1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giáo trình Luật hình sự và tố tụng hình sự (Nghề: Pháp luật Trung cấp) Trường Trung cấp Trường Sơn, Đắk Lắk

161 0 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giáo Trình Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Trường học Trường Trung cấp Trường Sơn
Chuyên ngành Pháp luật
Thể loại Giáo trình
Năm xuất bản 2022
Thành phố Đắk Lắk
Định dạng
Số trang 161
Dung lượng 2,66 MB

Cấu trúc

  • BÀI 1 KHÁI NIỆM, CẤU TẠO VÀ HIỆU LỰC ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (8)
    • 5. Nguyên tắc tương tự về luật (15)
  • BÀI 2: TỘI PHẠM (21)
    • 1. Khái niệm tội phạm (21)
    • 2. Phân loại tội phạm (22)
    • 3. Tội phạm và các hành vi vi phạm khác (22)
    • 4. Nguồn gốc và bản chất giai cấp của tội phạm (24)
  • BÀI 3 CẤU THÀNH TỘI PHẠM (26)
    • 1. Khái quát về cấu thành tội phạm (26)
    • 2. Cấu thành tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành (26)
    • 3. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm (28)
  • BÀI 4 KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM (31)
    • 3. Ý nghĩa khách thể của tội phạm (34)
    • 4. Đối tượng tác động của tội phạm (34)
  • BÀI 5 MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM (36)
    • 1. Khái niệm (8)
    • 2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm (36)
  • BÀI 6 CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM (43)
    • 1. Khái niệm của chủ thể tội phạm (36)
    • 2. Năng lực trách nhiệm hình sự (44)
    • 3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (45)
    • 4. Chủ thể đặc biệt của tội phạm (46)
    • 5. Vấn đề nhân thân người phạm tội trong luật hình sự (46)
  • BÀI 7 MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM (48)
    • 2. Lỗi (48)
    • 3. Động cơ và mục đích phạm tội (51)
    • 4. Sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đối với trách nhiệm hình sự (58)
  • BÀI 8 CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CỦA TỘI PHẠM (67)
    • 2. Chuẩn bị phạm tội (68)
    • 3. Phạm tội chưa đạt (69)
    • 4. Tội phạm hoàn thành (69)
    • 5. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (70)
  • BÀI 9 ĐỒNG PHẠM (73)
    • 4. Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm (79)
    • 5. Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự trong đồng phạm (80)
    • 6. Những hành vi liên quan đến tội phạm cấu thành tội độc lập (80)
  • BÀI 10: NHỮNG TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI (86)
    • 2. Những trường hợp cụ thể (89)
  • BÀI 11: HÌNH PHẠT, HỆ THỐNG HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP88 1.Hình phạt (94)
    • 1.1. Khái niệm (94)
    • 1.2. Mục đích của hình phạt (94)
    • 2.1. Khái niệm (94)
    • 2.2. Các loại hình phạt (95)
    • 3.1. Khái niệm (101)
  • BÀI 12: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT (105)
  • BÀI 13: ÁN TREO, GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT, MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT, THỜI HIỆU, XÓA ÁN TÍCH (119)
  • BÀI 14: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI (123)
  • BÀI 16: CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG (146)
  • BÀI 17 THỦ TỤC XÉT LẠI CÁC BẢN ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT (148)

Nội dung

Giáo trình Luật hình sự và tố tụng hình sự (Nghề: Pháp luật Trung cấp) được biên soạn với mục tiêu nhằm giúp sinh viên người học nắm vững được các vấn đề về luật hình sự: Tội phạm, các loại tội phạm, các giai đoạn thực hiện phạm tội, điều tra, xét xử, thi hành án hình sự...Mời các bạn cùng tham khảo Đề tài Hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tại Công ty TNHH Mộc Khải Tuyên được nghiên cứu nhằm giúp công ty TNHH Mộc Khải Tuyên làm rõ được thực trạng công tác quản trị nhân sự trong công ty như thế nào từ đó đề ra các giải pháp giúp công ty hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tốt hơn trong thời gian tới.

KHÁI NIỆM, CẤU TẠO VÀ HIỆU LỰC ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Nguyên tắc tương tự về luật

a Quy định của pháp luật:

Việc áp dụng pháp luật tương tự là một nguyên tắc được quy định tại Bộ luật

Tố tụng dân sự 2015 Khoản 2 Điều 45 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự khi các bên không có thỏa thuận, pháp luật không quy định và không có tập quán áp dụng, theo Điều 5 của Bộ luật dân sự và khoản 1 của điều này.

Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án cần xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự và nhận diện các quy phạm pháp luật hiện hành không điều chỉnh quan hệ đó Việc áp dụng pháp luật tương tự chủ yếu liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật, không phải văn bản hành chính hay văn bản áp dụng pháp luật Nếu một vấn đề pháp lý không được quy định trong pháp luật về hợp đồng, cơ quan xét xử có quyền sử dụng quy định từ các văn bản quy phạm pháp luật khác để giải quyết vấn đề trong quan hệ hợp đồng tương tự Điều này cho phép mở rộng phạm vi xử lý các vấn đề pháp lý trong lĩnh vực hợp đồng, từ đó tạo điều kiện cho việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý một cách linh hoạt và hiệu quả hơn.

Theo lý thuyết, việc áp dụng pháp luật tương tự chỉ áp dụng cho các văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực Nếu một văn bản đã hết hiệu lực, nó không thể làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật tương tự Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cho các văn bản đã hết hiệu lực vẫn tiếp tục được áp dụng do chưa có văn bản hướng dẫn mới, mặc dù theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các văn bản hướng dẫn này cũng đã hết hiệu lực.

Việc áp dụng hướng dẫn và án lệ từ TANDTC thể hiện sự tiếp cận thực tế trong việc thực thi pháp luật Các hướng dẫn này thường được phát hành dưới dạng nghị quyết, là văn bản quy phạm pháp luật, và công văn, là tài liệu hướng dẫn áp dụng pháp luật Nhiều nghị quyết và công văn của TANDTC được ban hành nhằm hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan và cá nhân trong việc áp dụng pháp luật.

Bộ luật Dân sự cũ và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 vẫn có giá trị hướng dẫn hiện nay, được cơ quan xét xử áp dụng do thiếu các hướng dẫn mới cho Bộ luật Dân sự 2015 Nghị quyết 01/2003, Nghị quyết 02/2004 và Nghị quyết 04/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, mặc dù hướng dẫn Bộ luật Dân sự 1995, vẫn được sử dụng thực tế và sẽ được phân tích trong cuốn sách này.

10 nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự có thể được áp dụng cho văn bản hành chính và văn bản pháp luật, đặc biệt là các công văn hướng dẫn của TANDTC, ngay cả khi các công văn này không còn hiệu lực.

Phần lớn án lệ liên quan đến hợp đồng hiện nay dựa trên các bản án được ban hành khi Bộ luật Dân sự 2005 còn hiệu lực, do Bộ luật Dân sự 2015 có nhiều quy định tương tự Các án lệ thường trích dẫn quy định của Bộ luật Dân sự 2005 làm cơ sở, đồng thời tham chiếu các quy định tương ứng tại Bộ luật Dân sự 2015 Vì không có nguồn án lệ tốt hơn, các bản án trước khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực vẫn được công nhận và áp dụng Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật tương tự đối với các văn bản đã hết hiệu lực cần được thực hiện thận trọng và chỉ áp dụng trong từng trường hợp cụ thể, không nên trở thành nguyên tắc pháp lý chung.

Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện quy định về giao dịch bảo đảm theo Bộ luật Dân sự 2005 Tuy nhiên, do Bộ luật Dân sự 2005 đã hết hiệu lực, Nghị định 163/2006/NĐ-CP cũng không còn hiệu lực Mặc dù vậy, trong thời gian chưa có văn bản thay thế, Nghị định 163 vẫn đang được áp dụng, điều này không hoàn toàn phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, nhưng vẫn có cơ sở thực tế để chấp nhận.

Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2005 có nhiều điểm tương đồng trong việc điều chỉnh các biện pháp bảo đảm Do đó, Nghị định 163/2006/NĐ-CP được sử dụng làm căn cứ hướng dẫn cho các quy định tương tự trong Bộ luật Dân sự 2015 về giao dịch bảo đảm Nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật tại thời điểm xảy ra hành vi, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, quy định rằng văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực và áp dụng cho các hành vi xảy ra trong thời gian đó Nếu văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực hồi tố, thì sẽ áp dụng theo quy định của văn bản đó.

Khoản 1 Điều 156 đưa ra hai nguyên tắc pháp lý quan trọng Thứ nhất, do văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực, nguyên tắc chung là văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với “hành vi” xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực Thứ hai, trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực hồi tố thì áp dụng theo quy định hồi tố Hồi tố là trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc chung về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm xảy ra hành vi

Trong bối cảnh hợp đồng, các bên thường thực hiện nhiều hành vi như giao kết, thực hiện, vi phạm hợp đồng và phát sinh tranh chấp Việc xác định pháp luật áp dụng cho từng hành vi không hề đơn giản, dẫn đến việc sử dụng nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong cùng một hợp đồng Đặc biệt, khi các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hiệu lực hồi tố, vấn đề trở nên phức tạp hơn, tạo ra xung đột dựa trên thời gian ban hành Hiện tại, quy định tại Điều 156.1 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 chưa được hướng dẫn cụ thể, và thường thì các văn bản pháp luật mới sẽ có điều khoản chuyển tiếp để giải quyết vấn đề này.

Trường hợp phức tạp thường gặp liên quan đến hợp đồng được ký kết khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực, nhưng thực hiện trước hoặc sau khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực, dẫn đến tranh chấp phát sinh sau thời điểm này Trong tình huống này, nguyên tắc áp dụng pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và quy định chuyển tiếp của Bộ luật Dân sự 2015 sẽ được áp dụng Quy định chuyển tiếp của Bộ luật Dân sự 2015 chú trọng vào thời điểm giao kết và thực hiện hợp đồng, cũng như nội dung và hình thức của hợp đồng, nhằm xác định trình tự áp dụng giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015.

Bộ luật Dân sự 2015 quy định bốn trường hợp áp dụng Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 đối với hợp đồng ký kết trước khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực.

Nếu hợp đồng chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện và có nội dung cũng như hình thức khác với Bộ luật Dân sự 2015, thì Bộ luật Dân sự 2005 sẽ được áp dụng.

Hợp đồng đã được thực hiện xong trước ngày Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực: Trong trường họp này, Bộ luật Dân sự 2005 áp dụng

Hợp đồng chưa thực hiện và có nội dung, hình thức khác với Bộ luật Dân sự 2015, cần có thỏa thuận sửa đổi phù hợp với quy định của Bộ luật này Trong tình huống này, Bộ luật Dân sự 2015 sẽ được áp dụng.

TỘI PHẠM

Khái niệm tội phạm

Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) thì Tội phạm được quy định như sau: Điều 8 Khái niệm tội phạm

1 Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

Tổ quốc phải được bảo vệ trước các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội Những hành vi này không chỉ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức mà còn vi phạm quyền con người và lợi ích hợp pháp của công dân Theo quy định của Bộ luật, các hành vi xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ bị xử lý hình sự.

2 Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác

Qua quy định trên, có thể thấy tội phạm có một số đặc điểm sau:

1 Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa

2 Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

3 Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gây nguy hại lớn cho xã hội, với mức hình phạt cao nhất lên tới tử hình hoặc chung thân Trong khi đó, tội phạm thông thường có mức phạt tối đa là mười lăm năm tù.

4 Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Phân loại tội phạm

Tội phạm được chia thành 4 loại: a Tội phạm ít nghiêm trọng:

Tội phạm ít nghiêm trọng được định nghĩa là những hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm không lớn đối với xã hội Theo quy định của Bộ luật, mức hình phạt cao nhất cho loại tội phạm này có thể là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù lên đến 03 năm.

Bộ luật hình sự 2015 đã mở rộng quy định về tội phạm ít nghiêm trọng so với Bộ luật hình sự 1999, không chỉ dựa vào mức hình phạt tù dưới 3 năm mà còn bao gồm các hình thức xử phạt khác như phạt tiền và phạt cải tạo không giam giữ Điều này giúp quy định trở nên toàn diện hơn, phù hợp với thực tiễn và đa dạng hóa các hình thức xử lý tội phạm.

Tội phạm nghiêm trọng được định nghĩa là những hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cao đối với xã hội, với hình phạt tối đa từ 3 đến 7 năm tù theo quy định của Bộ luật Trong đó, tội phạm rất nghiêm trọng cũng nằm trong phạm vi này.

Tội phạm rất nghiêm trọng được xác định là những hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm lớn đối với xã hội, với khung hình phạt cao nhất từ 07 đến 15 năm tù Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là một phân loại cụ thể trong nhóm này.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được định nghĩa là những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cao đối với xã hội Mức hình phạt tối đa cho các tội danh này theo Bộ luật hiện hành có thể lên đến 20 năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình.

Bộ luật hình sự 2015 đã có sự khác biệt rõ rệt so với Bộ luật hình sự 1999 khi tách quy định về phân loại tội phạm thành một điều luật riêng, không còn chung với khái niệm tội phạm Sự thay đổi này giúp nâng cao tính minh bạch cho các chủ thể trong quá trình nghiên cứu và thực thi Bộ luật.

Tội phạm và các hành vi vi phạm khác

Hành vi phạm tội bao gồm các hành động hoặc sự không hành động mà đáp ứng các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định của bộ luật hình sự Những hành vi này được xác định cụ thể cho từng loại tội phạm và đều mang tính chất trái pháp luật.

17 với quy định của pháp luật, hành vi phạm tội bao gồm dấu hiệu chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan để cấu thành tội phạm

Những dấu hiệu này được thể hiện như sau:

Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội cần phải là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời phải đáp ứng các dấu hiệu đặc trưng của từng loại tội phạm cụ thể.

Hành vi này, từ góc độ chủ quan, cần được thể hiện qua các hành động hoặc sự không hành động, dẫn đến những hậu quả có tính chất nguy hiểm cho xã hội.

Hành vi phạm tội phải được thể hiện thông qua lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý Nếu không xác định được lỗi, thì không thể coi đó là hành vi phạm tội, và do đó, không đủ căn cứ để cấu thành tội phạm.

Hành vi phạm tội xảy ra khi cá nhân hoặc pháp nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện những hành động nguy hiểm, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

Thực hiện hành vi phạm tội thông qua hành vi cố ý hoặc hành vi vô ý:

Hành vi cố ý phạm tội xảy ra khi cá nhân nhận thức rõ ràng rằng hành động của mình có thể gây ra nguy hiểm cho xã hội Người thực hiện hành vi này hiểu rõ các hậu quả có thể xảy ra và dù có mong muốn hay không, vẫn để cho những hậu quả đó xảy ra.

Hành vi vô ý phạm tội xảy ra khi người phạm tội có khả năng nhận thức về hành vi của mình, nhưng không lường trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội Họ có thể tin rằng những hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc không biết rằng những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra và không thể ngăn chặn được chúng.

Hành vi phạm tội được phân loại theo mức độ để xác định trách nhiệm hình sự của người vi phạm Cụ thể, các loại hành vi như hành vi phạm tội chưa đạt, hành vi chuẩn bị phạm tội, và hành vi phạm tội hoàn thành sẽ dẫn đến các khung hình phạt khác nhau tùy theo từng tội danh.

Hành vi phạm tội được xác định dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đối với xã hội Việc phân loại tội phạm thành các loại như tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là cần thiết để đưa ra các khung hình phạt phù hợp.

Các loại hành vi phạm tội được phân loại thành hành vi phạm tội hành động hoặc không hành động:

Hành vi phạm tội là những hành động của cá nhân hoặc tổ chức gây ra thiệt hại nghiêm trọng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, đồng thời làm rối loạn trật tự xã hội Các ví dụ điển hình bao gồm giết người, cướp giật tài sản, hiếp dâm và lây truyền dịch bệnh.

Hành vi phạm tội không chỉ bao gồm các hành động trực tiếp vi phạm pháp luật mà còn bao gồm cả sự thờ ơ, không tố giác tội phạm hoặc không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm Những hành động này gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác và xâm phạm lợi ích chung, dẫn đến sự rối loạn trật tự xã hội, do đó vẫn được xác định là hành vi phạm tội.

Để xác định một hành vi là tội phạm, cần phải có tính chất nguy hiểm cho xã hội và gây ra hậu quả nghiêm trọng Chỉ những hành vi vi phạm này mới đủ dấu hiệu để cấu thành tội phạm.

- Xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc;

- Xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

- Xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cũng như công dân;

- Xâm phạm quyền con người

- Xâm phạm lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa

Tất cả những hành vi nêu trên đều phải chịu chế tài theo quy định của pháp luật hình sự

Nguồn gốc và bản chất giai cấp của tội phạm

Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử và giai cấp Tội phạm xuất hiện khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, cụ thể là sau khi chế độ tư hữu ra đời, dẫn đến sự phân chia giai cấp và các cuộc đấu tranh giai cấp.

Trong xã hội chủ nghĩa, nguồn gốc của tội phạm đã không còn, nhưng nguyên nhân và điều kiện phạm tội vẫn tồn tại Đồng thời, đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra, thể hiện rõ qua việc các phần tử đối địch tiếp tục chống lại nhà nước XHCN và lợi ích của giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động.

1 Đề nghị cho biết, pháp luật quy định như thế nào về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân?

Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là một quyền chính trị quan trọng của công dân, giúp họ thực hiện quyền làm chủ trong công việc của Nhà nước và xã hội Quyền này đảm bảo rằng mọi công việc của Nhà nước đều phải được thực hiện theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” Công dân có quyền tham gia thảo luận về các vấn đề chung của đất nước, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, cả ở cấp quốc gia lẫn địa phương Họ cũng có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước về việc xây dựng bộ máy nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội.

Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân Việt Nam phản ánh bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì nhân dân Theo Điều 28 Hiến pháp năm 2013, quyền này được quy định rõ ràng, khẳng định vai trò của nhân dân trong việc xây dựng và quản lý đất nước.

Công dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời có thể thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về những vấn đề liên quan đến cơ sở, địa phương và toàn quốc.

2 Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.”

Mọi công dân Việt Nam đủ điều kiện theo quy định pháp luật đều có quyền tham gia xây dựng, bảo vệ và quản lý đất nước Quyền này không chỉ là một quyền chính trị đặc biệt mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để nhân dân tham gia vào hoạt động của bộ máy nhà nước Điều này nhằm động viên và phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn xã hội trong việc xây dựng một nhà nước vững mạnh, hoạt động hiệu quả vì lợi ích của nhân dân.

2 Lý A Mỷ muốn tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhưng bị chồng là A Tráng gạt đi với lý do: “ Là đàn bà con gái, lại là người dân tộc thiểu số, ai cho tham gia quản lý nhà nước Thôi bỏ đi, làm hòa giải viên ở bản Tà Pua này là đủ rồi” A Mỷ băn khoăn không biết pháp luật quy định như thế nào về quyền bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội?

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, không phân biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá hay nghề nghiệp Công dân có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, cũng như quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ, viên chức nhà nước Điều 26 của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định những quyền lợi này.

“1 Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới

2 Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội

3 Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”

Theo Điều 27 và Điều 28 của Hiến pháp năm 2013, công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, trong khi công dân từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân Việc thực hiện các quyền này được quy định bởi pháp luật Công dân cũng có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời có thể thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề liên quan đến cơ sở, địa phương và quốc gia Nhà nước cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho công dân tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời đảm bảo tính công khai và minh bạch trong việc tiếp nhận và phản hồi ý kiến, kiến nghị từ công dân.

Nhà nước đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp bằng cách ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cùng với các văn bản hướng dẫn thực hiện Những quy định này xác định rõ ràng cách thức thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.

CẤU THÀNH TỘI PHẠM

Khái quát về cấu thành tội phạm

Tội phạm, theo Bộ luật hình sự hiện hành, được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện, có thể là cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ Tuy nhiên, những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng ảnh hưởng xã hội không đáng kể sẽ không được coi là tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tập hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan, được quy định trong Luật Hình sự, thể hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội Những dấu hiệu này là căn cứ để xác định một hành vi có nguy cơ gây hại cho xã hội được coi là tội phạm Đặc điểm cơ bản của cấu thành tội phạm chính là sự kết hợp của các yếu tố này.

Cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan bắt buộc, phản ánh đúng bản chất của tội phạm để phân biệt với các tội phạm khác Ngoài những dấu hiệu bắt buộc, còn có các dấu hiệu riêng biệt để thể hiện bản chất cụ thể của từng loại tội phạm.

+ Các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự

+ Phải tổng hợp đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm mới khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm.

Cấu thành tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành

Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đưa ra khái niệm tội phạm như sau:

1 Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

Tổ quốc bị xâm phạm khi có hành vi vi phạm chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân Những hành vi này xâm phạm quyền con người và quyền lợi hợp pháp của công dân, đồng thời vi phạm các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, và theo quy định của Bộ luật này, phải chịu trách nhiệm hình sự.

2 Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác

Các yếu tố cấu thành tội phạm

Cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể Mặt khách quan của tội phạm phản ánh những biểu hiện bên ngoài, bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm, và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả Các dấu hiệu khác như phương tiện, công cụ, và thời gian thực hiện tội phạm cũng thuộc về mặt khách quan Ngược lại, mặt chủ quan của tội phạm liên quan đến diễn biến tâm lý bên trong, bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội Mọi tội phạm đều phải được thực hiện với hành vi có lỗi, trong đó có hai loại lỗi theo quy định pháp luật: lỗi cố ý và lỗi vô ý.

* Cố ý phạm tội là tội phạm được thực hiện một trong các trường hợp sau:

Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được rằng hành vi của mình gây ra nguy hiểm cho xã hội, họ có khả năng thấy trước những hậu quả của hành động đó và thường mong muốn những hậu quả này xảy ra, thể hiện lỗi cố ý trực tiếp.

Người phạm tội nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội và dự đoán được những hậu quả có thể xảy ra, mặc dù không mong muốn nhưng vẫn chấp nhận để hậu quả xảy ra, thể hiện lỗi cố ý gián tiếp.

* Vô ý phạm tội là phạm tội một trong các trường hợp sau:

Người phạm tội thường nhận thức được rằng hành vi của mình có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, nhưng họ lại tin rằng những hậu quả này sẽ không xảy ra hoặc có thể dễ dàng ngăn chặn, điều này thể hiện sự tự tin thái quá và vô ý.

Người phạm tội thường không nhận thức được rằng hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù lẽ ra họ phải thấy trước điều đó (vô ý do cẩu thả) Động cơ phạm tội chính là yếu tố thúc đẩy cá nhân thực hiện hành vi phạm tội để đạt được mục đích riêng Khách thể của tội phạm được hiểu là các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ và có thể bị xâm hại, trong đó, theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, bao gồm các quan hệ liên quan đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Tổ quốc, chế độ chính trị, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cũng như quyền con người và các quyền lợi hợp pháp khác của công dân đều nằm trong các lĩnh vực của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa Chủ thể của tội phạm là những cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định bởi luật hình sự, và phải có năng lực chịu trách nhiệm hình sự cùng độ tuổi theo quy định của pháp luật.

Năng lực trách nhiệm hình sự đề cập đến khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của người phạm tội Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi và bổ sung năm 2017, quy định rằng người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi loại tội phạm, trừ những trường hợp đặc biệt Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật.

248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự

Để một hành vi được xác định là tội phạm, cần phải thỏa mãn đầy đủ bốn yếu tố cơ bản Khi hành vi đã được công nhận là tội phạm, cá nhân đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Ý nghĩa của cấu thành tội phạm

Từ việc phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm ta thấy được ý nghĩa của nó như:

Cấu thành tội phạm là điều kiện thiết yếu để xác định tội danh chính xác Nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội không đáp ứng đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự, thì việc xác định tội danh sẽ không thể thực hiện.

Cấu thành tội phạm là yếu tố pháp lý cần thiết để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Các cơ quan tư pháp hình sự chỉ có thể tiến hành truy cứu khi có đủ căn cứ pháp lý Việc xác định sự tồn tại của tội phạm chỉ có giá trị khi hành vi của cá nhân đó thể hiện đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng.

Cấu thành tội phạm là yếu tố quan trọng giúp cơ quan tố tụng xác định loại và mức hình phạt phù hợp cho người vi phạm pháp luật.

Cấu thành tội phạm đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và tự do của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự Nó không chỉ hỗ trợ việc tuân thủ pháp luật mà còn củng cố trật tự pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay.

A và B quyết định đi săn thú rừng, mỗi người mang theo súng săn tự chế và thỏa thuận huýt sáo 3 lần trước khi bắn nếu phát hiện thú dữ Sau khi chia tay, A đi khoảng 200 mét và nghe tiếng động cách 25 mét, nhưng không nhận được phản ứng từ B sau khi huýt sáo Khi A chiếu đèn về phía tiếng động và thấy ánh mắt của con thú, A đã bắn Khi chạy đến, A phát hiện B bị trúng đạn nhưng chưa chết A vội vàng đưa B đến trạm xá, nhưng B đã qua đời trên đường.

Hỏi: A đã phạm tội gì? Phân tích dấu hiệu pháp lý của tội phạm A đã thực hiện?

Dựa trên tình huống đã nêu, A đã phạm tội vô ý làm chết người theo khoản 1 Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Theo quy định, người nào vô ý làm chết người sẽ bị xử phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Phân tích dấu hiệu pháp lý (các yếu tố cấu thành) tội vô ý làm chết người

* Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội vô ý làm chết người là quyền nhân thân, một trong những quyền quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ Quyền sống và được tôn trọng tính mạng là những quyền cơ bản của con người Đối tượng của tội này là những cá nhân có quyền được bảo vệ về tính mạng, tức là những người đang sống và tồn tại trong xã hội Trong tình huống này, hành vi của A đã tước đoạt tính mạng của P, xâm phạm đến quan hệ nhân thân được luật hình sự bảo vệ.

* Mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện qua việc người phạm tội vi phạm các quy tắc an toàn, nhằm bảo vệ tính mạng và sức khỏe của con người Những quy tắc này có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả quy định pháp luật và các tập quán xã hội đã được thừa nhận rộng rãi.

A và B đi săn thú rừng và thỏa thuận rằng người nào phát hiện thú dữ sẽ huýt sáo 3 lần trước khi bắn A lên đồi, B xuống khe cạn Khi A nghe thấy tiếng động, A huýt sáo nhưng không nhận được phản ứng từ B A bật đèn soi và thấy ánh mắt thú, nên đã bắn Khi A chạy đến, phát hiện B bị trúng đạn nhưng chưa chết hẳn A vội đưa B đến trạm xá, nhưng B đã chết trên đường Hành vi của A do không cẩn thận đã dẫn đến cái chết của B.

Hậu quả của tội phạm là yếu tố quan trọng, trong đó hành vi vi phạm phải dẫn đến cái chết của nạn nhân Đây là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm Trong trường hợp này, hành vi của A đã trực tiếp gây ra cái chết của B.

Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong tội phạm là yếu tố thiết yếu trong quy định pháp luật Người vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ trực tiếp gây ra hậu quả chết người Ví dụ, nếu A bắn súng nhằm vào con thú nhưng lại trúng P, dẫn đến cái chết của B, thì hành vi bắn của A là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của B Do đó, cần xác định rõ ràng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra để xác định trách nhiệm pháp lý.

* Mặt chủ quan của tội phạm:

A đã phạm tội vô ý làm chết người do lỗi vô ý xuất phát từ sự tự tin thái quá Mặc dù A nhận thức được rằng hành vi của mình có thể dẫn đến cái chết của người khác, nhưng A vẫn tin rằng hậu quả nghiêm trọng đó sẽ không xảy ra, dẫn đến việc thực hiện hành vi và gây ra cái chết.

A nhận thức rõ ràng tính chất nguy hiểm của hành vi đối với xã hội, thể hiện qua việc nhận biết những hậu quả có thể dẫn đến cái chết của người khác Tuy nhiên, A lại cho rằng những hậu quả này sẽ không xảy ra, cho thấy sự mâu thuẫn trong nhận thức của mình về hành vi và hậu quả.

Sự việc 24 làm chết người ở đây thực chất chỉ liên quan đến việc xem xét khả năng xảy ra hậu quả này Kết quả là, người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra.

A không mong muốn hành vi của mình dẫn đến cái chết của P, điều này thể hiện qua việc A đã loại trừ khả năng xảy ra hậu quả nghiêm trọng Trước khi hành động, A đã cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng, thể hiện qua việc A huýt sáo như một thỏa thuận với B Chỉ khi không nghe thấy phản ứng từ P, A mới nhắm bắn về phía có ánh mắt con thú, nhưng kết quả là đã bắn chết P Khi A chạy đến với súng, A phát hiện B đã bị trúng đạn nhưng vẫn còn sống, và A lập tức đưa B đi cấp cứu.

KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM

Ý nghĩa khách thể của tội phạm

Nhiệm vụ của luật hình sự và bản chất chống đối xã hội của tội phạm chỉ có thể được hiểu đầy đủ thông qua việc nghiên cứu các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ Việc đánh giá tính chất của từng tội phạm và từng nhóm tội phạm không thể tách rời khỏi việc phân tích ý nghĩa của các quan hệ xã hội cũng như các nhóm quan hệ xã hội có khả năng bị xâm hại.

Trong thực tiễn áp dụng luật hình sự, việc xác định khách thể của tội phạm là điều kiện quan trọng để kiểm tra trách nhiệm hình sự, vì nó được phản ánh trong cấu thành tội phạm.

Khách thể của tội phạm đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Tuy nhiên, không phải tất cả các cấu thành tội phạm đều thể hiện đầy đủ khách thể này Trong nhiều trường hợp, khách thể chỉ được thể hiện qua những đặc điểm nhất định của đối tượng bị tác động Khi đối tượng này bị ảnh hưởng bởi hành vi phạm tội, khách thể sẽ bị xâm hại Vì vậy, không nhất thiết phải có dấu hiệu trực tiếp về khách thể trong cấu thành tội phạm.

Việc xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) không luôn yêu cầu phải xác định khách thể của tội phạm bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại Điều này chỉ cần thiết khi khách thể của tội phạm được thể hiện đầy đủ trong cấu thành tội phạm Nếu chỉ có các đặc điểm riêng biệt của đối tượng tác động được phản ánh trong cấu thành tội phạm, thì chỉ cần xác định những đặc điểm đó.

Đối tượng tác động của tội phạm

Khi xâm phạm khách thể, tội phạm luôn tác động đến một đối tượng nhất định Mặc dù đối tượng này gần gũi với khách thể, nhưng nó khác biệt với khách thể Đối tượng tác động của tội phạm là những phần trong khách thể mà khi bị tác động, người phạm tội gây ra thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại cho khách thể Các dạng đối tượng tác động của tội phạm bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau.

- Con người đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự;

- Các vật thể như tài sản, phương tiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của con người;

Hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội bị ảnh hưởng bởi tội phạm, trong đó khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ Khách thể này có tính trừu tượng và phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp thống trị, do đó mang tính chất giai cấp Mặc dù tất cả các tội phạm đều xâm phạm và gây thiệt hại cho khách thể, không phải tội phạm nào cũng gây thiệt hại cho đối tượng tác động; ví dụ, tội trộm cắp tài sản chỉ chuyển dịch quyền sở hữu mà không làm hư hỏng tài sản.

Tội phạm không mang tính giai cấp, nhưng quyền sở hữu tài sản liên quan đến tội phạm lại phản ánh sự thừa nhận của Nhà nước đối với chủ sở hữu, mang tính giai cấp Đối tượng tác động của tội phạm là những cá nhân hoặc tài sản chịu ảnh hưởng từ hành vi phạm tội, trong khi công cụ và phương tiện phạm tội là những vật dụng mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi đó Các công cụ và phương tiện này đóng vai trò hỗ trợ cho việc thực hiện tội phạm một cách thuận lợi.

Khách thể tội phạm là yếu tố quan trọng trong cấu thành tội phạm, đại diện cho các quan hệ xã hội mà Nhà nước bảo vệ thông qua Luật Hình sự Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các bộ phận có sự tồn tại liên quan đến khách thể Tuy nhiên, đối tượng tác động, công cụ và phương tiện không phải là những yếu tố bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm, ngoại trừ một số trường hợp được quy định bởi pháp luật.

BÀI TẬP: Nhận định đúng sai

Câu 1: Hành vi buôn bán trái phép mọi loại hàng cấm có số lượng lớn qua biên giới đều cấu thành Tội buôn lậu (Điều 153 BLHS)

 Nhận định trên là SAI

Không phải tất cả các hành vi buôn bán trái phép hàng cấm với số lượng lớn qua biên giới đều được coi là Tội buôn lậu Một số loại hàng cấm có thể đã bị tác động bởi các tội danh khác, do đó không còn thuộc phạm vi điều chỉnh của tội buôn lậu.

Trong trường hợp buôn bán trái phép số lượng lớn hàng cấm như ma túy, vũ khí quân dụng, và các vật liệu nguy hiểm khác, pháp luật sẽ áp dụng các điều khoản riêng cho từng loại hàng cấm Điều này bao gồm cả tình tiết "vận chuyển, mua bán qua biên giới", nhằm tăng cường xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến buôn lậu.

Hàng hóa được coi là hàng giả nếu hàm lượng hoặc định lượng chất chính thấp hơn so với tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì.

 Nhận định trên là SAI

Theo Điều 4 Nghị định số 08/2013/NĐ-CP, hàng giả được định nghĩa là hàng hóa có hàm lượng hoặc định lượng chất chính từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì Do đó, nếu hàng hóa có hàm lượng hoặc định lượng chất chính cao hơn 70% so với tiêu chuẩn đã đăng ký, công bố hoặc ghi trên nhãn, bao bì, thì không được coi là hàng giả.

Câu 3: Buôn bán qua biên giới trái phép pháo nổ có số lượng lớn thì cấu thành Tội buôn bán hàng cấm (Điều 155 BLHS)

Nhận định cho rằng pháo nổ là đối tượng tác động của tội buôn bán hàng cấm là không chính xác Theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP, pháo nổ nằm trong danh mục hàng hóa bị cấm kinh doanh, nhưng nó không thuộc phạm vi của tội buôn bán hàng cấm Thay vào đó, pháo nổ là đối tượng của tội mua bán trái phép vật liệu nổ, được quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự.

MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM

Khái niệm

Đạo luật Hình sự (ĐLHS) của nước CHXHCN Việt Nam là văn bản pháp luật hình sự do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, quy định về tội phạm, hình phạt và các chế định liên quan đến việc xác định tội phạm ĐLHS cũng nêu rõ nhiệm vụ và nguyên tắc của hệ thống luật hình sự Việt Nam Đạo luật này có ba đặc điểm chính.

- Về hình thức pháp lý: Đạo luật hình sự là văn bản quy phạm pháp luật

- Về thẩm quyền ban hành: Đạo luật hình sự do Quốc Hội ban hành

- Về nội dung: Đạo luật hình sự chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và hình phạt

Đạo luật hình sự hiện hành của Việt Nam là Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng quá trình lập pháp hình sự của Nhà nước đã trải qua nhiều giai đoạn, bao gồm Bộ luật hình sự năm 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung vào những năm 1989, 1991, 1992, và 1997.

Đạo luật hình sự Việt Nam bao gồm các quy phạm pháp luật với hai đặc điểm chính: tính chất cấm chỉ và tính chất bắt buộc Các quy phạm này không chỉ quy định hành vi bị cấm mà còn xác định nghĩa vụ tuân thủ của mọi công dân, nhằm bảo vệ trật tự xã hội và đảm bảo an toàn cho cộng đồng.

Tính chất cấm chỉ của quy phạm pháp luật hình sự thể hiện ở việc ngăn cấm các hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự Điều này được thực hiện thông qua việc răn đe và áp dụng hình phạt đối với những người vi phạm, nhằm bảo vệ trật tự xã hội và duy trì sự công bằng.

Bộ luật hình sự Việt Nam quy định rằng cá nhân có quyền thực hiện hành động gây thiệt hại cho xã hội trong hai tình huống: phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết, theo Điều 15 và Điều 16.

Tính chất bắt buộc của các quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện qua hai khía cạnh chính: người phạm tội luôn phải chịu trách nhiệm hình sự nhất định, và các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh và kịp thời.

Các quy phạm pháp luật trong Đạo luật hình sự được chia làm 2 loại với vị trí pháp lý khác nhau:

Nhóm quy phạm thứ nhất trong Bộ luật Hình sự (BLHS) bao gồm các quy định cơ bản về hiệu lực, nhiệm vụ, khái niệm và điều kiện xác định tội phạm cùng hình phạt Những quy phạm này tạo thành phần chung của BLHS, được quy định từ Điều 1 đến Điều 77.

Nhóm quy phạm thứ hai bao gồm các quy định về tội phạm cụ thể và hình phạt tương ứng Các quy phạm này tạo thành phần các tội phạm cụ thể, được quy định từ Điều 78 đến Điều 344 của Bộ luật Hình sự.

2.Cấu trúc của Bộ luật hình sự Việt Nam

Về hình thức cấu trúc bên ngoài của Đạo luật hình sự Việt Nam

Đạo luật hình sự Việt Nam được cấu trúc theo sơ đồ bao gồm hai phần chính: phần chung và phần riêng Mỗi phần này được chia thành các chương (mục) và tiếp theo là các điều luật cụ thể.

Hình thức cấu trúc bên trong của Đạo luật hình sự (Chính là cấu trúc của các quy phạm pháp luật hình sự)

Cấu trúc của một quy phạm pháp luật nói chung bao gồm 3 bộ phận, đó là: bộ phận giả định, quy định và chế tài

Phần giả định của quy phạm pháp luật hình sự xác định các yếu tố như ai là người phạm tội, ở đâu và trong hoàn cảnh nào họ bị coi là có lỗi Điều này bao gồm việc xác định đối tượng phạm tội, như công dân Việt Nam hay người nước ngoài, cũng như độ tuổi và tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự Hơn nữa, quy định này áp dụng cho các hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ Tất cả những nội dung này được quy định rõ ràng trong phần chung của Bộ luật hình sự.

Cấu trúc của quy phạm pháp luật hình sự về các tội phạm bao gồm hai bộ phận chính: quy định và chế tài Phần quy định đưa ra các quy tắc xử sự mang tính cấm chỉ, trong khi phần chế tài quy định khung hình phạt cụ thể cho các hành vi vi phạm.

3.Hiệu lực của Bộ luật hình sự a Hiệu lực của Bộ luật hình sự là gì?

Hiệu lực của Bộ luật hình sự thể hiện tính thi hành bắt buộc của luật trong một khoảng thời gian và không gian nhất định, áp dụng cho những đối tượng cụ thể được quy định trong bộ luật Điều này bao gồm hiệu lực về không gian và thời gian của luật hình sự, đảm bảo rằng các quy định được thực thi một cách đồng bộ và nhất quán.

Hiệu lực của Bộ luật hình sự bao gồm hiệu lực về không gian và hiệu lực về thời gian

* Hiệu lực về thời gian của Bộ luật hình sự

Hiệu lực về thời gian của Bộ luật hình sự được quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự 2015, theo đó:

” Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian

1 Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện

2 Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành

3 Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.”

Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu theo quy định của Luật Hình sự, đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể Việc hiểu rõ các dấu hiệu này là rất quan trọng để xác định tính chất và mức độ của tội phạm Để tìm hiểu sâu hơn về các quy định liên quan đến dấu hiệu cấu thành tội phạm, mời quý vị tham khảo thông tin chi tiết dưới đây.

Hiện nay, Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định cụ thể các tội phạm, mỗi tội phạm có dấu hiệu cấu thành riêng biệt Để xác định một hành vi có cấu thành tội phạm hay không, cần phân tích cấu thành tội phạm của từng loại tội, từ đó đối chiếu và xác định xem hành vi vi phạm đã đáp ứng đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay chưa.

Việc xác định các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thường gặp khó khăn, dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm không đáng có Để bảo vệ bản thân và gia đình khỏi những rủi ro liên quan đến hình sự, khách hàng nên liên hệ với công ty Luật Minh Gia để được tư vấn chi tiết về vấn đề này.

SƠ LƯỢC VỀ CẤU THÀNH TỘI PHẠM (CTTP) VÀ CÁC DẤU HIỆU CỦA NÓ

Tội phạm là một hiện tượng xã hội với tính nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của cộng đồng Để xác định hành vi có phải là tội phạm hay không, cần dựa vào cấu thành tội phạm, là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự Cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu được quy định trong Luật Hình sự, đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể Việc xác định các yếu tố cấu thành tội phạm phụ thuộc vào chế độ và chính sách hình sự của từng quốc gia.

Lí luận cấu thành tội phạm xuất hiện từ thế kỉ XVI tại các tòa án phong kiến Đức, sau đó được phát triển trong trường phái cổ điển của khoa học luật hình sự vào thế kỉ XVIII-XIX Khái niệm CTTP (corpus delicti) đã trở thành căn cứ quan trọng trong xét xử hình sự, chứng minh sự hiện diện của hành vi phạm tội Tại Nga, lí luận CTTP được phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, đặc biệt trong khoa học luật hình sự Xô viết từ những năm 50 và vẫn tiếp tục được nghiên cứu cho đến nay.

Cấu thành tội phạm (CTTP) là thuật ngữ chỉ các yếu tố cần thiết để hình thành một tội phạm Tuy nhiên, nghiên cứu các quan điểm khác nhau về khái niệm này cho thấy rằng trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, CTTP vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau.

- Nhà hình sự học người Nga nổi tiếng trước Cách mạng tháng Mười – giáo sư viện sĩ Taganxev N.X phân biệt trong CTTP gồm ba nhóm:

Con người thực tế – kẻ phạm tội;

Cái mà hành vi của bị cáo hướng tới – khách thể hoặc là đối tượng của sự xâm hại có tính chất tội phạm;

Chính sự xâm hại có tính chất tội phạm, được xem xét từ mặt bên trong và bên ngoài

Giáo sư Kixchiakôvxki A.O định nghĩa CTTP là những dấu hiệu thiết yếu, mà nếu thiếu một trong số chúng, tội phạm sẽ không thể xảy ra Bốn dấu hiệu quan trọng này là điều kiện cần thiết để xác định sự tồn tại của tội phạm.

Chủ thể, Khách thể, Hoạt động bên trong, hoạt động bên ngoài của chủ thể Kết quả của hoạt động đó

- Nghiên cứu cổ luật Việt Nam ta thấy, các nhà luật học thời này đã xác nhận có ba yếu tố của cấu thành tội phạm, đó là:

Yếu tố pháp luật Yếu tố tâm lý Yếu tố thực tế

Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành, cấu thành tội phạm bao gồm những dấu hiệu đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể được quy định Cấu thành tội phạm được phân thành hai nhóm dấu hiệu chính.

+ Nhóm các dấu hiệu không bắt buộc của CTTP: chỉ có ở những tội phạm

Cụ thể được quy định trông luật hính sự chứ không bắt buột có ở mọi tội phạm bao gồm:

Hậu quả của tội phạm; Động cơ, mục đích của tội phạm;

Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt

+ Nhóm các dấu hiệu bắt buộc của CTTP: gồm có:

Khách thể của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm Chủ thể của hành vi tội phạm

Các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm là yếu tố quan trọng trong việc xác định tội phạm, bởi nếu thiếu một trong những yếu tố này, hành vi sẽ không được coi là tội phạm Quy định về cấu thành tội phạm chỉ là bước đầu trong việc xác định tội phạm; mục tiêu của pháp luật hình sự còn bao gồm việc quy định biện pháp xử lý đối với các tội phạm đó, tức là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội Để hỗ trợ việc xác định tội phạm và áp dụng hình phạt trong bối cảnh hiện nay, bài viết sẽ trình bày một số nội dung liên quan đến các dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm và biện pháp chế tài tương ứng.

A, B, K uống rượu say, đi loạng choạng và ngã ở dọc đường, H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn nằm bên đường Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an A, B, K uống rượu say, đi loạng choạng và ngã ở dọc đường, H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn nằm bên đường Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an

Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:

1 H và Q phạm tội cướp tài sản;

2 H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;

3 H và Q phạm tội trộm cắp tài sản

Hành vi của H, Q cấu thành tội gì? Tại sao? Đáp án:

1 Ý kiến H và Q phạm tội cướp tài sản: ý kiến này là sai, vì các tình tiết của vụ án không đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản

Khoản 1 Điều 133 BLHS quy định về tội cướp tài sản như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”

Tội cướp tài sản được định nghĩa là hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ngay lập tức, hoặc thực hiện các hành động khác khiến nạn nhân không thể phản kháng, nhằm chiếm đoạt tài sản.

* Khách thể tội cướp tài sản:

Hành vi cướp tài sản không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu mà còn đe dọa đến quyền nhân thân và tự do của con người Luật hình sự bảo vệ cả hai mối quan hệ xã hội này, cho thấy rằng việc cướp tài sản là một hành vi vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn và quyền lợi của cá nhân.

Trong tình huống này, H và Q phát hiện chị B cùng hai người bạn say rượu nằm bên đường và thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng H và Q đã lấy đi toàn bộ tài sản của chị B, trị giá 10 triệu đồng, mà không xâm hại đến thân thể hay tự do của chị B và các bạn của cô Điều này có nghĩa là H và Q chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu của chị B, không xâm hại đến quan hệ nhân thân.

* Hành vi khách quan của tội cướp tài sản:

Theo quy định của pháp luật, có ba dạng hành vi khách quan được xem là hành vi của tội cướp tài sản, bao gồm: hành vi sử dụng vũ lực, hành vi đe dọa sử dụng vũ lực và hành vi chiếm đoạt tài sản một cách trái phép.

34 lực ngay tức khắc; hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được để nhằm chiếm đoạt tài sản

CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM

MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM

CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CỦA TỘI PHẠM

ĐỒNG PHẠM

NHỮNG TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI

HÌNH PHẠT, HỆ THỐNG HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP88 1.Hình phạt

Ngày đăng: 05/02/2024, 22:10

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN