Về thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật: Có thé nói BLTTHS năm2003 đã có những sửa đổi, bố sung quan trọng so với BLTTHS năm 1988 vềnâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, như:
Trang 1VŨ CHÍ TOÀN
TRANH TUNG TRONG TO TUNG HINH SỰ
LUAN VAN THAC Si LUAT HOC
HÀ NỘI - NAM 2016
Trang 2VŨ CHÍ TOÀN
TRANH TUNG TRONG TO TUNG HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tổ tụng Hình sự
Mã số : 60380104
Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ GIA LAM
HÀ NỘI - NĂM 2016
Trang 3Các sô liệu, ví du và trích dan trong luận văn dam bao độ tin cậy, chính xác
và trung thực Những két luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bồ trong bat kỳ công trình nào khác
TÁC GIÁ LUẬN VĂN
Vũ Chí Toàn
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
TS Vũ Gia Lâm
Trang 4BLTTHS Bộ luật tô tụng hình sựCQDT Co quan diéu tra
DTV Điêu tra viên
KSV Kiêm sát viên
TTHS Tổ tụng hình sự
VKS Viện kiêm sát
Trang 5PHAN MO ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tai eect |
2 Tình hình nghiên cứu đề tài c2 c2 S sen 3
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài -: 4
4 Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn 5
5 Phương pháp nghiên cứu -. - 5
6.Y nghia khoa hoc va thuc tiễn của luận văn 6
6 Kết cầu của luận văn cc c2 2 221211211111 sreg 7 CHƯƠNG 1: NHUNG VAN ĐÈ CHUNG VE TRANH TUNG TRONG TO TUNG HÌNH SỰ VÀ QUY ĐỊNH CUA BỘ LUẬT TO TUNG HÌNH SỰ 2003 — 8
1.1 Khái niệm tranh tung trong tô tụng hình sự 8
1.1.1 Những quan điểm khác nhau về tranh tụng - 8
1.1.2 Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự 12
1.2 Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng hình sự 19
1.2.1 Y nghĩa chính tri- xã hội - -. -‹- 19
1.2.2 Ý nghĩa pháp lý -c n1 SH n Sky reg 22 1.3 Điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng 22
1.4 Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2003 25
Kết luận Chương I - - - << =< << c<s << << s*£sss 3l CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG TRANH TUNG TRONG TO TUNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VA MOT SO KIEN NGHỊ 32
2.1 Thực trạng tranh tung trong tố tụng hình sự Việt Nam 32
Trang 62.2 Nguyên nhân của những hạn ché, bat cập khi thực hiện
tranh tụng trong TTHS ở Việt Nam
-Abad TVR UOT BH LAPP OPC san tí: dung Là + seas tà t NGHI Sã ï HS K15 HN 1S Wt H06 5 14
2.2.2 Nguyên nhán KháC - cee cee cee cà cài sêc cà cee tee về sẽ ees
2.3 Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2015
Trang 7Tư tưởng về tranh tụng đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử pháp luật tố
tụng thế giới Cùng với thời gian, tư tưởng tranh tụng đã được bổ sung, hoàn
thiện và trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sựcủa nhiều nước trên thế giới và được coi là một trong những phương thức hữuhiệu nhất dé tìm ra công lý trong tô tụng tư pháp Trong một chừng mực nhất
định, tranh tụng còn là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ,
tiễn bộ trong hoạt tộng tư pháp của mỗi quốc gia
Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay theo truyền thống pháp luậtcác nước XHCN và có ảnh hưởng nhiều của truyền thống pháp luật các nước
Châu Âu lục địa Do vậy, mô hình TTHS của nước ta hiện nay về cơ bản là
mô thình tố tụng xét hỏi có tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình tranhtụng Tuy nhiên yếu t6 tranh tụng trong tranh tụng hình sự chưa thực sự được
coi trọng đúng mức trên cả phương diện nhận thức, lý luận, thực tiễn xây
dựng và áp dụng pháp luật.
Về nhận thức: hiện nay còn có nhiều nhận thức khác nhau về tranhtụng, có không ít ý kiến không thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc trongTTHS, Nhìn chung các quan điểm này hoặc là có sự nhầm lẫn giữa nguyêntắc tranh tụng với mô hình tố tụng hoặc không thừa nhận tính quy luật, tínhkhách quan của nguyên tắc tranh tung dé đi đến lập luận cho răng tranh tụngkhông phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay
Vẻ mặt by luận: Trong thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, bài viết dé cập van đề nguyên tac tranh tụng trong TTHS hoặcđảm bảo tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thâm Tuy nhiên trong khoa học
lại thiếu vắng các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về hoạt động tranhtụng và khả năng vận dụng và điều kiện hoàn cảnh ở nước ta Mặt khác, các
công trình bài việt đã công bô lại chưa có điêu kiện đê dé cập nhiêu dén vân
Trang 8Về thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật: Có thé nói BLTTHS năm
2003 đã có những sửa đổi, bố sung quan trọng so với BLTTHS năm 1988 vềnâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, như: các quy định về trình tự xéthỏi; các quy định về Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người thamgia tranh luận trình bày ý kiến; trách nhiệm tranh luận, đối đáp của Kiểm sát
viên Day được coi là bước đột pha quan trong trọng hoạt động cai cách tư
pháp nước ta, đặc biệt là thủ tục t6 tung Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa ghi
nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS Do đó tư tưởng tranh
tụng chưa được nhà làm luật thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng tư
pháp trong BLTTHS Tranh tụng mới chi được thé hiện một phan tại phiên tòa
xét xử mà chưa được thê hiện trong cả quá trình tố tụng từ điều tra, truy t6 đến
xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thâm Các quy định của pháp luật về vị tri, vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan tiễn hành tố tụng chưa thực sự rõ ràng, minh
bạch, dân đên sự lân lộn vê chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này.
Thực tiễn thi hành BLTHS năm 2003 cho thấy chất lượng các khâu xéthỏi, tranh luận trong phiên tòa hình sự đã có những chuyền biến tích cực, gópphân nâng cao hiệu quả của hoạt động TTHS Tuy nhiên, thực tiễn cũng đãbộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định Trong đó việc tô chức phiên tòa theo
tinh thần cải cách tư pháp chưa được toàn diện, khâu tranh tụng tại phiên tòachưa có chuyền biến nhiều, việc xét hỏi tranh tụng vẫn mang nặng tính truyền
thống Kiểm sát viên không tham gia tranh tụng với Luật sư, Hội đồng xét xử
dường như làm thay chức năng của VKS Những hạn chế này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến quyên và lợi ích hợp pháp của công dân, làm chậm tiến trìnhcải cách tư pháp, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp
và điều quan trọng là nó không phản ánh các giá trị đích thực của Nhà nước
pháp quyền mà chúng ta đang hướng tới
Trang 9"Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tô tụng tr pháp theo hướng dân chủ, bìnhdang, công khai, minh bach, chat chẽ, nhưng thuận tiện, bao dam sự tham gia
và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượngtranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứquan trọng dé phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp", Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và nhất là
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ "nang cao chất lượng tranh tụng tai
các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột pha của hoạt động tư pháp"; "Hoan
thiện cơ chế đảm bảo dé luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,
đồng thời xác định rõ chê độ trách nhiệm doi với Luật sw "
Đến nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được thông qua và cónhiều sửa đổi, nguyên tắc tranh tụng đã được chú trọng nhiều hơn Tuy nhiêntại thời điểm viết luận văn này, BLTTHS 2015 vẫn chưa có hiệu lực và chưa
được thi hành trên thực tế, do vậy việc nghiên cứu hoạt động tranh trụng trong
tố tụng hình sự Việt Nam là yêu cau có tính khách quan, cấp thiết cả về lyluận và thực tiễn Do vậy, học viên đã chọn đề tài: "Tranh tụng trong to tung
hình sự" đề làm luận van thạc sĩ luật học
2 Tình hình nghiên cứu đề tài:
Hiện nay ở nước ta có một số các công trình tuy không đề cập trực tiếp
nhưng cũng thé hiện những nội dung nghiên cứu ở các góc độ khác nhau liên
quan đến tranh tụng hoặc nguyên tắc tranh tụng như: luận án tiến sĩ luật học
“Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của Hoàng ThịSơn, đề tài nghiên cứu khoa học “Tranh tụng tại phiên tòa - Một số van đề lý
luận và thực tiễn”; công trình khoa học với để tài “Hoàn thiện các quy định
Trang 10luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Văn Hiển Ngoài ra, nguyên tắc tranhtụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng còn được thể hiện trong nhiều bài viếtkhác như: cuốn “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhànước pháp quyền” do Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên; bài viết
“Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS”
của Lê Cảm; bài viết “Đặc điểm của mô hình TTHS và phương hướng hoànthiện mô hình TTHS ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Mai; bài viết “Cần bổsung nguyên tắc tranh tụng vào BLTTHS” của Lại Văn Trình; sách "Tranhtụng trong xét xử sơ thâm" của tác giả Dương Thanh Biểu
Các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến sự cần thiết phải áp dụngnguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, hoặc nghiên cứu tranh tụng như
một hoạt động của quá trình xét xử, chưa có công trình nào nghiên cứu theo
chiều sâu trên góc độ lý luận và thực tế về bảo đảm hoạt động tranh tụng
trong trong suốt các quá trình của tô tụng hình sự, đồng thời so sánh nhữngđiểm mới về hoạt động tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 với BLTTHS
năm 2013.
3 Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu của dé tài:
Đối tượng nghiên cứu: Những vẫn đề lý luận tranh tụng, hoạt động
tranh tụng, về cải cách tư pháp, hoạt động xét xử sơ thấm, phúc thầm vụ án
hình sự, bảo đảm nguyên tắc Tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
Phạm vì nghiên cứu: trong giới hạn của luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự, học viên chỉ nghiên cứu tranh tụng với tínhchất là một hoạt động cơ bản của TTHS Việt Nam dưới góc độ buộc tội và gỡ
Trang 11Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu trên góc độ lý luận và
thực tiễn về hoạt động tranh tụng trong t6 tụng hình sự Việt Nam va đồng thờiđánh giá một cách khách quan, có căn cứ khoa học về sự thé hiện của nguyêntắc tranh trụng trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS ở nước ta
hiện nay Trên cơ sở đó dé xuất các định hướng, giải pháp góp phần hoàn
thiện va nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động tranh tung trong TTHS Việt
Nam, giúp cho việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đầy đủ, bảo vệ tốt
hơn các quyên con người, quyên công dân trong TTHS.
Dé thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra một sô câu hỏi nghiên cứu là: 3.1 Chứng minh tranh tụng là hoạt động cơ bản của TTHS và khả năng
áp dụng hoạt động tranh tụng trong các mô hình tô tụng hình sự khác nhau
- Khái niệm, bản chat, ý nghĩa, mục đích, phạm vi, điêu kiện, nội dung của hoạt động tranh tụng?
- Sự thé hiện của hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt nam?3.2 Dựa trên điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam xác định:
tố tụng hình sự và đưa nguyên tắc "Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm"
mới được quy định trong BLTTHS năm 2015 vào thực hiện trên thực tế 2
5 Phương pháp nghiên cứu
Trang 12pháp quyên, cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải
cách tư pháp va thủ tục tư pháp nói riêng.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Triết học
mác — Lê Nin và chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cách tiếp cận của luận văn là đặt hoạt động tranh tụng trong mối quan hệ của
hệ thống, trong mối quan hệ với các hoạt động cơ bản khác của TTHS đề thấyđược mỗi quan hệ bên trong, vi trí, vai trò va tầm ảnh hưởng của hoạt động
tranh trụng trong quá trình tố tụng
Luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa hoc cụ thécủa khoa học xã hội và khoa học pháp lý phù hợp với yêu cầu cùa từng vấn đề
nghiên cứu, như: các phương pháp hệ thống, phân tích, tong hợp, so sánh,
thống kê kết hợp với các phương pháp khảo sát thực tiễn đối với từng vấn
dé cu thê đê làm sang tỏ nội dung cân nghiên cứu.
6 Y nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Với mục tiêu nghiên cứu đã dé ra, luận văn này nghiên cứu nhăm tìm ra
một khái niệm chung về hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự, vai tròcủa tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và TTHS Việt Nam nói riêng,
các điều kiện bảo đảm hoạt động tranh tụng diễn ra trong quá trình tố tụnghình sự trên thực tế, và đảm bảo tranh tụng trong phiên toà xét vụ án hình sựtheo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam Đồng thời luận văn cũng đánh giá
những điểm tiễn bộ va hạn chế của BLTTHS 2003 về tranh tụng, so sánh với
BLTTHS 2015 dé tìm ra những điểm mới, tiễn bộ của BLTTHS 2015 về hoạtđộng tranh tụng Hi vọng với kết quả đạt được luận văn sẽ góp phần bổ sung
ly luận về cải cách tư pháp mà trong tâm là hoạt động tranh tụng trong xét xử;
bổ sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm hoạt động tranh tụng trong tố tụng
Trang 13Nam hiện nay nói chung, góp phần vào việc thực hiện một số nhiệm vụ trọng
tâm, trong đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử mà Nghịquyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị coi là điểm nhắn của cảicách tư pháp, đồng thời có thé làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng
day trong các trường dao tạo luật.
7 Kết cau của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văngồm 2 chương:
Chương 1: Những van dé chung về tranh tụng trong tô tụng hình sự
Chương 2: Thực tiễn tranh tụng trong tô tụng hình sự Việt Nam và một
sô kiên nghị
Trang 141.1 Khái niệm tranh tung trong tố tụng hình sự
1.1.1 Những quan điểm khác nhau về tranh tụng
Tranh tụng là hình thức (kiểu) tố tụng được biết đến ngay từ những thời
đại xa xưa của xã hội loài người Loại hình tô tụng này đã được áp dụng từthời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó được áp dụng rộng rãi ở La Mã với tên gọi “thủ
tục hỏi đáp liên tục”, Cùng với thời gian, tranh tụng được kế thừa, phát triển
và được khẳng định và đến nay nó được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệthống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ
Về mặt thuật ngữ thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau”” giữahai bên (bên nguyên và bên bị) có lập tường tương phản yêu cầu tòa án phân
xử Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ
“tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận trong tố tụng Trong tiếngAnh, thuật ngữ tranh tụng thường được gan liền với khái niệm “hệ t6 tung
tranh tung” (Adversarial System) với hàm ý đối lập với hệ tố tụng thâm van
(Inquisitorial System) Trong pháp luật Liên bang Nga tranh tụng được ghi
nhận tại Điều 15 Bộ luật TTHS Liên bang Nga năm 2001 với tính chất là một
nguyên tắc cơ bản của TTHS Liên bang Nga
Trong khoa học pháp lý Việt Nam thuật ngữ "tranh tụng" đã được biết
đến từ lâu, tuy nhiên nhận thức một cách đúng đắn về thuật ngữ này vẫn còn
là vấn để còn tồn tại nhiều ý kiến, nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khácnhau xung quanh khái niệm này Cụ thể:
' Nhà pháp luật Việt — Pháp: Kỷ yếu hội thảo "Mor số nội dung về nguyên tắc tô tụng xét hỏi và tranh tụng —
Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bôi dưỡng bồ nhiệm quản lý Thẩm phán", Hà Nội, 2002
? Đại từ dién tiếng Việt, Nxb.Khoa học xã hội, 1991.
Trang 15điểm và lợi ích của phía đối lập” Như vậy, theo định nghĩa này thì tranh tụngđược nhìn nhận như một hoạt động của tố tụng hình sự.
Có quan điểm khác cho rằng, tranh tụng là "một quá trình xác định sựthật khách quan về vụ án đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được
mục đích, các nhiệm vụ đặt ra của Luật tô tụng hình sự",
Quan điểm này đồng nhất tranh tụng với quá trình xác định sự thật của
vụ án tức là với hoạt động chứng minh Ở đây có sự nhằm lẫn giữa nội dung
và hình thức, giữa hoạt động tố tụng với chính hình thức hoặc cách thức tiễn
hành của nó.
Tác giả của quan điểm này một thời gian sau đã đưa ra định nghĩa khác
hơn về tranh tụng Theo đó, tranh tụng "được dùng theo nghĩa Hán Nôm déchỉ một cuộc tranh luận (tranh cãi) về một vu án bang cách các bên tham gia
đưa ra các lý lẽ, chứng cứ và các văn bản pháp luật làm cơ sở cho sự buộc tội
hay bào chữa của mình dé người thứ ba đứng giữa hai bên là Tòa án làm trọng
tài phân xử"Ẻ
Quan điểm mới này có bước tiến bộ so với quan điểm thứ nhất khi đề
cập đến vai trò trọng tài của Tòa án trong quá tình giải quyết vụ án như là mộtđặc điểm của tố tụng có tính tranh tụng Tuy nhiên, những đặc điểm khác củakhái niệm tranh tụng hay t6 tụng có tính tranh tụng vẫn chưa được làm rõ
Bên cạnh đó các diễn đạt này dễ dẫn đến sự nhằm lẫn "tranh tụng" chính là
"tranh luận".
Ở Việt Nam, tranh tụng và van đề tranh tụng chỉ mới được đề cập và
trao đối nhiều trong thời gian gần đây khi Đảng và Nhà nước ta khởi động
* Viện khoa học pháp lý, Từ điền luật học , Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.807-808
* Nguyễn Đức Mai, Nguyên tắc tranh trụng trong tô tụng hình sự, Tạp chí Luật học sô 1/1995
” Nguyễn Đức Mai, Tranh tung trong Tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật số 1/1996
Trang 16công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnhngày càng hội nhập sâu vào đời sống kinh tế và đời sống pháp lý quốc tế.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết 08-NQ/TW) đã xác định: “Nang cao chất lượng công tô của Kiểm sát
viên tại phiên toa, bảo đảm tranh tung dân chủ với Luật sư, người bào chữa
và những người tham gia to tụng khác Khi xét xử, các Tòa án phải dam bảocho mọi công dân đều bình dang trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phan
quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiêntòa đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục vàtrong thời hạn luật định Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện đểLuật sư tham gia vào quá trình tô tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu
hỗ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toa ” Nghị quyết số 49-NQ/TWngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020(sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49-NQ/TW) một lần nữa yêu cầu “Nâng caochất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất
cả các phiên tòa xét xu, coi day là hoạt động đột phá cua các cơ quan tư
pháp ”, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/1012 tiếp tục khang định
“Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét
xử các vụ án hình sự Tòa án nhân dân toi cao chi đạo các Tòa án tiếp tucday mạnh việc tranh tung tại phiên tòa ”
Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự; các qui định của Bộ luật TTHS
năm 2003 và qui định của Hiến pháp 2013, có thể nhận thấy khái niệm tranh
tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ các Nghị quyết của Đảng về cảicách tư pháp, gần đây được Hiến pháp 2013 qui định Tranh tụng được hiểu
với nghĩa không phải là một kiêu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận
của Kiểm sát viên và những người tham gia tô tung trong tô tụng hình sự, cụ
Trang 17thé là tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bao gồm cả phiên toà sơ thầm va
phúc thâm Trong đó, Kiểm sát viên và người tham gia tố tung dựa trên các tài
liệu, chứng cứ; các qui định của pháp luật; trên cơ sở tư duy logic hình thức
để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ sự thật khách
quan của vụ an.
Từ khái niệm nêu trên, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìndưới hai góc độ pháp lý và nhận thức Dưới góc độ pháp lý, bản chất của
tranh tụng gôm có các nội dung cơ bản sau đây:
- Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng
phải tuân theo các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự
- Chủ thé của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên và người tham gia tôtụng khác có quyên và lợi ích đối lập với nhau trong vụ án hình sự Các chủ
thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng bình đẳng với nhautrong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án.Kiểm sát viên có thê tranh tụng với người bào chữa, với bị cáo, người bị hại
và những người tham gia tố tụng khác dé làm rõ sự thật khách quan của vụ án
- Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiến của chủ
toạ phiên toà Chủ tọa phiên toà có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranhtụng hoặc quyết định chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như
phương pháp tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật và sự cần
thiệt làm rõ các vân đê của vụ án.
- Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan
của vụ án Sự thật khách quan này bao gồm các tình tiết vụ án và các tình tiếtliên quan đã diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ
pháp lý (đưới góc độ đánh giá trên cơ sở pháp luật hình sự và pháp luật tố
tụng hình sự).
- Đôi tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điêm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án.
Trang 18- Cách thức tranh tụng là các bên chủ thê tranh tụng sử dụng các chứng
cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới phát hiện hoặcđược cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, các qui định của pháp luật hiện
hành dé làm rõ các vân dé cân tranh tụng của vụ án.
Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức, ban chất của
tranh tụng có các nội dung sau:
- Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức Các bêntranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khăng định
quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên
tụng Tất nhiên, thuộc tính này của tranh tụng là xét về nguyên tắc Với những
vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ dé khang định lời nhận tội của bị
cáo là có cơ sở, tại phiên toà không có những quan điểm xung đột thì khôngphát sinh tranh tụng hoặc nếu có thì chỉ ở mức độ nhất định
Như vậy có thé thấy, trên thé giới và ở Việt Nam, khái niệm “tranh
tụng” đến nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất Ở mỗi quốc gia khác
nhau, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật mà khái niệm “tranh tụng” được hiểu
theo một nghĩa khác nhau.
1.1.2 Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự
Trong khoa học t6 tụng hình sự, khái niệm tranh tung được nhìn nhận ởnhiều góc độ khác nhau Trước hết tranh tụng có thể được hiểu như là mộtnguyên tac cơ ban của TTHS Có thể hiểu nguyên tắc của tố tụng hình sự lànhững tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tô tụng hình sự hoặc đối với
Trang 19một loại hoạt động nhất định, đó là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thé về tố tụnghình sự; hoặc đó là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạtđộng tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật t6 tung hinh su ghi nhan.Khi tranh tung là một nguyên tắc thì nó phải thé hiện tinh dân chủ, công khai,minh bạch, khách quan, bình đăng trong tất cả các hoạt động tố tụng hình sự,đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự, vì xét đến cùng, tranh tụng làphải tiễn đến giải quyết tranh chấp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại Tòa án
Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tô tụng sử dụngcác phương pháp dé bảo vệ các quyên và lợi ich hợp pháp cho mình Nguyên
tắc tranh tụng dé cao vai trò của Luật sư, của cá nhân va dé cao các quyền coban của con người Tham phan chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan va công
minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên
tòa Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công
khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát Tòa án và luôn phải chịu trách sức
ép từ bên đối lập Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự
chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua
Cuộc.
Tranh tụng có thê được xem xét ở góc độ là một loại mô hình tổ tụng
Khái niệm mô hình TTHS được hiểu là một cách thức tổ chức hoạt động TTHStrong số nhiều cách thức tổ chức khác mà nhân loại đã biết đến Mô hình tổtụng tranh tung đã hình thành và tồn tại ở mỗi quốc gia dưới tác động của nhiềuyếu tố, điều kiện lich sử, kinh tế, văn hóa, truyền thống pháp ly Muc đích của
mô hình này là nhằm bảo đảm sự bình đăng tuyệt đối giữa bên buộc tội (cơ
quan công tố) và bên bào chữa trong suốt quá trình đi tìm sự thật vụ án Day là
mô hình tạo ra nhiều cảm hứng cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng tôtụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới Theo đó, mô hình này có một quy
trình tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn xét xử thể hiện tính công băng cao, thể
hiện qua vai trò bình đăng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội Ở giai đoạn tiên xét
Trang 20xử, công tố viên và luật sư có quyền điều tra, thu thập chứng cứ như nhau Khixét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra dé thấm tra trước tòa, đều có quyềnlựa chọn nhân chứng dé thâm tra Thông qua đối tụng giữa công tố viên vàluật sư mà tòa án gồm đoàn bôi thâm và thâm phán chủ tọa phán quyết về sựthật khách quan và định hình phạt Mô hình này cho phép luật sư có thể thamgia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên tòa án có thê thêm được một nguồn thôngtin giá trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án Thay vì chỉ xem xét cácchứng cứ có trong hồ sơ hình sự thì đoàn bồi thâm được tiếp cận chứng cứ của
cả bên buộc tội và bên gỡ tội Điều này bảo đảm cho mục đích tìm ra sự thậtkhách quan và chất lượng tranh tụng được nâng lên
Trong mô hình tố tụng tranh tụng không tồn tại một “hồ sơ hình sự”theo nghĩa sử dụng trong mô hình tố tụng thâm vấn Bên buộc tội và bên bàochữa đều có quyền lập tài liệu, hồ sơ và khi ra phiên tòa xét xử, cả hai bộ hồ
sơ đều không có giá trị chứng cứ mà chỉ có chứng cứ nào được trình bảy và
thâm tra tại tòa bằng miệng, được tòa án chấp nhận thì đó mới là chứng cứ và
trình này diễn ra tại phiên tòa trước tòa án có vai trò là trọng tài
Nhu vậy, khái niệm “/ranh tung” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau: tranh tụng có thể được hiểu như là một hoạt động của TTHS; tranh tung
được hiểu như một nguyên tắc của TTHS và tranh tụng cũng được hiểu nhưmột kiểu, mô hình tố tụng Mỗi cách hiểu nêu trên đều tiếp cận vẫn đề "tranh
tung" ở những góc độ khác nhau tùy mục đích nghiên cứu Trong phạm vi
luận văn này, khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình được hiểu dưới góc độ
5 Lê Tiến Châu, Một số van đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2003
Trang 21là một hoạt động trong tổ tụng hình sự Đề làm rõ khái niệm tranh tụng dướigóc độ là một hoạt động trong t6 tung hinh su, cần làm rõ một số điểm sau.
- Phạm vi của hoạt động tranh tụng:
Dưới góc độ là một hoạt động tố tụng hình sự, việc xác định phạm vitranh tụng được có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự Theo tiễn sĩ Lê Tiến Châu thì có hai quan điểm khi xácđịnh phạm vi của tranh tụng Quan điểm thứ nhất cho rằng: "quá trình tranhtụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước
khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơthâm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), thậm chí quá trình này lại còn đượctiếp tục trong một số trường hợp khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy dé tiến hànhđiều tra, truy tố, xét xử lại"” Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụngchỉ thực sự bắt đầu từ giai đoạn xét xử vụ án (xét xử sơ thâm, phúc thâm,không có giai đoạn xét xử giám đốc thâm, tái thâm) với sự có mặt đầy đủ bachủ thé: bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án.Š
Theo quan điểm thứ nhất, có thể hiểu rằng, khi nào xuất hiện bên buộctội và bên gỡ tội thì khi đó xuất hiện tranh tụng, vì vậy việc tranh tụng đượcdiễn ra trong điều kiện mà ở đó chỉ cần có chủ thê của hai bên buộc tội và bào
chữa tham gia Với quan điểm này, quá trình tranh tụng được bắt đầu từ khi
xuất hiện người bị tình nghi phạm tội (khi tạm giữ người bị tình nghi hoặc bắtngười phạm tội quả tang, hoặc khi khởi tố vụ án), cho đến khi vụ án được đưa
ra xét xử và kết thúc khi có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật Quanđiểm này chưa có đầy đủ cơ sở dé thuyết phục Bởi lẽ Trong các giai đoạn điềutra, truy tố, việc buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên đối tụng thực hiệnmột cách đơn phương theo ý chí chủ quan của mình, các bên đều có quyền tự
Nguyễn Đức Mai, Vấn đề tranh tụng hình sự, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội 1999
Š Lê Tiến Châu, Một sô van dé về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 1/2003
Trang 22thu thập, đưa ra những tài liệu chứng minh quan điểm của mình, bác bỏ quan
điểm của bên còn lại, nhưng lại không có quyền quyết định quan điểm nao,chứng cứ nào là đúng, là có căn cứ Quá trình tranh tụng ở đây còn thiếu mộtchủ thé giữ vai trò quyết định đó là Toa án với chức năng xét xử Chỉ khi đếngiai đoạn xét xử thì Tòa án mới tham gia với vai trò là trọng tài phán quyếtchấp nhận hoặc bác bỏ lập luận của các bên, quyết định bên nào là người thắngcuộc Tại phiên tòa, với sự có mặt đầy đủ các chủ thé, quá trình tranh tụng mớiđược tiễn hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên
bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử.
Do đó, theo quan điểm cá nhân của tác giả, quá trình tranh tụng chỉ thực sự
được tiễn hành khi có sự hiện diện day đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới
sự kiểm tra, giám sát của Tòa án Chính vì vậy mà quá trình này chỉ có thé
được bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tòa
Về thời điểm kết thúc của quá trình tranh tụng Có thé thấy, thông quaquá trình tranh tụng, mâu thuẫn giữa các bên được giải quyết, sự thật của vụ ánđược làm sáng tỏ và khi có một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật
thì quá trình tranh tụng sẽ kết thúc Có ý kiến cho rằng, sau quá trình xét xử sơthâm là quá trình xét xử phúc thâm, giám đốc thâm và tái thâm, quá trình
tranh tụng van còn tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham
gia và các chức năng được thực hiện Phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo, kháng nghị Do đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử
cũng không được thực hiện đầy đủ như ở phiên tòa sơ thâm Như vậy, có thékhang dinh rang tranh tung ton tại ton tại ở các giai đoạn tố tụng khi mà ở đó
có sự hiện diện của các bên buộc tội, bào chữa Theo ý kiến này, tranh tụngton tại ở cả giai đoạn Giảm đốc thâm và tái thẩm Tuy nhiên, thực tế cho thấy
rang, trong thủ tục giám đốc thâm, tái thẩm, tranh tụng không tôn tại Theo
quy định của luật tố tụng hình sự thì giám đốc thẩm và tái thẩm không phải làmột cấp xét xử mà chỉ là thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm việc triệu tập những những
Trang 23người tham gia t6 tụng không phải là bắt buộc, do vậy hau nhưu không có sự
hiện diện đủ của các bên tranh tụng, nhất là bên gỡ tội, vì vậy không thé cótranh tụng Và kết quả của việc giám đốc thấm, tái thâm sẽ đặt dấu chấm hếtcho vụ án (trong trường hợp không chấp nhận kháng nghị) hoặc tạo ra mộtquá trình t6 tụng mới (nếu phán quyết của hội đồng giám đốc thâm, tái thâmchấp nhận kháng nghị, quyết định việc điều tra, xét xử lại vụ án) Như vậy cóthé xác định tranh tụng chỉ ton tại đến gia đoạn xét xu sơ thầm, phúc thầmchứ không tồn tại trong giai đoạn giám đốc thâm, tái thâm
- Chủ thể của hoạt động tranh tụng
Chủ thê của hoạt động tranh tụng chính là các bên tham gia vào quá
trình tranh tụng trong tố tụng hình sự Trong vụ án hình sự không phải chỉ có
các bên buộc tội và gỡ tội mà trong nhiều trường hợp còn tồn tại một bên thứ
ba đó là những người tham gia dé giải quyết các van đề khác như nguyên đơndân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan và các bản án,quyết định của Tòa án cũng không đơn thuần chỉ xác định bị cáo có tội hay vôtội ma còn xác định cả các van đề dân sự trong vụ án hình sự Như vậy, có thê
thay được, chủ thé trong tố tụng hình sự rất đa dạng Tuy nhiên, như đã phnatích ở trên, tranh tụng chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, do đó cũng chi
có các chủ thé được tham gia trong giai đoạn nay mới là các chủ thé của tranh
tụng Có thé phân thành bốn nhóm chính sau:
+ Nhóm các chủ thê thực hiện chức năng buộc tội: Kiêm sát viên (đại diện Viện kiêm sát), người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ.
+ Các chủ thê thực hiện chức năng gỡ tội, bao gôm: bị cáo (đôi với bị cáo chưa thành niên thì còn có người đại diện hợp pháp của họ); người bào
chữa, bị đơn dân sự, người đại diện của bị đơn dân sự.
+ Chủ thê thực hiện chức năng xét xử là Tòa án, gôm có: thâm phán,
hội thâm
Trang 24+ Cuối cùng là các chủ thể tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo xác
định sự thật của vụ án như: người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
- Đối tượng của hoạt động tranh tụng
Đối tượng chính là điều mà các bên hướng tới, trong hoạt động tranhtụng, đối tượng mà các bên hướng tới chính là các quan điểm, luận cứ và luậnchứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án để vụ án được xem xét
một cách khách quan, công băng, qua đó giải quyết các mâu thuẫn, bảo vệquyên và nghĩa vụ của bên mình, tìm ra chân lý khách quan của vụ án Trong
hoạt động tranh tụng, các bên buộc tội và gỡ tội phải thông qua việc thu thập
tài liệu, chứng cứ dé đưa ra những luận điểm của mình, phản bác luận điểm
của bên đối tung, đó có thé là việc xác định tính hợp pháp, tính đúng dan củacác quyết định t6 tụng hoặc các thủ tục t6 tụng (như áp dụng các biện phápngăn chặn đúng hay sai, việc lấy lời khai có đúng thủ tục không, lời khai cóđúng không, lời khai là buộc tội hay gỡ tội, hay việc kết quả giám định, kết
quả khám nghiệm hiện trường có khách quan không )
- Mục đích của hoạt động tranh tụng:
Mục đích chính là điều mà các bên mong muốn đạt được Mục đích củahoạt động tranh tụng đó là khang định, chứng minh quan điểm của bên mình
là đúng đắn, bác bỏ quan điểm của bên đối lập Cụ thé, đó là nhăm làm rõ bảnchất của vụ án, chứng minh xem có sự việc phạm tội xảy ra hay không, xảy rabao giờ, vào thời gian nào, địa điểm ở đâu, ai là người thực hiện hành vi phạmtội, sự việc có lỗi hay không và là lỗi có ý hay vô ý, những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ tách nhiệm hình sự; hậu quả do hành vi gây ra; mục đích, động cơ phạm tội là gì
- Hình thức của tranh tụng
Hình thức của hoạt động tranh tụng đó là những phương pháp, cách thức mà các bên thê hiện ra đê nhăm đạt được mục đích của mình Đô chính
Trang 25là việc thông qua các hoạt động thu thập và đưa ra những chứng cứ, tài liệu;
phản bác, khiếu nại về quá trình thu thập chứng cứ và bảo quản chứng cứ;
xác định căn cứ và thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn; sự chính xac va
đúng đắn của các hoạt động khám nghiệm, giám định trong giai đoạn điều,tra, truy tố dé tiễn hành xét hỏi và tranh luận và đối đáp tại phiên tòa giữa các
bên dưới sự giám sát, trọng tài của Tòa án.
Qua phân tích ở trên, có thê rút ra khái niệm về tranh tụng như sau:
Tranh tụng là một hoạt động to tụng hình sự được thực hiện bởi các
chủ thể tổ tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) dưới sự trọng tài cua Toa an dé
bảo vệ quan điểm của minh và bác bỏ quan điểm của phía doi lập, trên co sở
đó giúp Tòa án giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đây đủ, bảo vệ lợi íchNhà nước, quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức
1.2 Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng hình sự
Việc thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS không
đơn thuần chỉ có ý nghĩa trên phương diện pháp lý mà còn có ý nghĩa trên
nhiều phương diện khác nhau
1.2.1 Ý nghĩa chính trị- xã hội
Trên phương diện chính trị -xã hội, cần hiểu tranh tụng là một sản
pham, giá trị của nền dân chủ thực sự Điều này đã được chứng minh qua quá
trình hình thành, tồn tại và pháp triển của TTHS thế giới Trong các nhà nước
cô đại, trung cô hầu như giai cấp thống trị thời kỳ này không ghi nhận tranh
tụng như là một nguyên tắc, một hoạt động của TTHS, bởi lẽ, các nhà nướcthời kỳ này phan lớn là các nha nước chuyên chế của chủ nô và phong kiến,
sự tồn tại của nhà nước là để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị bóc lột,trong xã hội không thé có bình dang và càng không thé có dân chủ Chínhđiều này là cơ sở chính trị cho việc không thé có việc ghi nhận tranh tụng là
một hoạt động trong TTHS, các hành vi xúi giục người khác làm đơn thưa
kiện (điều 17 - Quyền 16 Hoàng Việt luật lệ) đều bị trừng trị, việc phán quyết
Trang 26của quan tòa dựa trên lời nhận tội của bị cáo và các bị cáo phải tự tay viết lờinhận tội (điều 15- Quyền 20 Hoàng Việt luật lệ)
Trong thời đại ngày nay, dân chủ được coi là một trong những giá tri
lớn nhất của nên văn minh nhân loại, không có dân chủ sẽ không có bình
đăng, không có tiến bộ và không có văn minh Do vậy, các quyền và lợi íchcủa mỗi cá nhân, từng chủ thé trong xã hội cần phải có sự bảo vệ ngày một tốt
hơn về mặt pháp lý và thực tế Khoản 1, Điều 9 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966” quy định rõ: “Moi người déu có quyền
hưởng tự do và ân toàn cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ
Không ai bị tước quyên tự do trừ trường hợp việc tước quyên đó là có lý do
và theo đúng những thu tục mà luật pháp đã quy định” Linh vực TTHS được
coi là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất trong việc bảo đảm quyền về
an toàn cá nhân Do vậy dé đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của
những người bị tình nghi là phạm tội, của những người bị buộc tội, Công ước
yêu cầu các quốc gia phải có một cơ quan tài phán thực sự độc lập, khôngthiên vị; người bị tình nghi phạm tội phải có đầy đủ thời gian và điều kiện cần
thiết dé bảo đảm được quyền bảo chữa của mình, Điều 14 của Công ước này
quy định rõ:
“1 Mọi người déu bình dang trước Tòa án và cơ quan tài phán Moi
người đêu có quyên được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án cóthấm quyên, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để
quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ an hình sự, hoặc dé xác định
quyên và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự ,;
2 Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội
cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật;
° Được thông qua va dé ngỏ cho các: quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết
2200 ngày 16/12/1966 của Đại hội đông liên hợp quôc, có hiệu lực ngày 23/3/1976, căn cứ theo Điêu 49 Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982.
Trang 273 Trong qua trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đêu có quyên
được hưởng một cách day du và hoàn toàn bình đăng những bao dam toi
thiểu sau đây:
b) Có du thời gian và diéu kiện thuận lợi đề chuẩn bị bào chữa và liên
hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua
sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyên nàynếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉđịnh trong trường hợp lợi ích đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp
đó néu không có du diéu kién tra;
e) Được thẩm van hoặc yêu cẩu thẩm van những nhán chứng buộc tội
mình va duoc mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tòa và thẩm van
ho tại phiên tòa với những diéu kiện tương tự như doi với những người làm
chứng buộc tội minh;
ø) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận là mình có tội ”
Có thê nói đây là những quy định mang tính nền tảng để mỗi quốc giathành viên thê chế hóa thành luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên trong tô tụng hình sự Thé chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong TTHS
sẽ là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phan bảo đảm các quyền và lợiích hợp pháp của các bên tham gia tô tụng hình sự, bảo đảm dân chủ thực sự
trong tố tụng hình sự Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì các giá trị về dân chủ, nhân
quyền trong TTHS càng được đề cao hơn bao giờ hết Chính vì vậy, Nghị
Trang 28quyết 08-NQ/TW đã nhắn mạnh “Nâng cao chat lượng công tô của Kiểm sát
viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào
99
chữa ” , “Việc phan quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranhtụng tại phiên tòa ” Nghị quyết sô 48-NQ/TW chỉ rõ: “Cải cách mạnh mẽcác thủ tục tô tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình dang, công khai, minh
bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân
dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiêntòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết
bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”,
“Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật su thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên
toa, dong thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đổi voi luật sư”
1.2.2 Ý nghĩa pháp lý
Việc thừa nhận hoạt động tranh tụng trong TTHS sẽ dẫn đến những
nhận thức tích cực hơn về TTHS nói chung, về mô hình tổ chức hệ thống tưpháp và thủ tục TTHS nói riêng Đề cho hoạt động tranh tụng được vận hành
trôi chảy đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp phải có cái
nhìn tong thé hơn về mô hình tổ chức hệ thống cơ quan tư pháp Dé đảm bảođược yếu tố tranh tụng thì đòi hỏi phải có sự rành mạch, rạch ròi về chức năng
của các bên buộc tội, gỡ tội và xét xử Do vậy, về mặt tổ chức phải bảo đảm
sự độc lập của tòa án, mọi yếu tô làm ảnh hưởng đến tính độc lập của tòa ánphải được loại bỏ (vi dụ như việc bố nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ, hayviệc Tòa án nhân dân tối cao quản lý các tòa án địa phương về mặt tổchức ) Về mặt chức năng, quyền hạn và thủ tục tố tụng cần phải có những
phân biệt thật ranh mạch trong tố tụng, không thé dé lẫn lộn giữa chức năng
buộc tội với chức năng xét xử (như việc xếp Tòa án và cùng một bên với Việnkiểm sát và Cơ quan điều tra và được coi là cơ quan tiến hành tố tụng trong sự
đối lập với những người tham gia tố tụng khác; Tòa án có quyên trả hồ sơ để
điều tra b6 sung như một Công tổ viên thứ hai )
1.3 Điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng
Trang 29Tranh tụng là hoạt động quan trọng trong tố tụng nói chung và TTHS
nói riêng Đề việc tranh tụng được thực hiện và thực hiện có hiệu quả, cầnphải đảm bảo được hai yêu cầu chính sau:
Một là, bên buộc tội và bên bào chữa phải thực sự bình đăng với nhau
Hai là, Tòa án phải độc lập, khách quan đảm bảo cho hai bên có các điêu kiện như nhau dé thực hiện chức năng của minh.
Lé-nin đã từng nói: sự thật chỉ được tìm ra thông qua tranh luận và but
chiến Trong TTHS điều đó có nghĩa là sự thật chỉ được tìm thấy qua tranhluận tự do và công bang Tranh tụng đòi hỏi pháp luật TTHS phải đảm bảocho các bên day du cac phuong tién cần thiết dé có thé thực hiện được chức
năng của mình Phương tiện của các bên phải tương xứng với nhau và phải
phủ hợp với chức năng của chúng Sẽ là bất bình dang khi pháp luật dành cho
một bên quá nhiều phương tiện còn bên kia lại có quá ít Không nên quan
niệm rang vì bên buộc tội (công tố) là đại diện cho Nhà nước còn bên bàochữa chi đại diện cho quyên lợi của người bị buộc tội (là đối tượng của tổtụng của trách nhiệm hình sự) nên không thé bình dang được Quan điểm nàycần phải được xem xét lại Tư tưởng bình đăng này không chỉ thể hiện ở tại
phiên tòa mà còn phải được đảm bảo từ trước khi mở phiên tòa, ở đó các bên
phải được đảm bảo các điều kiện thuận lợi trong việc chuẩn bị các điều kiện
cho việc tranh tụng tại phiên tòa Nếu bên buộc tội và bên bào chữa khôngthực sự bình đắng và Tòa án không độc lập trong quá trình xét xử thì sẽ không
có tranh tụng hoặc tranh tụng nửa vời Nội dung Nghị quyết số 08-NQ/TWcủa Bộ Chính trị đã nói ở trên đã thé hiện rất rõ ràng tư tưởng chỉ đạo này.Bên cạnh sự bình đăng giữa bên buộc tội, bên bào chữa và sự độc lập của Tòa
án về phương diện pháp lý, yêu cầu và hiệu quả của tranh tụng còn đòi hỏi sựbình đăng và độc lập trên phương diện thực tiễn Những biểu hiện vi phạmcác quy định pháp luật TTHS vốn đã có và sẽ có trong thực tiễn tranh tụngphải được khắc phục băng những giải pháp khác nhau như công tác tổ chức,dao tạo, tuyên chọn thâm phán và những chủ thé tham gia tranh tụng, nâng
Trang 30cao nhận thức, nhất là lương tâm trách nhiệm, trình độ chuyên môn, kiến thức
văn hóa pháp lý cho họ.
Đê đảm bảo được hai yêu câu này, cân phải có các điêu kiện khác nhau
vê pháp lý, vê tô chức cũng như về cơ sở vat chat:
- Những bảo đảm về mặt pháp ly được thé hiện trên các phương diện
như:
Thứ nhất, phải có các quy định pháp luật thé hiện một cách day đủ nhất
quán, rõ ràng sự phân định tham quyên và trách nhiệm, nghĩa vụ của người
bào chữa và các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các chức danh tư
pháp ở mỗi cơ quan, phù hợp với vị trí, vai trò (chức năng) của họ theo yêu
cầu tranh tụng Các quy định của pháp luật về địa vị tố tụng của các bên tham
gia tố tụng phải day đủ, hợp lý và khả thi dé họ có đầy đủ điều kiện, khả năng
thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của
mình: được chủ động thu thập vật chứng, cung cấp tài liệu cho Tòa án, đượckiểm tra chéo chứng cứ của nhau, được nêu ra yêu cau, hỏi người là chứng và
phản bác quan điêm của nhau
Tứ hai, các quy định thủ thục tố tụng phải bình đăng, nhất là tại phiêntòa; đảm bảo để các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cáchkhách quan, công bằng và binh đăng: mở rộng phạm vi các vụ án có sự thamgia bắt buộc của người bào chữa Tư tưởng bình dang này không chi thé hiện
ở tại phiên tòa mà còn phải được bảo đảm ở mọi giai đoạn tô tụng.
Thứ ba, các quy định về quyền khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị ban
án, quyết định của các bên và hiệu lực như nhau của các khiếu nại, khángcáo, kháng nghị đó Ví dụ: Viện kiểm sát và bị cáo đều có quyền kháng nghị,kháng cáo như nhau đối với bản án, quyết định của Tòa án
- Các bảo đảm vẻ tổ chức bao gồm các van dé như: phân định rõ chứcnăng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, tạo điều kiện pháp triểncác tô chức bồ trợ với chức năng hợp lý, phù hợp với cơ chế tranh tụng (luật
Trang 31sư, giám định, trợ giúp pháp lý ) Các van đề như quan hệ giữa Cơ quanđiều tra, Viện kiểm sát trong tổ tụng hình sự, Viện kiểm sát có chức năngkiểm sát tư pháp hay không, có cho phép thành lập các tổ chức thám tử tư đểgiúp người tham gia tố tụng thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra lànhững vẫn đề cần được nghiên cứu thỏa đáng Việc tăng cường các tổ chứcluật sư tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý việc mở rộng phạm vi bào chữa
để bảo đảm các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa ngày càngnhiều; nâng cao văn hóa pháp ly trong t6 tụng nói chung và tại phiên tòa nói
riêng cần dược quan tâm thỏa đáng Viêc nâng cao trình độ, nhận thức của
các bên tham gia tố tụng, bảo đảm cho họ có đủ năng lực về chuyên môn, về
phong cách, về khả năng dién đạt đề thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa
cũng là những vấn đề đáng quan tâm Trong những trường hợp người tham
gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp củaluật sư, mở rộng dối tượng được trợ giúp pháp lý bắt buộc I9
Nhận thức, năng lực độc lập và chế độ trách nhiệm cá nhân của các
chức danh tư pháp là điều kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trong dé thực hiện
tranh tụng Việc đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu tranh tụng, đặc
biệt là hướng đào tạo nguồn dé có thé luân chuyền giữa các chức năng tố tungcủa Kiểm sát viên, Thâm phán, Luật sư sẽ tạo cho họ khả năng tranh tụnghiệu quả dù họ ở vi trí buộc tội, gỡ tội hay trọng tài dé phan quyét
- Bao dam cơ sở vat chất cho quá trình tranh tụng cũng là van dé cầnquan tâm đúng mức, như: vị trí của các bên tại phiên tòa như thế nào để đảm
bảo không khí tố tụng bình đăng, khách quan: tạo điều kiện cho các bên dễdàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, ánh sáng, hình ảnh
thuận tiện cho việc theo dõi phiên tòa
1.4 Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2003
!° Xem Tran Văn Độ: Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa Tạp chí Khoa học, số 4, 2004
Trang 32Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nhắnmạnh: "Khi xét xử, các toà án phải bảo dam cho mọi công dân đều bình đắngtrước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thầm phán và hội thấm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vàokết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện cácchứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bao chữa, bi cáo, nhân chứng,nguyên đơn, bị đơn và những người có quyên, lợi ích hợp pháp để ra nhữngbản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy
định" Thể chế hóa tư tưởng này, ngoài việc tiếp tục kế thừa có chọn lọc cácquy định của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 có nhiều quy địnhnhằm thực hiện và bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hình sự Cu thê:
Thứ nhất, vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát được quy định rõràng hơn theo hướng phân định rõ chức năng buộc tội của Viện kiểm sát với
chức năng xét xử của Tòa án, xác định rõ công tô là chức năng cơ bản củaViện kiểm sát, thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát.BLTTHS năm 2003 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 cómột số quy định mới trong các nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động và đề cao trách nhiệm, sự chủ động của Viện kiểm sát nhân dân vàcác Kiểm sát viên trong TTHS Dé nâng cao tính chủ động của Viện kiểm sát
nhân dân là thực hành quyên công tố, quyết định việc truy tố người phạm tội
ra trước Tòa án; thay vì thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây,Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp(kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án) Mục đích hoạt động củaViện kiểm sát nhân dân trong TTHS là nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội
đều bị khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố, xét xử, thi hành án đúngngười, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan
người VÔ tỘI.
Thứ hai, so với BLLTTHS năm 1988, BLTTHS nam 2003 đã có sửa
đổi, bô sung nhiều nguyên tắc quan trọng ngày càng thé hiện rõ tư tưởng dé
Trang 33cao tranh tung trong TTHS, lay kết quả tanh tụng tại phiên tòa là căn cứ chủ
yé dé Tòa án ra phán quyết Dé nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm sự tranhtụng bình đăng giữa các bên trong tố tụng, ngoài việc tiếp tục quy định cácnguyên tắc như: không ai có thé bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội củaTòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9); Xác định sự thật của vụ án (điều10); Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điều 11);
Tham phan và hội tham nhân xét xử độc lập chi tuân theo pháp luật (điều 16);
Bảo đảm quyên bình dang trước tòa án (điều 19) BLTTHS năm 2003 cònđược bồ sung nguyên tắc khác nhằm bảo đảm tốt hơn cho các bên tranh tụng
bình dang trong TTHS, như quy định rõ hơn về trách nhiệm chứng minh tộiphạm của cơ quan tiên hành tố tụng, mở rộng quyền bao chữa cho cả người bị
tạm giữ, quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh
tụng bình đăng giữa các bên Cụ thê là:
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc VỀ các cơ quan tiễn hành tố
tụng Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vôtội (Điều 10 BLTTHS năm 2003)
- Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngườikhác bào chữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảmcho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy
định của pháp luật (Điều 11 BLTTHS 2003)
- Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyềnbình đăng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ trước Toà án Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực
hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19
BLTTHS 2003).
Trang 34Thứ ba, pháp luật TTHS thời kỳ này đã bổ sung nhiều quy định nhằm bảo
đảm tốt hơn quyền bào chữa của người bị tình nghi, bị can, bị cáo Đề bảo đảmtốt hơn quyền bào chữa, khả năng chứng minh sự vô tội hoặc giảm hẹ trách
nhiệm hình sự của bên gỡ tội, BLTTHS năm 2003 quy định rõ: người bị tạm giữ
được biết ly do mình bị giữ, được trình bay lời khai, tự bào chữa, được đưa ra tàiliệu, đồ vật, yêu cầu (Điều 48) Bị can ngoài các quyền nêu trên còn có quyền đề
nghị thay đối người tiễn hành t6 tụng (Điều 49) Bị cáo ngoài các quyên nêu trên
còn có quyên tham gia phiên tòa, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, được
trình bày ý kiến và tham gia tranh luận tại phiên tòa, kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án (Điều 50) So với BLTTHS nằm 1988, yếu tổ tranh tụng cònđược thê hiện rõ nét qua chế định về người bào chữa Theo quy định tại Điều 58BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có quyên tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can, trong một số trường hợp có thê tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạmgiữ, có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏicung bị can dé có mặt khi hỏi cung bị can; có mặt khi lây lời khai của người bịtạm giữ, khi hỏi cung, bị can và nếu được Điều tra viên đồng ý thì được hỏi
người bị tạm giữ, bị can; được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến
việc bào chữa; gặp những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam; có
quyền sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, tham
gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa Ngoài các chủ thể nêu trên, Điều 53BLTTHS năm 2003 còn quy định bị đơn dân sự có quyên đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị mức bồi thường và biện
pháp bảo đảm bồi thường: trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Th tu, pháp luật t6 tụng đã quy định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn
của bên buộc tội, phân định trách nhiệm, quyền hạn của từng chủ thể của bên
buộc tội trong TTHS tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh tụng bình dangtrong qua trình tố tụng Đối với bên buộc tội, BLTHS nằm 2003 quy định cụ
thé, rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát, của
Kiêm sát viên, của Cơ quan điêu tra, Điêu tra viên trong quá trình TTHS
Trang 35(khởi tố, điều tra, truy tố và thực hiện chức năng công tố tại phiên tòa) Điều
51 và Điều 52 BLTTHS năm 2003 cũng quy định rõ người bị hại, nguyên đơndân sự có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo kết quả điềutra; đề nghị mức bồi thường: trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; cóquyền nhờ luật sư bảo vệ quyên lợi cho mình
Thứ năm, các quy định thé hiện tư tưởng tranh tụng đã dần được théhiện qua từng giai đoạn tố tụng cụ thé và được biểu hiện tập trung nhất trong
thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
Trong giai đoạn điều tra, nhiều quy định được b6 sung nhăm tạo điềukiện tốt hơn cho bên gỡ tội có thé tranh tụng bình đăng với bên buộc tội, như:người bào chữa có thé được có mặt khi hỏi cung bị can (Điều 132 BLTTHS
năm 2003); bi can có thé có mặt khi khám nghiệm hiện trường (Điều 150BLTTHS năm 2003); sau khi tiến hành giám định, bị can người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác có quyên biết về nội dung kết luận giám
định, đồng thời họ được trình bày ý kiến về kết luận giám định, có quyền yêu
cầu giám định bồ sung hoặc giám định lại (Điều 158 BLTTHS năm 2003)
Điều 184 BLTTHS năm 2003 quy định tòa án xét xử trực tiếp, bang lờinói và liên tục Tòa án phải trực tiếp xác định các tình tiết của vụ án bằng
cách hỏi và nghe lời trình bày của bị cáo, nghe lời bào chữa của luật sư, người
bảo vệ quyền lợi cho đương sự Bản án chỉ được căn cứ bào những chứng cứ
đã được xem xét tại phiên tòa Tham gia vào quá trình tranh luận tại phiên tòa
phải có đủ ba diện chủ thể: Tòa án là cơ quan xét xử (Hội đồng xét xử), bên
buộc tội (Viện kiểm sát mà đại diện là kiểm sát viên) và bên gỡ tội (bị cáo,
người bào chữa cho bị cáo) Pháp luật cũng quy định khá rõ trách nhiệm có
mặt tại phiên tòa của các bên tham gia tố tụng, của người làm chứng, của
người có quyên lợi và nghĩa vụ liên quan ; các trường hợp được xét xử vắngmặt, các trường hợp phải hoãn phiên tòa (các điều 187, 189, 190, 191, 192,
193 BLTTHS năm 2003)
Trang 36Trong giai đoạn xét xử nhiều quy định bảo đảm tranh tung được bổ
sung, như: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tốtụng khác có quyền yêu cầu triêu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưathêm vật chứng, tài liệu ra xem xét (Điều 205 BLTTHS năm 2003); người bàochữa có quyền bình đăng với Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền lợi củađương sự trong việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác vềcác tình tiết liên quan đến việc bào chữa; yếu tố tranh tung thé hiện rõ khipháp luật quy định Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết buộc tội, người bàochữa hỏi về các tình tiết gỡ tội (Điều 207, 209, 2010, 211, 215 BLTTHS năm2003), có quyền cùng Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên xem xét vật chứng, xem
xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm và tình bày nhận xét của mình Đặc biệt là các
quy định về trình tự phát biểu trong khi tranh luận và đối đáp khi tranh luậnđược quy định rõ tại Điều 217 và 218 BLTTHS năm 2003 Các điều luật này
quy định luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ và các tài liệu, chứng cứ đãđược kiểm tra tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác có quyên trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra
dé nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa lập luận của mình để đối đáp lại với
từng ý kiến Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người
khác Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điềukiện cho các bên trình bày hết ý kiến Bên cạnh đó, tại các Điều 325, 326BLTHS năm 2003 còn quy định bị can, bị cáo, người bào chữa có quyềnkhiếu nại quyết định, hành vi tố tung của cơ quan và người tiễn hành tố tungkhi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật trong bất kỳ
giai đoạn tố tụng nào; có quyền cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải
quyêt khiêu nại nhăm chứng minh tính đúng đăn của nội dung khiêu nại
Trang 37Kết luận Chương I
Tranh tụng và tranh tụng trong tố tụng hình sự là những khái niệm rộng
và phức tạp, việc nghiên cứu về nó đã rút ra được những đặc điểm, yêu cầu,điều kiện của tranh tụng trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và tranhtụng tại phiên tòa nói riêng Điều này có ý nghĩa quan trọng khi thực trạng tưpháp nước ta còn đang trong giai đoạn phát triển, cần tiếp thu những yếu tốtích cực của tố tụng tranh tụng Trong quá trình tố tụng, nếu hoạt động tranh
tụng được các bên tham gia nghiêm túc thực hiện thì hiệu quả giải quyết vụ án
sẽ rất cao, khắc phục được việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, tình trạng yếukém của hệ thống tư pháp Trong đó, phiên tòa là giai đoạn trung tâm, chỉ có
đến giai đoạn này thì mới có sự tập hợp đây đủ và đồng thời của các bên, chỉ
có thê thông qua quá trình tranh luận công khai, minh bạch tại phiên tòa thì
mọi tình tiết của vụ án mới được làm sáng tỏ thông qua sự cọ xát về luận
điểm của mỗi bên; những chứng cứ đã được các bên thu thập theo quy định
của pháp luật được công khai phơi bày và kiểm chứng Như vậy, quá trình
tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tòa nói riêng có giá trị rất lớntrong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyên, lợi íchhợp pháp của bị cáo và những người tham gia tô tụng khác Cũng chính vì lẽ
đó, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nhiệm vụ
nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án là khâu trung tâm, đột phá, thông qua
việc nâng cao tính dân chủ khách quan trong tranh tụng tại phiên tòa ĐI đôi
với nhiệm vụ đó thì việc nâng cao chất lượng hoạt động của các Cơ quan điềutra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng là nhiệm vụ
quan trong hang đầu Có thé thấy rang, hiện nay Bộ luật tranh tụng hình sự
2003 đã có nhiều điểm tiễn bộ đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi
tham gia tố tụng, tuy nhiên nó vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế bất cập trong việc
đảm bảo quyén và nghĩa vụ của các bên trong quá trình tranh tụng nhất là
tranh tụng tại phiên tòa, điều này sẽ được trình bày ở phan sau
Trang 38CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TRANH TUNG TRONG TO TUNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VÀ MOT SO KIÊN NGHỊ
2.1 Thực trạng tranh tung trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.1.1 Những kết quả đạt được
Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm và
có những chuyền biến rõ nét kế từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số08-NQ/TW ngày 02/101/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháptrong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/ năm 2005 vềchiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Do vậy, việc đánh giá những kếtquả đạt được cần được nhìn nhận trong cả quá trình cải cách tư pháp từ 2002
đên nay.
Thứ nhất, chủ trương cải cách thủ tục tư pháp và coi mở rộng tranh
tụng tại phiên tòa là khâu đột phá trong cải cách tư pháp đã thu được những
kết quả đáng khích lệ Việc mở rộng tranh tụng tại phiên tòa đã tác động trựctiếp đến chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các Co quan điều
tra,Viện kiểm sát và Tòa án Sau khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW, Ban chỉ
đạo cải cách tư pháp đã có Công văn số 12 ngày 04/11/2002, Tòa án nhân dântối cao có Kết luận số 209 ngày 05/11/2002 về tranh tụng tại phiên tòa Từ đó
tới nay, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tôi cao đã ban hànhnhiều văn bản chỉ thị về nâng cao tranh tụng tại phiên tòa Theo đó Chủ tọaphiên tòa chỉ hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chấtbuộc tội hoặc gỡ tội thì dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa Hội đồngxét xử không được có lời lẽ khẳng định hoặc phủ định bất cứ vấn đề nào màKiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tô tụng khác nêu ra
Các bên tranh luận có quyên yêu câu bên kia giải thích những vấn đề chưarõ Thực tiễn triển khai Nghị quyết 08/-NQ/TW và Nghị quyết số 49-
NQ/TW cũng đã tạo được những chuyên biến tích cực trên thực tế Theo đánh
Trang 39giá của Tòa án nhân dân tối cao thì việc tô chức các phiên tòa hình sự ở cácTòa án các cấp đã từng bước bảo đảm được sự tôn nghiêm, dân chủ và vănminh theo đúng quy định của pháp luật Tòa án đã tạo điều kiện, bảo đảm chonhững người tham gia tô tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vu hợppháp của ho; luật sư và những người tham gia tố tụng được trình bày hết ýkiến của mình; những câu hỏi của Hội đồng xét xử và của Kiểm sát viên thể
hiện khách quan hơn; việc phán quyết của Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; tỉnh thần trách
nhiệm của cán bộ, công chức các ngành tư pháp nói chung và ngành Tòa án nhân dân nói riêng được nâng lên.
Có thé nói, chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tai
phiên tòa được xác định là khâu đột phá của cải cách tư pháp thé hiện quan
điểm của Đảng về xây dựng nền tư pháp độc lập, khách quan, dân chủ, côngkhai, minh bạch đã bước đầu tạo được sự chuyển biến tích cực trong việc tạo
không khí dân chủ tại phiên tòa, nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên giữ
quyền công tố; phát huy vai trò, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của
luật sư.
Tht hai, việc mở rộng tranh tụng tại phiên toa đã góp phan không nhỏ
vào việc hạn chế tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự Hàng năm, Tòa án
đã thụ lý và giải quyết một lượng khá lớn các vụ án hình sự Theo báo cáo củaViện kiểm sát nhân dân tối cao, từ năm 2011 đến 2015, Tòa án đã thụ lý
365813 vụ án/ 662306 bị cáo, trong đó Tòa án đã xét xử tổng số 314657
vụ/559849 bị cáo Tính trung bình mỗi năm Tòa án thụ lý 73162 vu
an/132461 bị cáo, xét xử khoảng 62931 vụ an/111969 bị cáo, đạt tỷ lệ trung
bình hàng năm về số vụ án được giải quyết và số bị cáo đưa ra xét xử lần lượt
là 86,2% và 84,5% Có thé thấy kết quả tranh tung tại phiên tòa cũng đượcphản ánh tích cực thông qua chất lượng hoạt động của cac Tòa án, việc kết án
oan người không có tội đã từng bước được khắc phục và luôn duy trì ở mức
thấp Cụ thé năm 2011, trong cả nước, tại cấp xét xử sơ thẩm chỉ có 17 trường
Trang 40hợp bị cáo bị truy tổ nhưng Tòa án xét xử không tội; năm 2012 là 13 bị cáo;
năm 2013 là 16 bi cáo, năm 2014 là 18 bi cáo, năm 2015 là 27 bị cáo Trung
bình mỗi năm tỉ lệ số bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội trên tổng số bị cáoxét xử chỉ từ 0,011-0,025% Cá biệt năm 2015, tỉ lệ số bị cáo Tòa án tuyên
không phạm tội tăng cao hơn các năm trước (27 bị cáo), tuy nhiên tình trạng
này là phát sinh chủ yếu ở các tội ma túy do chưa có sự thống nhất giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng Cụ thể là do Toà án nhân dân tối cao có Công văn
số 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014, có nội dung hướng dẫn Toà án các cấp
giải quyết các vụ án về tội phạm ma tuý theo hướng phải có giám định bắt
buộc về hàm lượng chất ma tuý trong chất bi thu giữ nghi là chất ma tuý dé
làm cơ sở giải quyết vụ án Lâu nay, kế từ khi có Thông tư liên tịch số17/2007/TTLT-BCA-VKSTC-TANDTC- BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫnthực hiện một số qui định của BLHS về các tội phạm ma tuý, các cơ quan tiễn
hành tố tụng vẫn giải quyết các vụ án ma tuý trên cơ sở giám định chất ma tuý
mà không giám định về hàm lượng chất ma tuý (trừ hai trường hợp theo
hướng dẫn của Thông tư số 17) Việc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công
văn số 234 nêu trên dẫn đến tình trạng Toà án nhân dân các cấp, trong đó cóToa án cấp phúc thẩm đã hoãn xét xử hoặc huỷ ban án sơ thâm nhiều vụ án dé
yêu cầu giám định hàm lượng chất ma tuý Trong khi đó Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Cơ quan điều tra có quan điểm trái ngược với nội dung củaCông văn 234 nói trên Ngoài ra, việc Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao gần đây đã khởi tố bị can đối với Thâm phán chủ tọa trong
phiên toà phúc thâm xét xử oan đối với ông Nguyễn Thanh Chấn về tội Giết
người đã kéo theo tâm lý mang tính phòng ngừa, thà huỷ án còn hơn làm oan,
do vậy chỉ cân bản án sơ thâm có một chút sai sót là có thê bị huỷ.
Bên cạnh đó, quá trình xét xử cho thây, chât lượng truy tô, tranh tụng
của Kiêm sát viên tại phiên tòa khá tôt, hâu hêt các vụ án bị đưa ra truy tô, Tòa án đêu tuyên án là có tội, quan điêm của Kiêm sát viên tại phiên tòa được châp nhận Hàng năm, sô vụ án bị đình chỉ xét xử chiêm tỉ lệ thâp, cụ thê: