong thực tiễn sẽ giúp đạt được thành công không chỉ trong hoạt động thực tiễn mà còn trong quản lý doanh nghiệp.

Để điều hành công ty hiệu quả và đạt vượt mức kế hoạch sản xuất, chúng ta cần tránh bệnh chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí, vì nó có thể dẫn đến thất bại trong quản lý và làm lệch hướng nền kinh tế Việc bồi dưỡng một thế giới quan duy vật biện chứng là rất quan trọng, đồng thời cần tích cực đấu tranh chống lại các biểu hiện của tư tưởng duy tâm và siêu hình trong quản lý doanh nghiệp Tạo ra một môi trường văn hóa lành mạnh trong kinh doanh cũng là yếu tố then chốt để đạt được thành công.

Phép biện chứng duy vật trong hoạt động quản trị nhân lực

Kể từ năm 1991, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế Mặc dù có nhiều cơ hội, nhưng cũng tồn tại không ít thách thức, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững các quy định và khai thác hiệu quả nguồn lực Để phát triển bền vững, các chủ thể kinh tế cần hiểu rõ các đối tác và giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích trong bối cảnh kinh tế luôn biến động Do đó, các nhà quản lý cần áp dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật trong thực tiễn, đặc biệt là trong việc khai thác nguồn lực con người.

Trong doanh nghiệp, con người là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh, và sự phát triển của họ phải theo kịp với sự biến đổi của thực tiễn Để tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh, người quản lý cần áp dụng tư duy biện chứng và phương pháp biện chứng trong quản lý nhân lực Các nguyên tắc quan trọng bao gồm nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển và nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nhằm cung cấp phương pháp luận hữu ích cho các nhà quản lý và sinh viên ngành kinh tế.

- những người hoạt động ở lĩnh vực kinh tế trong tương lai

Thứ nhất, nguyên tắc khách quan và sự vận dụng trong quản lý nhân lực doanh nghiệp

Nguyên tắc khách quan yêu cầu chủ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải dựa trên thực tế khách quan, không phải ý muốn cá nhân Mọi biến cố đều có nguyên nhân khách quan, vì vậy chủ thể cần tìm ra các nguyên nhân bên trong sự vật, hiện tượng, thay vì áp đặt suy đoán chủ quan.

Trong quản lý nhân lực doanh nghiệp, việc đánh giá con người một cách khách quan là rất quan trọng, bắt đầu từ quá trình tuyển chọn cho đến việc sắp xếp và phân công nhiệm vụ.

Nhà quản lý cần lập kế hoạch chi tiết khi tuyển nhân sự, xác định rõ yêu cầu cho từng vị trí Dựa trên các tiêu chí khách quan trong kế hoạch, việc lựa chọn ứng viên và tổ chức thi tuyển sẽ trở nên hiệu quả hơn, giúp giảm chi phí do việc tuyển dụng lại nhiều lần cho cùng một vị trí Sau khi tuyển dụng, cần phân công công việc phù hợp với năng lực cá nhân của nhân viên, tránh tình trạng giao nhiệm vụ không phù hợp, như việc giao công việc tiếp thị cho người không có năng lực trong lĩnh vực này Đối với những nhân viên đa năng, nhà quản lý nên áp dụng cách tiếp cận toàn diện và lịch sử - cụ thể để phát huy tối đa khả năng của họ.

Việc áp dụng quan điểm khách quan trong quản lý yêu cầu người quản lý phải xem xét nhân viên trong bối cảnh cụ thể về thời gian và không gian để tránh những sai lầm không đáng có Nếu tách rời khỏi quan điểm này, quản lý sẽ rơi vào chủ quan và duy tâm Ví dụ, không thể đánh giá nhân viên thiếu trách nhiệm khi họ đã thông báo về việc rời nhiệm sở để chăm sóc con ốm nặng, hay không thể quy trách nhiệm cho nhân viên về việc không hoàn thành nhiệm vụ do những nguyên nhân khách quan như thời tiết hay cúp điện Ngược lại, cũng không nên đánh giá nhân viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ dựa trên cảm tình cá nhân mà không xem xét thực tế công việc.

472 nhiệm vụ đó nhân viên của mình đang rời nhiệm sở đi giải quyết công việc cá nhân mà không có lý do chính đáng

Thứ hai, nguyên tắc toàn diện và sự vận dụng trong quản lý nhân lực doanh nghiệp

Nguyên tắc toàn diện nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhìn nhận và phân tích sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ đa chiều Điều này giúp chủ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn có được những hiểu biết chính xác và tiến hành cải tạo một cách hiệu quả.

Trong quản lý doanh nghiệp, người quản lý cần nhận thức rằng nhân viên không chỉ là tài sản lao động mà còn là những cá nhân với nhiều mối quan hệ xã hội phong phú Mỗi nhân viên đều có nhu cầu khẳng định bản thân thông qua công việc sáng tạo, do đó, họ không dễ chấp nhận công việc nhàm chán Hơn nữa, họ cũng cần thời gian nghỉ ngơi, giải trí và duy trì các mối quan hệ cá nhân như gia đình và bạn bè Những mối quan hệ này có thể ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc và tâm lý của nhân viên Vì vậy, nhà quản lý cần áp dụng nguyên tắc khách quan và toàn diện, đồng thời hiểu rõ tâm trạng và thực tiễn cuộc sống của nhân viên để quản lý hiệu quả hơn.

Theo nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật, người quản lý cần chú ý đến mối quan hệ đa dạng giữa nhân viên trong công ty, phân loại và xác định các mối quan hệ cơ bản và thứ yếu Mỗi mối quan hệ đều có nội dung riêng, không thể áp dụng nội dung của mối quan hệ này cho mối quan hệ khác Cần tránh "chủ nghĩa chiết trung", tức là kết hợp một cách vô nguyên tắc các yếu tố không tương thích, như việc đề bạt chức vụ mà không dựa trên năng lực thực sự.

Quản lý, chuyên môn và phẩm chất đạo đức cần được đánh giá một cách khách quan, tránh ảnh hưởng từ các yếu tố chủ quan như tình cảm cá nhân, quan hệ thân thích, gia đình và họ hàng.

Việc xác định mối quan hệ bản chất là rất quan trọng, giúp người quản lý đưa ra giải pháp để phát triển quan hệ tích cực cho công ty hoặc điều chỉnh các mối quan hệ tiêu cực nhằm tối ưu hóa lợi ích.

Thứ ba, nguyên tắc phát triển và sự vận dụng trong quản lý nhân lực doanh nghiệp

Nguyên tắc phát triển yêu cầu trong nhận thức và thực tiễn là cần đặt sự vật, hiện tượng vào tiến trình vận động và phát triển Điều này giúp chúng ta nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, bởi vì bản chất của sự vật không phải là bất biến.

Người quản lý cần nhận thức rằng năng lực của nhân viên không phải là cố định mà có thể thay đổi theo thời gian Khi tuyển dụng, họ không chỉ nên dựa vào bằng cấp và thành tích, mà còn cần đánh giá sự quan tâm của ứng viên đối với sự phát triển của công ty Đồng thời, việc đánh giá khả năng thích ứng với sự thay đổi và phát triển trong ngành nghề cũng rất quan trọng.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhân viên sáng tạo, năng động và thích ứng nhanh với thay đổi được ưu tiên hơn những người chỉ giỏi một lĩnh vực và không chấp nhận sự đổi mới Để đạt được mục tiêu phát triển, quản lý cần nhận diện và giải quyết hiệu quả các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình phát triển doanh nghiệp.

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự phát triển diễn ra thông qua việc giải quyết các mâu thuẫn trong bản thân sự vật, bao gồm cả những bước thụt lùi Trong doanh nghiệp, mâu thuẫn chủ yếu thể hiện qua lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, giữa các nhân viên với nhau, cũng như giữa yêu cầu của khách hàng và lợi ích của doanh nghiệp.

Phép biện chứng duy vật với nguyên lý kế toán

Triết học, được coi là khoa học của các khoa học, đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và nghiên cứu, đặc biệt là phép biện chứng duy vật trong triết học Mácxít Những tri thức từ triết học cung cấp công cụ tư duy sắc bén giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới Chúng tôi sẽ trao đổi về việc áp dụng phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu môn nguyên lý kế toán, nhằm nâng cao hiệu quả trong các lĩnh vực hoạt động của con người.

Nguyên lý kế toán ra đời song hành với quá trình tái sản xuất, phản ánh sự phát triển tất yếu của mọi hình thái kinh tế xã hội Lịch sử hình thành nguyên lý kế toán diễn ra từ nhận thức trực quan đến tư duy trừu tượng, bắt đầu từ những quan sát và đo lường kết quả lao động của con người Khi sản xuất xã hội tiến bộ, kế toán cũng phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nơi kế toán đã trở thành một khoa học.

Ngày nay, khoa học kế toán được định nghĩa là quá trình thu thập, xử lý, kiểm tra và phân tích thông tin kinh tế, tài chính, nhằm cung cấp dữ liệu dưới dạng giá trị, hiện vật và thời gian lao động.

Phương pháp biện chứng trong triết học nhấn mạnh rằng mọi sự vật và hiện tượng đều liên kết với nhau, trải qua quá trình vận động và biến đổi để phát triển, với nguồn gốc từ sự đấu tranh giữa các mặt đối lập Nguyên lý này được thể hiện rõ nét trong từng khía cạnh của nguyên lý kế toán.

Vận dụng hai nguyên lý triết học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chúng ta nhận thấy rằng các khái niệm cơ bản của kế toán như bản chất, tài khoản, chứng từ, tính giá và báo cáo kế toán có mối liên hệ chặt chẽ với nhau Do đó, trong quá trình nghiên cứu, cần đặt các nội dung này trong mối liên hệ sâu sắc, thể hiện qua chu kỳ kế toán được hình thành từ biên chứng của quá trình nhận thức.

Khi phân loại kế toán theo nguyên tắc ghi nhận thông tin, kế toán được chia thành kế toán dồn tích và kế toán trên cơ sở tiền Để hiểu rõ bản chất của hai loại hình này, cần đặt chúng trong mối liên hệ với các nội dung khác Theo các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP), khi ghi nhận doanh thu hoặc chi phí, các khoản phải thu của khách hàng hay phải trả người bán chỉ tồn tại trong kế toán dồn tích Sự xuất hiện của các đối tượng kế toán này là cơ sở xác định tài khoản kế toán, phương tiện phân loại và tổng hợp thông tin về nghiệp vụ kinh tế liên quan Việc ghi chép trên tài khoản kế toán phải dựa trên các bằng chứng khách quan, và tổng hợp đầy đủ các chứng từ kế toán là điều cần thiết.

Trong kế toán, việc xác định giá trị tài sản và ghi sổ kế toán phải tuân thủ các nguyên tắc GAAP và nguyên tắc giá gốc Quy trình này liên quan đến việc ghi nhận giá trị vào từng định khoản một cách logic Trong kế toán dồn tích, chứng từ ghi nhận doanh thu cần phải là các bằng chứng khách quan chứng minh việc bán hàng và chuyển giao quyền sở hữu Ngược lại, trong kế toán tiền, chứng từ cần thiết là phiếu thu tiền mặt hoặc giấy báo có từ ngân hàng.

Nguyên lý kế toán bao gồm các nội dung liên kết chặt chẽ, bắt nguồn từ việc phân loại kế toán dựa trên nguyên tắc kế toán Đối tượng kế toán giúp xác định tài khoản và chứng từ kế toán, phục vụ cho việc tính giá và ghi sổ Kết quả cuối cùng của chu trình kế toán là báo cáo kế toán, phản ánh tổng quát tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Sự logic trong các nội dung này thể hiện nguyên lý quan trọng về mối liên hệ trong triết học.

Nguyên lý phát triển trong triết học khẳng định rằng mọi sự vật và hiện tượng luôn vận động và biến đổi theo quá trình xoáy ốc ở các cấp độ cao dần Điều này thể hiện rõ trong lĩnh vực kế toán, nơi mà tài sản và nguồn vốn không ngừng chuyển hóa trong quá trình tái sản xuất Mỗi chu kỳ kết thúc sẽ mở ra một chu kỳ mới với sự gia tăng về quy mô và số lượng, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển Do đó, khi nghiên cứu đối tượng kế toán, cần xem xét cả trạng thái tĩnh và động của tài sản, nguồn hình thành tài sản, cũng như sự vận động của chúng Đối với từng tài khoản cụ thể, cần phân tích tình hình hiện có và sự biến động trong kỳ Các cặp phạm trù cơ bản trong triết học đã được áp dụng để xây dựng nội dung kế toán một cách hiệu quả.

Sự chi phối của ba quy luật triết học đến nguyên lý kế toán thể hiện rõ qua việc xây dựng kết cấu của tài khoản, dựa vào quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy luôn tồn tại song song các mặt đối lập như nắng-mưa, ngày-đêm, giàu-nghèo, yêu-ghét, sống-chết Điều này cho thấy sự cần thiết phải cân nhắc các yếu tố đối lập trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện các nguyên lý kế toán.

Kế toán phản ánh các mối quan hệ kinh tế thông qua các hoạt động như thu-chi tiền, nhập-xuất hàng tồn kho và vay-trả khoản vay Mặc dù các đối tượng kế toán được ghi nhận trên các tài khoản khác nhau với nội dung và mục đích sử dụng khác nhau, tất cả đều vận động theo hai mặt đối lập Do đó, tài khoản kế toán được thiết kế theo hình thức hai bên chữ T, thể hiện hai mặt vận động của cùng một đối tượng kế toán: bên Nợ và bên Có.

Quy luật mâu thuẫn trong kế toán thể hiện qua các cặp đối lập như tài sản-nguồn vốn và doanh thu-chi phí, phản ánh những khía cạnh khác nhau của đối tượng kế toán Từ quy luật này, các nhà khoa học kế toán đã phát triển quy ước ghi chép cho từng tài khoản, giúp tổ chức và quản lý thông tin kế toán một cách hiệu quả.

- Tài khoản Tài sản: quy ước tăng ghi bên Nợ, giảm ghi bên Có, số dư bên Nợ

- Tài khoản Nguồn vốn: quy ước tăng ghi bên Có, giảm ghi bên Nợ, số dư bên

- Tài khoản Chi phí: quy ước tăng ghi bên Nợ, giảm ghi bên Có, không có số dư cuối kỳ

- Tài khoản Doanh thu: quy ước tăng ghi bên Có, giảm ghi bên Nợ, không có số dư cuối kỳ

Sự đối lập trong kế toán tạo ra mâu thuẫn, đồng thời thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau, khiến cho đối tượng kế toán luôn vận động và biến đổi Sự chuyển hóa này diễn ra giữa tài sản, nguồn vốn, doanh thu và chi phí thông qua các mối quan hệ đối ứng cơ bản.

- Tài sản tăng, tài sản khác giảm;

- Nguồn vốn tăng, nguồn vốn khác giảm;

- Tài sản tăng, nguồn vốn tăng;

- Nguồn vốn tăng, nguồn vốn khác giảm

Sự chuyển hóa giữa các đối tượng kế toán trong thực tế tại các đơn vị được thể hiện qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh Chẳng hạn, việc mua nguyên vật liệu đã được thanh toán là một ví dụ điển hình cho quá trình này.

Ngày đăng: 08/05/2024, 02:29

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN