Trang 8 Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu về biến đổi gia đình qua 35 năm đổi mới đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Biến đổi gia đình Việt Nam tro
Trang 2Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS NGUYỄN HOÀI ANH
Biên tập nội dung: TS VÕ VĂN BÉ
TS LÊ HỐNG SƠN ThS NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS NGUYỄN VIỆT HÀ NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG Trình bày bìa: PHẠM THÚY LIỄU
Chế bản vi tính: PHẠM THU HÀ
Đọc sách mẫu: MINH HƯỜNG
BÍCH LIỄU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2650-2022/CXBIPH/4-106/CTQG
Số quyết định xuất bản: 1534-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/8/2022
Nộp lưu chiểu: tháng 8 năm 2022
Mã ISBN: 978-604-57-7932-3
Trang 7LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội Từ xuất phát điểm thấp sau hàng chục năm chiến tranh, nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng nâng cao mức sống, thu nhập của người dân, cải thiện kết cấu hạ tầng và duy trì sự ổn định xã hội
Với tốc độ hiện đại hóa nhanh trong những năm gần đây, xã hội Việt Nam đã từ bỏ được nhiều giá trị cũ lạc hậu và giải phóng tự do cá nhân trong hôn nhân và gia đình Hôn nhân và gia đình Việt Nam đang trải qua sự chuyển đổi quan trọng, từ mô hình truyền thống đến những đặc điểm hiện đại và cởi mở hơn Những kiểu mẫu gia đình nhiều thế hệ, coi trọng nam giới hay vai trò quan trọng của quan hệ họ hàng và người đứng đầu gia đình phải là đàn ông, xu hướng từ kết hôn sớm sang kết hôn muộn hơn đang chuyển biến rõ rệt Các khuôn mẫu truyền thống như hôn nhân sắp đặt, bất bình đẳng giới, chế độ gia trưởng, có nhiều con dưới tác động của Nho giáo đã giảm mạnh Hội nhập quốc tế, cùng với nó là hội nhập và giao lưu văn hóa, giá trị cũng góp phần tạo nên sự biến đổi gia đình
Qua các thời kỳ phát triển, mặc dù cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn luôn là nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự trường tồn của dân tộc và phát triển đất nước Xây dựng một hệ giá trị gia đình Việt Nam gồm tổng hòa giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trở thành nguồn lực mạnh mẽ thực hiện mục tiêu phát triển con người, phát triển đất nước đang là yêu cầu đặt ra khi thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
Trang 8Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu về biến đổi gia đình qua
35 năm đổi mới đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Biến đổi gia đình Việt Nam trong quá trình phát triển của GS.TS Hoàng Bá Thịnh - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Nội dung cuốn sách tập trung vào những nội dung chính sau đây:
- Xây dựng cơ sở lý luận trên cơ sở nghiên cứu các lý thuyết và cách tiếp cận nghiên cứu gia đình trong quá trình phát triển xã hội,
hệ thống hóa các khái niệm và lý thuyết quan trọng nghiên cứu gia đình và biến đổi gia đình trong thời kỳ đổi mới; phân tích các văn bản pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước, các bộ, ngành liên quan đến biến đổi gia đình trong thời kỳ đổi mới
- Phân tích thực trạng biến đổi gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), tập trung vào các chiều cạnh biến đổi
về hôn nhân, loại hình gia đình, quy mô gia đình và chức năng cơ bản của gia đình Phân tích các nhân tố tác động đến biến đổi gia đình và mối liên hệ giữa chính sách và biến đổi gia đình Việt Nam
- Nhận diện những thách thức mà gia đình Việt Nam đang đối diện,
đề xuất những kiến nghị về chính sách và các giải pháp nhằm tăng cường những giá trị tích cực của gia đình đối với xã hội và các cá nhân Cuốn sách Biến đổi gia đình Việt Nam trong quá trình phát triển
là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ tư duy lý luận với nghiên cứu thực nghiệm trong nghiên cứu gia đình Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận, chính sách, luật pháp về gia đình, cùng với dữ liệu tổng kết, phân tích thực tiễn phong phú mà cuốn sách thể hiện, chúng tôi hy vọng đây
sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu về gia đình Đồng thời, cuốn sách có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách xã hội, các nhà quản lý và những ai quan tâm đến sự phát triển của gia đình Việt Nam đương đại Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc
Tháng 11 năm 2021
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Trang 9LỜI NÓI ĐẦU
ia đình là một trong những thiết chế xã hội cơ bản và quan trọng, là “phạm trù xuất hiện sớm nhất trong lịch
sử loài người” (C Mác) Theo không gian và thời gian, gia đình thay đổi theo sự phát triển của xã hội; đồng thời quan niệm về gia đình và chính sách xã hội về gia đình cũng đổi thay theo sự biến đổi của xã hội và gia đình Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, gia đình là một lĩnh vực đang có sự biến đổi nhanh, đặc biệt là ở các quốc gia thuộc khu vực châu Á nói chung
và Đông Nam Á nói riêng, nơi mà các quan niệm truyền thống về hôn nhân, mối quan hệ vợ chồng, nghĩa vụ và trách nhiệm của các thành viên gia đình đang thay đổi cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra với tốc độ khá nhanh
Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về gia đình ở những phạm
vi khác nhau và cách tiếp cận từ các ngành khoa học, như: Xã hội học, Tâm lý học, Nhân học, Văn hóa học, Kinh tế học, v.v Tuy nhiên, còn hiếm những nghiên cứu về sự biến đổi gia đình trong quá trình phát triển, đặc biệt là nghiên cứu gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước Trong hơn ba thập niên đất nước đổi mới, chúng ta chứng kiến những biến đổi sâu sắc và lớn lao của gia đình Việt Nam Sự biến đổi đó là kết quả của nhiều nhân tố, trước hết do thành tựu từ những chương trình cải cách kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước tiến hành trên phạm vi toàn quốc Đồng thời, trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới và chuyển sang G
Trang 10nền kinh tế thị trường, nhiều người nhận ra tầm quan trọng ngày càng tăng của gia đình và sự cần thiết của việc bảo vệ, củng cố gia đình, và muốn vậy, trước hết cần tìm hiểu về gia đình và sự biến đổi của gia đình
Nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu tìm hiểu gia đình, cuốn sách này, với sự trải nghiệm từ những nghiên cứu và giảng dạy nhiều năm qua, tác giả mong muốn giới thiệu về sự biến đổi gia đình trong quá trình phát triển xã hội, tập trung phân tích những biến đổi của gia đình Việt Nam trong giai đoạn hơn ba mươi năm đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, với những vấn đề lý luận và thực tiễn Cuốn sách được cấu trúc làm ba phần như sau:
Phần thứ nhất: Cơ sở lý luận và luật pháp, chính sách của Việt Nam về gia đình: gồm 8 chương, trong đó ba chương đầu tiên
đề cập đến những vấn đề lý luận gia đình và phương pháp nghiên cứu gia đình Ba chương này cung cấp những tri thức cơ bản với các quan điểm, định nghĩa khác nhau về gia đình, cách tiếp cận lý thuyết nghiên cứu gia đình và biến đổi gia đình; cùng phương pháp nghiên cứu gia đình, với một số lưu ý khi nghiên cứu một vài chủ đề gia đình, một số thang đo nghiên cứu giá trị gia đình Năm chương tiếp theo giới thiệu các quan điểm, luật pháp, chính sách của Việt Nam về gia đình (gia đình trong luật pháp Việt Nam; chính sách dân số và gia đình; chính sách xã hội về gia đình; chính sách an sinh xã hội với gia đình) và mối quan hệ giữa gia đình và
xã hội trong phát triển Phần thứ nhất của cuốn sách bên cạnh việc cung cấp cho người đọc cơ sở lý luận về gia đình, còn phân tích mối quan hệ giữa luật pháp, chính sách và gia đình; tác động của chính sách, luật pháp đối với sự biến đổi gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Phần thứ hai: Biến đổi gia đình trong quá trình phát triển;
với 6 chương, phân tích những biến đổi gia đình gồm biến đổi hôn nhân; biến đổi quy mô và loại hình gia đình; biến đổi chức năng
Trang 11gia đình; biến đổi quan hệ trong gia đình; biến đổi văn hóa gia đình; và tác động của khoa học công nghệ đến gia đình Trong phần này, bên cạnh những quan điểm, khái niệm then chốt liên quan đến từng chương sách, tác giả không chỉ giới thiệu biến đổi gia đình trên thế giới mà còn cung cấp những dữ liệu nghiên cứu
về gia đình ở cấp độ quốc gia, vùng và địa phương trong các giai đoạn khác nhau, cho thấy sự biến đổi của gia đình ở những chiều cạnh đa dạng phản ánh sự biến đổi xã hội trong hơn ba thập niên
kể từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đất nước Độc giả sẽ thấy trong phần này sự biến đổi về hôn nhân với các chiều cạnh: thay đổi quan niệm về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời; độ tuổi kết hôn muộn hơn; phạm vi kết hôn mở rộng về lãnh thổ địa lý Trong khi
đó giảm đi loại hình gia đình mở rộng (từ ba thế hệ trở lên) và quy mô gia đình có xu hướng thu nhỏ, do tác động của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình Sự biến đổi loại hình gia đình cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đã tác động và làm thay đổi các chức năng cơ bản của gia đình, trong đó chức năng giáo dục của gia đình có xu hướng thu hẹp lại và nhường dần chức năng giáo dục thế hệ trẻ cho nhà trường và xã hội, và chức năng kinh tế lại thu hút nhiều thời gian và công sức của các cặp vợ chồng, khiến cho họ có phần sao nhãng chức năng tình cảm, chức năng giáo dục con cái Điều này được thể hiện rõ thêm trong chương “Biến đổi quan hệ trong gia đình”, đặc biệt là mối quan hệ giới trong gia đình Sự phát triển của xã hội đã tác động đến những giá trị, chuẩn mực của gia đình, làm biến đổi văn hóa gia đình theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực Đóng góp vào những biến đổi về loại hình gia đình, quy mô gia đình và các chức năng của gia đình có vai trò không nhỏ của khoa học và công nghệ Những nội dung biến đổi gia đình này không chỉ thể hiện trên phạm vi quốc gia, mà còn được phân tích với những lát cắt khác nhau cho thấy sự khác biệt giữa các vùng, miền và các nhóm dân
cư, dân tộc, giới tính
Trang 12Phần thứ ba: Những vấn đề gia đình Việt Nam đang đối diện trong quá trình phát triển; gồm 11 chương; đề cập đến những
thách thức đối với gia đình trong quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay, như: mất cân bằng giới tính khi sinh; gia đình và người cao tuổi; kết hôn sớm và hôn nhân cận huyết; bạo lực gia đình; ly hôn và nạo, hút thai; hiếm muộn và mang thai hộ; sống độc thân
và làm cha, mẹ đơn thân; gia đình đa văn hóa; hôn nhân cùng giới tính
Trong phần này, tác giả giới thiệu chín vấn đề mà gia đình Việt Nam đương đại phải đối diện trong quá trình phát triển Do
tư tưởng trọng nam còn ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ trong xã hội, nên hiện tượng các cặp vợ chồng theo đuổi sinh con trai đã dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh, cùng với nó là các
hệ lụy như: khan hiếm cô dâu; buôn bán phụ nữ và trẻ em gái; mất cân bằng về cơ cấu lao động; gia tăng hiện tượng sinh con thứ ba
và bất bình đẳng giới trong xã hội Bên cạnh đó, gia đình người cao tuổi đang là một vấn đề cần được quan tâm của cộng đồng, xã hội
do xu hướng già hóa dân số diễn ra nhanh Vấn đề chăm sóc người cao tuổi của gia đình trong bối cảnh đô thị hóa, di cư diễn ra ngày càng phổ biến, là những thách thức không nhỏ liên quan đến gia đình có người cao tuổi Ở một số vùng miền núi, dân tộc thiểu số còn hiện tượng kết hôn sớm và hôn nhân cận huyết, điều này ảnh hướng không tốt đến chất lượng giống nòi và nguồn nhân lực của thế hệ tương lai Bạo lực gia đình vẫn đang là một vấn đề nhức nhối và thách thức hiện nay trên phạm vi toàn cầu, trong đó có Việt Nam Vấn nạn này cùng với những nguyên nhân khác đã khiến cho ly hôn tăng dần theo thời gian (cho dù tỷ lệ ly hôn thấp
và tốc độ tăng chậm), sự tan vỡ gia đình ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của con cái và tốn kém cho xã hội Môi trường sống ô nhiễm cùng với lối sống, sinh hoạt không phù hợp, đã khiến cho một bộ phận các cặp vợ chồng có khát vọng làm cha mẹ nhưng
Trang 13hiếm muộn, vô sinh Khoa học công nghệ trong lĩnh vực y học phát triển, cùng với Luật Hôn nhân và Gia đình cho phép người thân mang thai hộ, có thể đáp ứng nhu cầu của các cặp vợ chồng hiếm muộn, nhưng đồng thời cũng dẫn đến những hệ quả như hiện tượng đẻ thuê, buôn bán trẻ sơ sinh, và những rắc rối về pháp lý, tình cảm, đạo đức của việc mang thai hộ Đề cập đến sự đa dạng của loại hình gia đình, không thể không nhắc đến loại hình hộ gia đình độc thân và làm cha/mẹ đơn thân, một xu hướng đã và đang phổ biến hơn ở nước ta hiện nay, cho thấy sự lựa chọn lối sống không kết hôn của một bộ phận những nam nữ thanh niên hiện đại Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy sự gia tăng gia đình đa văn hóa, không chỉ là sự kết hôn giữa các dân tộc, các vùng miền trong nước, mà ngày càng nhiều cuộc hôn nhân giữa các quốc gia làm nên hiện tượng di cư hôn nhân xuyên biên giới, với những hệ quả xã hội ngoài mong đợi
Sự thay đổi nhận thức và mức độ cởi mở của dư luận xã hội về hôn nhân cùng giới tính không chỉ thấy ở sự điều chỉnh của luật pháp, mà còn thể hiện nhiều ở các tác phẩm văn học trong nước và quốc tế, cùng với những nghiên cứu khoa học xã hội về định kiến với người đồng tính, quyền công dân của cộng đồng LGBT*, và sự ủng hộ kết hôn giữa những người cùng giới tính
Đó là những “vấn đề xã hội” (Social Proplems) chủ yếu mà gia đình Việt Nam nói riêng và gia đình ở các quốc gia khác trên thế giới nói chung đang đối diện, với mức độ và phạm vi khác nhau Bởi lẽ gia đình là sản phẩm của xã hội, là một kiến tạo văn hóa -
xã hội, chứ không thuần túy bị ảnh hưởng bởi những hiện tượng
tự nhiên (đời sống tình dục, mang thai, sinh con, nuôi con bằng sữa mẹ) Do vậy, gia đình trong xã hội này, hay một nền văn hóa
* Là tên viết tắt của: đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual), chuyển giới (Transgender)
Trang 14này, của một tầng lớp xã hội này có thể rất khác với gia đình của các xã hội, nền văn hóa và tầng lớp xã hội khác Những vấn đề này vừa cho thấy sự biến đổi trong nhận thức và thực tiễn về gia đình, vừa hàm ý cần có những chính sách và giải pháp phù hợp cho từng vấn đề gia đình hiện nay Hai chương cuối của cuốn sách sẽ đưa ra một phác thảo dự báo về biến đổi gia đình và những vấn đề đặt ra cùng một số giải pháp cho gia đình Việt Nam trong quá trình phát triển
Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, tác giả trân trọng cảm ơn Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi tác giả gắn bó từ những ngày đầu thành lập Khoa, cùng với các đồng nghiệp, học viên cao học và nghiên cứu sinh, đã động viên tác giả hoàn thành cuốn sách Đặc biệt, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tạo điều kiện cho cuốn sách đến được với đông đảo bạn đọc
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót Tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn
GS.TS HOÀNG BÁ THỊNH
Trang 15MỤC LỤC
Danh mục các bảng, hình 19 Danh mục các hộp 24
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LUẬT PHÁP,
CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM VỀ GIA ĐÌNH 25
Chương I
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH
VÀ LOẠI HÌNH GIA ĐÌNH 27
I Các quan niệm về gia đình 27
II Quan điểm của Ph Ăngghen về gia đình 31
III Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về gia đình 39
VI Đa dạng loại hình gia đình 62
Chương II
LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH 68
I Lý thuyết cấu trúc chức năng 70
II Lý thuyết xung đột xã hội 76
III Lý thuyết tương tác biểu trưng 81
IV Lý thuyết trao đổi xã hội 85
V Lý thuyết hệ thống gia đình 87
VII Lý thuyết hiện đại hóa và biến đổi gia đình 91
Trang 16Chương III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH 99
III Những lưu ý khi nghiên cứu về một vài chủ đề gia đình 109
IV Một số thang đo trong nghiên cứu giá trị gia đình 135
Chương IV
GIA ĐÌNH TRONG LUẬT PHÁP VIỆT NAM 145
I Chính sách nhà nước bảo vệ hôn nhân, gia đình 145
III Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình 154
V Về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình 161
VI Luật pháp, chính sách về hôn nhân có yếu tố nước ngoài 163
Chương V
CHÍNH SÁCH DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH 180
I Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính
II Từ chính sách giảm sinh đến khuyến khích mỗi cặp vợ
III Chính sách an sinh xã hội và mức sinh: thúc đẩy bình
IV Mối quan hệ giữa chính sách dân số và gia đình 202
Chương VI
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VỀ GIA ĐÌNH 205
I Khái niệm và chức năng của chính sách xã hội 205
II Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng
III Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam
IV Chính sách xã hội tác động đến biến đổi gia đình 233
Trang 17Chương VII
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VỚI GIA ĐÌNH 238
I Quan niệm về an sinh xã hội 238
II Một số chính sách về an sinh xã hội với gia đình 250
Chương VIII
MỐI QUAN HỆ GIỮA GIA ĐÌNH
VÀ XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN 285
I Một vài quan điểm về phát triển 288
II Gia đình - một nhân tố quan trọng góp phần vào tăng
HÔN NHÂN VÀ BIẾN ĐỔI HÔN NHÂN 323
Chương X
BIẾN ĐỔI QUY MÔ VÀ LOẠI HÌNH GIA ĐÌNH 368
I Biến đổi quy mô và loại hình gia đình Việt Nam 368
II Biến đổi loại hình gia đình 373
III Nguyên nhân của sự biến đổi quy mô và loại hình gia đình 384
Chương XI
BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH 388
I Các chức năng của gia đình 388
Trang 18II Các chức năng cơ bản của gia đình 391III Mối quan hệ giữa các chức năng gia đình 410
V Một số vấn đề trong thực hiện chức năng tinh thần, tình
Chương XII
BIẾN ĐỔI QUAN HỆ TRONG GIA ĐÌNH 441
II Những cách tiếp cận xã hội học về gia đình 443
Chương XIII
VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 469
II Văn hóa gia đình trong thời kỳ đổi mới 479III Bài học kinh nghiệm và giải pháp về xây dựng văn hóa
Chương XIV
TÁC ĐỘNG CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
ĐẾN CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH HIỆN NAY 497
II Khoa học - công nghệ và chức năng sinh sản 499III Khoa học - công nghệ và chức năng kinh tế 502
IV Khoa học - công nghệ và chăm sóc sức khỏe gia đình 506
V Khoa học - công nghệ và đời sống văn hóa, tình cảm gia đình 510
Phần thứ ba
NHỮNG VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
ĐANG ĐỐI DIỆN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 513
Chương XV
MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH 515
I Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trên
Trang 19II Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam 517
III Nguyên nhân mất cân bằng giới tính khi sinh 522
IV Hệ lụy mất cân bằng giới tính khi sinh 531
V Chính sách giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh 533
Chương XVI
GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CAO TUỔI 538
I Quan niệm về người cao tuổi 538
II Chính sách và luật pháp về người cao tuổi 543
IV Gia đình và người cao tuổi 550
I Khái niệm bạo lực gia đình 604
II Các hình thức bạo lực gia đình 611
III Thực trạng bạo lực gia đình 615
IV Nguyên nhân của bạo lực gia đình 620
V Hậu quả của bạo lực gia đình 623
Chương XIX
LY HÔN VÀ NẠO, HÚT THAI 632
Trang 20Chương XXI
SỐNG ĐỘC THÂN VÀ LÀM CHA, MẸ ĐƠN THÂN 677
II Những nguyên nhân sống độc thân/hộ gia đình độc thân 687
Chương XXII
GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA 706
III Hôn nhân có yếu tố nước ngoài và một số vấn đề xã hội 749
Chương XXIII
HÔN NHÂN CÙNG GIỚI TÍNH 759
II Mức độ phổ biến của cộng đồng LGBT và hôn nhân cùng
III Cộng đồng LGBT và hôn nhân đồng giới ở Việt Nam 767
Chương XXIV
MỘT PHÁC THẢO VỀ DỰ BÁO BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH 774
Chương XXV
BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH VIỆT NAM: THÀNH TỰU,
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH 785
I Biến đổi gia đình Việt Nam: Thành tựu nổi bật 785
II Biến đổi gia đình Việt Nam: Những vấn đề đặt ra 789 III Một số giải pháp chính sách về gia đình trong quá trình phát triển 793
Trang 21DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 2.1 Tính đối xứng của đời sống xã hội: Các giả thuyết về
mô hình trật tự và mô hình xung đột của xã hội
Bảng 3.1 Năm phương pháp thu thập dữ liệu trong nghiên cứu gia đình
Bảng 3.2 Khung đánh giá độ tin cậy của tài liệu
Bảng 3.3 Tình trạng Ly hôn giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1998 Bảng 3.4 Tình trạng ly hôn ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 Bảng 3.5 Tỷ lệ kết hôn thô và tỷ lệ ly hôn thô ở Việt Nam Bảng 4.1 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước có liên quan về hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Bảng 4.2 Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài (theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP)
Bảng 7.1 Quy mô các dân tộc thiểu số, giai đoạn 1999-2019 Bảng 7.2 Dân số các dân tộc thiểu số theo giới tính, giai đoạn 1999-2019
Bảng 9.1 Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời khi kết hôn theo các nhóm tuổi (%)
Bảng 9.2 Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người trả lời từ 18 đến 60 tuổi phân theo đoàn hệ hôn nhân (%)
Bảng 9.3 Quyền quyết định hoàn toàn của cha mẹ đối với hôn nhân của con cái thuộc các nhóm tuổi chia theo nông thôn - đô thị, giới tính, nhóm thu nhập
Bảng 9.4 Tình trạng hôn nhân của dân số từ 15 tuổi trở lên theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019
Bảng 9.5 Số cuộc hôn nhân theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019 Hình 9.1 Tuổi kết hôn trung bình lần đầu theo giới tính, thành thị, nông thôn năm 2019
Trang 22Bảng 10.1 Quy mô gia đình ở một số tỉnh, thành phố năm 2019 (%) Hình 10.1 Phân bố số thế hệ trong hộ gia đình theo thành thị - nông thôn
Hình 10.2 Tỷ trọng dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo tình trạng hôn nhân, thành thị/nông thôn, 2019
Bảng 10.2 Tỷ trọng dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo tình trạng hôn nhân và vùng kinh tế xã hội, 2019
Hình 10.3 Cơ cấu của người di cư phân theo tình trạng hôn nhân và giới tính năm 2019
Hình 10.4 Khảo sát online về việc pháp luật có nên công nhận hôn nhân đồng tính
Bảng 11.1 Xu hướng giảm sinh ở Việt Nam
Bảng 11.2 Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên, chia theo thành thị, nông thôn thời kỳ 2006-2018 (%)
Hình 11.1 Những khó khăn của cha mẹ trong giáo dục con cái theo địa bàn nghiên cứu (%)
Bảng 11.3 Tương quan giới tính với những khó khăn trong giáo dục con ở Bắc Giang và Nam Định (%)
Bảng 15.1 Tỷ số giới tính khi sinh theo thành thị, nông thôn (2009 - 2019)
Bảng 15.2 Mười tỉnh, thành phố có tỷ lệ giới tính khi sinh cao nhất và thấp nhất theo thành thị và nông thôn, năm 2019 (%) Hình 15.1 Dự báo tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam,
Bảng 15.4 Số tiến sĩ Nho học ở 10 tỉnh có tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh cao
Trang 23Bảng 16.1 Xu hướng gia tăng tỷ trọng người cao tuổi Việt Nam trong tổng dân số qua các năm
Bảng 16.2 Chỉ số già hóa theo vùng kinh tế - xã hội (%)
Bảng 16.3 Tình trạng hôn nhân của nam và nữ giới độ tuổi 65
Trang 24Hình 17.1 Tỷ lệ tảo hôn của người dân tộc thiểu số theo vùng kinh tế - xã hội, năm 2018 và năm 2014 (%)
Bảng 18.1 Sự tương đồng và khác biệt giữa các khái niệm liên quan đến bạo lực gia đình
Bảng 19.1 Số cuộc kết hôn và ly hôn ở Trung Quốc, 2005-2019 Bảng 19.2 Ly hôn của dân số từ 13 tuổi trở lên theo đô thị và nông thôn (%)
Bảng 19.3 Ly hôn của dân số từ 13 tuổi trở lên theo giới tính (%) Bảng 19.4 Tỷ lệ kết hôn và ly hôn so với dân số năm 2019 theo vùng Bảng 19.5 Số vụ ly hôn đã xét xử năm 2019 phân theo địa phương và theo cấp xét xử
Bảng 19.6 Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo thai vào loại cao nhất thế giới (số liệu năm 1992)
Bảng 19.7 Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo thai vào loại cao nhất thế giới (số liệu năm 2010)
Bảng 19.8 Mười nước có tổng số ca nạo thai cao nhất thế giới qua một thế kỷ
Bảng 19.9: Tỷ lệ nạo, phá thai của các vùng/quốc gia (theo thứ
tự từ cao xuống thấp)
Bảng 19.10 Số ca nạo thai ở Việt Nam, 2010-2016
Hình 21.1 Biến đổi tình trạng hôn nhân của những hộ độc thân ở Hàn Quốc, 2000 và 2015 (%)
Hình 21.2 Tỷ lệ độc thân ở Việt Nam, 1989-2019
Bảng 21.1 Giới tính người sống độc thân Việt Nam, 1989-2009 Hình 21.3 Tỷ lệ độc thân của người từ 65 tuổi trở lên ở Việt Nam, 1989-2009
Bảng 21.2 Tỷ lệ dân số từ 40 tuổi trở lên chưa từng kết hôn theo giới tính và nhóm tuổi ở Việt Nam, 1999 và 2009 (%)
Bảng 22.1 Tình hình lấy vợ của nam giới xã Đại Hợp theo khu vực địa lý, giai đoạn 2007-2009
Hình 22.1 So sánh lấy chồng nước ngoài và lấy vợ thiên hạ ở
xã Đại Hợp, 2007-2009
Bảng 22.2 Số lượng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Hải Phòng, 2001-2014
Trang 25Bảng 22.3 Số liệu phụ nữ Hải Dương lấy chồng nước ngoài Bảng 22.4 Phụ nữ xã Đại Hợp lấy chồng nước ngoài, giai đoạn 1997-2009
Bảng 22.5 Tuổi trung bình khi kết hôn của cô dâu Việt Nam
Bảng 22.12 Trình độ học vấn của phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài (%)
Bảng 22.13 Việc làm của phụ nữ Việt Nam trước khi lấy chồng nước ngoài (%)
Bảng 22.14 Mức độ ủng hộ của các thành viên gia đình về việc con gái lấy chồng nước ngoài (%)
Hình 22.2 Những khó khăn cô dâu Việt Nam sống ở Hàn Quốc (N=150)
Bảng 22.15 Khả năng làm chủ tiếng Hàn của cô dâu ngoại quốc Hình 22.3 Những khó khăn của phụ nữ nước ngoài lấy chồng Hàn Quốc (%)
Bảng 22.16 Độ tuổi ly hôn của cô dâu nước ngoài, 2004 (%) Hình 23.1 Người Mỹ tự nhận xu hướng tính dục của mình (%) Hình 23.2 Người Mỹ tự nhận xu hướng LGBT của mình theo thế hệ (%)
Bảng 23.1 Người Mỹ tự nhận xu hướng tình dục của mình theo thế hệ (%)
Trang 26DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 5.1 Tổng tỷ suất sinh theo ba vùng
Hộp 7.1 62.000 tỉ đồng hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19
Hộp 9.1 Người đàn ông có 39 vợ, 94 con, 33 cháu sống cùng nhà Hộp 9.2 Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Hộp 9.3 Số cặp kết hôn năm 2014, 2016 và 2017
Hộp 11.1 Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Hộp 14.1 Sinh con sau khi chồng mất
Hộp 14.2 Những thành tựu ứng dụng khoa học - công nghệ vào y học Việt Nam
Hộp 20.1 Hồ sơ nhờ mang thai hộ
Hộp 20.2 “Quả ngọt” mang thai hộ
Hộp 20.3 Nghề “hái ra tiền” ở Trung Quốc
Hộp 20.4 Nhận mang thai hộ giá hơn 800 triệu đồng
Hộp 23.1 Pháp luật châu Âu liên quan đến các cặp đôi đồng tính
Trang 27PH ẦN THỨ NHẤT
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LUẬT PHÁP, CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM
VỀ GIA ĐÌNH
Trang 29I- CÁC QUAN NIỆM VỀ GIA ĐÌNH
Có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, từ cách tiếp cận khác nhau của Xã hội học, Kinh tế học, Triết học, Luật học, Văn hóa học, của Tổng cục Thống kê khi tiến hành Tổng điều tra dân số và nhà ở, điều tra biến động dân số - kế hoạch hóa gia đình, v.v Các nhà khoa học khi nghiên cứu về gia đình cũng đưa ra những quan niệm riêng của mình về gia đình Quan niệm về gia đình cũng khác nhau giữa các quốc gia, các nền văn hóa: “Các xã hội và nền văn hóa khác nhau có những quy tắc khác nhau về việc nên tính ai là người trong gia đình và quan hệ cụ thể giữa các thành viên”1 Trong cuốn
1 Steel & Kidd W.: The Family, Basingstoke: Palgrave, 2000, p.10
Trang 30sách Gia đình, nhà xã hội học người Mỹ Goode đã cho thấy định
nghĩa gia đình là một việc không dễ dàng, khó có sự thống nhất giữa các học giả: “Các nhà xã hội học và nhân học đã tranh cãi hàng chục năm nay về cách nên định nghĩa gia đình như thế nào” và “Có nhiều loại đơn vị xã hội trông dường như giống gia đình, nhưng lại không khớp với bất kỳ định nghĩa cụ thể nào về nó”1
Điều này dẫn đến sự đa dạng các quan niệm về gia đình Do vậy, khái niệm gia đình được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, tùy theo cách tiếp cận nghiên cứu
Murdock, George Peter trong C ấu trúc xã hội viết rằng: “Gia đình là một nhóm xã hội có đặc trưng là cùng cư trú, hợp tác và tái
sản xuất kinh tế (người lớn của cả hai giới), và ít nhất trong đó có quan hệ tính dục với nhau, được xã hội tán thành, một hoặc nhiều con cái (do họ đẻ ra hoặc do họ nhận con nuôi)2 Định nghĩa của Murdock đã được nhiều người sử dụng, tuy nhiên được đánh giá là một định nghĩa quá rút gọn, không áp dụng được cho gia đình ở xã hội hiện đại
Một cách định nghĩa khác của nhà xã hội học John J Macionis, nêu rõ hơn những quan hệ rất đặc thù của gia đình: hôn nhân và huyết thống Định nghĩa nhấn mạnh đến quan hệ gia đình là mối quan hệ sơ cấp, các thành viên liên kết với nhau bằng tính trách nhiệm và chung kinh tế: “Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai người trở lên trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau Đời sống gia đình mang tính hợp tác, gia đình
1 Goode, W.: The Family, 2 nd edition, Englewood Cliffs: Prentice Hall,
1982, p.8
2 Murdock, G Peter: Social Structure, New York: The Macmillan Company, 1949, p.1
Trang 31thường là các tập thể sơ cấp trong đó thành viên có cùng tài nguyên kinh tế và trách nhiệm hằng ngày”1
E.W Burgess và H.J Locke trong Gia đình (1953), đã đưa ra định nghĩa sau: “Gia đình là một nhóm người đoàn kết với nhau bằng
những mối liên hệ hôn nhân, huyết thống và việc nhận con nuôi tạo thành một hộ đơn giản, tác động lẫn nhau trong vai trò tương ứng của họ là người chồng và người vợ, người mẹ và người cha, anh em và chị em, tạo ra một nền văn hóa chung”2 Định nghĩa này chú trọng nhiều tới cấu trúc bên trong gia đình và chỉ rõ các vị trí của các yếu tố (thành viên trong gia đình) và các vai trò tương ứng
Một định nghĩa của William J Goode (trong Force and
violence in the family, 1971), đã đưa ra một số chuẩn mực để xác định gia đình dựa trên các mối quan hệ bên trong gia đình, “giúp chúng ta khi xác định, xây dựng khái niệm gia đình phải chú ý tới mối quan hệ giữa các thành viên về quyền hạn và trách nhiệm”3: a) Ít nhất có hai người có giới tính khác nhau, trưởng thành sống với nhau
b) Họ đảm nhiệm những vai trò khác nhau trong gia đình c) Họ phải tham gia vào sự trao đổi về tình cảm, kinh tế, xã hội (có nghĩa là họ làm những việc gì đó là để cho nhau)
d) Họ phải chia sẻ nhiều điểm chung: tình dục, ăn uống, các vật dụng, cư trú, các hoạt động xã hội
đ) Những người trưởng thành có mối quan hệ cha mẹ với con cái của họ, và ngược lại với con cái cũng vậy Cả hai phía đều phải chia sẻ trách nhiệm với nhau
1 John J Macionis: Xã h ội học, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2014, tr 453
2 Dẫn theo Tương Lai (Chủ biên): Những nghiên cứu xã hội học về
gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, t.2, tr.27
3 Steven L Nock Sociology of the Family, University of Virginia:
Prentice Hall, 1987, p.50
Trang 32e) Giữa con cái có mối quan hệ ruột rà và có một loạt trách nhiệm với nhau
1 Goode chỉ ra rằng nếu một tế bào nào (của xã hội) có hội đủ các tiêu chí trên thì là một gia đình
Định nghĩa dưới đây về gia đình có điểm khác so với các định nghĩa trên là nhấn mạnh đến sự liên quan giữa gia đình và
xã hội, gia đình chịu sự tác động của điều chỉnh xã hội: “Gia đình là nhóm người gắn bó với nhau bằng một mối liên hệ hôn nhân, huyết thống hay là việc nhận con nuôi Có sự tác động qua lại giữa chồng và vợ, giữa bố và mẹ, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em và họ hàng xa hơn Tình hình đó tạo ra một loại
cộng đồng ít nhiều hạn chế và được miêu tả bằng những nét
riêng biệt Cộng đồng ấy được xác định và được đóng khung trong những sự điều chỉnh xã hội chủ yếu Những sự điều chỉnh
ấy không nhất thiết có liên hệ với tầm quan trọng của hành vi sinh đẻ”1
Gia đình và văn hóa gia đình ở Việt Nam là những vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, lý giải ở những góc độ tiếp cận khác nhau như Xã hội học, Văn hóa học, Ngôn ngữ học, Lịch
sử, Dân tộc học, Nhà văn hóa Đào Duy Anh giải thích: “Gia tộc Việt Nam xưa nay có hai bực, một là nhà hay tiểu gia đình, gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái, hai là họ, hay là đại gia đình, gồm cả đàn ông đàn bà cùng một ông tổ sinh ra, kể cả người chết và người sống”2 Có lẽ chỉ có học giả Đào Duy Anh mới nhận ra được giá trị
1 Dictionnaire de Sociologie do Nhà xuất bản Larousse ấn hành năm
1973, dẫn theo Tương Lai (Chủ biên): Những nghiên cứu xã hội học về
gia đình Việt Nam; Sđd, t.2, tr.22
2 Đào Duy Anh: Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương,
1951, tr.105-106
Trang 33văn hóa tinh thần/tâm linh khi bàn về định nghĩa gia đình, nên ông mới coi các “thành viên ảo” (kể cả người chết) là thành viên gia đình Đây là một định nghĩa độc đáo và sâu sắc về gia đình, nhìn
từ góc độ văn hóa Điều này hiếm thấy trong các định nghĩa về gia đình từ các tài liệu Xã hội học, Văn hóa học và Nhân học xã hội1 Các nhà xã hội học định nghĩa gia đình “là một nhóm xã hội có từ hai người trở lên cùng sống với nhau trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưỡng” Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014) định nghĩa: “Gia đình là tập hợp những người gắn
bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (Điều 8, giải thích từ ngữ) Có thể thấy, các định nghĩa về gia đình có điểm chung là đề cập đến các đặc trưng quan trọng của gia đình, đó là gia đình là một đơn vị xã hội
cơ bản, với các đặc điểm hôn nhân, huyết thống hay nuôi dưỡng Trên cơ sở đó, các thành viên trong gia đình có mối quan hệ gắn bó cùng với các nghĩa vụ và quyền lợi, và làm nên văn hóa, gia phong của gia đình2
II- QUAN ĐIỂM CỦA PH ĂNGGHEN VỀ GIA ĐÌNH
Quan điểm của Ph Ăngghen về gia đình được trình bày trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nướcxuất bản lần thứ nhất năm 1884 Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị trên nhiều phương diện khoa học và
1 Hoàng Bá Thịnh: Vấn đề gia đình và phụ nữ trong Việt Nam văn
hoá sử cương, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 1/2008, tr.10-19
2 Hoàng Bá Thịnh: Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008, tr.312
Trang 34được nhiều thế hệ các học giả ở các quốc gia khác nhau trên thế giới biết đến Khi đề cập đến gia đình, đến bất bình đẳng giới, các nhà xã hội học phương Tây và những người theo quan điểm
nữ quyền thường trích dẫn nhiều luận điểm của Ph Ăngghen trong tác phẩm này Chúng tôi dành riêng phần này đề cập đến một vài khía cạnh về gia đình và quan hệ giới trong tác phẩm nổi tiếng này của Ph Ăngghen, người bạn thân thiết, người đồng chí của C Mác
1 Gia đình là sự phản ánh quá trình phát triển xã hội
Khi các nhà xã hội học quan niệm gia đình là một thiết chế
xã hội và nó biến đổi theo những biến đổi của xã hội, thì ở một phương diện nào đó người ta cũng nhận thấy vai trò của gia đình như một tác nhân quan trọng tạo nên sự biến đổi và phát triển xã hội Chính vì thế, nhìn vào sự biến đổi của gia đình người ta có thể nhận diện được sự biến đổi và phát triển xã hội ít nhất ở những giai đoạn phát triển nhất định Trong tác phẩm Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, dựa vào công
trình nghiên cứu của L Morgan “Xã hội cổ đại” và cũng dựa vào tài liệu bổ sung về lịch sử - cụ thể, Ph Ăngghen đã vạch ra những tính quy luật cơ bản về sự hình thành và phát triển của gia đình Trong khi bác bỏ những phỏng đoán của các nhà lý luận
tư sản cho rằng gia đình một vợ một chồng tồn tại vĩnh viễn và không thay đổi, Ph Ăngghen theo dõi các quá trình và biến đổi của các hình thức gia đình Như Ph Ăngghen đã phát hiện, nguyên nhân của những biến đổi ấy là sự phát triển của phương thức sản xuất bên trong các tổ chức thị tộc đã đem lại khả năng cho việc giải đáp một cách khoa học về vấn đề lịch sử phát triển của gia đình Hình thức cổ đại nhất của gia đình là quần hôn Cơ
sở kinh tế của các hình thức gia đình đầu tiên là sự sản xuất và
Trang 35phương thức phân phối theo lối công xã Quan hệ sản xuất lúc đó dựa trên cơ sở sử dụng tập thể các tư liệu sản xuất trong khi tìm kiếm của cải vật chất và phân phối của cải ấy theo lối tập thể Trong kinh tế gia đình nguyên thủy, người phụ nữ đóng vai trò quyết định Họ hàng được xác định theo dòng của mẹ Với sự phát triển của phương thức sản xuất, với sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bước quá độ sang gia đình một vợ một chồng trải qua những khâu trung gian, từ gia đình “punaluan” đến gia đình đối ngẫu và chuyển sang gia đình phụ quyền Điều này xảy ra trong thời kỳ xuất hiện ngành chăn nuôi, khi mà người đàn ông bắt đầu đóng vai trò quyết định trong sản xuất Người đàn ông làm tất cả mọi việc, còn công việc của phụ nữ chỉ
là một sự phụ thêm không đáng kể Từ đó, quan hệ gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu Người phụ nữ trở thành người nô lệ Ph Ăngghen đi đến kết luận rằng, bước chuyển từ chế độ quần hôn sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng là bước tất yếu về mặt lịch sử, dựa trên cơ sở sự ra đời của chế độ tư hữu
và do đó, xét về toàn bộ, nó là một hiện tượng tiến bộ Song trong hình thức gia đình ấy, bao hàm tình trạng người phụ nữ không tránh khỏi bị nô dịch
Nếu coi hôn nhân là cơ sở của việc hình thành và tạo nên gia đình, thì có thể nói nhìn vào lịch sử phát triển của hôn nhân - gia
đình chúng ta có thể nhận thấy sự phát triển của xã hội: “Như vậy
là có ba hình thức hôn nhân chính, tương ứng về đại thể với ba giai đoạn phát triển chính của nhân loại Ở thời đại mông muội, có chế
độ quần hôn; ở thời đại dã man, có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh, có chế độ một vợ một chồng được bổ sung bằng tệ ngoại tình và nạn mại dâm Ở giai đoạn cao của thời đại dã man, thì giữa chế độ hôn nhân cặp đôi và chế độ một vợ một chồng, có xen kẽ sự thống trị của người đàn ông đối với nữ nô lệ và chế độ
Trang 36nhiều vợ”1 Có thể xem đây là một tổng kết hết sức ngắn gọn về sự phát triển của hôn nhân - gia đình gắn liền với lịch sử phát triển nhân loại
Cần nhận thấy rằng, gia đình không chỉ là sự phản ánh về hình thức phát triển của lịch sử nhân loại, mà nó còn phản ánh nội dung cơ bản của xã hội có giai cấp: sự đối kháng Như C Mác đã viết: “Gia đình hiện đại chứa đựng không những chế độ nô lệ ở trạng thái manh nha,
mà còn chứa đựng cả chế độ nông nô ở trạng thái manh nha nữa, vì nó
có quan hệ ngay từ đầu với những lao dịch nông nghiệp Nó chứa đựng,
dưới hình thức thu nhỏ, tất cả những mâu thuẫn sau này sẽ phát triển
rộng lớn trong xã hội và trong nhà nước của xã hội đó”2
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước, Ph Ăngghen còn cho thấy yếu tố kinh tế như một
dòng chảy xuyên suốt quá trình phát triển của gia đình Và sự phát triển này song hành với sự phát triển của chế độ tư hữu: “Những đất đai có thể trồng trọt được đều được đem cấp phát cho các gia đình sử dụng; lúc đầu là tạm cấp, về sau thì cấp hẳn; việc chuyển sang chế độ tư hữu hoàn toàn được thực hiện dần dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một vợ một chồng Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội”3 và
“Chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên, mà dựa trên những điều kiện kinh
tế, - tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát Sự thống trị của người chồng trong gia đình, sự sinh đẻ ra những đứa con chỉ có thể là con của người chồng và phải được quyền thừa hưởng tài sản của người ấy”4
1 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 1995, t.21, tr.117
2, 3, 4 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.94, 243, 103
Trang 37Như thế, sự phát triển của gia đình phản ánh sự phát triển của chế
độ sở hữu tư nhân, và xu hướng này chuyển từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ, xác lập quyền uy của chế độ gia trưởng, như Ph Ăngghen đã chỉ ra: “Thế là, dòng dõi tính theo đằng mẹ và quyền kế thừa mẹ bị xóa bỏ, dòng dõi tính theo đằng cha và quyền kế thừa cha được xác lập”1 và sự chuyển giao quyền lực giữa hai giới đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử mà trước đó chưa từng có: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của
giới nữ Ngay cả ở trong nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai
quản, còn người đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần”2 Từ sự “thay bậc đổi ngôi” này giữa phụ nữ và nam giới, đã đánh dấu một kỷ nguyên bất bình đẳng giới trong lịch sử nhân loại, điều mà hiện nay vẫn đang tồn tại khắp mọi nơi trên thế giới, với mức độ nhiều ít khác nhau, dưới những hình thức khác nhau3
2 Điều kiện để giải phóng phụ nữ
Theo Ph Ăngghen muốn giải phóng phụ nữ, cần có những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, phụ nữ tham gia thị trường lao động: phần trình
bày trên đã cho thấy sự lệ thuộc về kinh tế là nguyên nhân quan trọng khiến cho phụ nữ không có sự độc lập và có địa vị thấp kém hơn nam giới trong gia đình và ngoài xã hội Như Ph Ăngghen đã
lý giải sự biến đổi vai trò giới đó như sau: “Tình trạng không bình quyền giữa đôi bên, do những quan hệ xã hội trước kia để lại cho
chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà là kết quả
1, 2 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.92, 93
3 Hoàng Bá Thịnh: “Một số vấn đề gia đình và giới ”, trong sách:
Gia đình Việt Nam - quan hệ, quyền lực và xu hướng biến đổi, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006, tr.11-21
Trang 38của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế Trong nền kinh tế gia đình cộng sản thời cổ, một nền kinh tế bao gồm nhiều cặp vợ chồng với con cái họ, việc tề gia nội trợ, được giao cho phụ nữ, là một loại hình hoạt động xã hội cần thiết, cũng ngang như việc nam giới cung cấp lương thực Với gia đình gia trưởng, và hơn nữa, với gia đình cá thể một vợ một chồng, thì tình hình đã thay đổi Việc tề gia nội trợ đã mất tính chất xã hội của nó Nó không quan hệ gì đến xã hội nữa; nó trở thành một công việc tư nhân; người vợ trở thành người đầy tớ chính và không được tham gia nền sản xuất xã hội”1
Để không còn sự phụ thuộc kinh tế vào nam giới, người phụ
nữ cần phải tham gia vào thị trường lao động xã hội, đây được xem như điều kiện tiên quyết để giải phóng phụ nữ, bởi vì: “Đặc tính của sự thống trị của người chồng đối với vợ trong gia đình hiện đại, và sự tất yếu phải xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên, cũng như phương thức xác lập sự bình đẳng ấy, chỉ bộc lộ ra hoàn toàn rõ ràng một khi mà cả vợ lẫn chồng đều hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật Lúc đó, người ta sẽ thấy rằng điều kiện tiên quyết để giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội, và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể không còn là một đơn vị kinh tế của xã hội nữa”2 Nhưng sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động xã hội, theo Ph Ăngghen, cũng chỉ có thể có được trong
xã hội công nghiệp, chỉ có đại công nghiệp ngày nay là đã mở trở lại cho họ - và chỉ cho phụ nữ vô sản thôi - con đường của nền sản xuất xã hội: “Sự giải phóng người phụ nữ, địa vị bình đẳng của người phụ nữ với nam giới, là không thể có được và mãi mãi sẽ không thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động xã hội có tính chất sản xuất và còn phải khuôn mình
1, 2, 3 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.115, 116, 241
Trang 39trong lao động tư nhân của gia đình”3 Và kết quả của việc phụ
nữ không còn bị giới hạn trong gia đình đã đem lại sự thay đổi tích cực, sự thay đổi trong quan hệ giới với sự cân bằng quyền lực giới đang dần dần trở lại với người phụ nữ vô sản: “Từ ngày đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị trường lao động và vào công xưởng, và thường biến họ thành người nuôi dưỡng của gia đình, thì trong gia đình người vô sản, những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông
đã mất mọi cơ sở - có lẽ chỉ trừ cái thói thô bạo đối với vợ là thói
đã thành tập quán từ khi có chế độ một vợ một chồng”1
Thứ hai, giảm bớt gánh nặng lao động gia đình: nếu như việc phụ
nữ tham gia vào lực lượng lao động xã hội được xem như điều kiện tiên quyết, thì điều này cũng lại là một trở ngại với phụ nữ khi họ đồng thời phải đảm nhận nhiều vai trò: người lao động, người vợ, người mẹ, người nội trợ Khi người ta phải thực hiện đa vai trò, thường dẫn đến căng thẳng vai trò hoặc xung đột vai trò, và thường rơi vào tình huống lưỡng nan, như Ph Ăngghen đã chỉ ra: “Người đàn
bà nếu làm tròn bổn phận phục vụ riêng cho gia đình, lại phải đứng ngoài nền sản xuất xã hội và không thể có được một thu nhập nào cả;
và nếu họ muốn tham gia vào lao động xã hội và kiếm sống một cách độc lập, thì họ lại không có điều kiện để làm tròn nhiệm vụ gia đình”2
Sự lưỡng nan này chỉ có đối với phụ nữ mà không có ở nam giới Hiện tượng này, trong mấy thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu giới vẫn còn thấy không ít phụ nữ (kể cả phụ nữ ở các nước phát triển) đang phải
đối diện với câu hỏi: gia đình hay sự nghiệp?
Vì vậy, nếu phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần thiết những chưa đủ để giải phóng phụ nữ nếu như công việc gia đình của họ vẫn như cũ Nhận rõ thực tế đó,
1, 2 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđ d, t.21, tr.113, 116
Trang 40Ph Ăngghen đã chỉ ra điều kiện cần và đủ để giải quyết tình thế lưỡng nan của phụ nữ như sau: “Chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy
mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít Nhưng chỉ với nền đại công nghiệp hiện đại, là nền công nghiệp không những thu nhận lao động của phụ nữ trên quy mô lớn, mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có lao động phụ nữ và ngày càng có xu hướng hòa tan lao động tư nhân của gia đình trong nền sản xuất công cộng, thì mới có thể thực hiện điều nói trên”1 Quan điểm trên đây, sau này trong một bức thư Ph Ăngghen gửi Gertrud Guillaume - Schack ở Beuthen (dự thảo) cũng nhắc lại với một cấp
độ khác, cao hơn: đó là thủ tiêu được chế độ bóc lột của chủ nghĩa
tư bản: “Theo quan niệm của tôi, sự bình đẳng thực sự giữa nữ và nam chỉ có thể được thực hiện khi sự bóc lột của tư bản đối với cả nam lẫn nữ bị xóa bỏ và công việc nội trợ hiện nay là một công việc
tư nhân biến thành một lĩnh vực của sản xuất xã hội”2 Đây cũng chính là quan điểm của Ăngghen khi đề cập đến xã hội tương lai dưới chủ nghĩa cộng sản, trong xã hội đó sự bình đẳng hoàn toàn giữa phụ nữ và nam giới sẽ đạt được và do đấy, hôn nhân sẽ được thực hiện một cách tự nguyện theo tình cảm, hoàn toàn không vì một thứ lợi lộc nào Sau khi tư liệu sản xuất chuyển thành sở hữu công cộng thì từng gia đình riêng lẻ sẽ không còn là đơn vị kinh tế trong xã hội nữa Phụ nữ được bình đẳng với nam giới về mặt kinh
tế và xã hội
Tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước, bằng việc khẳng định phụ nữ bị áp bức, trong việc phân
tích sự áp bức này được duy trì bởi gia đình, một thiết chế xã hội
1 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.241
2 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.463