Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược quan trọng, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng, phương pháp và phong cách của Người Ông không chỉ là người thiết kế mà còn là người thực hành mẫu mực cho sự đoàn kết, trở thành biểu tượng và linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa nhân văn và truyền thống yêu nước, thể hiện sự vị tha, lòng nhân ái và niềm tin mãnh liệt vào con người Người không chỉ kêu gọi sự đoàn kết mà còn cảm hóa và tập hợp mọi người bằng tấm lòng trung với nước, hiếu với dân, và cuộc sống cần, kiệm, liêm, chính Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng sự giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó không thể chuyển lay, và quyền uy không thể khuất phục Suốt cuộc đời, Người chỉ có một khát vọng lớn lao là đưa đất nước đến độc lập hoàn toàn, dân tộc được tự do, và mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, cùng cơ hội học hành.
Sự thống nhất giữa tư tưởng, hành động, đạo đức và nhân cách của Hồ Chí Minh đã biến đại đoàn kết toàn dân tộc từ một khẩu hiệu thành động lực thực sự, quy tụ sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc được xem là chiến lược cốt lõi của cách mạng, vì chỉ có đại đoàn kết mới giúp dân tộc chiến thắng kẻ thù và thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu Đoàn kết này không phân biệt ai, miễn là người Việt Nam yêu nước và chống đế quốc Đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là một thủ đoạn chính trị tạm thời mà là một vấn đề chiến lược lâu dài, quyết định thành bại của cách mạng Mặc dù phương pháp và tổ chức có thể thay đổi theo từng giai đoạn cách mạng, nhưng đại đoàn kết là chiến lược không thể thay đổi Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là tập hợp lực lượng cách mạng mà còn là một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược, giúp xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân lao động, từ đó huy động sức mạnh to lớn cho sự nghiệp chung.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và đại đoàn kết phải dựa trên sự đồng tâm nhất trí của mọi người trong xã hội Đoàn kết được xây dựng trên sự giác ngộ về mục đích chung, cùng nhau tranh đấu cho độc lập tự do của dân tộc, với sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng Cuộc sống và số phận của mỗi cá nhân, gia đình, và tập thể đều gắn liền với số phận chung của cộng đồng Khi lý tưởng và mục đích chung được giác ngộ, mỗi người sẽ tự nguyện gắn bó với dân tộc, cùng nhau phấn đấu và hy sinh cho thắng lợi của sự nghiệp Do đó, đoàn kết toàn dân tộc trở thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc đấu tranh tự giải phóng Như Người đã nói: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân.”
Đoàn kết toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh không chỉ quan trọng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Ông nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất, đòi hỏi xây dựng một xã hội hoàn toàn mới Để đạt được điều này, cần phải đoàn kết đại đa số nhân dân, chủ yếu là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác Ngay cả giai cấp tư sản dân tộc, Hồ Chí Minh cũng xem họ là thành viên của dân tộc, cần được cải tạo hòa bình nhằm bảo vệ và xây dựng đất nước.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và nội dung phong phú, thể hiện chiến lược quan trọng nhằm xây dựng sự đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân.
Hồ Chí Minh là tập hợp các luận điểm, nguyên tắc và phương pháp giáo dục nhằm tổ chức và hướng dẫn hành động của lực lượng cách mạng Mục tiêu là phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc thể hiện tư duy độc lập, tự chủ của Người, kế thừa truyền thống đoàn kết dân tộc và tiếp thu tư tưởng cách mạng từ cả phương Đông và phương Tây Ông nhấn mạnh rằng giải phóng dân tộc là điều kiện tiên quyết để giải phóng giai cấp, và chỉ có thể trông vào sức mạnh của chính mình để đạt được điều đó Đối với cách mạng Việt Nam, chiến thắng chỉ có thể đạt được khi dựa vào lực lượng cách mạng to lớn của toàn dân, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các tổ chức cách mạng như Thanh niên, Phụ nữ, và Công đoàn đã hình thành, trong đó Mặt trận Thống nhất dân tộc được đề cập trong Chỉ thị ngày 18-11-1930 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Điều này chứng tỏ đường lối tập hợp rộng rãi lực lượng của các tầng lớp nhân dân nhằm đấu tranh giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.
Vào tháng 2 năm 1941, Hồ Chí Minh trở về nước, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp và Nhật nhằm giành độc lập cho dân tộc Việt Nam Trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động, việc nắm bắt thời cơ là rất quan trọng để tránh cho dân tộc Việt Nam phải chịu kiếp nô lệ Ông đã sáng lập Mặt trận Việt Minh, kêu gọi mọi tầng lớp xã hội, từ thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi đến binh lính và sĩ phu, tập hợp dưới ngọn cờ độc lập tự do để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, từ đó thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước của toàn dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối mặt với sự bao vây và tấn công từ các thế lực đế quốc và phản động Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã tập trung mọi nỗ lực vào việc vận động nhân dân chống lại giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm để bảo vệ chính quyền Khẩu hiệu chiến lược lúc bấy giờ là "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết" Hội Liên hiệp Quốc dân được thành lập, thể hiện sự thống nhất dân tộc như một vũ khí sắc bén để đối phó với kẻ thù.
Hồ Chí Minh đã xây dựng nền tảng vững chắc cho việc đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nhấn mạnh vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội, dân tộc, tôn giáo và cá nhân tiêu biểu trong tinh thần đoàn kết trong cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước Ông khẳng định rằng mọi người Việt Nam đều có lòng yêu nước hướng về cội nguồn dân tộc Nhờ đó, Người đã phát hiện, động viên và hướng dẫn nhân dân về chính nghĩa, phát huy những điều tốt đẹp và hạn chế những bất đồng Sự tham gia của các nhân sĩ tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, cùng với các thủ lĩnh và trí thức tài giỏi đã góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, chính quyền nhân dân được thiết lập,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tạo nền tảng cho công tác dân vận Ông khẳng định rằng nước ta là nước dân chủ, mọi lợi ích và quyền hạn đều thuộc về dân Công việc đổi mới và xây dựng đất nước là trách nhiệm của toàn dân, trong khi sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc cũng là nhiệm vụ của nhân dân.
Người đề cập đến Đảng và các đoàn thể quần chúng, nhấn mạnh rằng hệ thống chính trị phải mang bản chất của dân, do dân và vì dân Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cán bộ gần gũi với nhân dân, xuất phát từ lợi ích của họ, đồng thời chỉ ra những biểu hiện tham nhũng và sa đoạ của một số cán bộ Ông coi đây là một dạng giặc "nội xâm", nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm.
Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập hợp vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993)
Vào ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ban hành Chỉ thị về việc thành lập "Hội Phản đế đồng minh" Chỉ thị nhấn mạnh rằng giai cấp vô sản cần lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương, nhưng nếu không tổ chức được toàn dân thành một lực lượng đông đảo và kiên cố, thì khả năng thành công của cuộc cách mạng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Chỉ thị ra đời trong bối cảnh cao trào cách mạng sôi nổi, đặc biệt là Xô Viết Nghệ Tĩnh, thể hiện ý thức phản đế mạnh mẽ trong nhân dân, bao gồm trí thức, sĩ phu, phú nông và tiểu địa chủ Tổ chức Hội Phản đế Đồng Minh trở thành nhiệm vụ khẩn cấp của Đảng, phản ánh quan điểm và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Đây là một văn kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự hình thành của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam Với tầm quan trọng đó, ngày 18-11-1930 được ghi nhận là ngày truyền thống lịch sử của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Việc thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội là yêu cầu khách quan trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tại Việt Nam Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng đắn về việc huy động sức mạnh toàn dân trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức và bóc lột, hướng tới xây dựng một xã hội mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các hình thức tập hợp và vận động nhân dân được điều chỉnh theo bối cảnh cụ thể của cách mạng, nhưng vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu Trong giai đoạn vận động dân chủ (1936-1939), Đảng đã đưa ra chủ trương mới nhằm tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, chống lại phản động thuộc địa, đòi hỏi hòa bình và quyền dân chủ Để thực hiện nhiệm vụ này, Đảng đã chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, sau đó đổi thành Mặt trận dân chủ thống nhất, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ này.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến nhân dân Đông Dương phải chịu áp bức từ cả thực dân Pháp và phát xít Nhật, đẩy vận mệnh các dân tộc vào tình thế nguy nan Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thay đổi chiến lược, xác định cách mạng giải phóng dân tộc là mục tiêu hàng đầu, kêu gọi toàn thể nhân dân, không phân biệt thành phần, tham gia vào Mặt trận Việt Minh để đấu tranh giành độc lập Chính nhờ vào chính sách đoàn kết rộng rãi và sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám đã thành công, dẫn đến việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Trong giai đoạn kháng chiến từ 1946 đến 1954, Hội Liên Việt được thành lập và vào năm 1951, Việt Minh và Hội Liên Việt đã hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh sức mạnh của đại đoàn kết và tiềm năng to lớn của nó, khẳng định rằng "hôm nay, rừng cây đại đoàn kết đã nở hoa kết quả, với gốc rễ ăn sâu và lan rộng khắp toàn dân, mở ra một tương lai tươi sáng."
Hồ Chí Minh khẳng định niềm vui trước sự phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng mặt trận trong tương lai Điều này thể hiện vai trò quan trọng của Mặt trận trong việc cổ vũ và động viên nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tạo nên sức sống mãnh liệt cho đất nước.
"Trường Xuân Bất Lão" thể hiện tinh thần đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, giúp nhân dân ta kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương và hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Năm 1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập theo yêu cầu mới của cách mạng, thay thế cho Mặt trận Liên Việt Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng một mặt trận nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi sẽ là lực lượng tất thắng trong sự nghiệp giải phóng miền Nam Hiện tại, miền Nam có Mặt trận Dân tộc giải phóng với chương trình hành động phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, điều này cho thấy đồng bào miền Nam sẽ đạt được thắng lợi, góp phần vào sự thống nhất đất nước Tại miền Bắc, sự đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tại miền Nam trong Mặt trận Dân tộc giải phóng thể hiện quyết tâm thực hiện lời di chúc của Hồ Chí Minh, đánh bại Mỹ và chính quyền ngụy, đưa đất nước về một mối Sau khi thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã dẫn dắt toàn dân vào thời kỳ thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định vị trí, vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định rõ ràng trong Điều 9 của Hiến pháp năm 1992 Mặt trận Tổ quốc không chỉ là tổ chức chính trị - xã hội quan trọng mà còn đóng vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính quyền nhân dân Mặt trận không chỉ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân mà còn tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong cộng đồng Đồng thời, Mặt trận tham gia củng cố chính quyền, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân và khuyến khích người dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm túc thi hành Hiến pháp.
Pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà nước [28, tr.66]
Quán triệt các quan điểm và nghị quyết, đặc biệt là thực hiện các quy định của Hiến pháp, là nhiệm vụ quan trọng trong công tác mặt trận trong thời kỳ đổi mới Mặt trận cần tập trung vào việc nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động, đồng thời đẩy mạnh sự đoàn kết và phát huy sức mạnh của toàn dân.
Tổ quốc Việt Nam thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1977, các đại hội tiếp theo như Đại hội II (1983), Đại hội III (1988) và Đại hội IV đã khẳng định vai trò và sự phát triển của Mặt trận trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm 1994 đánh dấu sự trưởng thành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức này không ngừng phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân Mặt trận đã đổi mới phương thức tổ chức hoạt động, khuyến khích tinh thần yêu nước và sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân Qua các cuộc vận động và phong trào thi đua yêu nước, Mặt trận góp phần xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong bối cảnh Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, đã lãnh đạo dân tộc giành những thắng lợi to lớn với sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp Để phát triển, Đảng cần tự đổi mới, nâng cao năng lực và sức chiến đấu, đồng thời phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại các hiện tượng tiêu cực như quan liêu, tham nhũng và thoái hóa, nhằm giữ vững lòng tin của nhân dân Hồ Chí Minh nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cho rằng Đảng không yêu cầu Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo mà phải chứng tỏ là bộ phận trung thành và chân thực nhất Chỉ khi quần chúng công nhận chính sách và năng lực lãnh đạo của Đảng, Đảng mới có thể khẳng định vị trí lãnh đạo của mình.
Những chủ trương và biện pháp của Đảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới, chiều sâu mới (1993-2003) 20 1 Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 2003-2007 56 2.1 Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc (2003-2007)
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ 75 3.1 Một số nhận xét tổng quát về sự lãnh đạo của Đảng
Những ưu điểm và hạn chế
3.2.1 Những ưu điểm Một là, đất nước Việt Nam hiện nay đoàn kết và ổn định, nhân dân cả nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đồng tình ủng hộ đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng chủ nghĩa xã hội Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo ủng hộ đường lối đổi mới, tham gia có hiệu quả các phong trào thi đua lao động sản xuất, xoá đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa ; đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, thiếu kỷ cương; đã phát hiện và xử lý một số vụ tham ô, hối lộ, buôn lậu và những vụ việc tiêu cực khác, được dư luận nhân dân đồng tình
Khối liên minh công - nông - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục được củng cố vững chắc Sự gắn bó này thể hiện qua niềm tin của nông dân và trí thức vào đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện công cuộc đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng chú trọng đến việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ở cơ sở và trong lĩnh vực kinh tế, tôn trọng các ý kiến khác nhau miễn là không trái với lợi ích chung Không khí dân chủ trong xã hội đã có những bước tiến đáng kể, với các phương tiện thông tin đại chúng nỗ lực phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân Sinh hoạt dân chủ tại các cơ quan dân cử như Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã có nhiều cải thiện, cùng với việc xem xét và giải quyết nhiều kiến nghị chính đáng của người dân.
Thông qua các phong trào và chính sách đền ơn đáp nghĩa, các tầng lớp nhân dân, đồng bào theo đạo và các dân tộc thiểu số đã thể hiện sự đoàn kết mạnh mẽ Trong những lúc khó khăn, người dân ở nhiều nơi đã hỗ trợ lẫn nhau, giúp đỡ những người gặp rủi ro, người già cô đơn, trẻ em lang thang, bệnh nhân hiểm nghèo và những người bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam trong chiến tranh.
Nhiều chính sách mới đã được ban hành nhằm phát huy các thành phần kinh tế và tháo gỡ khó khăn, khuyến khích đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước tham gia tích cực Những chủ trương này không chỉ củng cố khối đoàn kết giữa các tôn giáo và dân tộc mà còn thúc đẩy lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới tại khu dân cư và gia đình văn hóa Mục tiêu là phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, chống tiêu cực, phòng chống tội phạm và HIV/AIDS.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tạo điều kiện cho những người từng làm việc dưới chế độ Sài Gòn cũ, cũng như những người đã chống đối, trở về thăm quê và tham gia phát triển kinh tế Chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc đã giúp nhiều người, tùy theo năng lực, tham gia vào các tổ chức chính trị-xã hội Chính sách đối với họ trở nên thông thoáng hơn, tạo cơ hội đoàn tụ gia đình sau nhiều năm xa cách Nhờ đó, đời sống của họ ổn định hơn, sự phân biệt và mặc cảm cũng giảm dần.
Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách trong việc đề ra các chủ trương và chính sách liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại Những đổi mới này nhằm giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong xã hội và từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân, từ đó động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chính sách kinh tế đa thành phần nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ toàn dân, nhờ vào sự ra đời của Luật doanh nghiệp cùng với các chính sách và pháp luật kinh tế đổi mới Những biện pháp này đã phát huy tiềm năng của người dân, giảm bớt khó khăn trong sản xuất và đời sống, đồng thời góp phần củng cố khối đoàn kết trong cộng đồng.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, các chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước trong những năm gần đây đã thúc đẩy sự đoàn kết trong xã hội Đảng và Mặt trận tiếp tục thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, công nhận tôn giáo là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của một bộ phận dân cư Sự tương đồng giữa đạo đức và xây dựng cuộc sống mới đã nhận được sự đồng tình từ đa số đồng bào có đạo.
Chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều cải cách đáng kể, như việc Chính phủ ban hành Quy chế miễn thị thực và cho phép mua nhà tại Việt Nam, được cộng đồng người Việt ở nước ngoài đón nhận nồng nhiệt Nhiều cá nhân tiêu biểu trong cộng đồng đã tham gia vào Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thể hiện tinh thần cống hiến và những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.
Các chính sách an sinh xã hội như tiền lương, tiền thưởng, xoá đói giảm nghèo, và đền ơn đáp nghĩa đã có nhiều cải cách và đạt được kết quả tích cực ở nhiều địa phương Đồng thời, các chính sách giáo dục và y tế cũng đã có những đổi mới, với sự tiến bộ trong việc phổ cập giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Nhà nước và các cấp, ngành luôn coi trọng việc thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, nhằm động viên các gia đình có công với nước.
Công tác đối ngoại của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể quần chúng trong những năm qua đã thu hút sự ủng hộ từ nhiều quốc gia, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế Điều này đã góp phần tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã nỗ lực thực hiện nhiều chủ trương để củng cố chính quyền và làm trong sạch bộ máy nhà nước, từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân Những hoạt động này đã góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị xã hội và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế Việc ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở đã mang lại những kết quả thiết thực, giúp quản lý xã hội hiệu quả hơn trong công cuộc đổi mới đất nước.
Việc tập hợp quần chúng thông qua các tổ chức và phong trào đã có những bước phát triển mới, với sự gia tăng đáng kể về số lượng các tổ chức thành viên của Mặt trận Các hội quần chúng trở nên phong phú và đa dạng hơn, nhiều tổ chức có mục tiêu rõ ràng và hoạt động thiết thực, góp phần động viên quần chúng và tăng cường sự đoàn kết trong cộng đồng Những nỗ lực này không chỉ hỗ trợ việc thực hiện các chính sách, mà còn thúc đẩy các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Các phong trào và cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc, các ngành và địa phương phát động đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia, thể hiện tính toàn dân và thiết thực Những hoạt động này không chỉ giáo dục và tập hợp cộng đồng mà còn động viên mọi người tăng cường đoàn kết và giúp đỡ nhau trong cuộc sống, đặc biệt trong những lúc khó khăn Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” và “Ngày vì người nghèo” mang lại ý nghĩa chính trị và kinh tế sâu rộng, với phương châm “lấy sức dân mà xây dựng cuộc sống cho dân”.
Sự thành công của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng truyền thống đoàn kết của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước Truyền thống này không chỉ là tài sản quý báu mà còn là bản sắc văn hóa Việt Nam, được gìn giữ và truyền lại qua các thế hệ.
Đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước
3.4.1 Đại đoàn kết toàn dân tộc trước yêu cầu phát triển mới của đất nước Đại đoàn kết toàn dân tộc đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo nhiệm vụ cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đã khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại khi mà yếu tố dân tộc trở thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng
Đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến lược cốt lõi của cách mạng Việt Nam, đóng vai trò quyết định trong việc bảo đảm thắng lợi bền vững cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Mục tiêu của đường lối này là giữ vững độc lập và thống nhất, vì một dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Đảng Cộng sản Việt Nam khuyến khích sự tôn trọng ý kiến khác nhau, đồng thời đề cao truyền thống nhân nghĩa và khoan dung để tạo ra sự đồng thuận xã hội Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm chung của toàn dân và hệ thống chính trị, với Đảng là hạt nhân lãnh đạo Việc thực hiện các chính sách và pháp luật hợp lòng dân, cùng với vai trò gương mẫu của cán bộ, công chức, đảng viên, là yếu tố quan trọng để củng cố lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Đảng đã đề ra các chủ trương cụ thể để thực hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp và đoàn kết các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc thiểu số, tôn giáo và kiều bào Mỗi tầng lớp có yêu cầu và nguyện vọng riêng, do đó, Đảng và Nhà nước xây dựng chính sách sát với từng tầng lớp nhằm động viên mọi nguồn lực của người Việt Nam yêu nước trong phát triển đất nước Để đoàn kết các tầng lớp khác nhau, cần có chính sách đáp ứng lợi ích của từng giai tầng, thỏa mãn yêu cầu chính đáng và hợp pháp, kết hợp hài hòa lợi ích chung của đất nước với lợi ích riêng của cá nhân và tập thể.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nhiệm vụ chủ yếu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra Trong những năm qua, Đảng đã nỗ lực đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp và tầng lớp nhân dân, tạo sự gắn kết giữa mọi giới, lứa tuổi và vùng miền, bao gồm cả những người trong Đảng và ngoài Đảng, cũng như người đang công tác và nghỉ hưu Sự đoàn kết này đã giúp Việt Nam duy trì ổn định, củng cố đồng thuận xã hội và tạo ra những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới suốt hơn 20 năm qua.
Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tầm quan trọng của đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Đây là chiến lược cốt lõi của cách mạng Việt Nam, đóng vai trò là nguồn sức mạnh và động lực chính trong việc bảo đảm thắng lợi bền vững cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với mục tiêu giữ vững độc lập và thống nhất.
Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là nền tảng gắn kết các dân tộc, tôn giáo và tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, xóa bỏ định kiến và phân biệt đối xử Đại đoàn kết là nhiệm vụ của toàn dân tộc, với sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, thông qua các chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương xã hội Đảng Cộng sản Việt Nam coi vấn đề đoàn kết các dân tộc là chiến lược lâu dài, khẳng định sự bình đẳng và hỗ trợ lẫn nhau giữa các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam Đồng thời, Đảng thực hiện chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ, bảo vệ lợi ích chung của đất nước.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố then chốt trong sự nghiệp đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện quyết tâm vững vàng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong Đại hội X của Đảng.
3.4.2 Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị quan trọng, đóng vai trò trong việc đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân và đại diện cho quyền lợi hợp pháp của họ Trong 78 năm phát triển, Mặt trận đã chứng minh vai trò thiết yếu của mình trong việc kết nối nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam Sự quan trọng này được quy định trong Hiến pháp và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một liên minh chính trị tự nguyện, bao gồm các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu từ nhiều giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, cũng như người Việt Nam ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Đây là nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đồng thời tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của người dân Mặt trận đóng vai trò hiệp thương và thống nhất hành động giữa các thành viên, góp phần bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ Để thực hiện tốt chức năng của mình, Mặt trận đang đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và phương thức hoạt động, hướng tới hiệu quả và thiết thực, nhằm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, qua đó tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp và đoàn kết các tầng lớp nhân dân Các tổ chức này đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đồng thời chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành những hoạt động thực tiễn sinh động trong đời sống xã hội.
Nhà nước đã ban hành và bổ sung pháp luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội Các cấp ủy đảng và chính quyền cần duy trì chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến từ Mặt trận và các đoàn thể để phản ánh đến Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm Điều này góp phần tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách và pháp luật phù hợp với thực tiễn cuộc sống Việc thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là rất quan trọng trong quá trình này.
Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân cần tích cực tham gia vào việc xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Để nâng cao chất lượng hoạt động, các tổ chức này cần đổi mới mạnh mẽ, khắc phục tình trạng hành chính và hình thức, đồng thời chú trọng công tác dân vận theo phong cách gần gũi, hiểu biết và trách nhiệm với nhân dân Điều này bao gồm việc lắng nghe ý kiến của dân, truyền đạt thông tin một cách dễ hiểu và tạo niềm tin nơi cộng đồng.
Phát huy thành tựu và bài học từ Đại hội IX cùng 20 năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội X nhấn mạnh nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Mục tiêu là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển Hướng tới một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh sẽ trở thành hiện thực.
3.4.3 Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, theo chúng tôi: