1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

(LUẬN án TIẾN sĩ) hoạt động của công ty đông ấn anh ở vương quốc xiêm thế kỷ XVII

211 6 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 211
Dung lượng 4,81 MB

Cấu trúc

  • 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn sử liệu (12)
  • 5. Đóng góp của luận án (17)
  • 6. Bố cục của luận án (18)
  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU (20)
    • 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài (20)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước (25)
      • 1.2.1. Các sách nghiên cứu, báo, tạp chí (25)
      • 1.2.2. Luận văn, luận án (31)
    • 1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu (32)
      • 1.3.1. Những vấn đề các công trình nghiên cứu đã giải quyết mà luận án có thể kế thừa (32)
      • 1.3.2. Những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu (34)
  • CHƯƠNG 2. SỰ THÀNH LẬP CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH VÀ NHỮNG LIÊN HỆ ĐẦU TIÊN VỚI VƯƠNG QUỐC XIÊM ĐẦU THẾ KỶ XVII (35)
    • 2.1. Sự thành lập công ty Đông Ấn Anh năm 1600 (35)
      • 2.1.1. Nước Anh trong bối cảnh thương mại Tây Âu đến cuối thế kỷ XVI (35)
      • 2.1.2. Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh năm 1600 (48)
    • 2.2. Vương quốc Xiêm đến thế kỷ XVII (53)
      • 2.2.1. Khôi phục nền độc lập dưới thời Naresuan (1555-1605) (53)
      • 2.2.2. Vài nét về thương mại Xiêm đến thế kỷ XVII (57)
      • 2.2.3. Những mối liên hệ Anh - Xiêm đầu tiên (1587-1611) trong bối cảnh thâm nhập của người phương Tây vào Đông Nam Á (63)
  • CHƯƠNG 4. CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH Ở VƯƠNG QUỐC XIÊM: MỞ RỘNG VỊ THẾ NGOẠI GIAO VÀ THƯƠNG MẠI (1659-1682) (69)
    • 4.1. Vương quốc Xiêm dưới triều vua Narai (1656-1688): những cải cách hỗ trợ (99)
    • 4.2. Thương điếm Anh ở Vương quốc Xiêm (1659-1674) (104)
    • 4.3. Thương điếm Anh ở Vương quốc Xiêm (1674-1682) (109)
    • 4.4. Các đợt thanh tra thương điếm Anh ở Xiêm năm 1678 và 1681 (119)
  • CHƯƠNG 5. CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH Ở VƯƠNG QUỐC XIÊM (1683-1685): ÁP LỰC CẠNH TRANH VỚI PHÁP VÀ ĐÓNG CỬA THƯƠNG ĐIẾM (99)
    • 5.1. Phái đoàn Strangh và nỗ lực cứu vãn nền thương mại Anh ở vương quốc Xiêm (1683-1684) (133)
    • 5.2. Nỗ lực bất thành của Hội đồng Surat trong việc khôi phục nền thương mại Anh ở vương quốc Xiêm năm 1685 (145)
    • 5.3. Nhân tố Pháp trong quan hệ Anh-Xiêm trong thập niên 80 của thế kỷ XVII (149)
    • 5.4. Constance Phaulkon: từ hợp tác với người Anh đến bắt tay với người Pháp (152)
    • 5.5. Từ chiến tranh Xiêm - Golconda đến cuộc chiến tranh Anh-Xiêm năm 1687 (160)
  • KẾT LUẬN (169)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (176)
  • PHỤ LỤC (193)

Nội dung

Phương pháp nghiên cứu và nguồn sử liệu

Để triển khai đề tài, người viết áp dụng phương pháp lịch sử và logic, xem xét các diễn biến lịch sử từ cả hai phương diện lịch đại và đồng đại Điều này giúp làm nổi bật sự phát triển sôi động của hải thương châu Á thế kỷ XVII, bao gồm động lực, nguyên nhân và đặc tính phát triển Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như phân tích, nghiên cứu hệ thống cấu trúc và tổng hợp, nhằm đánh giá các sự kiện lịch sử một cách khách quan và toàn diện, cũng như làm rõ mối tương tác đa chiều giữa chúng.

Luận án này được xây dựng dựa trên nguồn tư liệu gốc phong phú, bao gồm các bộ biên niên sử của triều đình Xiêm, tài liệu lưu trữ của Công ty Đông Ấn Anh, cùng với nhật ký của các thương điếm Anh tại Xiêm Ngoài ra, các ghi chép và hồi ký của thương nhân, giáo sĩ phương Tây từ các nước như Anh, Pháp, Hà Lan cũng được sử dụng để phân tích đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của Xiêm trong thế kỷ XVII.

Vào năm 1767, kinh đô Ayutthaya bị người Môn cướp phá, dẫn đến việc hầu hết biên niên sử của Xiêm bị tiêu hủy Các vua triều đại Bangkok đã nỗ lực thu thập những tài liệu còn sót lại, nhưng chỉ tìm thấy bảy bản chính và một số ghi chép lẻ tẻ được xuất bản bằng tiếng Thái Vào đầu những năm 1970, học giả Richard D.Cushman đã quyết định dịch toàn bộ biên niên sử còn lại về lịch sử Ayutthaya sang tiếng Anh, với tựa đề “Royal Chronicles of ”.

Công trình "Ayutthaya" cùng với sự chỉnh sửa tỉ mỉ của David Wyatt đã trở thành một biên niên sử độc đáo về lịch sử 400 năm của người Thái Tác phẩm này được các nhà sử học đánh giá cao và xứng đáng là một tác phẩm kinh điển Đồng thời, cuốn biên niên này đóng góp quan trọng vào việc khám phá lịch sử phong phú của vương quốc Xiêm.

Các tư liệu gốc của phương Tây về hoạt động của người châu Âu ở Xiêm thế kỷ XVII rất phong phú Từ năm 1915-1921, Thư viện Vajiranana tại Bangkok đã xuất bản bộ tư liệu “Records of the Relations between Siam and Foreign Countries in the 17th century” gồm 5 tập, khai thác từ nguồn tư liệu của Công ty Đông Ấn Anh Bộ tư liệu này cung cấp thông tin đầy đủ về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm từ năm 1607-1700, bao gồm cả một số tư liệu Hà Lan được dịch sang tiếng Anh, giúp các nhà nghiên cứu có cái nhìn rõ ràng hơn Do đó, đây được coi là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu về Công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm thế kỷ XVII.

Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên bộ tư liệu gốc “Records of the

Relations between Siam and Foreign Countries in the 17 th century” do Thư viện

Vajiranana ở Bangkok chưa thể tổng hợp đầy đủ tư liệu về Công ty Đông Ấn Anh tại Xiêm thế kỷ XVII Gần đây, Anthony Farrington đã phát hiện hơn 200 tài liệu liên quan đến hoạt động của công ty này ở Ayutthaya và Xiêm, chủ yếu từ Văn Phòng Công ty Đông Ấn tại Thư viện Anh Nhờ vào những công bố trước đó và tài liệu mới, vào năm 2007, Anthony Farrington và Dhiravat na Pombeja đã xuất bản bộ tư liệu gốc phong phú về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm thế kỷ XVII với tên gọi “The English Factory in Siam.”

Bộ tư liệu “1612-1685” gồm 2 tập và chứa hơn 2.194 trang thông tin gốc về hoạt động của người Anh tại Xiêm trong thế kỷ XVII, được xem là tài liệu hoàn chỉnh nhất về Công ty Đông Ấn Anh (EIC) tại khu vực này Tài liệu chủ yếu tập trung vào hoạt động buôn bán của thương điếm EIC ở Ayutthaya, đồng thời đề cập đến các khía cạnh khác của Xiêm, đặc biệt là thương mại hoàng gia Những văn bản này không chỉ ghi lại nỗ lực thương mại của Công ty mà còn phản ánh vai trò của “thương nhân tự do” người Anh, những người thường kết nối với nhân viên thương điếm để thực hiện hoạt động tư thương, gây ảnh hưởng đến nền thương mại của Công ty tại Xiêm và phương Đông.

Ngoài hai bộ tư liệu gốc đồ sộ, các tài liệu về thương điếm ở phương Đông như Nhật Bản, Đài Loan, Ấn Độ và Trung Quốc cũng được tập hợp và công bố Sớm nhất là bộ tư liệu 6 tập do Ethel Bruce Sainsbury xuất bản từ năm 1907 đến 1922, ghi lại hoạt động của công ty Đông Ấn Anh ở châu Á từ năm 1635 đến 1663 với tựa đề “A calendar of the Court minutes, etc of the East India Company” Trong thời gian này, dựa trên các lưu trữ tại pháo đài St George (Madras, Ấn Độ), một bộ tư liệu lớn cũng đã được xuất bản.

1 Ethel Bruce Sainsbury (1907), A calendar of the court minutes, etc of the East India Company (1635-

In "A Calendar of the Court Minutes of the East India Company (1640-1643)," Vol 2, Ethel Bruce Sainsbury provides a detailed account of the court minutes, published by Oxford at the Clarendon Press in 1909 This volume includes an introduction and notes by William Foster, offering valuable insights into the operations of the East India Company during that period.

The East India Company (EIC) court minutes, spanning from 1644 to 1663, have been meticulously compiled in a series of volumes published by Oxford at the Clarendon Press These volumes, edited with introductions and notes by William Foster, include significant periods: Vol 3 covers 1644-1649, Vol 4 addresses 1650-1654, Vol 5 focuses on 1655-1659, and Vol 6 details 1660-1663 Additionally, the collection "Records of Fort St George: Letters to Fort St." contains important correspondence from EIC employees at various trading posts in the region.

Bài viết đề cập đến hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh (EIC) ở châu Á trong thế kỷ XVII, đặc biệt là thông qua bộ tư liệu đồ sộ gồm 11 tập do William Foster công bố trong hai thập niên đầu thế kỷ XX, mang tên “The English factory in India” Bộ tư liệu này cung cấp ghi chép chi tiết về hoạt động của EIC tại Ấn Độ trong thế kỷ XVII.

Năm 1991, Anthony Farrington đã biên soạn và xuất bản công trình “The English Factory in Japan, 1613-1623” nhằm cung cấp đầy đủ thông tin về sự hình thành và hoạt động của các thương nhân Anh tại Nhật Bản trong giai đoạn này.

Tài liệu quý giá này cung cấp cái nhìn sâu sắc về hoạt động ngắn ngủi của EIC ở Nhật Bản và lý do dẫn đến thất bại của họ ở châu Á trong hai thập niên đầu thế kỷ XVII Chang Hsui-jung đã biên soạn bộ tư liệu 800 trang, ghi lại những thông tin quan trọng về sự hiện diện của EIC tại Đài Loan trong hơn một thập kỷ cuối thế kỷ XVII Đối với hoạt động của người Anh ở Trung Quốc, bộ tư liệu gốc gồm 5 tập do H.B More xuất bản từ 1926-1929 phản ánh nỗ lực của EIC trong việc thiết lập quan hệ buôn bán với thị trường Trung Quốc Những bộ tư liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ quá trình phát triển của EIC tại châu Á.

The "Records of Fort St George" encompass a series of letters dating from 1681 to 1684, published by the Superintendent Government of Madras in 1916 This collection includes two volumes: the first volume features letters from 1681-1682, while the second volume contains correspondence from 1682 These historical documents provide valuable insights into the operations and communications of Fort St George during its early years.

1685, Vol.3, Printed by the Superintendent Government, Madras, 1917; Records of Fort St.George: Letters to Fort St George, 1699-1700, Vol.7, Printed by the Superintendent Government, Madras, 1921

3 William Foster (1909 - 1922), The English factory in India (1618-1621), Vol.1-11, Oxford at Clarendon

4 Anthony Farrington (1991), The English Factory in Japan, 1613-1623 (2 Vol), The British Library Press

5 H.B.Morse (2000), Britain and the China Trade (1635-1834) The Chronicles of the East India Company

Từ năm 1635 đến 1834, cuốn sách "Thương mại với Trung Quốc" (Tập 1-5) do Patrick Tuck biên soạn và giới thiệu mới, khám phá mạng lưới thương mại nội Á của Công ty Đông Ấn Anh trong thế kỷ XVII Qua việc nghiên cứu các thương điếm châu Á của EIC, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về chiến lược và đặc điểm hoạt động thương mại của công ty này, đồng thời xác định vị trí của Xiêm trong mối quan hệ tổng thể giữa các địa điểm thương mại.

Đóng góp của luận án

Thế kỷ XVII được coi là thời kỳ "hoàng kim" của vương quốc Xiêm trong lĩnh vực ngoại thương, khi vương quốc này tích cực tham gia vào mạng lưới thương mại rộng lớn từ Nhật Bản đến Ba Tư, đặc biệt là qua các tương tác với các thế lực hàng hải phương Tây Nghiên cứu về sự thâm nhập và hoạt động của các công ty hàng hải phương Tây, đặc biệt là công ty Đông Ấn Anh, tại Xiêm trong thế kỷ XVII giúp làm sáng tỏ bức tranh kinh tế, xã hội và chính trị của quốc gia này trong bối cảnh biến động khu vực và quốc tế.

Công ty Đông Ấn Anh, một trong những thế lực hàng hải hàng đầu của Tây Âu thế kỷ XVII, đang nỗ lực thiết lập mạng lưới thương mại rộng khắp ở các quốc gia phương Đông Hoạt động của EIC tại Xiêm trong thế kỷ XVII không chỉ phản ánh những đặc điểm của thương nhân Anh ở châu Á mà còn cho thấy điều kiện chính trị và thương mại tại vương quốc Xiêm, đặc biệt là trong bối cảnh các quốc gia có nền hải thương phát triển, như hệ thống quản lý độc quyền hoàng gia và sự kiểm soát ngoại thương của triều đình.

Luận án cung cấp cái nhìn toàn diện về lịch sử Xiêm trong thế kỷ XVII, nhấn mạnh sự tương tác với người phương Tây đã định hình nhiều đặc tính của xã hội Thái Đặc biệt, người Thái đã xây dựng một chính sách cởi mở và linh hoạt để cân bằng sức mạnh của các cường quốc phương Tây trong bối cảnh chuyển sang chính sách thực dân vào thế kỷ XVIII-XIX.

Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 5 chương

Chương 1 trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến sự phát triển của các mối quan hệ thương mại và chính trị trong khu vực Chương 2 khám phá sự thành lập của Công ty Đông Ấn Anh và những mối liên hệ đầu tiên với vương quốc Xiêm vào đầu thế kỷ XVII, nhấn mạnh vai trò quan trọng của công ty trong việc thiết lập các mối quan hệ thương mại và ảnh hưởng đến chính trị khu vực.

Vào năm 1600, Công ty Đông Ấn Anh ra đời do nhiều nguyên nhân và điều kiện lịch sử quan trọng Đầu thế kỷ XVII, vương quốc Xiêm đã giành được độc lập từ Miến Điện và bắt đầu công cuộc tái thiết đất nước, mở rộng quan hệ ngoại giao và thương mại với các quốc gia khác Trong bối cảnh này, mối liên hệ đầu tiên giữa Anh và Xiêm đã hình thành, đánh dấu sự khởi đầu của các hoạt động giao thương và hợp tác giữa hai quốc gia.

Chương 3: Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm: thời kỳ thử nghiệm (1612-1623)

Vào năm 1612, Công ty Đông Ấn Anh (EIC) chính thức thiết lập quan hệ thương mại với vương quốc Xiêm, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hoạt động thương mại của công ty EIC đã tiến hành thăm dò và mở rộng quan hệ thương mại tại nhiều địa điểm như Nhật Bản, Cao Miên, và Đàng Trong, với nỗ lực đáng kể trong việc thiết lập cầu thương mại giữa Xiêm và Nhật Bản Tuy nhiên, đến năm 1623, do gặp phải nhiều khó khăn trong hoạt động, chủ yếu là sự cạnh tranh khốc liệt từ Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), EIC đã quyết định đóng cửa các thương điếm tại Patani, Ayutthaya và Nhật Bản.

Chương 4: Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm: mở rộng vị thế ngoại giao và thương mại (1659-1682)

Dưới thời vua Narai (1656-1688), bối cảnh kinh tế - xã hội của Xiêm diễn ra sôi động với sự tái thâm nhập của nhân viên Công ty Đông Ấn Anh vào các năm 1659 và 1661 Sự kết nối giữa các nhân viên Công ty và các thương nhân tự do (Interloper) đã gây thiệt hại cho Công ty Đông Ấn Anh (EIC) Đặc biệt, sau vụ cháy thương điếm của EIC ở Xiêm, Ban Giám đốc đã phải cử người đến thanh tra thương điếm Ayutthaya vào các năm 1678 và 1681, nhưng không đạt được kết quả cụ thể nào.

Chương 5: Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm: Áp lực cạnh tranh với Pháp và đóng cửa thương điếm (1683-1688)

Trong giai đoạn 1683-1684, công ty Đông Ấn Anh đã nỗ lực cứu vãn nền thương mại tại vương quốc Xiêm khi mối quan hệ Anh - Xiêm đang có nguy cơ rạn nứt Sự xuất hiện của Pháp vào thập niên 80 của thế kỷ XVII đã tạo ra những biến chuyển quan trọng trong mối quan hệ này Constance Phaulkon, một nhân vật nổi bật, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách đối ngoại của triều đình Narai, đóng vai trò then chốt trong việc định hình quan hệ giữa hai quốc gia Cuộc chiến tranh Anh - Xiêm bùng nổ vào năm 1687 xuất phát từ nhiều nguyên nhân phức tạp, trong đó có sự cạnh tranh thương mại và chính trị giữa các cường quốc châu Âu tại khu vực.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Nghiên cứu về Công ty Đông Ấn Anh ở Đông Á không phải là một chủ đề mới trong sử học quốc tế, với sự quan tâm từ nhiều thế hệ sử gia phương Tây từ đầu thế kỷ XX Công ty này, tiền thân của hệ thống chính quyền thuộc địa Anh, đã có vai trò quan trọng trong thương mại với Trung Quốc, dẫn đến nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ Anh-Hoa trong nửa đầu thế kỷ XX Tuy nhiên, nghiên cứu về hoạt động của Công ty ở Đông Nam Á còn hạn chế, với một số công trình đáng chú ý từ nhà sử học D.G.E.Hall vào thập niên 30 và cuốn A History of Southeast Asia xuất bản năm 1955 Đến năm 1960, rất ít công trình chuyên sâu về hoạt động của Công ty ở Viễn Đông thế kỷ XVII, do kim ngạch buôn bán của Công ty với các quốc gia Viễn Đông, đặc biệt là Trung Quốc, còn khiêm tốn so với thế kỷ XVIII Nghiên cứu về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm sẽ giúp làm sáng tỏ thêm lịch sử thâm nhập của Công ty vào Đông Á và Đông Nam Á.

Trong thế kỷ XVII, vương quốc Xiêm có mối quan hệ đáng chú ý với các thế lực hàng hải phương Tây, đặc biệt là qua nghiên cứu "English Intercourse with Siam" Nghiên cứu này làm nổi bật sự giao thương và tương tác văn hóa giữa Xiêm và Anh, phản ánh sự phát triển của các mối quan hệ ngoại giao và kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa thời kỳ đó Các tài liệu lịch sử cho thấy sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai nền văn hóa, góp phần định hình chính sách đối ngoại của Xiêm trong thời kỳ này.

Cuốn sách "Seventeenth Century" của tác giả John Anderson, xuất bản năm 1890, được xem là tác phẩm sớm nhất và tiêu biểu nhất về Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm trong thế kỷ XVII Dựa trên nguồn tư liệu phong phú, Anderson cung cấp cái nhìn toàn diện về quá trình hoạt động và mối quan hệ phức tạp giữa EIC và Xiêm Tuy nhiên, do ra đời hơn một thế kỷ trước, tác phẩm này không tránh khỏi những hạn chế về quan điểm sử học và thông tin, dẫn đến nhiều nhận định không chính xác Những hạn chế này đã được sử gia D.K Basset chỉ ra trong nghiên cứu của ông về EIC ở Viễn Đông Dù vậy, công trình của Anderson vẫn là một nguồn tư liệu quý giá, cung cấp cái nhìn tổng quan về hoạt động của EIC tại Xiêm Năm 1940, E.W Hutchinson đã kế thừa một phần nghiên cứu của Anderson để hoàn thành tác phẩm "Adventures in Siam".

Tác phẩm của E.W Hutchinson nghiên cứu mối quan hệ phức tạp giữa Xiêm thời vua Narai và các thế lực phương Tây, đặc biệt là Anh và Pháp, cùng với nhân vật Constance Phaulkon Nghiên cứu cũng chỉ ra cuộc cách mạng năm 1688 là bước ngoặt trong lịch sử Xiêm, đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ mở cửa và khởi đầu kỷ nguyên tự cô lập dưới triều đại Ban Phlu Luang (1688-1767), do vua Phetracha lãnh đạo Sự kiện này đã ngăn cản Xiêm theo kịp tiến bộ phương Tây trong các thế kỷ sau Mặc dù một số nhận định của Hutchinson đã bị chỉ trích, nhưng giá trị của công trình vẫn rất quan trọng trong nghiên cứu quan hệ thương mại giữa Xiêm và các nước phương Tây thế kỷ XVII.

Nghiên cứu gần đây của Dirk Vander Cruysse mang tên “Siam and the West 1500-1700” đã khai thác sâu các nguồn tư liệu từ Pháp, Anh, Hà Lan, chia thành 5 phần với 20 chương, tập trung vào quan hệ thương mại giữa Pháp và Xiêm từ thập niên 1660 đến 1680 Khác với E.W Hutchinson, người chỉ trích thái độ dân tộc chủ nghĩa của vua Xiêm sau cuộc cách mạng 1688, Vander Cruysse nhấn mạnh sự tương phản tâm lý giữa chủ nhà và khách, cùng với sự không khoan dung tôn giáo đối với người Pháp Mặc dù tác phẩm ít đề cập đến sự hiện diện của người Anh ở Xiêm, nhưng nó vẫn cung cấp cái nhìn khách quan về lịch sử Xiêm trong bối cảnh các thế lực phương Tây xâm nhập.

Nhiều nghiên cứu dựa trên tài liệu Hà Lan đã làm sáng tỏ mối quan hệ đối tác giữa châu Âu và Xiêm trong giai đoạn cận đại sơ kỳ George Smith Vinal là người tiên phong trong việc sử dụng các nguồn tư liệu này để nghiên cứu lịch sử Xiêm, đặc biệt qua tác phẩm “The Dutch in Seventeenth.”

Cuốn sách "Century Thailand" được xuất bản năm 1977, trong đó George Smith Vinal đã phân tích mối quan hệ chính trị, thương mại và xã hội giữa Hà Lan và Xiêm vào thế kỷ XVII Ông đã đưa ra những lý giải sâu sắc về thành công của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) tại Xiêm Ngoài ra, Han ten Brummelhuis cũng nghiên cứu mối quan hệ này trong thế kỷ XVII và XVIII thông qua tác phẩm "Merchant, Courtier and".

Cuốn sách "Diplomat: A History of the Contacts Between the Netherlands and Thailand", xuất bản năm 1987, chứng minh sự thích ứng xuất sắc của thương nhân Hà Lan với bối cảnh chính trị và xã hội của Xiêm Ngoài ra, nghiên cứu của Dhravat na Pombeja cũng sử dụng tư liệu lưu trữ của Hà Lan, góp phần làm nổi bật mối quan hệ giữa hai quốc gia.

History of Siam under the Prasatthong Dynasty, 1629-1688” được hoàn thành năm

8 George Smith Vinal (1977), The Dutch in Seventeenth Century Thailand, Northern Illinois University Press

9 Han ten Brummelhuis (1987), Merchant, Courtier and Diplomat: A History of the Contacts Between the Netherlands and Thailand, Uitgeversmaatschappij de Tijdstroom

Năm 1984, Dhiravat na Pombejra đã làm rõ cách người Hà Lan duy trì sự hiện diện chính trị ở Xiêm sau khi người Anh và người Pháp bị trục xuất vào thập niên 1680 Việc duy trì các hoạt động thương mại giữa Xiêm và người Hà Lan cũng như các quốc gia khác đã bác bỏ quan điểm cho rằng vương quốc này cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài sau cuộc Cách mạng 1688 Trong thế kỷ XVIII, Ayutthaya không suy tàn; ngược lại, vương quốc và triều đình Xiêm vẫn phát triển mạnh mẽ về thương mại và văn hóa.

Năm 2007, Bhawan Ruangsilp đã xuất bản một công trình tổng hợp quan trọng về mối quan hệ giữa Xiêm và Hà Lan, kế thừa những thành tựu của các nhà sử học Thái Tác phẩm có nhan đề “Dutch East India Company Merchants at the” đã góp phần làm sáng tỏ vai trò của các thương nhân thuộc Công ty Đông Ấn Hà Lan trong bối cảnh lịch sử này.

Trong giai đoạn 1604-1765, Ruangsilp đã chứng minh sự năng động và khả năng thích ứng của thương nhân VOC trước những điều kiện chính trị và xã hội phức tạp ở Xiêm, điều này là yếu tố quyết định cho sự thành công của VOC tại đây Trái ngược với các nghiên cứu về hoạt động của EIC ở vương quốc Xiêm, phần lớn các nghiên cứu của các sử gia Thái hiện nay tập trung vào mối quan hệ giữa VOC và triều đình Xiêm Mặc dù không đề cập nhiều đến người Anh, nhưng các nghiên cứu quan trọng về VOC sẽ cung cấp cái nhìn so sánh về các thế lực hàng hải phương Tây đang hoạt động ở Xiêm trong thời kỳ này.

Bắt đầu từ những thập niện 1660 đến thập niên 1680, trên sân khấu chính trị Xiêm xuất hiện một người Hy Lạp vô cùng đặc biệt là Constance Phaulkon (1647-

Phaulkon, từng là nhân viên của Công ty Đông Ấn Anh, nhờ khả năng ngôn ngữ và kinh nghiệm hàng hải, đã chiếm được cảm tình của vua Narai (1632-1688) và thăng tiến trong hệ thống chính trị Xiêm Ông dần dần nắm giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại của vương quốc Sự hiện diện của Phaulkon trong chính trị Xiêm đã tạo nên nhiều câu hỏi thú vị cho giới nghiên cứu.

10 Dhiravat na Pombejra (1984) “A Political History of Siam under the Prasatthong Dynasty, 1629-1688” (Diss., University of London)

The extensive scholarly interest in the figure of Phaulkon is evident through numerous publications, including George A Sioris's 1998 work, "Phaulkon: The Greek First Counsellor at the Court of Siam: An Appraisal," and Walter J Strach III's 2013 book, "The Phaulkon Legacy." These studies highlight the significant role of Dutch East India Company merchants at the Ayutthaya court between 1604 and 1765, as detailed in Bhawan Ruangsilp's 2007 publication.

OF SIAM: The Story of King Narai and Constantine Phaulkon” của Harold

Stephens xuất bản năm 2009; “The Falcon's Last Flight (The Great Epic Anthology of Thailand)” của Axel Alywen xuất bản 2013; “The Falcon of Siam: The Great

Tiểu thuyết "Epic novel of Thailand" của Axel Alywen, xuất bản năm 2014, đã chỉ ra rằng có nhiều công trình nghiên cứu về Phaulkon, chủ yếu tập trung vào cuộc đời, sự nghiệp và ảnh hưởng của ông đối với chính trị và thương mại của vương quốc Xiêm trong bối cảnh các nước phương Tây xâm nhập vào quốc gia này.

Ngoài các công trình nghiên cứu và sách tham khảo, còn có một số bài viết khái quát liên quan đến hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm thế kỷ XVII Đặc biệt, bài viết “English Relations with Siam in the Seventeenth Century” của D.B.Basset mang tính chất “xét lại” rất đáng chú ý.

Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Mặc dù có nhiều nghiên cứu quốc tế về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh, nhưng nghiên cứu trong nước về đề tài này lại rất hạn chế, đặc biệt là về sự thâm nhập và hoạt động của công ty ở Đông Nam Á và vương quốc Xiêm trong thế kỷ XVII Chưa có chuyên khảo hay bài viết nào đề cập trực tiếp đến hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh tại Xiêm trong thời kỳ này Các nghiên cứu về Thái Lan chủ yếu được thực hiện dưới dạng biên niên sử, với cuốn sách "Vương quốc Thái Lan lịch sử và hiện tại" của Vũ Dương Ninh, xuất bản năm 1990, là một trong những tác phẩm sớm nhất Sau đó, một số tác phẩm khác như "Lịch sử vương quốc Thái Lan" của Lê Văn Quang cũng được công bố.

Ba tác phẩm "Lịch sử Thái Lan" của Phạm Nguyên Long và Tương Lai (1995, 1998) được viết dưới dạng biên niên sử, cung cấp cái nhìn tổng quan về sự hình thành và phát triển của Thái Lan, đặc biệt là giai đoạn lịch sử hiện đại Nội dung chủ yếu tập trung vào hoạt động của các thương nhân phương Tây, như Công ty Đông Ấn Anh tại vương quốc Xiêm thế kỷ XVII, tuy chỉ được đề cập một cách điểm xuyết Dù vậy, những tác phẩm này vẫn có giá trị quan trọng trong việc hiểu biết về các giai đoạn phát triển cơ bản của Thái Lan trong lịch sử.

Trong những năm gần đây, nghiên cứu về bang giao và thương mại khu vực thời kỳ tiền cận đại đã thu hút sự quan tâm đáng kể từ các nhà nghiên cứu trong nước Nhiều công trình nghiên cứu đã tập trung vào hoạt động của các thế lực hàng hải và buôn bán phương Tây tại phương Đông trong các thế kỷ XVI-XVIII, đặc biệt là liên quan đến vương quốc Xiêm.

Chuyên khảo “Nhật Bản với châu Á: Những mối liên hệ và chuyển biến kinh tế xã hội” của tác giả Nguyễn Văn Kim (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003) là một công trình nghiên cứu công phu, chứa đựng lượng tri thức phong phú sau nhiều năm tổng kết Sách được chia thành 2 phần với 26 tiểu luận, tập trung vào mối quan hệ tương tác giữa Nhật Bản và các quốc gia trong khu vực từ thế kỷ XV đến XVII Tiểu luận “Quan hệ của Nhật Bản với vương quốc Siam thế kỷ XVI-XVII” cụ thể hóa mối quan hệ bang giao - thương mại giữa Xiêm và Nhật Bản, giúp độc giả có cái nhìn tổng quan về quan hệ thương mại rộng mở của vương quốc Xiêm trong kỷ nguyên thương mại châu Á.

Năm 2003, tác giả Nguyễn Văn Kim đã công bố chuyên khảo “Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á” nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về lịch sử bang giao và thương mại giữa Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á, tiếp nối thành công của công trình trước đó.

Tác phẩm "Nam Á, thế kỷ XV-XVII" do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành, được viết bởi tác giả Nguyễn Văn Kim Trong tác phẩm này, tác giả khai thác nguồn tư liệu phong phú để phân tích bối cảnh thương mại khu vực Đông Á trong thời kỳ lịch sử quan trọng này.

Bài viết đề cập đến mối quan hệ thương mại truyền thống giữa Xiêm, Nhật Bản và Lưu Cầu trong thế kỷ XVI-XVII, mang đến cho độc giả trong nước cái nhìn toàn diện về lịch sử quan hệ thương mại và vai trò của Xiêm trong mạng lưới thương mại Đông Nam Á thời kỳ này Đặc biệt, mặc dù chính quyền Mạc phủ Đức Xuyên thực hiện chính sách Tỏa quốc, Xiêm vẫn là một trong số ít quốc gia châu Á được phép giao dịch tại các thương cảng Hirado và Nagasaki.

Tác giả Nguyễn Văn Kim đã công bố nhiều bài viết chuyên sâu về truyền thống thương mại của người Xiêm trong lịch sử, bao gồm "Hoạt động thương mại của các vương quốc cổ Thái Lan, vị trí và những ảnh hưởng khu vực" đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7 (112), trang 3-10, và "Các vùng nguyên liệu và sản xuất thủ công truyền thống Thái Lan" trong Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (119), trang 12-20 Những tác phẩm này góp phần làm rõ vai trò và sự phát triển của thương mại trong lịch sử Thái Lan.

Nguyễn Văn Kim đã đóng góp thông tin quý giá, giúp mở rộng hiểu biết của chúng ta về truyền thống thương mại của người Xiêm trong lịch sử.

Một số nhà nghiên cứu trong nước đã công bố nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, tập trung vào mối quan hệ bang giao, thương mại và tôn giáo giữa vương quốc Xiêm và các nước phương Tây trong thế kỷ XVII Tiêu biểu là tác giả Trần Thị Nhẫn, người đã bảo vệ luận án Tiến sĩ về “Chính sách đối ngoại của vương triều Ayutthaya thế kỉ XIV-XVIII” vào năm 2010 Trước đó, cô đã xuất bản nhiều bài viết liên quan đến quan hệ thương mại và phản ứng của Xiêm trước sự thâm nhập của các quốc gia phương Tây, bao gồm “Quan hệ của Ayutthaya với các nước láng giềng (1350-1767)” và “Chính sách của vương quốc Ayutthaya đối với các nước tư bản phương Tây thế kỷ XVII” trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, cùng với các nghiên cứu khác về hoạt động thương mại - quân sự của Anh tại Xiêm và phong trào bài ngoại trong thế kỷ XVII.

Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 5/128, tr.42-48 Trong số 5 bài viết được tác giả

Trần Thị Nhẫn công bố rằng bài viết “Hoạt động thương mại - quân sự của Anh tại Xiêm thế kỷ XVII” là tài liệu duy nhất đề cập cụ thể đến mối quan hệ giữa Anh và Xiêm trong thế kỷ XVII Tuy nhiên, nội dung bài viết chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược, chưa cung cấp đầy đủ thông tin về những giai đoạn thăng trầm trong hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Anh (EIC) tại vương quốc Xiêm trong thời kỳ này.

Tác giả Đặng Văn Chương đã nghiên cứu mối quan hệ giữa vương quốc Xiêm và các nước phương Tây, tập trung chủ yếu vào các khía cạnh tôn giáo và kinh tế Một số bài viết tiêu biểu của ông bao gồm “Vài suy nghĩ về thái độ ứng xử của vua Xiêm và chúa Trịnh trước đề nghị truyền bá đạo Thiên Chúa của vua Pháp - Louis XIV” đăng trên Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, và “Quan hệ của Xiêm với các nước phương Tây dưới thời Narai (1656-1688)” trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á Ngoài ra, ông cũng đề cập đến quan hệ giữa Bồ Đào Nha và Xiêm trong thế kỷ XVI qua các tác phẩm nghiên cứu.

L‟Europe et le Siam du XVIe au XVIIIe siècle)”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số

Nghiên cứu của Đặng Văn Chương về quan hệ Pháp - Xiêm từ 1662-1893 và hoạt động truyền giáo của Pháp ở Xiêm (1662-1856) đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ bang giao và thương mại giữa Xiêm và các quốc gia phương Tây Đặc biệt, các nghiên cứu này, mặc dù chỉ mang tính khái lược, đã hỗ trợ nghiên cứu sinh trong việc tìm hiểu ảnh hưởng của Pháp tại Xiêm trong bối cảnh thương mại với Công ty Đông Ấn Anh (EIC) dưới triều đại vua Narai (1656-1688).

Trong nghiên cứu về hoạt động bang giao - thương mại Á - Âu thời cận đại sơ kỳ, đặc biệt là sự thâm nhập của các công ty Đông Ấn châu Âu vào châu Á và Đông Nam Á, bài viết “Về hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp ở Xiêm nửa sau thế kỷ XVII” của Nguyễn Mạnh Dũng, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4/2007, đã cung cấp cái nhìn toàn diện về lịch sử thương mại của Xiêm trong bối cảnh các thế lực hàng hải phương Tây Bên cạnh đó, các nghiên cứu gần đây của Hoàng Anh Tuấn, bao gồm bộ tư liệu gốc “Tư liệu các công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII”, cũng đã được công bố, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về chủ đề này.

Năm 2015, tác giả Hoàng Anh Tuấn đã công bố bổ sung nguồn tư liệu gốc về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh tại Đàng Ngoài qua tác phẩm “Tuyển tập tư liệu Công ty Đông Ấn Anh ở Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII” Tư liệu này mang lại giá trị lớn, giúp cung cấp thông tin toàn diện hơn về vị thế của Đàng Ngoài trong các mối quan hệ thương mại với các công ty Đông Ấn châu Âu trong kỷ nguyên thương mại châu Á Ngoài việc xuất bản tư liệu gốc phong phú, tác giả còn chia sẻ một số bài viết liên quan.

Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu

án cần đi sâu nghiên cứu

1.3.1 Những vấn đề các công trình nghiên cứu đã giải quyết mà luận án có thể kế thừa

Các nguồn tư liệu trong và ngoài nước cung cấp cho tác giả cơ hội khai thác dữ liệu cơ bản, nhằm hoàn thiện luận án "Hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm thế kỷ XVII" Luận án này kế thừa và phát triển dựa trên những kết quả nghiên cứu trước đó.

Các nghiên cứu hiện có đã cung cấp cái nhìn tổng quan về sự thâm nhập và hoạt động của các thế lực hàng hải phương Tây.

Vào thế kỷ XVII, sự hiện diện của người phương Tây ở châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á, đã đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng mạng lưới thương mại trong khu vực Các công ty Đông Ấn châu Âu đã thiết lập nhiều thương điếm, góp phần tạo nên cái nhìn toàn diện về hoạt động thương mại ở châu Á.

Trong thế kỷ XVII, nhiều công trình nghiên cứu như của John Anderson, E.W.Huttchinson, và D.K.Basset đã đề cập đến hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Anh tại vương quốc Xiêm Tuy nhiên, do những công trình này đã được công bố từ lâu và gặp phải hạn chế về nguồn tư liệu, nhiều nhận định đã trở nên không còn phù hợp, đặc biệt là những đánh giá mang nặng tính Âu châu chủ nghĩa Luận án này sẽ sử dụng tư liệu gốc và cập nhật các quan điểm nghiên cứu mới nhằm khắc phục những hạn chế trong các đánh giá trước đó, từ đó cung cấp cái nhìn khách quan hơn về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm trong thế kỷ XVII.

Nhiều nghiên cứu của các học giả trong nước đã chỉ ra mối quan hệ thương mại giữa Xiêm và các cường quốc hàng hải phương Tây như Anh, Pháp, và Hà Lan Tuy nhiên, những công trình này chủ yếu xuất hiện dưới dạng bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, thiếu các công bố toàn diện và phân tích hệ thống.

Các nghiên cứu hiện tại chỉ mới phác thảo những khía cạnh chính về mối quan hệ ngoại giao, thương mại và tôn giáo giữa Xiêm và một số quốc gia phương Tây.

Nhiều nghiên cứu trong nước đã tập trung vào mối quan hệ thương mại giữa châu Á và châu Âu, đặc biệt là hoạt động của các công ty Đông Ấn như Anh, Hà Lan và Pháp tại các thương cảng nổi tiếng ở Đông Nam Á trong giai đoạn cận đại sơ kỳ Những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn hệ thống về mạng lưới thương mại tại châu Á và Đông Nam Á trước sự thâm nhập của các thế lực hàng hải phương Tây.

Vào thế kỷ XVI-XVII, các thương nhân, giáo sĩ và nhà truyền đạo đã ghi chép chi tiết về đời sống kinh tế - xã hội ở Xiêm, cung cấp nguồn tư liệu gốc quý giá Những tài liệu này giúp tác giả so sánh và đối chiếu sự biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội của Xiêm trước, trong và sau khi người phương Tây đến.

1.3.2 Những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu

Dựa trên các nghiên cứu trước đây và hồ sơ lưu trữ, luận án "Hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm thế kỷ XVII" sẽ làm rõ những khía cạnh cụ thể của sự hiện diện và ảnh hưởng của công ty này trong khu vực.

Tập hợp, xử lý và hệ thống hóa tư liệu là bước quan trọng để tái hiện toàn bộ quá trình thâm nhập và hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Anh tại Xiêm trong thế kỷ XVII, cũng như việc đóng cửa thương điếm của họ.

Thứ hai, nghiên cứu hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Anh ở

Vào thế kỷ XVII, Xiêm phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các thế lực hàng hải phương Tây khác hoạt động trong khu vực Điều này giúp tạo ra cái nhìn toàn diện hơn về chiến lược "cân bằng quan hệ" của triều đình Xiêm, đặc biệt trong bối cảnh mở rộng hoạt động thương mại và truyền giáo của các nước phương Tây trong thế kỷ XVII-XVIII.

Vào thế kỷ XVII, ngoài việc thiết lập thương điếm tại Xiêm, công ty Đông Ấn Anh còn mở rộng hoạt động thương mại sang nhiều quốc gia khác ở châu Á Luận án này nhấn mạnh vị trí quan trọng của Xiêm trong mối tương tác với các thương điếm khác của công ty trong khu vực.

Luận án này phân tích những thăng trầm trong lịch sử hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh tại Xiêm, từ đó làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự thất bại trong thương mại của EIC ở thế kỷ XVII.

SỰ THÀNH LẬP CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH VÀ NHỮNG LIÊN HỆ ĐẦU TIÊN VỚI VƯƠNG QUỐC XIÊM ĐẦU THẾ KỶ XVII

Sự thành lập công ty Đông Ấn Anh năm 1600

Cho đến nửa cuối thế kỷ XV, nước Anh chỉ là một cường quốc nhỏ ở châu Âu, phục hồi từ cuộc nội chiến và cuộc chiến tranh Hoa Hồng Mặc dù chiến tranh trong thế kỷ XIV và XV đã thúc đẩy sự biến đổi xã hội và ý thức dân tộc, nhưng bất ổn chính trị đã khiến nền kinh tế Anh trì trệ Nông nghiệp và chăn nuôi vẫn là trọng tâm, trong khi ngành thủ công và thương mại, mặc dù có sự khởi sắc từ thế kỷ XII-XIII, vẫn không đủ sức cạnh tranh với các trung tâm thương mại ở phía bắc và đông Địa Trung Hải Do đó, nước Anh rõ ràng bị thất thế trong cuộc đua khám phá Đông Ấn và thế giới phương Đông giàu có hương liệu và gia vị.

Vào cuối thế kỷ XV, người Tây Ban Nha đã phát hiện ra châu Mỹ, trong khi Bồ Đào Nha tìm ra con đường qua mũi Hảo Vọng đến Ấn Độ Sự kiện này được coi là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhân loại, như Adam Smith đã nhấn mạnh trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc", khi ông gọi đây là "sự kiện lớn nhất và quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại".

Trong thế kỷ XVI, khi Tây Ban Nha tăng cường khai thác Tân Thế Giới, Bồ Đào Nha cũng nỗ lực thiết lập độc quyền thương mại với phương Đông Sự độc quyền hàng hải của hai quốc gia Iberia được củng cố bởi Hiệp ước Tordesillas năm 1494, trong đó chia các vùng đất mới phát hiện ngoài châu Âu giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha theo kinh tuyến 370 hải lý phía Tây quần đảo Cape Verde.

Năm 1529, bản hiệp ước Zaragossa được thông qua dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng, đánh dấu sự dàn xếp giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong việc phân chia phạm vi ảnh hưởng để bảo vệ quyền lợi một cách hợp pháp Những hiệp ước này không chỉ ảnh hưởng đến hai quốc gia Iberia mà còn tác động lớn đến các chuyến đi của các dân tộc châu Âu khác Đối mặt với tình hình này, Anh đã quyết định tránh gây chiến và khuyến khích thương nhân tìm kiếm con đường thương mại sang phương Đông qua các tuyến đường biển tây bắc hoặc đông bắc châu Âu.

Sau khi lên ngôi vào năm 1485, vua Henry VII đã chỉ định nhà hàng hải John Cabot tìm kiếm các vùng đất chưa được khám phá qua con đường tây bắc Mặc dù không đến phương Đông, chuyến hành trình năm 1497 của John Cabot và con trai Sebastian đã đưa họ đến Newfoundland, lục địa Bắc Mỹ Thành công này đã tạo ra sự phấn khởi lớn ở Anh và thay đổi thái độ của họ đối với việc mở rộng lãnh thổ ra hải ngoại Người Anh bắt đầu tin rằng họ có thể tham gia vào thời đại khám phá, thậm chí xem xét việc thâm nhập vào Ấn Độ Dương để thách thức quyền lực thương mại của Bồ Đào Nha, một huyền thoại sẽ dần phai nhạt trong thế kỷ tiếp theo.

Đến thập niên 80 thế kỷ XVI, người Anh vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm con đường sang phương Đông Kiến thức của họ về hải trình này còn rất hạn chế và mơ hồ.

Theo hiệp ước này, người Bồ Đào Nha nắm giữ quyền thương mại và tôn giáo từ bờ tây châu Phi đến mũi Hảo Vọng và phương Đông, trong khi người Tây Ban Nha mở rộng ảnh hưởng sang Tân Thế giới, đặc biệt là vùng biển Caribbean và Philippines Đến năm 1600, người Anh mới bắt đầu hiểu rõ về con đường đến phương Đông qua mũi Hảo Vọng, nhưng họ gặp phải những hạn chế kỹ thuật so với Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan từ thế kỷ XV.

Bồ Đào Nha đã đầu tư nghiêm túc vào nghiên cứu hàng hải, trong khi Anh thiếu sự hỗ trợ từ Hoàng gia và nghị viện, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp cận Đông Ấn Chính sách xuất khẩu của nhà nước Anh khuyến khích xuất khẩu hàng nội địa như vải dạ và len, nhưng những sản phẩm này không phù hợp với khí hậu Đông phương và có giá cao Hơn nữa, việc cấm xuất khẩu bạc, loại tiền tệ cần thiết cho thương mại với phương Đông, đã tạo ra rào cản lớn cho các thương nhân Anh Để vượt qua khó khăn, một số thương nhân đã tìm cách sử dụng các trạm trung gian ở châu Âu để hợp pháp hóa việc chuyển bạc Thêm vào đó, sự thiếu hụt kiến thức về buôn bán và hàng hải ở Ấn Độ Dương cũng là một thách thức lớn, khi Bồ Đào Nha cấm người Anh làm việc trên tàu của họ, gây khó khăn cho việc thiết lập các tuyến đường thương mại.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, người Anh vẫn kiên trì theo đuổi tham vọng khám phá con đường sang phương Đông Vào thế kỷ XVI, các thương nhân Anh đã chọn lộ trình đi về hướng đông bắc, đi qua Na Uy và Nga để tới Trung Hoa, nhằm tránh xung đột với người Iberia Trong nửa đầu thế kỷ XVI, đã có nhiều chuyến đi lên phía bắc diễn ra, nổi bật nhất là chuyến đi của Hugh.

Vào năm 1415, Hoàng tử Henry, con trai của quốc vương Bồ Đào Nha, đã sáng lập một trường học hàng hải, thiên văn và địa lý tại Bồ Đào Nha Trường học này đã tập hợp nhiều sách vở và bản đồ quý giá, góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành hàng hải.

Willoughby và Richard Chancellor năm 1553 Đúng như nhận định của D.G.E.Hall:

Người Anh đã do dự trong việc phát triển con đường qua mũi Hảo Vọng do thiếu kiến thức hàng hải về Ấn Độ Dương, và họ chủ yếu tập trung vào việc tìm kiếm con đường miền Bắc - phương Đông trong một thời gian dài Đến giữa thế kỷ XVI, có thể nói rằng họ đã lãng phí rất nhiều tài nguyên và tiền bạc trong nỗ lực tìm kiếm con đường sang phương Đông qua Bắc Băng Dương.

Trong thời kỳ Nữ hoàng Mary I (1516-1558), người Anh đã quyết định từ bỏ con đường đông bắc để tập trung phát triển con đường đông nam nhằm thâm nhập phương Đông hiệu quả hơn Để tránh đối đầu với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, Hoàng gia Anh khuyến khích thương nhân đi sang phương Đông qua đường bộ, bắt đầu từ phía đông Địa Trung Hải đến Ấn Độ và Đông Nam Á Năm 1555, Nữ hoàng Mary I đã cấp sắc lệnh cho Công ty Muscovy để buôn bán với phương Đông qua các vùng đất thuộc Nga Khi Nữ hoàng Elizabeth I (1558-1603) lên ngôi, Hoàng gia Anh tiếp tục thúc đẩy quan hệ thương mại trực tiếp với phương Đông, gia hạn giấy phép độc quyền của Công ty Muscovy cho việc buôn bán với Ba Tư, Armenia và khu vực biển Caspian vào năm 1566 Năm 1581, Công ty Levant được thành lập để mở rộng tuyến buôn bán đường bộ với phương Đông.

Thương nhân Anh không chỉ muốn phá vỡ độc quyền buôn bán với miền Đông Ấn mà còn nhắm đến việc xâm nhập vào khu vực Đại Tây Dương để thách thức quyền lực của Tây Ban Nha Chính sách này xuất phát từ các yếu tố kinh tế và địa chính trị, liên quan chặt chẽ đến những biến động lớn tại châu Âu Mặc dù Anh yếu thế hơn so với nhà Valois của Pháp và Habsburg của Tây Ban Nha, vị trí chiến lược và sự lên ngôi của Elizabeth I vào năm 1557 đã giúp Anh có thể đóng vai trò quan trọng trong các cuộc xung đột trên lục địa, đặc biệt là trong cuộc cách mạng ở Netherlands, nơi Tây Ban Nha đã bị sa lầy trong suốt tám năm.

Năm 1560, một cuộc chiến không thành công đã làm suy yếu sức mạnh của họ trong nỗ lực tái kiểm soát khu vực, khu vực này sau đó nhanh chóng phát triển thành một trong những trung tâm kinh tế năng động nhất châu Âu.

Vào giữa thế kỷ XVI, thương mại giữa Anh và Tây Ban Nha phát triển mạnh mẽ, với Anh đóng góp quan trọng trong việc kết nối thương mại giữa Tây Ban Nha và các khu vực châu Âu khác Tuy nhiên, sự cạnh tranh từ các tỉnh Thống nhất (Hà Lan) đã khiến Anh gặp khó khăn trong thương mại với Tây Ban Nha, một thị trường quan trọng cho nhiều thương nhân ở Luân Đôn Mặc dù mối quan hệ thương mại giữa hai nước đang thịnh vượng, Tây Ban Nha đã sai lầm khi nghĩ rằng sự phụ thuộc vào việc xuất khẩu vải vóc sang Antwerp là điều kiện sống còn của thương mại Anh Sự can thiệp của Tây Ban Nha vào chính trị Anh và cuộc nổi dậy ở Hà Lan đã làm xấu đi mối quan hệ giữa hai nước, dẫn đến việc Anh gia tăng các cuộc xâm nhập vào đế chế Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong thập niên 1560.

Vương quốc Xiêm đến thế kỷ XVII

Trước khi người Thái đầu tiên định cư ở lòng chảo sông Mênam - Chao Phraya, miền Trung nước Xiêm đã chứng kiến sự hình thành của quốc gia Dvaravati Các bằng chứng khảo cổ học tại Sitep, Nakorn Pat‟om, Pong Tuk, U Thong cho thấy sự tồn tại của vương quốc này từ thế kỷ VII Dvaravati có mối quan hệ chặt chẽ với trung tâm buôn bán quốc tế được người Trung Quốc gọi là “Tun-sun”, là điểm quá cảnh cho các hoạt động thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á, bao gồm cả thương mại với Óc Eo.

Dựa vào yếu tố địa lý thuận lợi, người Thái đã tiến hành bành trướng về phương Nam dọc theo sông Menam mà không gặp nhiều trở ngại, do địa hình đồi núi gây khó khăn cho quân đội Khơme trong việc bảo vệ vùng đất phía Tây Những vùng đất mới chiếm được rất màu mỡ, tạo tiền đề kinh tế cho người Thái xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh Sự sụp đổ của đế chế Khơme cùng với yếu tố địa lý đã ủng hộ người Thái trong các thế kỷ XII-XIII Đầu thế kỷ XII, các muang của người Thái ở thượng lưu sông Menam đã hình thành các quốc gia nhỏ dưới sự lãnh đạo của các tù trưởng gọi là Chao và Chao-Phra.

Vào đầu thế kỷ XIII, lịch sử người Thái chứng kiến sự chuyển biến mạnh mẽ khi quyền lực của người Khơme suy yếu dưới triều đại vua Jayavarman VII Năm 1215, quốc gia Mogaung của người Thái ra đời tại vùng Thượng Miến Điện Đến năm 1228, hai thủ lĩnh người Thái đã tấn công và đánh bại chỉ huy người Khơme tại Sukhothai, thiết lập kinh đô của vương quốc Thái, sau này trở thành quốc gia hùng mạnh dưới thời vua Rama Khamheng (1279-1298) Sukhothai có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở thượng nguồn các con sông, giúp kiểm soát lưu lượng nước và kết nối với vịnh Xiêm Cuối thế kỷ XIII, cuộc chinh phạt của quân đội Nguyên Mông dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Pagan năm 1287, tạo điều kiện cho các thủ lĩnh người Thái phân chia lãnh thổ và củng cố vị thế của các vương quốc mới, trong đó có vương quốc Chiengmai được thành lập từ việc chiếm quốc gia Haripujaya của người Môn.

Vào năm 1287, Rama Khamheng của vương quốc Sukhothai đã đánh bại người Môn sống dọc sông Mênam, thay thế sự thống trị của người Khơme bằng quyền lực của người Thái tại khu vực thượng lưu sông MêKông Sự sụp đổ của các vương quốc Pagan và Angkor đã tạo cơ hội cho người Thái mở rộng lãnh thổ sang các nước láng giềng Khoảng năm 1294, Rama Khamheng tiếp tục chinh phục các vùng đất trên bán đảo Mã Lai, tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại của Srivijaya David Wyatt đã chỉ ra rằng thời kỳ này (1200- ) đánh dấu một giai đoạn bành trướng chưa từng có của người Thái trong lịch sử.

1351) là “thế kỷ của người Thái” [100, tr.67]

Vào năm 1351, U Thong đã xây dựng Ayutthaya làm kinh đô và đổi tên thành Ramathibodi, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Thái Lan Trong thời kỳ này, ba vị vua vĩ đại là Rama Khamheng, Ramadhipati và Trailok đã có những cống hiến quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước Thái hùng mạnh về chính trị và xã hội Xiêm trở thành một trong những quốc gia ổn định nhất Đông Nam Á, khi trung tâm quyền lực của người Thái chuyển từ Sukhothai xuống Ayutthaya, giúp quốc gia này khẳng định sức mạnh, kiểm soát miền Trung và hạ lưu sông Mê Nam, cùng với phần lớn bán đảo Malai, bao gồm Tanasserim và Tavoy, hiện nay là Miến Điện, đồng thời thực hiện quyền minh chủ đối với Sukhothai.

Vị trí địa chiến lược của Thái Lan, với khả năng tiếp cận Angkor từ phía Đông, Hạ Miến Điện từ phía Tây, và vịnh Xiêm cùng eo Kra từ phía Nam, đã giúp người Thái trở thành một thế lực mạnh mẽ ở Đông Nam Á lục địa Do đó, trong những thập niên đầu, các nhà cầm quyền Ayutthaya đã thực hiện nhiều cuộc chiến tranh xâm lấn nhằm chinh phục hai vương quốc láng giềng là Sukhothai và Angkor.

Sukhothai bị tấn công lần đầu vào năm 1354/1355 và rơi vào tay Ayutthaya vào năm 1378/9, buộc phải nhượng lại các huyện miền Tây, bao gồm cả Kamp‟engp‟et cho Xiêm Đến năm 1419/20, Sukhothai chính thức trở thành chư hầu của Ayutthaya, đánh dấu sự chuyển giao quyền lực chính của người Thái từ Sukhothai xuống Ayutthaya Sự thay đổi này đã tạo ra áp lực lớn đối với Angkor, dẫn đến việc Xiêm chiếm Angkor vào năm 1431, khiến người Khơme phải rời bỏ thành phố ở phía đông nam Campuchia.

Từ đầu thế kỷ XVI, lợi dụng sự bất ổn ở vương triều Ayutthaya sau khi vua Trailok qua đời, quân đội Burma đã thực hiện chính sách bành trướng nhằm thôn tính lãnh thổ của người Thái Ít nhất từ thế kỷ XVI, người Miến đã biện minh cho việc tấn công Ayutthaya bằng lý do nơi này từ chối giao nộp một số voi trắng, được coi là vật thiêng mang lại mưa thuận gió hòa trong văn hóa Hindu - Phật giáo.

Các cuộc chiến tranh giữa Miến Điện và Xiêm kéo dài nhiều năm nhằm giành quyền kiểm soát tiểu quốc Chieng Mai, nhưng nguyên nhân chính lại là mục tiêu kiểm soát thương mại đối với Tenasserim Năm 1563, quân đội Miến Điện tấn công qua thung lũng Sittang, tiến vào Chiengmai, Kamp'engp'et và Sukhothai trước khi đến Ayutthaya Sau cuộc tấn công lớn thứ hai (1568-1569), người Thái thất thủ và trải qua 15 năm mất nước cùng sự mất kiểm soát các quốc gia thần thuộc Đến năm 1581, nhờ tài năng của lãnh tụ Pra Naret, Xiêm mới giành lại độc lập.

Pra Naret, hoàng đế từ năm 1590 đến 1605 với hiệu Naresean, đã thực hiện chính sách mở rộng lãnh thổ đáng kể Năm 1593, ông chỉ huy cuộc tấn công chiếm đóng Tavoy và Tensserim, hai hải cảng thương mại quan trọng ở miền Nam Miến Điện, nhằm tăng cường thương mại với khu vực Ấn Độ Dương Đến năm 1595, tiểu quốc Chiengmai cũng đã phải thần phục trước Xiêm Với những cống hiến to lớn, vua Neresuen đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Xiêm, được sử gia David Wyatt ca ngợi là một nhân vật hiếm hoi với đức tính lãnh đạo năng động, can đảm và quyết đoán, luôn thành công trong những nhiệm vụ khó khăn.

Vào đầu thế kỷ XVII, vương quốc Miến Điện và Xiêm thiết lập quan hệ hòa hiếu, với Xiêm dưới triều đại vua Naresuen (1590-1605) dần ổn định về chính trị và kinh tế, hướng tới việc trở thành cường quốc khu vực Các nước như Cambodia, Johore, Patani, Kedah và Jambi đã phải cống nạp cho Xiêm, thể hiện sức mạnh của vương quốc này Sau khi vua Naresuen qua đời, vua Ekat’otsarat (1605-1610) tiếp tục cải cách tài chính và thương mại Xiêm không chỉ duy trì mối quan hệ với các quốc gia châu Á mà còn tăng cường giao thương với các nước phương Tây Giai đoạn phát triển mới này đã mang lại hòa bình và thịnh vượng, khiến Xiêm trở thành một trong những chính thể giàu có và quyền lực nhất phương Đông, với một nhà cai trị quyền lực tuyệt đối và khoan dung với người ngoại quốc và các tôn giáo.

2.2.2 Vài nét về thương mại Xiêm đến thế kỷ XVII

Trong cơ cấu kinh tế của vương quốc Xiêm, thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển lịch sử người Thái, nhưng nông nghiệp vẫn giữ vị trí không thể phủ nhận Ayutthaya không chỉ là một kinh đô chính trị mà còn là một cảng thị, hoạt động như một trung tâm thương mại sôi động.

Thương mại, bên cạnh các loại thuế và sản phẩm triều cống, là nguồn tài chính quan trọng nhất trong quốc khố của nhà vua Ayutthaya Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và chính trị tại đây hoạt động như một vòng tròn: khi nhà vua gia tăng sự giàu có từ thương mại, ông có khả năng vượt qua đối thủ và mở rộng lãnh thổ, từ đó nâng cao khả năng thương mại của mình Trường hợp Ayutthaya minh chứng cho vai trò quan trọng của thương mại trong lịch sử Xiêm, với việc kiểm soát thương mại là yếu tố quyết định đến sự giàu có và quyền lực Nhà vua, với tư cách là thương nhân lớn nhất của Xiêm, đã thiết lập quyền kiểm soát mạnh mẽ đối với thương mại tại các cảng, thông qua độc quyền hoàng gia và các chính sách phân biệt trong thương mại.

Vương quốc Xiêm đã tham gia mạnh mẽ vào các mạng lưới thương mại khu vực từ rất sớm, đặc biệt trong thời kỳ vương triều Ayutthaya Ngay sau khi thành lập vào thế kỷ XIV, người Xiêm đã khám phá thương mại dọc bờ biển Đông Nam Á và điều tra các cảng thị của Trung Quốc, vương quốc Lưu Cầu, Cao Ly và Nhật Bản Các cộng đồng cư dân Nam Á cũng đã biết đến Xiêm từ lâu, đặc biệt là các tăng sĩ Phật giáo Từ thế kỷ XV, Xiêm mở rộng hoạt động thương mại tại các cảng thị Ấn Độ Sự trỗi dậy của Ayutthaya trong thế kỷ XIV và XV gắn liền với vị trí địa lý thuận lợi bên một con sông lớn, tạo điều kiện cho sự phát triển như một cảng thị Đến đầu thế kỷ XVI, kết nối với Trung Quốc, Ấn Độ, thế giới Malay và các cộng đồng thương nhân châu Âu đã biến Ayutthaya thành một cảng thị hưng thịnh.

Các vua Xiêm không chỉ tham gia tích cực vào thương mại mà còn đóng vai trò biểu tượng của các vị thần Hindu và Phật giáo Trong khi thực hiện trách nhiệm chiến tranh và ban hành luật, họ cũng cần thương mại quốc tế để duy trì cuộc sống xa hoa và trang bị cho quân đội Các mặt hàng như bạc, đồng, vũ khí và hàng xa xỉ từ Trung Quốc và Ba Tư được nhập khẩu, trong khi bạc và tiền đúc của Xiêm là hình thức tiền tệ chính Sản phẩm của Xiêm cũng được xuất khẩu, dẫn đến việc Hoàng gia phát triển một cơ chế giao dịch hiệu quả, đặc biệt trong thế kỷ XVII khi hoạt động mậu dịch ngày càng mở rộng.

CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH Ở VƯƠNG QUỐC XIÊM: MỞ RỘNG VỊ THẾ NGOẠI GIAO VÀ THƯƠNG MẠI (1659-1682)

Vương quốc Xiêm dưới triều vua Narai (1656-1688): những cải cách hỗ trợ

Năm 1632, hoàng hậu sinh hạ cho quốc vương Prasatthong (trị vì: 1629-

Vào năm 1656, vua Narai, một vị hoàng tử, đã xuất hiện trong bối cảnh vua Prasatthong bước vào tuổi ngũ tuần, khi vấn đề người thừa kế ngai vàng trở nên cấp bách Văn hóa chính trị Xiêm nổi bật với xung đột quyền thừa kế và sự tranh đoạt giữa các thế lực Tuy nhiên, nhờ vào việc áp dụng các chiến lược kiểm soát hiệu quả, Prasatthong đã thành công trong việc ngăn chặn sự gia tăng quyền lực của các quan lại, giữ vững ổn định cho triều đại.

Tháng 8 năm 1656, vua Prasatthong qua đời mà không có người thừa kế được chỉ định rõ ràng Điều này khiến cho cuộc nội chiến cung đình, tranh giành ngôi báu giữa các phe phái diễn ra quyết liệt Cuối cùng nhờ bản lĩnh, trí tuệ của bản thân, sự giúp sức của quý tộc và quan lại đại thần, đặc biệt là sự hỗ trợ của người ngoại quốc, 28 Somdet Phra Narai đã chính thức giành được quyền lực vào ngày 26/10/1656, đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới hứa hẹn đưa vương quốc Xiêm bước vào thời kỳ phục hưng.[109, tr.77] Vì thế không phải ngẫu nhiên, tới tận gần hai thế kỷ sau khi ông mất, vua Mongkut (Rama IV) vẫn coi vua Narai là

“người lỗi lạc nhất trong số tất cả các nhà cai trị của Xiêm”.[179, tr.346]

Sau khi lên ngai vàng, vua Narai (1656-1688) của Xiêm đã mở rộng giao thiệp với người ngoại quốc hơn so với các vị vua trước Ông nỗ lực thu hút thương nhân nước ngoài đến buôn bán và thiết lập quan hệ kinh tế với Xiêm.

Từ thuở nhỏ, Narai đã bị cuốn hút bởi nền văn hóa Ba Tư, không chỉ bởi phong tục tập quán mà còn bởi đức tin và văn hóa cung đình của họ, những yếu tố này đã tạo nên trái tim của nền văn hóa Hồi giáo và định hình các tiêu chuẩn cho phần còn lại của thế giới.

Hồi giáo [199, tr.122] Narai đã rất ấn tượng với hệ thống triều đình đa sắc tộc của

28 Theo ghi chép, một số lượng lớn những người ủng hộ Phra Narai là những người ngoại quốc bao gồm bốn

Ba Tư nổi bật với sự tương đồng tư tưởng, nơi lòng trung thành với Shah được coi trọng hơn bất kỳ danh phận nào Văn hóa triều đình Ba Tư, từ lễ phục đến kiến trúc và hội họa, đã ảnh hưởng sâu sắc đến các vùng như Aceh, Afghanistan, Ayutthaya, Bengal và Delhi Dưới triều đại vua Narai, văn hóa Ba Tư không chỉ được chuẩn hóa và thể chế hóa mà còn khuyến khích việc tiếp thu các tiến bộ khoa học và công nghệ từ châu Âu.

Vua Narai của Xiêm là người tiên phong trong việc áp dụng các quy tắc phát triển châu Âu, thực hiện nhiều cải cách quan trọng như tăng cường giáo dục theo hệ thống phương Tây và xây dựng xưởng chế tạo vũ khí tại Lopburi Ông đã hợp tác với các nhà thiên văn học Pháp, xây dựng đài quan sát tại Wat San Paolo và phát triển công nghệ hàng hải Narai còn sở hữu một đội tàu thuyền riêng, bao gồm 8 chiếc thuyền buồm, mà ông tự tay điều khiển cùng thủy thủ đoàn Trung Quốc Ông đã cử nhiều sinh viên và quan lại sang châu Âu để học hỏi tri thức, hy vọng họ sẽ áp dụng kiến thức đó để phục vụ đất nước Ngoài ra, ông cũng thành lập các trường học ở Ayutthaya để giảng dạy ngoại ngữ và khoa học kỹ thuật, đồng thời nghiên cứu lịch sử các nước châu Âu và đề xuất đào tạo quân đội theo phương pháp châu Âu.

Một số quan điểm cho rằng căng thẳng trong quan hệ giữa Công ty Đông Ấn

Hà Lan đã áp đặt một hiệp ước bất bình đẳng vào năm 1663-1664, dẫn đến việc triều đình Xiêm xây dựng Lopburi thành kinh đô thứ hai Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy Công ty Đông Ấn Hà Lan thực sự có quan hệ tốt đẹp với Somdet PhraNarai trong giai đoạn sau khủng hoảng cho đến năm 1681, khi mối quan hệ này mới bắt đầu căng thẳng.

Năm 1685, triều đình Xiêm đã thiết lập mối quan hệ thân thiết với Pháp cho đến khi Phra Phetracha cướp ngôi vua trong cuộc đảo chính năm 1688 Mặc dù có sự hoài nghi đối với Công ty Đông Ấn Hà Lan, Somdet vẫn tiếp tục duy trì sự ảnh hưởng của mình trong bối cảnh chính trị phức tạp này.

29 Shah tiếng Ba Tư có nghĩa là vua, - là một danh hiệu được trao cho các vị vua, hoàng đế, lãnh chúa

PhraNarai duy trì mối quan hệ thân thiện với người Hà Lan thông qua việc trao đổi thư từ và quà biếu giữa Ayutthaya và Thống đốc Hà Lan ở Batavia Ngoài ra, Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) cũng cung cấp cho Somdet PhraNarai một bác sĩ phẫu thuật người Pháp theo đạo Tin Lành, tên là Daniel Brochebourde.

Trong triều đại vua Narai, đối tác thương mại chủ yếu của Xiêm là người Hà Lan, không phải Bồ Đào Nha hay Anh Người Hà Lan cung cấp hàng hóa chất lượng cao cho Ayutthaya và cung điện Lopburi, đáp ứng nhu cầu về sứ và gốm kiến trúc khi Narai xây dựng cung điện Họ đã gửi mẫu sứ và đất nung của Narai đến Trung Quốc và Nhật Bản, nơi mà nhân viên Hà Lan có thể phân loại đơn hàng Sự thân thiện với người Hà Lan đã dẫn đến việc quốc vương Xiêm đàm phán và ký hiệp ước với Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1664, với các điều khoản thuận lợi cho người Hà Lan.

Dưới triều vua Narai (1656-1688), thương mại hoàng gia Xiêm phát triển mạnh mẽ với các vương quốc và cảng thị Ayutthaya trở thành nguồn cung cấp quan trọng cho da động vật, gỗ tô mộc, chì, thiếc, cùng với các hàng hóa quý hiếm như sừng tê giác và tổ yến Những sản phẩm này được trao đổi lấy bạc, đồng, và hàng hóa cao cấp từ Nhật Bản, cũng như kẽm, lụa và đồ sứ từ Trung Quốc Thương nhân Hồi giáo gốc Ấn và các thương nhân khác nhập khẩu vải cotton từ Coromandel, tơ lụa Ba Tư và nước hoa hồng vào Mergui và Ayutthaya Họ cũng xuất khẩu tơ lụa Trung Quốc, thiếc, Eaglewood và kẽm sang Ấn Độ và các cảng thị phía tây Các nhà nước cảng thị như Sumatra, Java, bán đảo Malay, Borneo, Sulawesi và Timor duy trì liên lạc thường xuyên với Ayutthaya, ví dụ như trong giai đoạn từ tháng 10 năm 1681 đến tháng 9 năm 1682, đã có 10 tàu từ Riau và 8 tàu từ các vùng lân cận.

Pahang, một cảng thị không rõ danh tính trên "bờ biển Mã Lai", đã đón nhận tàu từ Melaka, Kelantan, Deli, Terengganu, và Kedah, cùng với tàu Pháp từ Timor và tàu hoàng gia Xiêm từ Borneo Những tàu này chủ yếu chở mây, hạt tiêu, lạc, riềng, trong khi tàu Pháp mang theo gỗ đàn hương Vào tháng 12 cùng năm, 19 tàu rời Ayutthaya đến Riau, Pahang, Melaka, Johor, Kedah và Deli với nhiều loại hàng hóa, trong đó có 12 tàu chở muối và 11 tàu mang thuốc nhuộm chàm Ngoài thương mại hàng hải, Ayutthaya cũng thực hiện thương mại đường bộ với Lanchang (Lào) và Miến Điện trong thời bình.

Theo Pires, “bên cạnh Tenasserim, Xiêm cũng trao đổi thương mại với Pase, Pedir, Kedah, Pegu, Bengal, và người Gujaratis cũng đến cảng thị của họ hàng năm

Các vị vua ở Ayutthaya đã kiểm soát chặt chẽ hoạt động thương mại, mặc dù thương mại với bên ngoài và tự do trong nước diễn ra Tất cả các thương nhân nước ngoài tại Xiêm đều phải nộp thuế nhập khẩu cho hoàng gia thông qua các thương nhân Trung Quốc, nhờ vào mối quan hệ gần gũi với Xiêm, họ được hưởng nhiều ưu đãi và mức lương thấp hơn so với các thương nhân nước ngoài khác.

Vào thế kỷ XVII, thương mại và bang giao của hoàng gia Xiêm gắn bó chặt chẽ, với nhiều sứ thần được cử đi và các phái đoàn ngoại quốc được vua Narai tiếp đón, chủ yếu liên quan đến thương mại Các phái đoàn triều cống sang Trung Quốc nhằm tìm kiếm cơ hội thương mại Vị trí bộ trưởng Xiêm, okya (hoặc chaophraya) Phra-Khlang, thể hiện sự liên kết giữa hoạt động bang giao và thương mại hoàng gia Simon de La Loubere, một nhà ngoại giao Pháp ở Xiêm vào cuối năm 1687, đã tóm tắt trách nhiệm của chức bộ trưởng này.

Phra-Klang, một viên quan tham nhũng người Bồ Đào Nha tên là Barcalon, được bổ nhiệm làm người phụ trách thương mại trong và ngoài vương quốc Ông quản lý kho hàng và lãnh đạo đội ngũ nhân viên của mình, đóng vai trò bộ trưởng ngoại thương vì mọi hoạt động đều liên quan đến thương mại.

Thương điếm Anh ở Vương quốc Xiêm (1659-1674)

Từ năm 1624 đến 1659, Công ty Đông Ấn Anh không có nhân viên nào đến vương quốc Xiêm, ngoại trừ một số thợ mộc và thương nhân tự do làm việc cho vua Songtham vào khoảng năm 1625 Sự trở lại của thương nhân Anh vào năm 1659 diễn ra do áp lực từ cuộc chinh phạt Cao Miên của người Đàng Trong, khiến họ phải tìm nơi trú ẩn ở Xiêm sau khi thương điếm tại Phnompenh bị đóng cửa năm 1656 Những thương nhân này không phải là nhân viên chính thức của Công ty, mà chỉ sử dụng danh nghĩa của Công ty để bảo vệ bản thân và hàng hóa Dù vậy, vua Narai vẫn đối xử tốt với họ, cung cấp lương thực và bảo vệ chu đáo Qua thương nhân John Rawlins, vua Xiêm đã gửi thư mời Công ty Đông Ấn Anh trở lại buôn bán chính thức tại Ayutthaya.

John Rawlins đã nỗ lực chuyển lời mời của vua Narai đến Công ty nhằm khôi phục thương mại với Xiêm, nhưng báo cáo của ông không được chuyển đến Surat Trong khi đó, tàu Hopewell của người Anh đã đến Xiêm vào tháng 6 năm 1661, sau khi bị trì hoãn do gặp khó khăn trong hành trình Thuyền trưởng Richard Bladwell quyết định thay đổi lộ trình đến Xiêm, nơi vua Narai sẵn sàng xóa nợ cũ và cho phép lập thương điếm John South, một thương nhân ở lại Ayutthaya, rất lạc quan về triển vọng buôn bán tại đây và đã gửi hàng hóa từ Xiêm về Macao Ông cũng đề nghị Công ty cử thêm nhân viên, đặc biệt là Richard Lambton, để hỗ trợ hoạt động thương mại tại thị trường Xiêm.

Hà Lan ở Xiêm được ví như “một con cáo già 20 năm kinh nghiệm” và khuyên Richard Lambton nên đưa vợ sang Xiêm vì “giám đốc Hà Lan cũng có vợ, lũ trẻ và những người giúp việc trong ngôi nhà” Tại đây, có khoảng 300 đến 400 gia đình người Bồ Đào Nha cùng vợ và con cái sinh sống John South cho biết “Xiêm tốt hơn nhiều địa điểm khác ở Ấn Độ, nhưng sẽ có khó khăn lúc đầu, thương điếm cũ sẽ phải được thay đổi và một ngôi nhà mới sẽ được dựng lên ở nơi thuận tiện hơn” Dù tàu Hopewell đã đến Xiêm vào tháng 6/1661, chủ tịch Mathew Andrews ở Surat vẫn không nắm được sự thay đổi kế hoạch và tin rằng tàu sẽ đến Macassar trong một tháng Sau khi lưu lại Xiêm, tàu Hopewell dự kiến khởi hành về Surat, nhưng do thuyền trưởng Richard Bladwell không thể trả nợ, vua Narai yêu cầu phó thương nhân Thomas Cotes và John South ở lại Ayuthaya để làm tin.

Trong thời gian ở Xiêm, Thomas Cotes đã trao đổi thư từ với Hội đồng Surat, nơi Chủ tịch thương điếm bày tỏ lo ngại về việc người Anh bị yêu cầu ở lại Ayutthaya, trong khi Công ty lại mong đợi điều khác Chủ tịch cũng thông báo rằng Hopewell đã trở về Surat an toàn, nhưng chuyến đi đã gây ra tổn thất lớn cho Công ty Hiện tại, Surat không ủng hộ hoạt động tại Xiêm và yêu cầu Thomas Cotes trở về Bantam bằng tàu Hà Lan.

Vào ngày 2/12/1662, Thomas Cotes đã gửi thư tới Chủ tịch thương điếm Surat, thông báo về triển vọng bán hàng hóa Anh tại thị trường Xiêm và bày tỏ sự lo ngại về việc tài chính của mình gần cạn kiệt Ông hy vọng sẽ nhận được hỗ trợ tài chính nhờ ảnh hưởng của nhà vua, nhưng không thể tiến hành kế hoạch cho đến khi có chỉ thị từ Surat Tài liệu này cho thấy Surat không ủng hộ việc tái lập thương điếm ở Xiêm, điều này trái ngược với nhận định trước đó của các nhà nghiên cứu Đến tháng 12/1662, Ban Giám đốc ở Luân Đôn vẫn chưa biết về sự tồn tại của các thương điếm Anh ở Ayuthaya Trong công văn gửi Madras tháng 2/1663, Ban Giám đốc khẳng định chủ trương duy trì thương mại ở hải ngoại mà không phân tán tài sản cho các thương điếm mới Họ yêu cầu Surat cung cấp thêm thông tin về thương mại của Hà Lan tại Xiêm, lập luận rằng Công ty Đông Ấn Anh chỉ xem xét khả năng tiếp tục thương điếm Ayuthaya nếu Xiêm có thể tiêu thụ sản phẩm của Anh và cung cấp hàng hóa có lợi nhuận cho châu Âu.

Công ty đã xác định rõ điều kiện ủng hộ thương điếm tại Xiêm, khi các giám đốc nhận thức rằng người Hà Lan sử dụng Xiêm để cung cấp da cho Nhật Bản và gạo cho Batavia Họ cho rằng Xiêm không thể tiêu thụ lượng lớn hàng hóa sản xuất từ Anh, và sản phẩm của Xiêm cũng không có nhu cầu lớn tại châu Âu Mặc dù quan điểm này tồn tại ở Luân Đôn, vào ngày 19/3/1663, Ngài Chủ tịch thương điếm Madras, Edward Winter, đã cử tàu Madras Merchant do thuyền trưởng Cobham Doves điều hành và thương nhân Robert Dearing đến Xiêm.

Lưu trữ Văn phòng Ấn Độ không lưu giữ tài liệu nào về tình trạng của Công ty tại Ayutthaya sau khi tàu Madras Merchant đến Xiêm, ngoại trừ một lá thư của Robert Dearing gửi ngay sau khi tàu neo ở cửa sông Xiêm Con tàu chỉ ở lại một thời gian ngắn trên dòng sông Menam trước khi trở về pháo đài St George ở Madras vào giữa năm 1664.

Ban Giám đốc ở Luân Đôn đã phản ứng mạnh mẽ trước hành động phái tàu đi Xiêm của Edward Winter, người biện minh cho quyết định này bằng lý do thiếu hụt hàng hóa tại Madras Mặc dù Winter có lý do chính đáng, các Giám đốc vẫn chỉ trích ông một cách gay gắt và đe dọa sẽ tạm giữ tàu cũng như tài sản của ông nếu xảy ra thiệt hại Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, các tính toán cho chuyến đi đã được thực hiện.

Winter đã nhận thấy rằng chỉ thu được 240 bảng từ việc vận chuyển hàng hóa tư

Sau 30 chuyến đi không thành công của tàu Hopewell, ban giám đốc London quyết định chuyển giao hoạt động buôn bán ở Xiêm cho For.St George (Madras) do vị trí thuận lợi của Madras trong việc cung cấp hàng hóa cho thị trường Xiêm Khi tàu Madras Merchant đến Xiêm, chi phí bốc dỡ đã lên đến 2.800 bảng, và Ngài Edward Winter đã yêu cầu thêm 2.560 bảng để thực hiện nhiệm vụ Nghiên cứu sau này cho thấy Edward Winter là một tư thương nổi tiếng, với hầu hết hàng hóa tư nhân trên tàu Madras Merchant đều thuộc về ông.

Vào tháng 12/1664, khi Ban Giám đốcở Luân Đôn cử George Foxcroft đến thay thế Edward Winter tại pháo đài St.George (Madras), họ đã tuyên bố dứt khoát

Hiện tại, việc thiết lập thương điếm tại Xiêm chưa được khuyến khích, và Ban Giám đốc Luân Đôn nghiêm cấm điều này Quyết định này không thay đổi cho đến năm 1677, nhưng nhân viên Công ty ở châu Á không tuân thủ Sau khi tàu Công ty rời Xiêm năm 1663, nhiều người Anh, bao gồm nhân viên Công ty và các nhà buôn tư nhân, vẫn ở lại để thu hồi nợ hoặc kinh doanh hàng hóa Robert Dearing và William Bradford là những nhân viên cố gắng thu hồi nợ, nhưng sau khi Dearing qua đời năm 1665, Francis Nelthorpe được cử đến quản lý Đến tháng 6 năm 1669, Hội đồng Madras đã từ bỏ tham vọng kinh doanh tại Xiêm và từ chối gửi hàng hóa mới nếu không có chỉ thị từ Luân Đôn.

Edward Winter có khả năng thu hồi một phần lớn vốn đầu tư của mình tại Xiêm nhờ vào việc tổ chức đảo chính chống lại Foxcroft vào tháng 9 năm 1665 và nắm giữ pháo đài St George trong ba năm để chống lại Công ty Chứng cứ cho điều này được mô tả chi tiết trong bức thư của William Acworth gửi Ngài Geo Oxinden tại Surat, ngày 23/10/1666, trong đó nêu rõ sự xuất hiện của John.

33 Company to Madras, 31 December, 1664 Letter Book III, f.447

Vào thời điểm được cử đến Fort St George (Madras) để lãnh đạo trị sở, Foxcroft đã phải đối mặt với một cuộc binh biến do Edward Winter tổ chức Trong sự kiện này, Foxcroft cùng con trai bị giam giữ trong ba năm, trong khi ông Sambrooke bị thương và ông Dawes đã thiệt mạng.

Stanford ở Tenasserim trên một trong những con tàu của Edward Winter vào tháng

On March 15, 1666, Edward Winters, accompanied by John Stanford, received a portion of cargo from the ship Madras Merchant during their journey to Tanasaree.

Vào tháng 3 năm 1666, Foxcroft đã báo cáo rằng một trong những chiếc thuyền mành của Edward Winter từ Xiêm đã cập cảng Madras, mang theo từ 20.000 đến 25.000 đồng tiền pagoda Vào tháng 4 cùng năm, sự kiện này tiếp tục thu hút sự chú ý.

John Seale, một nhân viên khác của Edward Winter cũng đã tới Ayuthaya qua ngả Tenasserim Cuối cùng, đến tháng 1/1672, Edward Winter đã trở về Anh

Trong giai đoạn này, nền thương mại của Công ty Đông Ấn Anh tại Xiêm được coi là "ẩn lậu", khi các nhân viên châu Á không tuân thủ chỉ đạo từ Ban Giám đốc ở Luân Đôn Họ đã tự ý tiến hành các hoạt động thương mại tư nhân dưới danh nghĩa Công ty nhằm làm giàu bất chính, với Edward Winter là nhân vật nổi bật nhất trong giai đoạn này.

Thương điếm Anh ở Vương quốc Xiêm (1674-1682)

Giữa năm 1663 và 1674, Xiêm không được Công ty Đông Ấn Anh (EIC) xem xét trong chiến lược mở rộng thương mại tại Đông Á Đến năm 1674, thương điếm Anh tại Xiêm được tái lập, đánh dấu một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại với vương quốc Thái Tuy nhiên, việc tái thiết lập này không chỉ đơn thuần là theo cách diễn giải của các nhà nghiên cứu như John Anderson, E.W Hutchinson và D.G.E Hall Dù Anderson nhận thấy sự phát triển thương mại mạnh mẽ của Edward Winter ở Xiêm, ông vẫn cho rằng EIC vẫn quan tâm đến khu vực này Thực tế, tình hình thương mại tại Ayutthaya đã suy sụp sau cái chết của ông Dearing, dẫn đến sự trì hoãn trong mối quan tâm của Công ty đối với Xiêm.

Nghiên cứu cho thấy Công ty Đông Ấn Anh đã chú trọng đến thương mại tại Xiêm, với việc tái mở thương điếm ở Ayutthaya vào năm 1674 E.W Hutchinson và D.E.G Hall cũng nhận định rằng sáng kiến này xuất phát từ Bantam, nơi có sự quan tâm đến Xiêm Tuy nhiên, những quan điểm này không hoàn toàn chính xác, vì chúng không phản ánh đúng chỉ thị của Ban Giám đốc gửi tới Madras vào tháng 12/1664, cũng như việc các giám đốc đã từ chối mở thương điếm ở Xiêm khi có kế hoạch phát triển thương mại ở Viễn Đông trong những năm 1668.

Giữa các năm 1664-1674, không có nỗ lực nào từ các Chủ tịch hoặc đại diện thương mại của Công ty nhằm duy trì hoạt động thương mại với Xiêm.

Vào tháng 12 năm 1673, Nicholas Waite có mặt ở Xiêm và đã gửi một bản mô tả về thương mại của Xiêm đến Gerald Aungier, chủ tịch Hội đồng ở Surat Sự nhầm lẫn của nhà nghiên cứu John Anderson cho rằng Nicholas Waite đến từ Bombay và hoạt động kinh doanh của ông mang tính chất quan phương và tư nhân Tuy nhiên, chuyến thăm của Waite đến Xiêm hoàn toàn ngẫu nhiên, do ông được cử làm thư ký cho William Gifford và quyết định đầu tư thương mại bằng một thuyền mành đi Macao Gió mùa không thuận lợi đã buộc thuyền quay lại Đàng Ngoài, từ đó Waite viết thư cho Aungier, báo cáo về những thuận lợi trong quan hệ thương mại với Xiêm Tuy nhiên, khi phát hiện Waite chỉ tìm kiếm lợi ích cá nhân, Hội đồng Công ty ở Surat đã thông báo với Ban Giám đốc ở Luân Đôn rằng họ sẽ không tiến hành thương mại tư nhân mà không có sự đồng ý của Ban Giám đốc.

Kế hoạch phát triển thương mại của Anh ở Viễn Đông đã được D.K Basset đề cập trong tác phẩm của ông về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh từ năm 1623 đến 1684 Richard Bladwell đã đề xuất mở thương điếm tại Xiêm vào tháng 10 năm 1688, nhưng ban giám đốc đã quyết định chọn Đàng Ngoài (Đại Việt) và Đài Loan là địa điểm ưu tiên.

Nicolas Waite sau này trở thành chủ tịch của công ty Đông Ấn mới, không gây thiệt hại khi cho phép nhân viên và những người có đặc quyền của Bombay mở cầu thương mại đến các địa điểm và cuộc phưu lưu riêng của họ Vào tháng 2/1674, ông rời Xiêm trên một chiếc thuyền mành đến Campuchia, sau đó lên tàu của Pháp để tìm đường đến Macao và Đàng Ngoài Tuy nhiên, vận may không mỉm cười với Waite khi tàu Pháp gặp bão và dạt vào Manila, nơi ông bị giam giữ cho đến năm 1679 Sự xuất hiện của tàu Return tại Bangkok vào tháng 1/1675 không phải là hệ quả trực tiếp từ bức thư mà Waite gửi cho Gerald Aungier, cũng như không phải kết quả của các sáng kiến từ trị sở Bantam.

Năm 1672, Công ty đã lên kế hoạch mở rộng hoạt động thương mại đến Viễn Đông, mở thương điếm tại Đài Loan và Đàng Ngoài, và tàu Return được chọn để thiết lập quan hệ với Nhật Bản vào năm 1673 Tuy nhiên, các Giám đốc nhận thấy chính quyền Mạc phủ Đức Xuyên của Nhật Bản đang thực hiện chính sách "Tỏa quốc", khiến Simon Delboe và Hamon Gibbon không thể đặt chân đến Nagasaki Trong thời gian trú ngụ tại Macao, họ nhận thấy thương mại yếu kém do chiến tranh Anh - Hà Lan (1672-1674) Cuối cùng, khi không biết rằng chiến tranh đã kết thúc, họ quyết định đến “Bancock ở vùng cửa sông của Xiêm” với hy vọng tìm kiếm hàng hóa của Anh và được vua cấp nhà để lập thương điếm ở Ayutthaya.

Vào ngày 18/12/1674, sau một đợt gió mùa đông bắc mạnh, tàu Return mới có thể neo đậu gần cửa sông Xiêm Người Anh được chào đón nồng nhiệt và được phép định cư tại các khu đất cũ của Công ty ở Ayutthaya Họ đã cử một chiếc xuồng nhỏ quay lại tàu Return để thông báo về nền hòa bình.

Vào tháng 8 năm 1674, Giám mục Francois Pallu đã rời khỏi cứ điểm truyền giáo ở Xiêm để đến Tongking, cùng với 38 Waite trên một con tàu Pháp Tuy nhiên, Pallu đã bị người Tây Ban Nha bắt giữ tại Manila trước khi được phép trở về Pháp qua Thái Bình Dương và Acapulco (Mexico).

Hà Lan giúp đưa con tàu tiến lên Bangkok vào ngày 2/2/1675, nơi nó đã hạ neo

“gần pháo đài Bangkok” Như vậy, thương điếm của Công ty ở vương quốc Xiêm đã chính thức được tái lập

Mặc dù có những tiến triển trong quan hệ ngoại giao, nhưng lần gặp gỡ vua Narai đã để lại ấn tượng không tốt khi người Anh mượn một khoản tiền lớn 10.000 đô la từ triều đình Xiêm để mua đồng cho tàu.

Khoản nợ tại Surat đã góp phần vào sự sụp đổ hoạt động buôn bán của Công ty ở Ayutthaya Ngày 31/1/1675, Delboe qua đời ngay sau khi đến Xiêm, và Hamon Gibbon được bổ nhiệm làm người kế nhiệm William Ramsden, Benjamin Sanger, Richard Jennings và Samuel Potts đã được chọn làm thư ký cho công ty.

Nhân viên Công ty rất hài lòng với sự đón tiếp ở Ayutthaya và Louvo, quyết tâm duy trì thương điếm tại đây và cử tàu đến Surat Vào ngày 24/2/1675, tàu Return khởi hành đến Surat với danh sách các vật phẩm mà vua Xiêm mong muốn từ Công ty Mặc dù hoạt động của Công ty ở Xiêm có vẻ thuận lợi, nhưng chuyến thăm của tàu Return vào năm 1675 lại diễn ra ngẫu nhiên, giống như tàu Hopewell năm 1661 Chủ tịch Surat không biết về việc tái định cư của nhân viên Công ty tại Ayutthaya cho đến tháng 12/1675, trong khi trị sở Bantam cũng không nắm được thông tin này cho đến mùa xuân năm 1676 Các giám đốc ở Luân Đôn chỉ được báo cáo vào tháng 10/1676 Việc tái lập thương điếm ở Xiêm khiến Luân Đôn không thể triệt tiêu ngay lập tức, đặc biệt khi nhân viên nhấn mạnh tầm quan trọng của Xiêm trong thương mại của Công ty Gerald Aungier, Chủ tịch tại Surat, cũng bày tỏ lo lắng về việc tái lập thương điếm tại Ayutthaya, mặc dù ông từng ủng hộ việc định cư ở Xiêm và bị lừa bởi Harmon Gibbon về sự hỗ trợ của vua Narai.

Samuel Potts được bổ nhiệm làm "thư ký" nhờ sự đề cử của Lord Berkeley và sự bảo lãnh của Sampson Potts từ Litchfield cùng với ngài John Potts từ Westminster Được gửi từ London và trải qua đào tạo chuyên nghiệp, Samuel Potts nhanh chóng khẳng định vai trò quan trọng của mình, đặc biệt đối với William Ramsden và Benjamin Sanger, những người mà Hamon Gibbon không thể kiểm soát Vào ngày 13/1/1675, bức thư từ nhân viên Công ty ở Xiêm đã thông báo cho các nhà chức trách ở Surat về những thuận lợi trong kinh doanh, trong đó quan trọng nhất là việc nhà vua cấp cho Công ty một Tarra (giấy phép thương mại).

Vua Xiêm là một người bạn đáng kính, ông đã dành sự tôn trọng và đặc quyền cho chúng tôi Theo thông tin mà chúng tôi nhận được, nhà vua rất sẵn lòng hỗ trợ mọi điều cần thiết để khuyến khích chúng tôi ở lại Công ty của chúng tôi sẽ được cấp một Tarra, như yêu cầu của ông Delboe, và nhà vua đã đáp ứng điều này.

Về các điều khoản trong giấy phép: [277, tr.294]

Nhà vua đã cấp cho Hamon Gibbon quyền xây dựng một thương điếm trong vương quốc để thuận lợi cho việc mua bán Ông được ban cho một Tarra, giúp ông an toàn trong việc giao dịch các mặt hàng như thiếc, chì, kẽm, đồng, ngà voi, và sừng tê giác Nhà vua cũng ra lệnh miễn trừ kiểm tra hải quan và các trách nhiệm liên quan Nếu cần mua ngà voi hoặc sừng tê, có thể yêu cầu một Tarra khác theo phong tục.

CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH Ở VƯƠNG QUỐC XIÊM (1683-1685): ÁP LỰC CẠNH TRANH VỚI PHÁP VÀ ĐÓNG CỬA THƯƠNG ĐIẾM

Phái đoàn Strangh và nỗ lực cứu vãn nền thương mại Anh ở vương quốc Xiêm (1683-1684)

Vào năm 1681, Gosfright không đạt được thỏa thuận với người Xiêm, khiến Richard Burnaby tự mãn với vị trí của mình, trong khi thương điếm Xiêm kéo dài 8 năm không mang lại lợi nhuận Trước tình hình này, Ban Giám đốc quyết định tiến hành một cuộc điều tra cuối cùng về triển vọng thương mại tại vương quốc Xiêm Đến tháng 12 năm 1682, họ cử William Strangh và Thomas Yale từ Luân Đôn đến Xiêm trên tàu Mexico Merchant để xem xét thiệt hại của thương điếm Ngày 01/9/1683, khi tàu Mexico Merchant đến Xiêm, các thanh tra viên nhanh chóng nhận ra rằng không chỉ thương điếm của người Anh bị phá hủy, mà tất cả các cuộc đàm phán đều bị chi phối bởi một cá nhân duy nhất.

Hy Lạp tên là Phaulkon - người mà gần 7 năm trước đó chỉ là một nhân viên bình thường của Công ty

William Strangh và Thomas Yale, 68, được trao quyền điều tra các vụ việc liên quan đến Công ty và tìm kiếm thỏa thuận với triều đình Xiêm, yêu cầu quốc vương mua hàng năm một lô hàng trị giá £30.000 Nếu triều đình Xiêm từ chối, Strangh sẽ ngay lập tức đóng cửa thương điếm.

Tất cả các hoạt động của Công ty tại Xiêm trong thời gian này được ghi chép chi tiết trong nhật ký của Strangh.

Strangh tập trung vào vai trò quan trọng của Phaulkon tại kinh đô Ayutthaya từ năm 1683 Nhờ vào sự ủng hộ mạnh mẽ, Phaulkon đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong thời kỳ này.

68 Trong Court Munites, 3 rd November 1682 có viết rằng “Strangh được nhận vào làm cho Công ty trong năm

Vào năm 1682, với mức lương 50 bảng và khoản bảo lãnh £1000 từ Francis Heath, một người bán quần áo, và James Lyall, một thương nhân ở London, Strangh đã trả cho trợ lý Thomas Yale hơn £30 để thể hiện thiện cảm với vua Narai Khi giáo sĩ Francois Pallu đến hội kiến, vị tân bộ trưởng Phaulkon đã thể hiện sức mạnh đáng nể của mình, nhờ vào sự từng trải của ông Phaulkon đang sử dụng một ngôi nhà ở khu phố người Hoa để phục vụ cho công việc kinh doanh và nghỉ ngơi.

Ngay khi đến Ayutthaya, Strangh và Yale được giới thiệu đến tư dinh của Ngài Constance Phaulkon, một ân nhân lớn của Công ty và là thương nhân chính của quốc vương Xiêm Strangh nhận được sự tiếp đón nồng hậu từ Phaulkon cùng với sự phục vụ của nhiều thuộc hạ Ông cũng được thông báo rằng khi nghe tin Strangh đến, nhà vua đã chuẩn bị cho ông một ngôi nhà.

Strangh nhận thấy cần có một ngôi nhà riêng trong vòng 3 hoặc 4 ngày để tận hưởng sự riêng tư và điều tra nguyên nhân hỏa hoạn tại thương điếm của Công ty Phái đoàn của ông cũng mong muốn bảo vệ lượng đồng còn lại trên thuyền của Potts, hàng hóa mà Phaulkon dùng để trả nợ cho Công ty Potts được cho là đã sống hưởng thụ nhờ số tiền từ việc bán đồng trước khi Strangh đến Cuối cùng, Strangh lo ngại rằng nước có thể đã xóa hết dấu vết của đám cháy, gây khó khăn cho việc điều tra nguyên nhân vụ việc.

Sau khi ngôi nhà mới được vua Xiêm ban cho hoàn thành, Strangh nhanh chóng chuyển đến nơi ở mới vì không cảm thấy thoải mái tại tư dinh của Phaulkon Potts và Ivatt không đạt được kết quả gì trong cuộc tranh chấp với Phaulkon; Ivatt đã thừa nhận rằng Potts là thủ phạm của vụ hỏa hoạn nhằm tiêu hủy chứng cứ và hủy hoại sổ sách của Công ty Ngược lại, Potts cáo buộc Phaulkon là người gây ra đám cháy để khiến ông phụ thuộc vào người Hi Lạp Potts từng khẳng định rằng Phaulkon là “bụi gai cần phải nhổ tận gốc” để bảo vệ quyền lợi của Công ty.

Trong bối cảnh khó khăn, Strangh cảm thấy cần một cố vấn dày dạn kinh nghiệm và trung lập Potts và Ivatt, những người đưa ra lời khuyên, lại có quan điểm trái ngược nhau Richard Burnaby, trở về Ayuthaya với công việc riêng, nhận được sự tín nhiệm và được Phaulkon bổ nhiệm vào vị trí tại Mergui Trong sự bối rối, Strangh đã nhờ đến Hamon Gibbon, một trợ lý cũ của Sanger, người đã từ chức khi Burnaby được giao nhiệm vụ thay thế Sanger, Ramsden và Gibbon Gibbon đã từng phản đối Burnaby và thường xuyên đối đầu với Phaulkon, dẫn đến việc Strangh cũng phát sinh thành kiến với Phaulkon, người mà ông đã làm việc cùng khi Phaulkon còn là thông dịch viên cho các bộ trưởng Xiêm.

Sau 6 ngày ở kinh đô Xiêm, Strangh mới được tiếp kiến Bộ trưởng Xiêm (Phra-Klang), và đã được thông báo rằng Potts là kẻ tình nghi gây ra vụ hỏa hoạn Strangh hứa sẽ điều tra người phải chịu trách nhiệm Tuy nhiên, sau khi trải qua một tuần thẩm tra Potts và Ivatt, ông ta thấy không thể đưa ra một phán quyết rõ ràng Vì thế, Strangh bàn luận qua loa về vấn đề này và chuyển sự chú ý của mình đến hoạt động kinh doanh - điều đã đưa ông ta đến Xiêm Sự quan tâm đầu tiên của Strangh là thu xếp quà biếu cho vua Narai Strangh đã rất khó chịu khi nghe Phaulkon nói rằng ông ấy mong đợi sẽ được cung cấp quà biếu trị giá tới £1.400, gồm các hàng hóa là súng và vải Tuy nhiên, Strangh cảm thấy yên tâm phần nào khi nghe Phaulkon nói rằng ông ấy sẽ có thể nhận lại được phần quà có giá trị tương đương

Nhiệm vụ của Strangh là thương lượng một hợp đồng lớn cho Công ty Đông Ấn Anh, nhưng khi ông yêu cầu đàm phán trực tiếp với các Bộ trưởng, đã xảy ra xích mích với Phaulkon, người cảm thấy bị xúc phạm Phaulkon quyết tâm khẳng định quyền lực của mình và gây áp lực lên Strangh Trước khi Strangh chuyển vào khu nhà do quốc vương Xiêm bố trí, Phaulkon đã khơi mào một cuộc tranh cãi về Potts, người đã gửi thư khiếm nhã về ông và vu khống rằng Phaulkon rời bỏ Công ty vì không hài lòng với vị trí của mình Phaulkon chỉ trích Công ty và bác bỏ lời khuyên của George White, đồng thời đe dọa Potts nếu không rời khỏi đất nước Những chỉ trích này khiến Strangh bối rối, tạo cơ hội cho ông suy ngẫm về những rắc rối mà Công ty đang gặp phải.

Lo lắng gia tăng khi Strangh nghe từ một thương nhân Ấn Độ rằng Bộ trưởng Xiêm không thực sự thiên vị Potts như Phaulkon đã nói Thương nhân này đã khen ngợi Potts, khiến Phaulkon tức giận Ông đã bắt giữ những người Ấn Độ và đưa họ đến một bữa tiệc lớn mà ông tổ chức, nơi Strangh cũng có mặt Tại bữa tiệc, những người Ấn Độ bị công khai kết tội thông đồng với Potts và bị tuyên án tù.

Trong bối cảnh căng thẳng giữa Strangh và Phaulkon, sự bối rối của người Anh là điều dễ hiểu Strangh đã viết một bức thư chỉ trích Phaulkon, yêu cầu ông không để lợi ích cá nhân làm mờ đi trách nhiệm đối với các nhân viên của Công ty Phaulkon đã phản bác lại bằng cách nhấn mạnh rằng "thương nhân tự do" có khả năng thanh toán cho hàng hóa của họ, trong khi Công ty lại đang vay nợ từ các hợp đồng trước đó với Xiêm Ông cũng từ chối yêu cầu độc quyền thương mại của Công ty vào thời điểm họ có ý định rời khỏi đất nước Cuối cùng, Phaulkon khẳng định rằng vua Xiêm sẽ không cấm ông hỗ trợ "thương nhân tự do", ngay cả khi ông từ chối tham gia vào các hợp đồng không có lợi mà Strangh đã thương thảo.

Bộ trưởng (Phra-Klang) đã tiếp đón Strangh và thông báo rằng hàng hóa của công ty Anh không phù hợp với thị trường Xiêm Ông không đề cập đến hợp đồng định kỳ hàng năm mà Strangh đề xuất, nhưng hứa sẽ hỗ trợ công ty trong việc thu hồi nợ, mặc dù không thể đảm bảo kết quả Tuyên bố quan trọng nhất của Bộ trưởng là vương quốc Xiêm sẽ tiếp tục mở cửa thương mại cho tất cả các thương nhân, bao gồm cả những “thương nhân tự do” mà Công ty Đông Ấn coi là đối thủ.

Strangh quyết định tham gia vào thị trường tự do, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng các thương nhân đều né tránh giao dịch với ông và Công ty Nguyên nhân là do họ nghi ngờ về việc ông có được sự cho phép của Phaulkon hay không.

Nỗ lực bất thành của Hội đồng Surat trong việc khôi phục nền thương mại Anh ở vương quốc Xiêm năm 1685

Ngài John Child, 71 tuổi, tại Surat, tin rằng Strangh có thể đã đạt được nhiều thành công hơn nếu ông hòa hợp với Phaulkon để thảo luận về lợi ích từ vị trí của mình Trong khi chờ đợi hướng dẫn từ Luân Đôn, Ngài John Child đã cử ba phái viên từ Surat đến Xiêm với nhiệm vụ giải quyết công việc tại Ayutthaya, nơi họ sẽ nỗ lực hết mình để tìm kiếm một giải pháp hòa bình và thân thiện với Xiêm.

Robert Harbin, Daniel Gyfford và Thomas Yale là các phái viên đã khởi hành đến Xiêm vào tháng 5/1685 trên tàu Falcon để thương lượng Tuy nhiên, họ đến quá muộn để thực hiện mong muốn của Ngài John Child, vì vào năm 1684, quan hệ giữa Pháp và Xiêm đã phát triển đến mức mà sự chú ý của người Xiêm chỉ tập trung vào Pháp, không còn dành cho bất kỳ quốc gia ngoại quốc nào khác.

Vào đầu năm 1684, sau những kết quả không khả quan tại Xiêm, Strangh, Potts và Thomas Yale đã quyết định lên tàu trở về nước.

Vào tháng 10 năm 1684, tàu đã cập bến Surat để thông báo cho Ngài John Child về thất bại tại Ayutthaya, nguyên nhân chính là do những cản trở từ Phaulkon.

John Child không hoàn toàn bị thuyết phục bởi những bất bình của Potts và Strangh Ông chỉ trích cách thức thực hiện nhiệm vụ của Strangh và đã viết thư phê phán vua Xiêm về việc Strangh tự ý rời bỏ mà không có chỉ thị từ Công ty Bên cạnh đó, John Child cũng quy trách nhiệm cho Strangh trong báo cáo gửi Ban Giám đốc Công ty ở Luân Đôn vì không thu mua được hàng hóa cần thiết tại Ayutthaya, mặc dù ông có khả năng thực hiện điều đó Nhân chứng quan trọng nhất chống lại Strangh là đồng nghiệp Thomas Yale, người đã từ chối ký vào một lá thư do Strangh soạn thảo khi ở ngoài khơi Karwar, trong đó Strangh đổ lỗi cho sự thất bại của nhiệm vụ vào “những việc làm xấu xa và độc ác” của Phaulkon.

Các phái viên của đoàn thanh tra đã báo cáo với Ngài John Child rằng vị trí của Phaulkon sẽ không bền vững và cách cư xử của ông khiến nhiều thương nhân không muốn đến Ayutthaya, dẫn đến nhiều phàn nàn về ông Phaulkon được mô tả là có diện mạo thô tục, nhưng Chủ tịch và Hội đồng Công ty tại Surat vẫn khẳng định sẽ tiếp tục ủng hộ ông để đạt được lợi ích của mình Mặc dù thương điếm Anh tại Ayutthaya đã đóng cửa, họ quyết tâm mở lại vào đầu năm 1685, với tàu Falcon do Robert Harbin và Gyfford chỉ huy Trước khi khởi hành, Ngài John Child đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giao dịch đúng đắn với Phaulkon và yêu cầu nhân viên phải giữ cái tôi cá nhân ở mức tối thiểu để duy trì quyền lực và sức mạnh trong quan hệ với quốc vương Xiêm và các bộ trưởng.

Vào ngày 3/5/1684, một bức thư đã được gửi đến chủ tịch và Hội đồng ở Surat, Carwar, trong đó tác giả bày tỏ mong muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình để tôn trọng ông Faulkon, một người thông minh và chăm chỉ Tác giả nhấn mạnh rằng nếu ông Faulkon không thiện chí, họ sẽ buộc phải sử dụng vũ lực, nhưng vẫn hy vọng mọi người sẽ hành động thận trọng và khéo léo để tránh những rủi ro không đáng có.

Vào ngày 21/4/1685, Chủ tịch và Hội đồng Đông Ấn tại Surat đồng thời chuyển quyết định trên 73 đến Ban Giám đốc ở Luân Đôn kèm theo thông báo:

Tàu Falcon dự kiến sẽ khởi hành đến Xiêm vào tháng tới, chở đầy hàng hóa, trong khi nhân viên sẽ định cư tại đây để ngăn chặn thương nhân tự do bán hàng hóa Ấn Độ với giá cao hơn Mối quan tâm của Anh đối với Xiêm được khơi dậy bởi hoạt động thương mại sôi nổi giữa Masulipatnam và Mergui, cùng với việc nhiều phái đoàn Ba Tư đã đến Madras để thương thảo Đặc biệt, sự chú ý lớn nhất đến từ việc các sứ thần Xiêm đã đến thăm pháo đài St George của Công ty ở Madras, mang theo đề nghị tái lập quan hệ thương mại với vương quốc Xiêm, với khả năng nhận được những đặc quyền thương mại lớn từ quốc vương Xiêm.

Ngài John Child, Chủ tịch thương điếm Anh tại Surat, đã cử phụ tá gửi thư đến Ayutthaya cho vua Xiêm và "Bộ trưởng Barkalon" Trong thư, ông bày tỏ lo ngại về những hiểu lầm dẫn đến sự không hài lòng giữa "Barkalon" và các nhân viên thương điếm Anh đã định cư và buôn bán lâu năm tại Ayutthaya Ông khẳng định rằng sự cư xử và phục vụ của các thương nhân Anh trong thời gian qua là rất tích cực.

Việc tự ý bỏ Xiêm mà không có quyết định hay chỉ thị từ Công ty là điều không thể chấp nhận Ngài John Child hy vọng rằng các nhân viên mới được cử đến sẽ hành xử lịch thiệp để làm hài lòng Bộ trưởng Barcalon.

John Child đã gửi một bức thư đến đức vua Xiêm, trong đó ông xin phép xây dựng một khu định cư tại thành phố Xiêm với những đặc quyền bảo đảm an toàn cho nhân viên và tài sản Trong báo cáo gửi về Ban Giám đốc tại Luân Đôn, Chủ tịch Hội đồng Surat đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái lập thương điếm Ayuthaya và yêu cầu chấm dứt sự tồn tại của những thương nhân tự do, khẳng định rằng mục tiêu này chỉ có thể đạt được thông qua việc thiết lập một khu định cư.

Vào tháng 6 năm 1685, Hội đồng Madras đã đề xuất gửi một người chỉ huy từ Madras đến Xiêm để thúc đẩy việc thiết lập một khu định cư của người Anh tại Ayutthaya, sau khi vua Xiêm gửi sứ thần đến Madras Họ lập luận rằng việc trao đổi thư từ giữa pháo đài St.George và Xiêm sẽ thuận tiện hơn so với Surat, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ thương mại giữa Madras và bờ biển phía Tây của Xiêm Dù vậy, Hội đồng Madras vẫn hy vọng phái đoàn từ Surat sẽ thành công trong việc khai thác thị trường Ayutthaya, quan trọng cho việc tiêu thụ hạt tiêu và hàng hóa châu Âu, kết nối với các thị trường Viễn Đông như Nhật Bản và Trung Quốc Đến tháng 9 năm 1685, tàu Falcon đã chở các ông Robert Harbin, Gyfford và cộng sự đến Bangkok, nhưng rất ít ghi chép về cuộc thương lượng giữa người Anh và triều đình Xiêm về việc tái lập quan hệ thương mại mới.

Falcon đã không đạt được kết quả mong đợi do sự xuất hiện của hai tàu chiến Pháp tại kinh đô Xiêm, chở theo viên sứ thần của quốc vương Louis XIV đến thăm triều đình Trong bối cảnh tiệc đón tiếp trọng thể dành cho phái đoàn Pháp, sự hiện diện của người Anh tại Xiêm đã không còn được triều đình Ayutthaya chú ý nhiều.

Nhân tố Pháp trong quan hệ Anh-Xiêm trong thập niên 80 của thế kỷ XVII

Người Pháp đến Đông Nam Á vào thế kỷ XVII với mục tiêu truyền giáo, ban đầu tránh xa thương mại và chính trị Tuy nhiên, sự hiện diện của họ tại Xiêm đã mở đường cho cạnh tranh với Anh và Hà Lan Vào tháng 4/1662, giáo sĩ Mgr Lambert de la Motte từ Hội truyền giáo Pháp đã tới Mergui trên đường đến Đàng Trong, được thành lập với sự ủng hộ của vua Louis XIV Kế hoạch này gặp phải sự phản đối từ các giáo sĩ dòng Tên và các quốc gia như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, lo ngại về sự mở rộng ảnh hưởng của Pháp Để giải quyết, giáo hoàng đã phong chức cho các giáo chủ để tổ chức công việc truyền giáo Lambert de la Motte dự định đi vào miền Tây Trung Quốc nhưng sau khi nhận được tin về xung đột ở Miến Điện, ông đã chuyển hướng đến Ayutthaya Sau một số sự cố, ông và các giáo sĩ quyết định đặt tổng hành dinh tại Ayutthaya, nơi họ được phép xây dựng nhà thờ và trường dòng, bắt đầu xâm nhập vào nhiều khu vực của quốc gia này.

Các nhà truyền giáo Pháp tại Ayutthaya đã gửi về những báo cáo phóng đại về thành công của họ, khiến triều đình Versailles hy vọng rằng Xiêm sẽ sớm chuyển sang Cơ đốc giáo Sau chuyến viếng thăm châu Âu vào tháng 1 năm 1664, giám mục Pallu trở lại Xiêm với thư của vua Louis XIV gửi vua Xiêm, và được đón tiếp nồng nhiệt Hai giám mục Pallu và Lambert de la Motte đã thỉnh cầu vua Xiêm cử sứ thần sang Pháp Mặc dù lúc này, Narai chưa nghiêm túc về việc thiết lập liên minh với Pháp để chống lại Hà Lan, nhưng bức thư của Louis đã làm thay đổi thái độ của ông Tuy nhiên, do Pháp và Hà Lan đang có chiến sự ở châu Âu, kế hoạch này chỉ tồn tại trong tưởng tượng của các nhà truyền giáo Pháp.

Vào thập niên 1680, ảnh hưởng của Pháp tại Xiêm trở nên rõ ràng hơn Cùng lúc phái đoàn đầu tiên của Xiêm đến Pháp bị mất tích, giáo sĩ Pallu thực hiện chuyến đi thứ ba và cuối cùng đến phương Đông vào mùa xuân năm 1681 Mặc dù Trung Quốc là điểm đến cuối cùng, nhưng hoạt động thương mại ở Xiêm đã thu hút sự chú ý của Pallu Trước đó, trong chuyến đi thứ hai vào năm 1673, Pallu đã trình lên vua Narai một bức quốc thư từ vua Louis XIV, cảm ơn sự hỗ trợ của Xiêm cho các nhà truyền giáo Pháp Vào thời điểm đó, vua Narai đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ Pháp và đã sẵn sàng cử phái đoàn sang Pháp.

Năm 1681, vua Louis XIV đã cử giáo sĩ Pallu đến Xiêm mang theo bức thư thứ hai gửi vua Narai, trong đó đề xuất mở rộng lòng hiếu khách để tiếp nhận các thương nhân Pháp Đây là lần đầu tiên những thương nhân này định cư tại Xiêm dưới sự quản lý của Boureau-Deslandes, con rể nổi tiếng của Franỗois Martin, người đứng đầu khu định cư của Pháp tại Pondicherry.

Vào ngày 01/02/1682, Boureau-Deslandes cho biết ông được cấp một căn nhà xiêu vẹo ở phía nam hòn đảo mà không phải trả tiền thuê, nhưng ông sẵn sàng thanh toán nếu cần Dù không phải trả tiền thuê, ông vẫn phải chi tiêu một khoản lớn cho nơi cư trú Trong thư, ông cũng tiết lộ những khó khăn mà các thương nhân nước ngoài gặp phải do nền thương mại ở Xiêm bị nhà nước quản lý.

Năm ngoái, nhà vua đã quyết định không cho phép các sản phẩm đồng từ Nhật Bản vào thị trường tự do Tôi đã yêu cầu hỗ trợ để cung cấp khoảng 400 hoặc 500 hòm đồng theo giá thị trường nhưng bị từ chối vì đó là mệnh lệnh của nhà vua Tuy nhiên, tôi đã nhận được một tỷ lệ 25%, cao hơn mức giá thị trường Hiện tại, chúng ta đang phải đối mặt với người Hồi và tôi không thể lấy lại tiền từ họ, vì từ năm ngoái, Bộ trưởng đã khuyến khích tôi nhượng lại toàn bộ hàng hóa để nhận được sự bảo lãnh Giờ đây, ông ta không thừa nhận trách nhiệm và cần có sự thay đổi tích cực.

Trong suốt hai năm ở Xiêm, Boureau-Deslandes đã thể hiện phẩm chất lãnh đạo mặc dù còn trẻ tuổi và có tầm nhìn xa Tuy nhiên, những bức thư do con trai ông thu thập cho thấy ban đầu Boureau-Deslandes không hoàn toàn hài lòng với những triển vọng hiện tại, vì ông nhận thấy rằng sẽ là vô vọng nếu nghĩ về cách giải quyết vấn đề một cách trọn vẹn tại đất nước này.

Cuối cùng, Boureau-Deslandes quyết định thực hiện các chính sách mà Richard Burnaby và George White đã đề xuất để tận dụng tình hữu nghị với Phaulkon, người có vị thế quan trọng trong quan hệ với các bộ trưởng Xiêm Ông nhanh chóng nhận ra sự nổi bật của Phaulkon và đã nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết với viên quan người Hi Lạp, trong khi thương nhân người Anh Potts cố gắng xa lánh Phaulkon.

Trong bức thư gửi cho Samuel Baron khi đã hết thời gian ở Xiêm, Boureau- Deslandes nói về Phaulkon - người sau đó thu hút được sự chú ý của vua Narai:

Ông ta là một doanh nhân nổi bật, thường xuyên gặp gỡ nhà vua hai lần mỗi ngày Nhà vua, với trí óc tò mò và sở thích kết bạn, thường dành hai đến ba giờ cho những cuộc trò chuyện này Tình bạn với một người như vậy mang lại lợi ích to lớn, vì mọi thỉnh cầu đều phải qua sự trung gian của ông Sự thân thiện của tôi với người đàn ông này rất đáng trân trọng.

Constance Phaulkon: từ hợp tác với người Anh đến bắt tay với người Pháp

Constantine Phaulkon, sinh năm 1647 tại thị trấn Argostoli trên đảo Cephalonia, là con cả trong gia đình có bốn anh em trai và được nuôi dưỡng trong một gia đình theo đạo Công giáo Năm 1660, ông đã trốn khỏi nhà để trở thành nhân viên phục vụ trên một tàu buôn.

Cephalonia, hòn đảo lớn nhất trong nhóm 7 hòn đảo Ionian, nằm dọc bờ biển phía tây Hy Lạp, đã chịu sự cai trị của người Venetian từ năm 1500 đến 1797, khi Napoléon chiếm đóng Sau đó, hòn đảo trải qua sự chiếm đóng ngắn ngủi của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ, trước khi người Anh giành quyền kiểm soát vào năm 1809 Sự cai trị của Anh kết thúc vào năm 1864, khi Cephalonia chính thức được hợp nhất vào Hy Lạp.

76 E.W.Hutchinson thăm Cephalonia trong khi viết tác phẩm “Những kẻ phưu lưu ở Xiêm thế kỷ XVII” năm

Vào năm 1930, gia đình Constance Phaulkon được xác định thuộc tầng lớp quý tộc, với cha là Don Giorgio Gerachi, một linh mục và thống đốc đảo Cephalonia, và mẹ là Aanetta Foca Supianto, cũng xuất thân từ gia đình quý tộc Anh Năm 1670, Phaulkon ký hợp đồng làm trợ lý phụ trách vũ khí trên tàu Hopewell của Anh đến Batam, nơi ông nhanh chóng chiếm được cảm tình của người Anh và trở thành phụ tá cho Công ty Đông Ấn Anh Tại đây, ngoài việc thành thạo tiếng Anh, Phaulkon còn học được tiếng Mã Lai.

Hopewell, Phaulkon đã gặp George White, một thương nhân tự do, trước khi đến Xiêm và trở thành hoa tiêu trên sông Menam Tại Bantam, Phaulkon gặp Richard Burnaby, một quan chức cao cấp của Công ty Đông Ấn Anh, người sau này trở thành chủ nhân của mình Năm 1678, Burnaby đã đưa Phaulkon đi cùng để điều tra tình hình thương điếm Ayutthaya Nhận thấy giá trị của Phaulkon như một nhà ngôn ngữ học, Burnaby đã giữ Phaulkon lại làm thông dịch viên Cả Burnaby và George White đã lợi dụng Phaulkon trong các hoạt động buôn bán tư nhân Đến năm 1680, chỉ hai năm sau khi Phaulkon làm chủ ngôn ngữ Xiêm, Burnaby và White đã lập kế hoạch tiến cử Phaulkon làm việc cho các “Barcalon” để thúc đẩy lợi ích của Công ty Anh chống lại Hà Lan Burnaby sẵn sàng chi tiền để tăng cường thiện ý của mình với các Barcalon, nhờ vào sự hỗ trợ tài chính từ các thương gia Anh.

Trong bức thư ngày 29/10/1686 gửi cho William Gyfford, 77 đã miêu tả nước Anh như “một quốc gia mà sau giai đoạn trứng nước đã tồn tại trong từng hơi thở của tôi”.

78 Chuyến đi của Phaulkon trên tàu Hopewell năm 1670 là lần xuất hiện đầu tiên của ông ấy trong những ghi chép của người Anh

Nguồn tư liệu Hà Lan lần đầu tiên đề cập đến ông trong bối cảnh thương lượng hàng dệt may tại Ligor, liên quan đến các Barcalon và Calouan (Khalüang), với vai trò là người phục vụ cho nhà vua Ông được giao nhiệm vụ làm việc trong kho hàng hoặc cửa hàng của nhà vua, tham gia vào các vấn đề thương mại, vì vị vua này là người đứng đầu tầng lớp thương nhân trong vương quốc của mình.

Kế hoạch hoàn hảo của Richard Burnaby đã không thành công do xung đột với đồng nghiệp Potts, dẫn đến sự thù hận gay gắt Trong báo cáo gửi về Luân Đôn, Potts đã phàn nàn về việc Burnaby đột nhập vào phòng của ông vào ngày 4/06/1679 và lấy trộm một hộp tiền Potts còn nhiều lần khiếu nại đến Bantam để chống lại hành động của Burnaby.

Phaulkon đã trở thành người bảo trợ quan trọng trong triều đình Xiêm, trong khi Burnaby bị triệu hồi về Bantam vào năm 1682 do cáo buộc chống lại ông và George White từ chức, trở về Luân Đôn Sự tham gia của Phaulkon giúp ông an toàn trước các hành động thù địch từ Potts, đồng thời cải thiện vị trí của mình dưới quyền Barcalon P’ya Kosa Tibodi Đến năm 1679, Phaulkon, khi còn phục vụ cho Công ty Đông Ấn Anh, đã được thương điếm Hà Lan ghi nhận là viên quan người Hi Lạp tích cực nhất trong số các nhân viên Anh ở Xiêm Sự cần cù của ông được người Hà Lan đánh giá cao, dự báo rằng ông sẽ sớm có vị trí tốt hơn Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Phaulkon và Potts ngày càng căng thẳng do tranh chấp về khoản nợ mà Phaulkon owe Công ty.

Burnaby được mô tả là một người đàn ông không đáng tin cậy trong việc giữ bí mật, chỉ chăm chăm vào lợi ích cá nhân và dục vọng Tuy nhiên, ông đã có quyết định đúng đắn khi chọn George White ở Aytthaya làm trợ lý George không chỉ am hiểu về Xiêm mà còn sở hữu khí phách và nghị lực, điều này đã giúp ông trở thành một thương gia thành công tại Luân Đôn sau này.

Phaulkon đã thành thạo ngôn ngữ ở Xiêm và kiên quyết yêu cầu Potts trả nợ cho Công ty Anh, điều này nâng cao uy tín của ông với Bộ trưởng Phra-Klang và mở đường cho sự thăng tiến sau này Trong bối cảnh này, Phaulkon trở thành mục tiêu của Boureau-Deslandes, đại diện thương mại trẻ tuổi của Pháp, người đến Xiêm năm 1682 với đề nghị từ vua Louis XIV để thuyết phục Phaulkon phục vụ lợi ích của Pháp Sự cố cháy thương điếm Anh vào tháng 12/1682 đã tạo cơ hội thuận lợi cho Boureau-Deslandes, trong khi Potts lại đổ lỗi cho Phaulkon về thảm họa này Dù phải đối mặt với chỉ trích nặng nề từ Potts, Phaulkon vẫn do dự trong việc cam kết ủng hộ Pháp.

Hố sâu ngăn cách giữa Phaulkon và Công ty ngày càng gia tăng, đặc biệt vào năm 1683 khi Richard Burnaby, một thương nhân tự do trở về từ Bantam sau khi bị Công ty sa thải George White đã trở về Luân Đôn, trong khi anh trai của ông, Samuel White, vẫn ở lại Mergui.

Nhờ vào những đặc ân tại triều đình, Richard Burnaby đã được bổ nhiệm làm Thống đốc Mergui, trong khi Samuel White giữ vị trí quan quản lý cảng thị William Strangh cũng tham gia vào quá trình này.

Năm 1683, người được Surat cử đến Xiêm đã không hợp tác với Phaulkon và từ chối các điều kiện buôn bán tại thương điếm Ayutthaya Do đó, vào tháng 1 năm 1684, thương điếm Anh ở Xiêm chính thức đóng cửa, và toàn bộ nhân viên Anh đã rút về Surat.

Sau khi Phaulkon gia tăng ảnh hưởng tại triều đình Xiêm, chính sách đối ngoại của vua Narai đã có những chuyển biến mạnh mẽ Vua Narai mong muốn thiết lập liên minh với một cường quốc để đối phó với Hà Lan, nhưng Anh không đáp ứng được kỳ vọng này Sự thờ ơ của vua Anh đối với Xiêm, trái ngược với sự quan tâm của Louis XIV, khiến vua Narai thất vọng Mặc dù không muốn cam kết hoàn toàn với Pháp, nhưng Narai dường như không còn lựa chọn nào khác.

Năm 1680, Narai đã gửi phái bộ tới triều đình Louis XIV, nhưng con tàu chở phái đoàn bị mất tích ngoài khơi Madagasca, và đến tháng 9/1683, thông tin về thảm họa mới đến được Xiêm Do đó, Narai quyết định cử hai viên chức Khun P‟ichai Walit và Khun P'ichit Maitri sang Pháp để đề nghị cử một sứ thần sang Ayutthaya ký hiệp ước Nhân dịp này, Phaulkon cũng gửi thông điệp đến người Anh qua phái viên Xiêm, hy vọng rằng sự hỗ trợ từ George White và các món quà sẽ giúp ông đối phó với sự phản đối từ công chúng Anh về cách xử lý của ông đối với Strangh, Crouch và Barron Vào ngày 25/1/1684, sau khi Strangh và Potts rời Xiêm, các sứ thần Xiêm cùng phái viên của Phaulkon là Pascot và Vachet đã khởi hành sang Anh trên tàu của thương nhân Obones, mang theo thư và quà biếu Sau hành trình dài 6 tháng, họ đến Anh và được tiếp đón tại Luân Đôn, nhưng lãnh đạo Công ty Đông Ấn Anh đã phản đối Phaulkon, cho rằng ông là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ thương mại Anh ở Xiêm Hơn nữa, đoàn sứ thần chỉ được ủy quyền gặp triều đình Versailles, vì vậy Vachet đã nhanh chóng đưa họ vượt eo biển Dover sang Pháp.

Từ chiến tranh Xiêm - Golconda đến cuộc chiến tranh Anh-Xiêm năm 1687

Sự bùng nổ xung đột chính trị giữa Xiêm và Anh bắt nguồn từ cuộc tranh chấp với Golconda, đặc biệt là việc Xiêm chiếm Mergui để phát triển quan hệ thương mại với bờ biển Coromandel Trước khi Phaulkon có ảnh hưởng lớn, hoạt động buôn bán ở Mergui hoàn toàn do Hồi vương Golconda quản lý Phaulkon đã thúc đẩy quan hệ thương mại bằng cách sử dụng tàu mang cờ Xiêm, do các thương nhân tự do người Anh làm thuyền trưởng Các tàu này được đóng tại Mergui, dẫn đến sự hình thành khu định cư của thủy thủ người Anh do Phaulkon thu nhận.

Thương nhân Ấn Độ đã bày tỏ sự phẫn uất trước sự xâm nhập vào thương mại của họ qua Mergui, trong khi các thuyền trưởng Anh làm việc cho Xiêm lại phàn nàn về điều kiện tồi tệ tại các cảng ở Golconda Năm 1681, con tàu của Samuel White bị đắm do cảng Masulipatnam từ chối cung cấp dây cáp Đến năm 1683, Richard Burnaby được chỉ định làm thống đốc Mergui, với Samuel White làm trợ lý, nhằm kiểm soát hoạt động tàu thủy tại cảng sầm uất này Khi trở lại Mergui, Samuel White đã gây ra mối thù với Golconda để thỏa mãn nỗi uất ức và nhanh chóng làm giàu Do đó, năm 1684, ông đã phát động cuộc chiến trả đũa đối với các tàu Ấn Độ ở vịnh Bengal.

Hành động của Samuel White đã gây ra nhiều rắc rối cho cơ quan thương mại Anh tại pháo đài St George (Madras), khi vua Golconda nghi ngờ các nhân viên Công ty có liên quan đến những người Anh làm việc cho triều đình Xiêm Những khó khăn của Robert Freeman, chủ tịch Madras, với Golconda xuất phát từ sự trả thù của Phaulkon và Samuel White đối với vương quốc này, đã được tàu Mexico Merchant từ Surat thông báo đến Luân Đôn vào ngày 04/6/1685, trùng với thời điểm M.de Chaumont trở về Pháp từ Xiêm.

Vào thời điểm này, người Anh đã đổ lỗi hoàn toàn cho Phaulkon về các hành động "cướp biển" của những con tàu có căn cứ tại Mergui Tháng 2 năm 1685, vua Charles II qua đời, và trong cùng năm đó, kế hoạch tiêu diệt Phaulkon chắc chắn đã được thảo luận tại Luân Đôn, đặc biệt khi mùa hè đến gần.

Vào năm 1686, thuyền trưởng Lake đã vô tình tiết lộ kế hoạch của người Anh tại Ayutthaya Các nhân viên công ty Đông Ấn, những người muốn loại bỏ viên quan Hi Lạp, đã liên tục thúc giục Luân Đôn áp dụng các biện pháp mạnh mẽ chống lại Phaulkon trong suốt năm 1685 và mùa xuân năm 1686 Khiếu nại của Robert Freeman về Phaulkon đã làm gia tăng sức ép cho phe ủng hộ chiến tranh ở Luân Đôn Đến mùa hè năm 1686, khi nhận ra âm mưu của Pháp tại Xiêm, người Anh càng quyết tâm thực hiện kế hoạch quân sự của mình.

Vào năm 1685, một tranh chấp nghiêm trọng giữa Elihu Yale và Phaulkon đã dẫn đến sự rạn nứt ngày càng gia tăng, liên quan đến hợp đồng cung cấp một số hàng hóa.

Elihu Yale, nhân viên của Công ty Đông Ấn, đã điều hành Hội đồng tại Madras khi chủ tịch Gyfford vắng mặt Gia đình Yale có nguồn gốc từ New England, với ông nội là John Yale, một người có địa vị và thịnh vượng dưới triều vua James I Sau khi qua đời, vợ ông kết hôn với thương gia Eaton và di cư đến New England cùng hai con trai, Thomas và David Năm 1640, Eaton và John Davenport thành lập khu định cư mới, nhưng Thomas và David sớm trở về Boston, nơi Thomas trở thành người sáng lập gia đình Yale nổi tiếng Elihu Yale đã thực hiện chỉ thị mua đồ trang sức cho vua Narai và gửi hóa đơn cho Phaulkon, bao gồm số tiền mà Ivatt đã mượn từ Công ty Đông Ấn Anh Vào tháng 5/1685, em trai của Elihu, Thomas Yale, cùng hai đại diện khác được ủy quyền mang đồ trang sức đến Ayutthaya nhằm mở lại cơ quan thương mại Anh Tuy nhiên, sự hiện diện của sứ bộ Pháp đã làm Phaulkon chú tâm đến họ hơn, dẫn đến việc ông từ chối nhận đồ trang sức trị giá ¥10.500 từ người Anh, khiến tình hình trở nên căng thẳng Cuối cùng, Phaulkon đã ngăn chặn các hoạt động "cướp biển" của Pháp nhưng Samuel White vẫn tiếp tục cố gắng đạt được thỏa thuận với Xiêm.

Thomas Ivatt được Phaulkon giao nhiệm vụ mua một số mẫu trang sức đã được đặt ở Ấn Độ cho vua Narai Phaulkon đã gửi thư cho Thống đốc và Hội đồng của Công ty Đông Ấn Anh tại Madras, thông báo rằng ông đã ủy quyền cho Ivatt thực hiện hợp đồng mua sắm trang sức, và Thống đốc cùng Hội đồng Madras đã đồng ý với quyết định này.

Trong tác phẩm “Historical Abstract” của Davenport, Elihu Yale, anh trai của Thomas, đã mua đồ trang sức theo yêu cầu của Phaulkon để gửi cho vua Xiêm, với giá trị ước tính lên tới ¥10.500, như được ghi chép trong bức thư ngày 2/7/1686-87 Sự kiện này đã dẫn đến việc các cộng sự của ông tiếp tục các hoạt động thù địch chống lại Golconda, làm cho cuộc chiến tranh giữa Công ty Đông Ấn Anh và Xiêm chỉ còn là vấn đề thời gian.

Sau khi vua Charles II qua đời, vua James II lên ngôi và gửi thư cảm ơn Phaulkon về những món quà qua George White Tuy nhiên, vào ngày 11/7/1686, James II đã tổ chức hội đồng tại lâu đài Windsor, quyết định cấm thần dân Anh phục vụ trên tàu của kẻ cai trị ngoại quốc ở phương Đông, dẫn đến việc nhiều tàu bị ông bắt giữ Lúc này, những người đứng đầu pháo đài St George ở Madras đã khởi động cuộc chiến chống lại cướp biển ở Mergui và tìm kiếm căn cứ trên bờ biển phía đông vịnh Bengal, với kế hoạch chiếm đảo Negrais Tuy nhiên, chuyến đi vào tháng 10/1686 từ Madras không thành công do không có gió mùa thuận lợi Đến đầu năm 1687, sau tuyên bố của vua James II, Hội đồng Đông Ấn ở Madras đã quyết định phái hai tàu chiến sang Mergui để yêu cầu người Anh rời đi và bắt giữ tàu bè, chờ vua Xiêm bồi thường 65.000 bảng cho thiệt hại Trong khi đó, Phaulkon lo ngại về hành động của Samuel White tại Mergui và đã viết thư cho Đức cha Pèrè de la Chaise đề nghị trao Mergui cho Pháp.

87 Công ty ủy quyền cho tàu chiến Curtana dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Anthony Weltden, mang theo

26 binh sĩ; cùng thuyền buồm nhỏ James, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Armiger Gosline mang theo 15 lính

88 Những nội dung này được đề cập cụ thể trong 4 bức thư đề ngày 25/4/1687 do Hội đồng Madras gửi cho Richard Burnaby, Samuel White, Phaulkon và vua Narai

Vào ngày 20/11/1686, Phaulkon đã gửi thư cho Pere de la Chaise, bày tỏ lo ngại về việc thiếu phái viên để gửi đến Pháp, như Tachard, nhằm giải thích tình hình tại Xiêm kể từ khi Tachard rời đi cùng M de Chaumont Ông không hề hay biết rằng việc chiếm đóng Mergui đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Pháp tại phương Đông.

Vào ngày 31/5/1687, Hội đồng Madras chỉ định Anthony Weltden khởi hành đến Mergui trên tàu Curtana Đến tháng 6, hai tàu chiến Anh mang thông điệp của vua James II đến Mergui, trong khi Samuel White lo sợ người Anh tấn công và chuẩn bị chạy trốn Khi kế hoạch không thành công, White quyết định tuân thủ chỉ thị từ Madras, tuyên bố không phục vụ triều đình Xiêm nữa Weltden gửi tối hậu thư yêu cầu Xiêm bồi thường trong vòng ba mươi ngày, nếu không sẽ coi tàu bị bắt giữ là chiến lợi phẩm Weltden được lệnh ở lại Mergui cho đến 20/10/1687 và đã bắt giữ một số tàu Xiêm Tin tưởng vào sự quy phục của White, Weltden tổ chức tiệc tùng, nhưng vào đêm 14/7/1687, các khẩu đội pháo Xiêm bất ngờ tấn công, khiến tàu James bị đánh chìm và nhiều người Anh bị tàn sát Samuel White và Anthony Weltden cùng một số người sống sót trốn thoát trên hai tàu.

Resolution và Curtana đã tìm nơi trú ẩn trong quần đảo để chờ gió mùa thuận, trong khi tôi đang ấp ủ nhiều dự định Tôi cảm thấy cần phải thông báo cho nhà vua Christian Majesty về vị trí quan trọng của Mergui tại tỉnh Tenasserim, vì đây là cảng tốt nhất ở phía Đông Người Anh đã nắm quyền cai trị, và tôi mong muốn thấy thường dân, quân đội và quản lý hàng hải được giao cho những nhân viên tin cậy của nhà vua, hoạt động dưới danh nghĩa của vua Xiêm Để thực hiện điều này, tôi cần nắm quyền kiểm soát Tôi rất vui mừng khi Công ty Hoàng Gia đã đến và định cư tại đây.

Vào ngày 23 tháng 6 năm 1686, kế hoạch trốn thoát của Samuel White đã thất bại khi các tàu chiến của Anh cập bến Mergui Sau sự cố này, White đã thuyết phục thuyền trưởng Anthony Weltden cho phép ông trở về Anh trên tàu Resolution, trong khi Weltden quay trở lại Madras.

Trong bối cảnh hạm đội Pháp do tướng Desfrages chỉ huy đang tiến về Xiêm, Công ty Đông Ấn Anh đã cảnh báo vua James II về nguy cơ đối với tàu bè của họ ở vịnh Bengal, đặc biệt khi người Pháp chiếm Mergui gần Pondicherry Vua James II đã chỉ đạo Elihu Yale, Chủ tịch Madras, phải chiếm Mergui trước khi rơi vào tay người Pháp Đến tháng 8/1687, chỉ thị này mới đến Madras, và Yale đã phái tàu chiến nhỏ Pearl do thuyền trưởng James Perriman chỉ huy để hỗ trợ, tin rằng các tàu chiến khác đang phong tỏa hải cảng Tuy nhiên, vào ngày 22/9/1687, khi Pearl tiến vào Mergui để truy đuổi tàu cướp biển, thuyền trưởng Perriman phát hiện mình đã rơi vào ổ phục kích và buộc phải đầu hàng Dubruant, người đang kiểm soát khu vực này.

Ngày đăng: 17/12/2023, 03:12

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Adam Smith (1997), Sự giàu có của các quốc gia, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự giàu có của các quốc gia
Tác giả: Adam Smith
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1997
2.Charles B.Maybon (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những người châu Âu ở nước An Nam
Tác giả: Charles B.Maybon
Nhà XB: Nxb Thế giới
Năm: 2006
3.Berdin E.O (1973), Lịch sử Thái Lan, Nxb Khoa học Matxcơva (Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Thị Thư dịch, Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Thái Lan
Tác giả: Berdin E.O
Nhà XB: Nxb Khoa học Matxcơva (Đinh Ngọc Bảo
Năm: 1973
4.Đặng Văn Chương (2001), “Vài suy nghĩ về thái độ ứng xử của vua Xiêm và chúa Trịnh trước đề nghị truyền bá đạo Thiên Chúa của vua Pháp-Louis XIV”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu (4), tr.34-39 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài suy nghĩ về thái độ ứng xử của vua Xiêm và chúa Trịnh trước đề nghị truyền bá đạo Thiên Chúa của vua Pháp-Louis XIV”, "Tạp chí nghiên cứu Châu Âu
Tác giả: Đặng Văn Chương
Năm: 2001
5.Đặng Văn Chương (2009), “Quan hệ của Xiêm với các nước phương Tây dưới thời Narai (1656-1688)”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (6), tr.21-25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ của Xiêm với các nước phương Tây dưới thời Narai (1656-1688)”, "Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á
Tác giả: Đặng Văn Chương
Năm: 2009
6.Đặng Văn Chương (2009), “Quan hệ Bồ Đào Nha-Xiêm vào thế kỷ XVI (Qua tác phẩm L‟Europe et le Siam du XVIe au XVIIIe siècle)”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu (6), tr.56-62 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Bồ Đào Nha-Xiêm vào thế kỷ XVI (Qua tác phẩm L‟Europe et le Siam du XVIe au XVIIIe siècle)”, "Tạp chí nghiên cứu Châu Âu
Tác giả: Đặng Văn Chương
Năm: 2009
7.Đặng Văn Chương (2011), “Quan hệ Pháp-Xiêm từ 1662-1893”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (3), tr.34-41 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Pháp-Xiêm từ 1662-1893”, "Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á
Tác giả: Đặng Văn Chương
Năm: 2011
8.Đặng Văn Chương (2011), “Truyền giáo của Pháp ở Xiêm (1662-1856) dưới góc nhìn chính trị và ngoại giao”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (8), tr.12-19 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyền giáo của Pháp ở Xiêm (1662-1856) dưới góc nhìn chính trị và ngoại giao”, "Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á
Tác giả: Đặng Văn Chương
Năm: 2011
9.Nguyễn Mạnh Dũng (2007), “Về hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp ở Xiêm nửa sau thế kỷ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (4), tr.35-48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp ở Xiêm nửa sau thế kỷ XVII”, "Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
Tác giả: Nguyễn Mạnh Dũng
Năm: 2007
10.Nguyễn Mạnh Dũng (2011), Qúa trình xâm nhập của Pháp vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX - Nguyên nhân và Hệ quả, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Qúa trình xâm nhập của Pháp vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX - Nguyên nhân và Hệ quả
Tác giả: Nguyễn Mạnh Dũng
Năm: 2011
11.Nguyễn Mạnh Dũng (2016), Qúa trình xâm nhập của Pháp và Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX: Nguyên nhân và hệ quả, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Qúa trình xâm nhập của Pháp và Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX: Nguyên nhân và hệ quả
Tác giả: Nguyễn Mạnh Dũng
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2016
12. Norman David (2012), Lịch sử châu Âu, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử châu Âu
Tác giả: Norman David
Nhà XB: Nxb Từ điển Bách Khoa
Năm: 2012
13. Tiền Thừa Đán, Hứa Khiết Minh (2005), Thông sử nước Anh, (Đặng Thanh Tịnh dịch), Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông sử nước Anh
Tác giả: Tiền Thừa Đán, Hứa Khiết Minh
Nhà XB: Nxb Lao động Xã hội
Năm: 2005
15.Nguyễn Mậu Hùng (2008), “Các cuộc chiến tranh giữa Ayutthaya và Lan Na từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (2), tr.59-65 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các cuộc chiến tranh giữa Ayutthaya và Lan Na từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVI”", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á
Tác giả: Nguyễn Mậu Hùng
Năm: 2008
16.Đào Minh Hồng (2001), Chính sách đối ngoại của Thái Lan (Xiêm) nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách đối ngoại của Thái Lan (Xiêm) nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Tác giả: Đào Minh Hồng
Năm: 2001
17.Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo Việt Nam, quyển 1 và quyển 2, (Các Thừa sai dòng Tên, 1615 - 1665), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử truyền giáo Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hồng
Nhà XB: Nxb Từ điển Bách Khoa
Năm: 2009
18.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2005), “Tiếp xúc thương mại Việt - Anh thế kỷ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu (6), tr.23-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp xúc thương mại Việt - Anh thế kỷ XVII”, "Tạp chí Nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Năm: 2005
19.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2012), “Mưu đồ phương Đông của Anh trong thế kỷ XVI”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu (7), tr.44-53 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mưu đồ phương Đông của Anh trong thế kỷ XVI”, "Tạp chí Nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Năm: 2012
20.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2013), “Viễn Đông trong chiến lược của Công ty Đông Ấn Anh từ năm 1623 - 1684”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu (6), tr.47-59 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Viễn Đông trong chiến lược của Công ty Đông Ấn Anh từ năm 1623 - 1684”, "Tạp chí Nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Năm: 2013
21.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2014), “Về cách thức xâm nhập vào Việt Nam của Anh thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (4), tr.69-79 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về cách thức xâm nhập vào Việt Nam của Anh thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ XIX”, "Tạp chí Nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Năm: 2014

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w