Thông qua việc định hướng và sử dụng các công cụquản lý, Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý cho sự ra đời, khuyến khích, hỗtrợ và quản lý các hoạt động của DN trong KCN một cách có hiệu q
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận, các khái niệm
Quản lý là quá trình tác động có ý thức của chủ thể lên đối tượng quản lý, nhằm chỉ huy và điều hành các hoạt động xã hội cũng như hành vi cá nhân, hướng tới mục tiêu chung và tuân thủ các quy luật khách quan.
Quản lý Nhà nước là quá trình tác động của Nhà nước đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ quản lý khác Đối với doanh nghiệp (DN), quản lý Nhà nước diễn ra một cách có chủ đích và có tổ chức, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thông qua việc áp dụng pháp quyền.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, sở hữu tài sản và trụ sở giao dịch ổn định Doanh nghiệp được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật với mục tiêu thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp KCN được định nghĩa để phân biệt với doanh nghiệp ngoài KCN, chủ yếu dựa vào vị trí và vấn đề quản lý Nhà nước Các công ty hoạt động trong KCN sẽ nhận được nhiều ưu đãi, đặc biệt là các hãng sản xuất hàng xuất khẩu, nhằm thúc đẩy quy hoạch phát triển công nghiệp và công nghệ sản xuất Những ưu đãi này bao gồm hạ tầng và thuế, nhưng cần đảm bảo tuân thủ các quy định về môi trường và cơ sở hạ tầng.
Công nghiệp là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, chuyên sản xuất hàng hóa vật chất phục vụ nhu cầu tiêu dùng và hoạt động kinh doanh Đây là hoạt động kinh tế quy mô lớn, được thúc đẩy bởi các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật Tại Việt Nam, ngành công nghiệp đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế đất nước.
+ Khai thác khoáng sản, than, đá và dầu khí
+ Chế biến, chế tạo (kể cả chế biến thực phẩm, gỗ)
+ Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước.
+ May mặc, đồ dùng gia đình
+ Chế biến, sản xuất các hóa chất cần thiết…
Công nghiệp được định nghĩa là "hoạt động kinh tế quy mô lớn, trong đó sản phẩm (có thể là phi vật thể) trở thành hàng hóa" Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế chuyên sâu khi đạt đến một quy mô nhất định sẽ hình thành các ngành công nghiệp, như công nghiệp phần mềm máy tính, công nghiệp điện ảnh - giải trí, công nghiệp thời trang, và công nghiệp báo chí.
BQL các KCN là cơ quan quản lý trực tiếp các khu công nghiệp, hoạt động trong phạm vi địa lý của một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương Ngoài ra, BQL cũng có thể được thành lập trên địa bàn liên tỉnh hoặc cho một khu công nghiệp cụ thể theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Giấy chứng nhận đầu tư (CNĐT) là giấy phép do cơ quan thẩm quyền cấp cho tổ chức hoặc cá nhân đủ điều kiện, thường liên quan đến dự án đầu tư và chủ yếu áp dụng cho các tổ chức/cá nhân có yếu tố nước ngoài Tuy nhiên, không phải tất cả doanh nghiệp đều cần đăng ký để nhận Giấy CNĐT, mà việc này phụ thuộc vào quy mô vốn và đặc điểm của dự án đầu tư Giấy CNĐT có thể thay thế cho Giấy Đăng ký kinh doanh (ĐKKD).
Giấy đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là giấy phép cho phép các tổ chức và cá nhân hoạt động kinh doanh, được cấp bởi cơ quan thẩm quyền khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Đầu tư là quá trình mà nhà đầu tư sử dụng vốn từ các tài sản hữu hình hoặc vô hình để tạo ra tài sản mới Hoạt động đầu tư phải tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư và các quy định pháp luật liên quan Có hai hình thức đầu tư chính mà nhà đầu tư có thể lựa chọn.
+ Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp quản lý, thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác Hình thức này cũng bao gồm việc tham gia vào quỹ đầu tư chứng khoán và các định chế tài chính trung gian khác.
- Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:
+ DN thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp; + Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã;
+ DN có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này có hiệu lực;
+ Hộ kinh doanh, cá nhân;
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
+ Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ quan của một khu vực, quốc gia hay vùng lãnh thổ, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư Nhà đầu tư nước ngoài là các tổ chức và cá nhân từ nước ngoài, họ bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm các công ty do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện các hoạt động đầu tư, cũng như các doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài đã mua cổ phần, sáp nhập hoặc thực hiện các giao dịch mua lại.
Hoạt động đầu tư là quá trình mà nhà đầu tư thực hiện, bao gồm các giai đoạn chuẩn bị, triển khai và quản lý dự án đầu tư một cách hiệu quả.
Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất nhằm bỏ vốn trung và dài hạn, phục vụ cho việc thực hiện các hoạt động đầu tư tại một địa bàn cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Lịch sử hình thành KCN trên thế giới
Từ năm 1574, Italia đã bắt đầu nghiên cứu và xây dựng Khu kinh tế dưới hình thức Thương cảng tự do Mô hình KCN xuất hiện muộn hơn so với Thương cảng tự do, và KCN đầu tiên trên thế giới được thành lập vào năm 1896 tại Trafford Park, thành phố Manchester (Anh).
DN tư nhân Sau đó, vào năm 1899 vùng CN Clearing ở thành phố Chicago, bang Illinois bắt đầu hoạt động và được coi là KCN đầu tiên của Mỹ
Việc phát triển khu công nghiệp (KCN) ở các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành ngành công nghiệp công nghệ cao và tăng thu nhập quốc dân KCN không chỉ thúc đẩy xuất khẩu, thu hút ngoại tệ và tạo ra nhiều việc làm, mà còn thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp nhận công nghệ hiện đại và nâng cao trình độ quản lý Đồng thời, KCN còn giúp đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, tăng cường sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp trên thị trường khu vực và toàn cầu Sự hình thành của KCN thu hút các nhà đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp và cơ sở dịch vụ, từ đó góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
1.2.1 Sự cần thiết phải xây dựng các KCN.
Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) là cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đặc biệt ở các vùng ngoại thành và đồng bằng đông dân Một ha đất nông nghiệp chỉ tạo việc làm cho 10-15 lao động, trong khi một KCN 100-150 ha có thể tạo ra 10.000-15.000 việc làm với giá trị cao hơn Theo thống kê của WEPZA, một KCN 100 ha cần đầu tư 50 triệu USD cho cơ sở hạ tầng trong 20 năm, tạo ra hàng xuất trị giá 100 triệu USD/năm và 100 triệu USD/năm từ thu nhập gián tiếp Các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đã thành công trong công nghiệp hóa nhờ vào hoạt động của KCN, với các sản phẩm công nghệ cao dẫn đầu thế giới Theo Ngân hàng Thế giới, KCN thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, với 24% từ liên doanh, 33% từ nhà đầu tư nước ngoài, và 43% từ đầu tư trong nước, góp phần thúc đẩy xuất khẩu và tăng nguồn thu ngoại tệ.
Xu hướng đa cực trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy các quốc gia mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó tạo cơ hội phát triển xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp (KCN) góp phần quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ hiện đại Mặc dù chủ yếu tập trung vào sản xuất hàng tiêu dùng và gia công lắp ráp, quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra đa dạng qua các hình thức như đào tạo công nhân sử dụng máy móc, áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, chia sẻ kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài, và bổ sung bí quyết sản xuất.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra do ảnh hưởng của vốn và khoa học kỹ thuật, dẫn đến tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, trong khi giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp Việc gia tăng đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài vào các khu công nghiệp không chỉ thu hút một lượng lớn lao động mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu và tăng thu ngoại tệ cho nền kinh tế.
1.2.2 Những nhân tố hình thành, phát triển KCN.
Trong 10 yếu tố thành công của KCN của WEPZA đã tổng kết thì có 02 thuộc về địa lý và điều kiện tự nhiên là:
- Gần các tuyến giao thông đường bộ, đường hàng không, đường biển.
- Có nguồn cung cấp nguyên - vật liệu và lao động.
Việc phát triển các khu công nghiệp (KCN) tại những khu vực này sẽ tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có, giúp giảm thiểu chi phí vận chuyển và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng khi KCN hoạt động hiệu quả.
1.2.2.2 Vị trí kinh tế - xã hội.
Các đô thị không chỉ là trung tâm kinh tế và chính trị, mà còn là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất với cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại cùng đội ngũ lao động có trình độ cao Vì vậy, các khu công nghiệp (KCN) ở nước ta chủ yếu được đặt gần các đô thị để tận dụng điều kiện sẵn có, giảm thiểu rủi ro và thu hút nhà đầu tư.
1.2.2.3 Kết cấu hạ tầng. Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn đầu tư Với các nhà đầu tư hạ tầng mối quan tâm là vị trí thì với các nhà đầu tư thứ cấp “ sản xuất - kinh doanh” lại là kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng: Điện, nước, xử lý nước thải, đường xá, cầu cống , tác động trực tiếp đến giá thuê đất, ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư.
1.2.2.4 Thị trường. Đối với các công ty nước ngoài, mục tiêu đầu tư vào các KCN là tận dụng thị trường nước chủ nhà; Đưa nguồn vốn vào hoạt động sinh lợi để tránh tình trạng ứ đọng vốn; Đồng thời, có thể tận dụng được nguồn tài nguyên - nhân công rẻ, thị trường mới Đây là việc rất quan trọng và cần thiết trong quá trình lập dự án nghiên cứu khả thi.
Quan hệ chính trị tốt đẹp giữa các quốc gia là yếu tố quan trọng thúc đẩy hợp tác kinh tế Các nước phát triển thường cung cấp cho các nước kém phát triển những điều kiện ưu đãi về vốn, bao gồm vốn ODA, các khoản trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi Hơn nữa, việc tạo điều kiện thuận lợi cho xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm và thiết bị công nghệ cũng rất cần thiết Việc ký kết các hiệp ước thương mại giữa các Chính phủ sẽ mở ra cơ hội cho các tổ chức và cá nhân đầu tư vào các quốc gia lân cận.
1.2.3 Cơ chế hoạt động của các KCN
Hoạt động của các KCN phụ thuộc trực tiếp vào 04 yếu tố:
- Năng lực của Chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng
- Giá thuê đất trong các KCN
- Hoạt động xúc tiến đầu tư
- Quy mô hợp lý của các KCN
1.2.4 Những nhân tố chính quyết định sự thành công của KCN. 1.2.4.1 Công tác quy hoạch và tính phù hợp
Quy hoạch khu công nghiệp chất lượng và ổn định giúp tập trung nguồn lực một cách ưu tiên, tránh tình trạng đầu tư dàn trải gây mất cân bằng cung cầu và lãng phí tài nguyên Việc quy hoạch theo lãnh thổ hợp lý sẽ đáp ứng các yêu cầu lâu dài và đồng bộ, đồng thời phân bố lực lượng sản xuất một cách hợp lý, phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương.
Quy hoạch các khu công nghiệp (KCN) cần đảm bảo tính đồng bộ và liên kết chặt chẽ với quy hoạch hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội Đồng thời, việc phát triển các khu đô thị cũng rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc trong các KCN.
1.2.4.2 Dự án của các nhà đầu tư thứ cấp Đây là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự phát triển các KCN: Bởi vì, chất lượng các dự án đầu tư có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại của KCN( nói riêng ) và sự phát triển KT-XH( nói chung ) Các KCN sử dụng công nghệ chất lượng cao sẽ hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường; Đảm bảo khả năng trả lương; Tạo cơ hội nâng cao trình độ cho người lao động; Đồng thời, tăng khả năng cạnh tranh chung của nền kinh tế; Chuyển giao công nghệ
Phát triển bền vững trong khu công nghiệp (KCN) là quá trình tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) Mục tiêu là đạt được sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ môi trường, giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp Bên cạnh đó, cần tăng thu nhập cho người lao động, giảm khoảng cách thu nhập và trình độ phát triển giữa các vùng miền, đồng thời không ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân trong quá trình CNH.
Quá trình hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam
Khu công nghiệp Biên Hòa I, được thành lập vào năm 1963, là tiền thân của sự phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam Với vị trí địa lý thuận lợi, Biên Hòa I trở thành khu công nghiệp lớn nhất và phát triển nhất sau năm 1975 Đồng thời, miền Bắc cũng đã bắt đầu xây dựng nhiều khu liên hợp và cụm công nghiệp lớn, như KCN gang thép Thái Nguyên, nhằm thúc đẩy sự phát triển công nghiệp và tạo cơ sở cho các khu công nghiệp trong tương lai.
Năm 1991, KCX Tân Thuận tại TP Hồ Chí Minh ra đời, đánh dấu mô hình sản xuất công nghiệp tập trung đầu tiên tại Việt Nam, với cơ chế quản lý một cửa hiệu quả Mô hình này đã thu hút nhiều nhà đầu tư và đạt tốc độ đầu tư nhanh chóng, trở thành đơn vị đứng đầu các khu công nghiệp ở châu Á Sự thành công của KCX Tân Thuận không chỉ thúc đẩy công cuộc đổi mới mà còn tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ trên toàn quốc, mở ra hướng phát triển mới cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao, góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư.
CN phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững.
Tính đến cuối năm 2012, Việt Nam có 283 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích 76.000 ha, trong đó 46.000 ha có thể cho thuê, chiếm 61% Quy mô trung bình của các KCN là 268 ha, tuy nhiên, các vùng khó khăn như Trung du và miền núi phía Bắc (154,9 ha) và Tây Nguyên (157,6 ha) có quy mô KCN trung bình thấp hơn Ngược lại, vùng Đông Nam Bộ ghi nhận quy mô KCN trung bình cao nhất với 378,3 ha.
Các khu công nghiệp (KCN) đã ghi nhận kết quả tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với 4.113 dự án còn hiệu lực tính đến tháng 12/2011 Tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 59,6 tỷ USD, trong khi tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 27 tỷ USD, tương đương 45% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Trong năm 2011, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp (KCN) đạt 6,5 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước, trong khi tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 7,3 tỷ USD, tương đương 67% KCN không chỉ đóng góp quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là giải pháp hiệu quả để phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước.
Tỷ lệ lấp đầy các KCN đã vận hành tăng đều hàng năm: Từ 40% năm
Từ năm 1996 đến 2010, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp (KCN) đã tăng từ 55% lên 65% Đến tháng 12 năm 2011, tổng diện tích đất công nghiệp cho thuê của các KCN đang hoạt động đạt khoảng 30.000 ha, trong đó đã cho thuê 19.300 ha, tương ứng với tỷ lệ lấp đầy khoảng 65% Hiện nay, khoảng 9,5 tỷ USD đã được đầu tư vào hạ tầng của các KCN.
Trong tổng số 283 khu công nghiệp (KCN), hiện có 180 KCN đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư hạ tầng đạt 5,3 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện gần 3,2 tỷ USD Còn lại 103 KCN đang trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng Trong số các KCN đã thành lập, có 31 KCN do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm chủ đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 2 tỷ USD, trong khi các KCN còn lại do tổ chức kinh tế trong nước làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư lên tới 7 tỷ USD Trung bình mỗi ha đất công nghiệp cho thuê trong năm 2011 đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp khoảng 2 triệu USD/ha, giá trị xuất khẩu đạt 1,27 triệu USD/ha và nộp ngân sách khoảng 1,38 tỷ đồng/ha.
Tỷ lệ vốn đầu tư trên mỗi hecta đất sử dụng đã tăng đáng kể theo thời gian, đạt mức trung bình 3,5 triệu USD/ha vào cuối năm 2011, gấp 2 lần so với năm 2005 và gấp 3 lần so với năm 2001.
Các khu công nghiệp (KCN) đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và nâng cao giá trị xuất khẩu, từ 9,5 tỷ USD giai đoạn 1996-2000 lên 125 tỷ USD giai đoạn 2006-2010, với mức tăng trưởng bình quân lần lượt là 20%, 23% và 32% mỗi năm Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong KCN cũng được cải thiện rõ rệt, với tổng giá trị xuất khẩu tăng từ 6,2 tỷ USD giai đoạn 1996-2000 lên 63,7 tỷ USD giai đoạn 2006-2010, tăng 2,85 lần so với trước Hơn nữa, các KCN còn góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập cho người lao động và bảo vệ môi trường sinh thái.
Hầu hết các tỉnh - thành phố đều chủ trương phát triển khu công nghiệp (KCN) như một bước đột phá trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) Việc triển khai các dự án KCN đã giúp nâng cao nguồn thu, tạo việc làm và ổn định đời sống xã hội Một số tỉnh như Vĩnh Phúc, Bình Dương, Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh đã thành công trong việc thu hút vốn đầu tư vào KCN, từ đó thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP Sự phát triển của KCN không chỉ mang lại ổn định cho ngân sách địa phương mà còn tạo điều kiện cho việc phát triển các lĩnh vực khác Ngoài ra, nhiều KCN đã xây dựng trường dạy nghề, góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực và tạo ra đội ngũ kỹ thuật viên, công nhân tay nghề cao.
Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp lý đều được kiện toàn:
Vào ngày 18/10/1991, Chính phủ Việt Nam đã ban hành quy chế Khu chế xuất thông qua Nghị định 322/HĐBT, và vào năm 1994, quy chế Khu công nghiệp được ban hành kèm theo Nghị định 192/CP Những sự kiện này đánh dấu bước khởi đầu quan trọng trong quá trình phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam.
Vào ngày 24/4/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định 36/CP nhằm thống nhất các quy chế về khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) Nghị định này không chỉ thúc đẩy nhanh chóng tiến độ đầu tư xây dựng và phát triển các KCN - KCX mà còn tạo ra một hành lang pháp lý đặc biệt cho loại hình kinh tế này, vốn còn mới mẻ và có điểm xuất phát thấp.
- Ngày 14/3/2008 Chính phủ ban hành Nghị định 29/2008/NĐ-CP quy định về KCN, KCX và KKT
- Ngày 2/3/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg
Về việc chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế, khu công nghiệp(KCN), cụm công nghiệp(CCN)
- Ngày 07/02/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số318/QĐ- TTg Ban hành Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo về phát triểnKKT, KCN
Đặc điểm các loại hình KCN
Việt Nam hiện có bốn loại hình khu công nghiệp, bao gồm khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế mở.
KCN được chia thành 6 vùng chính: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Căn cứ vào mục đích sản xuất, người ta chia ra làm 02 loại:
- KCN - Bao gồm các cơ sở sản xuất hàng CN để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu
KCX là loại hình khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, với đặc điểm chung là tập trung vốn và nguồn lực để phát triển hạ tầng tốt nhằm thu hút doanh nghiệp Chính phủ áp dụng cơ chế quản lý ưu đãi để khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi về hạ tầng và quản lý, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao hiệu quả hoạt động công nghiệp và thương mại Mục tiêu chính là đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư trong quá trình sản xuất.
- Các KCN được thành lập trên một phạm vi khuôn viên có sẵn một số
DN đang hoạt động, cho thấy rằng các khu công nghiệp (KCN) được hình thành từ các cụm công nghiệp hiện có Điều này yêu cầu các công ty phải nhanh chóng cải thiện cơ sở hạ tầng, đồng thời xây dựng các công trình xử lý chất thải và trồng cây xanh để giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái.
Các khu công nghiệp (KCN) được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu di dời các nhà máy và xí nghiệp khỏi nội thành và vùng đông dân cư, nơi gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội, mỹ quan đô thị và môi trường Việc di dời này cũng phục vụ cho việc xây dựng các công trình xã hội khác Ngoài ra, một số công ty và xí nghiệp còn phải di dời để mở rộng sản xuất và đầu tư đổi mới công nghệ.
KCN hiện đại quy mô lớn được xây dựng mới với vốn đầu tư ban đầu lớn, giúp tăng tốc độ xây dựng và đảm bảo chất lượng hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế Các khu công nghiệp này có hệ thống hạ tầng đồng bộ và hệ thống xử lý chất thải tiên tiến Đặc biệt, một số khu còn có nhà máy điện riêng, hỗ trợ hiệu quả cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020
Đảng ta đã xác định chiến lược cho 10 năm đầu thế kỷ XXI là thúc đẩy công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nhằm xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp hiện đại Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XI (2011) cùng với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển khu công nghiệp bền vững và sâu rộng Cụ thể, cần bố trí hợp lý công nghiệp tại các vùng, phát huy hiệu quả các khu - cụm công nghiệp hiện có, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm, tạo ra các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp (KCN), cần đầu tư đồng bộ nhằm hoàn thiện các KCN hiện có và thành lập mới một cách có chọn lọc Mục tiêu là tăng tổng diện tích KCN thêm khoảng 20.000 ha - 25.000 ha, đưa tổng diện tích các KCN lên khoảng 65.000 ha vào năm 2015.
- 70.000 ha; Phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy của các KCN bình quân trên toàn quốc khoảng 60%.
Các biện pháp và chính sách chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp trong các khu công nghiệp đang được triển khai nhằm hiện đại hóa và phù hợp với đặc thù của từng địa bàn lãnh thổ.
- Xây dựng các công trình xử lý rác thải CN tập trung quy mô lớn ở những khu vực tập trung các KCN tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và chính sách để khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN), mục tiêu thu hút thêm khoảng 6.500 - 6.800 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký từ 36 - 39 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 50%.
- Quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý diện tích đất dự trữ cho xây dựng KCN.
- Hoàn thiện về cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ với tổng diện tích các KCN đạt khoảng 80.000 ha vào năm 2020
- Quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập theo hướng đồng bộ hóa.
Vai trò của KCN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Sau khi Nhà nước ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Từ năm 1989, nhiều khu công nghiệp (KCN) đã được xây dựng và đi vào hoạt động, gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế Việt Nam Mô hình KCN được thiết lập nhằm thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa Sau hơn 20 năm phát triển, các KCN đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước, thể hiện qua các khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội.
Phân công lại lao động xã hội trên toàn quốc nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực Cần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân để khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế hiện có, từ đó nâng cao sức cạnh tranh Đồng thời, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế bền vững là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển.
Sản xuất hàng hóa tiêu dùng nội địa và sản phẩm xuất khẩu cạnh tranh cao đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng giá trị kinh tế, tạo ra khối lượng hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng Điều này không chỉ tạo thêm việc làm, đặc biệt cho lao động nông thôn, mà còn góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và thu nhập quốc dân Nhờ đó, kinh tế - xã hội được ổn định và đời sống của người dân được nâng cao.
Tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ, từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Điều này không chỉ tạo ra sức mạnh mới cho nền kinh tế phát triển bền vững mà còn là cơ hội tốt để đào tạo và chuyển giao kiến thức khoa học cho đội ngũ cán bộ quản lý.
Xây dựng một hệ thống hạ tầng mới đồng bộ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội sẽ mang lại giá trị bền vững, đồng thời góp phần hiện đại hóa toàn bộ hệ thống hạ tầng quốc gia.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, cần tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế tiếp cận nguồn lực, đồng thời thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thu hút nguồn vốn đầu tư lớn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho phát triển công nghiệp và kinh tế - xã hội, hàng năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu công nghiệp (KCN) chiếm từ 35-40% tổng vốn đăng ký tăng thêm của cả nước, trong đó lĩnh vực công nghiệp đóng góp gần 80%.
Thúc đẩy tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp là yếu tố quan trọng để nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế Đồng thời, điều này cũng góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và toàn quốc theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ hội việc làm và đào tạo nguồn nhân lực, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người lao động Điều này giúp hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, đặc biệt là đối với lao động có trình độ cao.
- Góp phần tích cực vào bảo vệ môi trường sinh thái, tăng trưởng kinh tế;Giải quyết các vấn đề xã hội.
Sự cần thiết của hoạt động quản lý đối với KCN
Nền kinh tế Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp (KCN) đóng vai trò quan trọng Chức năng này giúp vận dụng các quy luật kinh tế để điều chỉnh, hỗ trợ và định hướng phát triển các thành phần kinh tế, khắc phục những mặt trái trong phát triển hệ thống KCN Đồng thời, nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo hoạt động tuân thủ pháp luật.
Do hạn chế về nguồn vốn, kỹ thuật quản lý và khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp (DN) cần sự hỗ trợ từ Nhà nước thông qua các chính sách về mặt bằng sản xuất, vốn, thuế và đào tạo nhân lực Sự hỗ trợ này là cần thiết để tạo điều kiện cho sự phát triển của DN Quản lý khu công nghiệp (KCN) là hoạt động quản lý nhà nước, tác động của Nhà nước thông qua cơ chế và chính sách nhằm hỗ trợ DN Các chính sách và công cụ kinh tế được áp dụng để khai thác hiệu quả nguồn lực, tạo môi trường thuận lợi cho DN phát triển Qua đó, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống cho người dân, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nội dung quản lý nhà nước về KCN
1.8.1 Quản lý mang tính quyền lực Nhà nước.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bởi các chủ thể có quyền lực nhà nước, thực hiện thông qua bộ máy công cụ đồng bộ, nhằm đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước.
- Chấp hành theo các cơ quan quyền lực Nhà nước cấp trên đã lập ra chính cơ quan QLNN đang thực hiện công vụ.
- Điều hành - Trên cơ sở chấp hành, để tổ chức thực hiện nội dung công việc QLNN.
Tổ chức và thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là cần thiết để thiết lập trật tự và kỷ cương Hoạt động này không chỉ đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng mà còn giúp doanh nghiệp đánh giá và phát hiện những vấn đề không phù hợp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh Đồng thời, kiểm tra - thanh tra cũng là cơ sở để đánh giá kết quả thực hiện các định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp trong từng giai đoạn, từ đó xác định các điều chỉnh cần thiết trong công tác quản lý.
1.8.2 Quản lý phải phục vụ cho hoạt động của DN.
Tôn trọng quy luật hoạt động của thị trường là điều cần thiết, với vai trò của Nhà nước chỉ là tạo ra môi trường pháp lý, hướng dẫn, điều tiết và xử lý vi phạm mà không can thiệp vào chức năng kinh doanh của doanh nghiệp Nhiệm vụ quan trọng nhất là hỗ trợ doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn và đề xuất kịp thời các cơ chế, chính sách phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường Nhà nước không quản lý hoạt động kinh doanh để doanh nghiệp có quyền rộng nhưng cũng phải chịu trách nhiệm lớn; vi phạm pháp luật sẽ bị xử phạt, và sai lầm trong kinh doanh sẽ phải trả giá Quản lý của Nhà nước chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, chất lượng sản phẩm và nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước cũng như với các doanh nghiệp khác trong khuôn khổ pháp luật.
Cụ thể là: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách - giải pháp cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ các DN phát triển
Hoạt động quản lý nhà nước với doanh nghiệp trong khu công nghiệp không chỉ nhằm mục đích của các cơ quan quản lý, mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao khả năng tự điều chỉnh của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động Khi năng lực hoạt động của doanh nghiệp thấp hơn yêu cầu, sự hỗ trợ từ Nhà nước trở nên cần thiết để giúp doanh nghiệp cải thiện năng lực sản xuất và tự điều chỉnh Nguồn hỗ trợ từ Nhà nước được coi là ổn định và hiệu quả nhất, do đó, việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ này không chỉ đáp ứng nhu cầu thiết thực của doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp có đủ điều kiện để thực hiện định hướng phát triển kinh tế của địa phương.
Hoạt động khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp không chỉ đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước mà còn góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển Đồng thời, những chính sách này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của khu công nghiệp.
Hệ thống các chính sách khuyến khích - hỗ trợ DN, bao gồm:
- Chính sách hỗ trợ về đất đai, mặt bằng sản xuất
- Chính sách hỗ trợ về hạ tầng kỹ thuật cơ sở
- Chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng
- Chính sách hỗ trợ cung cấp thông tin về kinh tế, thị trường, về đối tác bạn hàng trong và ngoài nước.
Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực bao gồm việc xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy chế liên quan đến đào tạo Đồng thời, chính sách cũng tập trung vào việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
- Xây dựng và ban hành các quy chế về các lĩnh vực hoạt động hỗ trợ
Các cơ quan nhà nước, hiệp hội và trung tâm tư vấn cần tạo điều kiện và khuyến khích việc thành lập các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đa dạng như pháp lý và công nghệ.
- Xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy chế về liên kết,hợp tác giữa các DN.
Kinh nghiệm thực tiễn về phát triển & quản lý KCN
Trong những năm gần đây, các khu công nghiệp (KCN) tại thành phố Hà Nội đã trở thành trung tâm phát triển của nền công nghiệp không chỉ của thủ đô mà còn của các tỉnh lân cận, nhờ vào sự chuyển mình và phát triển mạnh mẽ của các KCN trên toàn quốc.
Từ những ngày đầu với chỉ 01 KCN Nội Bài, Hà Nội đã phát triển quy hoạch 33 KCN với tổng diện tích gần 10.000 ha Hiện tại, 18 KCN đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, chiếm diện tích trên 3.500 ha, trong khi 08 KCN đang hoạt động với diện tích trên 1.230 ha và tỷ lệ lấp đầy đạt 98% Năm 2013, Hà Nội chào đón thêm 02 KCN mới: Khu công viên Công nghệ thông tin Hà Nội với diện tích 36 ha, tập trung vào các dự án công nghệ thông tin, và KCN hỗ trợ Nam Hà Nội giai đoạn I với diện tích 72 ha, đang được xây dựng hạ tầng để thu hút các dự án đầu tư trong ngành công nghiệp phụ trợ.
Các khu công nghiệp (KCN) Hà Nội đóng góp hơn 40% giá trị sản xuất công nghiệp, chiếm trên 45% kim ngạch xuất khẩu và 20% GDP của thành phố, đồng thời tạo việc làm cho hơn 100.000 lao động.
Năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới và Việt Nam gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải giảm quy mô hoặc tạm ngừng sản xuất, nhưng các khu công nghiệp (KCN) tại Hà Nội vẫn thu hút đầu tư mạnh mẽ Ban Quản lý các KCN Hà Nội đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư mới cho 21 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 340,2 triệu USD, đồng thời điều chỉnh tăng vốn cho 27 dự án với vốn đầu tư tăng thêm 175 triệu USD Tổng vốn đăng ký đầu tư FDI trong năm 2012 ghi nhận sự khả quan.
515 triệu USD, tăng 268% so với năm 2011.
Tính đến hết tháng 12/2012, Việt Nam đã thu hút 276 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt 4,236 tỷ USD, trong đó có 250 dự án đã đi vào hoạt động, mang lại doanh thu trên 3 tỷ USD mỗi năm.
Các dự án FDI vào các khu công nghiệp Hà Nội chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, cơ khí và điện tử Những ngành này phù hợp với nhu cầu phát triển công nghiệp của thành phố, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Thủ đô sớm hơn từ 1 đến 2 năm theo Nghị quyết của Bộ Chính trị.
Hà Nội hiện có 18 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư với Nhật Bản dẫn đầu, chiếm 64% tổng vốn đăng ký Các quốc gia khác như Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông đóng góp 14,8%, trong khi Hàn Quốc chiếm 9% tổng vốn FDI Nhiều dự án lớn với vốn đầu tư từ 100 triệu đến hơn 300 triệu USD đã được triển khai, sử dụng công nghệ cao từ các công ty Nhật Bản như Canon, Panasonic, Yamaha, Meiko và Terumo Vốn đầu tư bình quân đạt 15,5 triệu USD mỗi dự án và 6 triệu USD mỗi hecta.
Cơ cấu ngành theo quy mô vốn đầu tư các dự án FDI tại Hà Nội cho thấy ngành công nghiệp điện tử chiếm 65%, cơ khí chế tạo 20%, và các ngành công nghiệp khác chiếm 15% Đến hết quý I/2013, các khu công nghiệp Hà Nội đã thu hút 532 dự án với tổng vốn đăng ký gần 11.000 tỷ đồng và hơn 4,2 tỷ USD, trong đó có 250 dự án trong nước và 282 dự án FDI Những kết quả này đạt được nhờ vào nhiều nguyên nhân khác nhau.
1.9.1.1 Sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo TP
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội khẳng định cam kết đồng hành và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn và phát triển sản xuất - kinh doanh Trong năm 2013, thành phố sẽ tiếp tục ưu đãi về tiền thuê đất, đơn giản hóa thủ tục vay vốn và tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư.
50 tỷ đồng cho công tác xúc tiến thương mại và 100 tỷ đồng từ ngân sách để hỗ trợ lãi suất
Hà Nội đã thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ và Chương trình hành động số 22/CTr-UBND ngày 29/01/2013 nhằm tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất - kinh doanh Để đạt được mục tiêu này, thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo và thiết lập đường dây nóng hỗ trợ doanh nghiệp.
DN Trong khoảng 5-7 ngày làm việc( kể từ khi nhận được kiến nghị của
Các sở - ngành thành viên Ban chỉ đạo có trách nhiệm cung cấp thông tin và trả lời các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình hoặc chuyển giao cho cơ quan có chức năng giải quyết Hàng tháng, Ban chỉ đạo tổ chức họp giao ban, hội nghị, và gặp gỡ doanh nghiệp để giải quyết công việc theo chuyên đề Sở Kế hoạch Đầu tư chủ trì việc đôn đốc và tổng hợp báo cáo từ các nhóm công tác để chuẩn bị nội dung cho cuộc họp, đảm bảo báo cáo phản ánh chính xác tình hình khảo sát doanh nghiệp, quá trình tiếp nhận và xử lý kết quả, cũng như kiến nghị từ các bên liên quan Kết quả thực hiện các nhiệm vụ được phân công và kế hoạch triển khai trong thời gian tới cũng sẽ được cập nhật trong các cuộc họp này.
Ban chỉ đạo tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất - kinh doanh được chia thành 6 nhóm công tác chính Nhóm đầu tiên tập trung vào xúc tiến đầu tư và các dự án xây dựng cơ bản, với Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư làm trưởng nhóm Nhóm thứ hai liên quan đến tài chính, hỗ trợ vốn vay và lãi suất đầu tư, do Giám đốc Sở Tài chính dẫn dắt Nhóm thứ ba xử lý tín dụng, lãi suất và nợ xấu, do Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Hà Nội chủ trì Nhóm thứ tư tập trung vào công tác thuế, do Cục trưởng Cục Thuế Hà Nội phụ trách Nhóm thứ năm giải quyết khó khăn trong thị trường bất động sản, do Phó Giám đốc Sở Xây dựng đứng đầu Cuối cùng, nhóm thứ sáu hỗ trợ thị trường, giải quyết hàng tồn kho và giảm chi phí sản xuất, do Phó Giám đốc Sở Công thương chủ trì.
1.9.1.2.Đổi mới phương pháp XTĐT.
BQL các KCN Hà Nội đã thành lập Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, phối hợp với các thương vụ tại nước ngoài để tìm kiếm các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là những nhà đầu tư tiềm năng về tài chính và công nghệ Mục tiêu là thu hút các tập đoàn đa quốc gia từ châu Âu, châu Mỹ và các nước phát triển như Intel, Microsoft, Braun, ExxonMobil, Toyota, Honda, và Sony đầu tư vào các KCN Đồng thời, Trung tâm cũng sẽ giới thiệu tiềm năng phát triển của khu công nghiệp.
Hà Nội đã triển khai nhiều cơ chế và chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính và hạ tầng cơ sở trong quá trình triển khai dự án Thành phố cũng khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua các ưu đãi đặc biệt Đồng thời, Hà Nội tập trung nguồn lực để đầu tư và nâng cấp các công trình hạ tầng, sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, nhằm phát triển đồng bộ và bền vững cho các khu công nghiệp.
1.9.1.3.Không ngừng cải thiện môi trường đầu tư.
Thành phố xác định: Những yếu tố hấp dẫn thu hút đầu tư vào các KCN
Hà Nội không còn giữ vị thế cạnh tranh như trước, và nhà đầu tư hiện đang mong chờ những cải cách trong thủ tục hành chính, từ việc xin đất đến cấp phép đầu tư và quá trình hoạt động sau này Các yếu tố hấp dẫn để thu hút doanh nghiệp vào các khu công nghiệp Hà Nội hiện nay bao gồm nguồn nhân lực chất lượng cao, dịch vụ hỗ trợ tốt, cùng với vị trí địa lý và đặc thù kinh tế - xã hội của thủ đô.