1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

(Tiểu luận) chủ đề phân tích chủ trương, quan điểm của đảng về đối ngoại giaiđoạn 1975 đến nay

33 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Chủ Trương, Quan Điểm Của Đảng Về Đối Ngoại Giai Đoạn 1975 Đến Nay
Tác giả Bùi Việt Quang, Đỗ Bùi Minh Tuấn, Nguyễn Kiều Trang, Trần Thị Huyền Trang, Đặng Đình Hiếu, Vũ Phương Nam, Trịnh Cảnh Dinh, Trần Thị Hương, Đỗ Thị Lan Phương, Cao Quỳnh Vi
Người hướng dẫn GVHD: Phí Thị Lan Phương
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thể loại bài tập nhóm
Năm xuất bản 2023
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 33
Dung lượng 3,99 MB

Cấu trúc

  • I. Khái niệm (5)
    • 1. Khái niệm đối ngoại (5)
    • 2. Khái niệm “‘Đường lối đối ngoại” (5)
      • 2.1. Khái niệm đường lối đối ngoại (5)
      • 2.2. Mục tiêu chung (5)
      • 3.2. Nguyên tắc đối ngoại (5)
  • II. Giai đoạn 1975 - 1986 (Đại hội 4, 5) (6)
    • 1. Tình hình đất nước giai đoạn trước đổi mới 1975 – 1986 (6)
      • 1.1. Thuận lợi (6)
      • 1.2. Khó khăn (6)
    • 2. Đường lối đối ngoại của Đảng trước đổi mới (6)
      • 2.1. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) (6)
      • 2.2. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) (8)
    • 3. Kết quả, ý nghĩa của đường lối đối ngoại trước đổi mới (9)
      • 3.1. Kết quả đạt được (9)
      • 3.2. Ý nghĩa (10)
    • 4. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước đổi mới (10)
  • III. Giai đoạn 1986 – nay (11)
    • 3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (11)
    • 3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (13)
    • 3.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (16)
    • 3.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (18)
    • 3.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (20)
    • 3.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (22)
    • 3.7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (25)
    • 3.8. Đại hội đại biểu lần thứ XIII (27)
  • IV. So sánh đường lối đối ngoại của Đảng trước và sau đổi mới (28)

Nội dung

Khái niệm

Khái niệm đối ngoại

Đối ngoại đề cập đến các mối quan hệ và chính sách của một quốc gia hoặc tổ chức với các nước và tổ chức khác Nó bao gồm tất cả các hoạt động giao thiệp và tương tác giữa quốc gia đó và bên ngoài Nói tóm lại, hoạt động đối ngoại là tổng thể các quan hệ và giao dịch của một quốc gia với thế giới bên ngoài.

Khái niệm “‘Đường lối đối ngoại”

2.1 Khái niệm đường lối đối ngoại

Đường lối đối ngoại là một phần quan trọng trong đường lối lãnh đạo chung của Đảng, thể hiện quan điểm chính trị và tư tưởng chỉ đạo trong việc thiết lập mối quan hệ với các quốc gia khác Mỗi giai đoạn đều có mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, đồng thời góp phần vào việc thực hiện đường lối đối nội.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.

Việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác phát triển là rất quan trọng Điều này bao gồm đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế, cũng như chủ động hội nhập toàn cầu Việt Nam cam kết trở thành bạn bè, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế Mục tiêu chính là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời tận dụng tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân dân Qua đó, nâng cao vị thế và uy tín quốc gia, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

+ Bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.

Trong hoạt động đối ngoại, bốn nguyên tắc cụ thể bao gồm: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực; giải quyết bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; và cuối cùng là tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Giai đoạn 1975 - 1986 (Đại hội 4, 5)

Tình hình đất nước giai đoạn trước đổi mới 1975 – 1986

Sau khi miền Nam được giải phóng, Tổ quốc đã hòa bình và thống nhất, cả nước cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần mạnh mẽ của một dân tộc vừa trải qua thắng lợi vĩ đại Công cuộc này đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra những thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam.

Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực khắc phục hậu quả nặng nề từ ba mươi năm chiến tranh, đất nước còn phải đối mặt với các cuộc xung đột biên giới Tây Nam và phía Bắc Các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi để chống phá cách mạng Việt Nam Bên cạnh đó, tư tưởng chủ quan và nóng vội trong việc tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội đã gây ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế – xã hội.

Đường lối đối ngoại của Đảng trước đổi mới

2.1 Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) a Bối cảnh Ðại hội lần thứ IV của Ðảng họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.008 đảng viên thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước.

Đại hội lần thứ IV của Đảng, với sự tham gia của 29 đoàn đại biểu quốc tế, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Đây là dịp tổng kết những bài học quý giá từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, góp phần đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội Đại hội đã xác định đường lối chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, và từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng Đảng trong nhiều thập kỷ qua, đồng thời xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng cho giai đoạn mới, nhằm đảm bảo Đảng đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới.

CSVN Đại học Kinh tế…

Tr ắ c nghi ệ m l ị ch s ử Đảng chương 1 phầ…

Tr ắ c nghi ệ m l ị ch s ử Đảng chương 1 phầ…

Bài t ậ p l ớ n LS Đ ả ng - vai trò lãnh đạo của…

Lịch sử Đảng… 100% (14) 12 Đ ạ i h ộ i VI,đ ạ i h ộ i VII - Đại hội VI và Đại hội…

Đại hội lần thứ XIV đã quyết định khôi phục tên ban đầu của Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương với 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương cũng đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết, trong đó đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư Nhiệm vụ của Đại hội lần thứ IV vào tháng 12 năm 1976 đã xác định nhiệm vụ đối ngoại là tận dụng các điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

Đại hội IV nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu cũng như quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa Mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam, Lào và Campuchia được bảo vệ và phát triển, đồng thời Việt Nam sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực Ngoài ra, Việt Nam cũng hướng tới việc thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và lợi ích chung.

Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như:

- Chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam;

- Nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp;

- Chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định;

- Đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

2.2 Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) a Bối cảnh

Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và "kế hoạch hậu chiến", trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế gia tăng tuyên truyền xuyên tạc về sự hiện diện của quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia Họ gây sức ép với Việt Nam nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương.

[123doc] - bai-thu- hoach-lop-cam-…

L ị ch s ử Đ ả ng - T ạ i sao nói, sau cách…

Lịch sử Đảng… 100% (12)16 ã Trong nước:

+ Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng.

Việt Nam đang trong tình trạng vừa hòa bình vừa phải đối mặt với chiến tranh phá hoại đa dạng, đồng thời cần sẵn sàng ứng phó với khả năng xâm lược quy mô lớn từ kẻ thù Nhiệm vụ của Đại hội lần thứ V của Đảng vào tháng 3 năm 1982 đã nhấn mạnh rằng công tác đối ngoại cần trở thành một mặt trận chủ động và tích cực, nhằm đấu tranh và làm thất bại các chính sách của các thế lực hiếu chiến đang âm thầm chống phá cách mạng Việt Nam.

Đảng ta khẳng định rằng đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc chiến lược, đóng vai trò là nền tảng vững chắc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam, Lào và Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc Các nước ASEAN cần đối thoại và thương lượng cùng các nước Đông Dương để giải quyết những trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình và ổn định.

Chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc dựa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, đồng thời thiết lập và mở rộng quan hệ nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật với tất cả các quốc gia Điều này thực hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và lợi ích chung, không phân biệt chế độ chính trị.

Kết quả, ý nghĩa của đường lối đối ngoại trước đổi mới

Trong thập kỷ trước đổi mới, Việt Nam đã tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là với Liên Xô.

- Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV).

- Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.

- Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với

- Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).

- Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB).

- Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).

- Ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong trào Không liên kết

- Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.

Việc tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã thu hút nguồn viện trợ đáng kể, góp phần quan trọng vào công cuộc khôi phục đất nước sau chiến tranh.

Việc gia nhập chính thức Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á và Liên hợp quốc, cùng với việc tham gia tích cực vào Phong trào Không liên kết, đã giúp nước ta thu hút sự ủng hộ và hợp tác từ các quốc gia và tổ chức quốc tế, đồng thời nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong ASEAN đã thúc đẩy các hoạt động đối ngoại, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước đổi mới

Trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn trong quan hệ quốc tế, bị bao vây cấm vận kinh tế và cô lập chính trị Cuối thập kỷ 70, các nước ASEAN và một số quốc gia khác đã cáo buộc Việt Nam xâm lược Campuchia, dẫn đến việc thực hiện các biện pháp cấm vận kéo dài Sự kiện Việt Nam can thiệp quân sự vào Campuchia nhằm giúp nhân dân nơi đây chống lại chế độ diệt chủng Khmer Đỏ đã trở thành lý do chính cho sự cô lập này Thêm vào đó, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam cũng đã trực tiếp dẫn đến xung đột với Trung Quốc.

Trong giai đoạn này, Việt Nam quá chú trọng vào mối quan hệ với Liên Xô, coi đây là "hòn đá tảng" trong chính sách đối ngoại, dẫn đến tình trạng cô lập và đối đầu với Trung Quốc Chính sách "nhất biên đảo" của Đảng xuất phát từ việc chưa nắm bắt chính xác sự thay đổi trong tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung, cùng với tư duy giáo điều và đánh giá quá cao sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa Bên cạnh đó, Đảng cũng dè chừng trong quan hệ với Mỹ và Nhật, do đánh giá chủ quan, dẫn đến việc Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với các nước này.

Mỹ đang tìm cách tháo gỡ những nút thắt trong quan hệ đối ngoại của mình, đồng thời tiếp tục thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ, nhưng điều này cũng có thể dẫn đến tình trạng đối đầu căng thẳng giữa hai nước.

Việt Nam vẫn chậm chễ trong việc nhận thức các vấn đề khu vực, đặc biệt là sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN Xu hướng chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và cạnh tranh kinh tế toàn cầu chưa được Việt Nam tận dụng để thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương và đa phương Thêm vào đó, tư duy ý thức hệ và ảnh hưởng của Chiến tranh Lạnh khiến Việt Nam có cái nhìn cứng nhắc về các nước tư bản Tây Âu, dẫn đến việc chưa đánh giá đúng chiều hướng đối ngoại của họ và chưa thiết lập được quan hệ hợp tác hiệu quả.

Tư tưởng giáo điều và thiếu nhạy bén trước sự biến động của thế giới đã gây khó khăn cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1976 – 1986, làm cho đất nước chưa phát huy được tiềm năng sau thống nhất Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong đường lối đối ngoại, theo Đảng, là "bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan."

Giai đoạn 1986 – nay

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

Từ 15-18/12/1986 tại Hà Nội, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế đối thoại toàn cầu đã thay thế dần xu hướng đối đầu Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải cách để xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đối phó với tình trạng bị bao vây, cấm vận và khủng hoảng từ các thế lực thù địch Đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ, đồng thời tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với Liên Xô cũng như bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, vì lợi ích chung của nhân dân hai nước và hòa bình khu vực Đại hội xác định rằng xu thế mở rộng hợp tác giữa các quốc gia, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, là điều kiện quan trọng cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam Từ năm 1990, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương đổi mới trong quan hệ ngoại giao, nhằm mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm "thêm bạn, bớt thù", giữ vững hòa bình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Với Trung Quốc, Hoa Kì: bình thường hoá quan hệ.

- Lào, Campuchia: đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả (5/1988, Việt Nam rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Campuchia về nước)

- Khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương: từng bước xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác

- Châu Âu: thiết lập quan hệ ngoại giao c Tình hình thực tế

Trong bối cảnh thực hiện nghị quyết đại hội VI, tình hình thế giới diễn biến phức tạp với sự khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô cùng các nước XHCN Đông Âu vào tháng 12/1991, gây ảnh hưởng tiêu cực đến Việt Nam Viện trợ kinh tế từ Liên Xô và các nước Đông Âu giảm mạnh, trong khi Mỹ và các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia để tiếp tục bao vây, cấm vận và tuyên truyền chống Việt Nam Họ cũng khuyến khích các tổ chức phản động từ nước ngoài trở về gây rối và lật đổ chính quyền tại một số vùng biên giới phía Bắc.

Tình hình Bắc diễn biến phức tạp và căng thẳng, đạt cao điểm vào tháng 3/1988 khi Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma cùng các bãi cạn Châu Viên, Chữ Thập, Tư Nghĩa thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc đã kéo dài suốt 10 năm, từ 1979 đến 1989, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng.

Từ khủng hoảng hiện tại, cần thiết phải đổi mới nhận thức về mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội Việc nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu là rất quan trọng Đồng thời, cần phải cảnh giác và kiên quyết chống lại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 24 đến 27 tháng 6 năm 1991 tại Hà Nội, trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công cuộc Đổi mới theo định hướng từ Đại hội VI Sự kiện này đánh dấu những thắng lợi bước đầu của công cuộc Đổi mới, nhận được sự ủng hộ từ nhân dân và cộng đồng quốc tế.

Tình hình quốc tế vào thời điểm đó diễn ra nhiều biến động phức tạp, nổi bật là sự sụp đổ của khối Đông Âu và cuộc khủng hoảng nghiêm trọng của Liên Xô Các lực lượng thù địch đã tiến hành nhiều cuộc tấn công nhằm vào chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản, với nhiều âm mưu và thủ đoạn nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực Trong bối cảnh đó, đường lối của Đại hội VII được xác định là cần thiết để đối phó với những thách thức này.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII vào tháng 6 năm 1991, Đảng ta đã xác định trọng tâm công tác đối ngoại là tạo ra môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Đại hội này được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết” với những quyết nghị quan trọng.

Đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã thành công trong việc phá vỡ thế bao vây, cô lập và mở rộng quan hệ quốc tế Đây là thời điểm lần đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ chính thức với tất cả các cường quốc, bao gồm cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc Đồng thời, Việt Nam cũng gia nhập ASEAN, một tổ chức khu vực với các thành viên có hệ tư tưởng và chế độ chính trị khác biệt.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến 1991, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển và tiến bộ của đất nước.

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta

Sự nghiệp cách mạng thuộc về nhân dân, được thực hiện bởi nhân dân và vì lợi ích của nhân dân Chính nhân dân là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi lịch sử Sức mạnh của Đảng đến từ mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dài và phức tạp, diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau Trong suốt quá trình này, việc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội đóng vai trò then chốt, đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực không ngừng từ toàn thể xã hội.

Tổ quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản sau:

Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng, với mục tiêu tạo ra một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng vững chắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân.

Phát triển lực lượng sản xuất và công nghiệp hóa hiện đại gắn liền với nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội Điều này nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân một cách bền vững.

Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ thấp đến cao, với sự đa dạng về hình thức sở hữu Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sẽ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước.

Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam Ông kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp mọi lực lượng vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh Chính sách đối ngoại của Việt Nam hướng tới hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các quốc gia Bên cạnh đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc được xác định là hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.

Công tác xây dựng Đảng đóng vai trò quan trọng, vì vậy việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng cần được thực hiện một cách kiên quyết và có bước đi vững chắc, từ Trung ương đến cơ sở Cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, kết hợp với việc đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hệ thống chính trị và cải cách bộ máy Nhà nước Đồng thời, cần dựa vào nhân dân và thông qua phong trào cách mạng của họ để thực hiện sự đổi mới và chỉnh đốn Đảng.

Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng và là cột mốc quan trọng trong tiến trình cách mạng Việt Nam Đồng chí Đỗ Mười đã nhấn mạnh sự nhất trí cao trong các vấn đề lớn có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh đất nước Đại hội thể hiện trí tuệ của toàn Đảng và nhân dân trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với các giá trị nhân loại vào giai đoạn hiện nay Kết quả này khẳng định Đảng kiên trì đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tuân thủ các nguyên tắc đã được xác định, với mục tiêu đổi mới toàn diện, đồng bộ và bền vững, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và không thể đảo ngược.

Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ sự đổi mới trong tư duy đối ngoại đa phương tại Hội nghị Trung ương 3 năm 1992 Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ khai thông quan hệ với các cơ chế đa phương toàn cầu như IMF, WB và ADB, đồng thời mở rộng hợp tác khu vực, đặc biệt là với ASEAN trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương Nghị quyết của hội nghị đánh dấu bước tiến quan trọng trong ngoại giao đa phương của Đảng, tập trung vào việc mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức, không phân biệt chế độ chính trị hay mức độ phát triển.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, diễn ra tại Hà Nội từ 26/8 đến 1/7/1996, diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những biến động lớn, khi nguy cơ chiến tranh thế giới đã giảm nhưng xung đột vũ trang và khủng bố vẫn tiếp diễn Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu và quốc tế hóa đời sống xã hội, trong khi chủ nghĩa xã hội thực tiễn gặp khó khăn Sau 10 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, đồng thời cải thiện quan hệ đối ngoại và phá vỡ tình trạng bị bao vây Tuy nhiên, đất nước vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức, như nghèo đói, kém phát triển và các vấn đề xã hội cần giải quyết.

Một trong sáu bài học quan trọng từ 10 năm đổi mới là mở rộng hợp tác quốc tế, nhằm thu hút sự đồng tình, ủng hộ và hỗ trợ từ cộng đồng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại Đại hội VIII đã nhấn mạnh quan điểm đối ngoại với các đối tác, tập trung vào việc tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và tổ chức ASEAN, củng cố mối quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, đồng thời coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị toàn cầu Bên cạnh đó, Việt Nam cũng khẳng định sự đoàn kết với các nước đang phát triển và phong trào không liên kết, tích cực tham gia và đóng góp cho các tổ chức quốc tế và diễn đàn toàn cầu.

Chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá, tạo điều kiện chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Các nhiệm vụ này cần được thực hiện theo định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.

Đại hội khẳng định chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa, thể hiện tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước Đặc biệt, Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân và hợp tác với các tổ chức phi chính phủ Điều này nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy hòa bình, hợp tác và phát triển.

So với Đại hội VII, Đại hội VIII đã có những điểm mới trong chủ trương đối ngoại, bao gồm việc mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác, đồng thời lần đầu tiên đưa ra chủ trương thử nghiệm trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nhằm tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng từ năm 1996 đến 2000, mặc dù còn nhiều yếu kém và khuyết điểm, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng Trong quá trình thực hiện, một số sai sót và vấn đề vẫn tồn đọng, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân đã nỗ lực để vượt qua khó khăn.

Quan hệ đối ngoại của Việt Nam ngày càng được mở rộng và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mang lại nhiều kết quả khả quan Việt Nam đã tăng cường hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng và bạn bè truyền thống, cũng như nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế khác Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xây dựng tình đoàn kết với các đảng cộng sản, phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ toàn cầu Ngoại giao nhân dân được đẩy mạnh về quy mô và địa bàn, góp phần quan trọng vào thành công của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đối ngoại.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ 19/4 đến 22/4/2001 trong bối cảnh lịch sử quan trọng, khi cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, phát triển mạnh mẽ Những tiến bộ này đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu kinh tế và tác động sâu sắc đến các lĩnh vực trong đời sống xã hội Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tri thức và sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng.

Khả năng duy trì hòa bình và ổn định toàn cầu và khu vực là yếu tố quan trọng giúp chúng ta tập trung vào phát triển Tuy nhiên, điều này cũng yêu cầu chúng ta phải luôn cảnh giác và chủ động ứng phó với những tình huống bất ngờ, phức tạp có thể phát sinh Đường lối đối ngoại cần phải linh hoạt và thích ứng với những thay đổi trong môi trường quốc tế.

Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đã nêu ra 10 vấn đề quan trọng, trong đó nhấn mạnh việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm phát huy tối đa nội lực Đại hội IX khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển,” thể hiện bước tiến mới trong quan hệ đối ngoại so với hai kỳ đại hội trước đó.

Qua 10 năm 1991 - 2001 công tác nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng, tuy vậy, việc tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế yếu kém Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc Khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài ra, còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng người Việt ở nước ngoài Đa số họ luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc và giữ gìn truyền thống văn hóa đất nước. Tuy nhiên, người Việt ở một số nước còn nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, ở một số nơi còn bị kỳ thị Một số người chưa có dịp về thăm đất nước, chưa thấy những thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá đất nước.

Vào ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành nghị quyết số 36-NQ/TW, nhấn mạnh rằng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là nguồn lực quý giá của cộng đồng dân tộc Nghị quyết khẳng định vai trò quan trọng của kiều bào trong việc tăng cường quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và các quốc gia khác Nhà nước cam kết hợp tác với các nước liên quan để xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Sau đại hội IX, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp, đặt ra những thách thức mới cho sự nghiệp hội nhập quốc tế và bảo vệ tổ quốc của Việt Nam Hội nghị Trung Ương 8 khóa IX (7/2003) đã chỉ ra thành tựu và khuyết điểm của Đảng trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, đồng thời dự báo tình hình quốc tế và khu vực Hội nghị đã đề ra các chiến lược đối ngoại nhằm xây dựng sức mạnh tổng hợp, phát huy nội lực và khai thác tối đa các thuận lợi từ bên ngoài, đồng thời chủ động phòng ngừa những yếu tố nội tại có thể gây ra biến động bất lợi.

Các nhiệm vụ cơ bản trong bảo vệ tổ quốc và đối ngoại bao gồm việc tăng cường hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, và chú trọng thúc đẩy quan hệ với các quốc gia và trung tâm lớn Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này cần được đánh giá một cách toàn diện.

Thế kỷ XXI sẽ chứng kiến nhiều biến đổi, mang đến cho nhân dân ta cả cơ hội và thách thức lớn Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm (1996-2000) cho thấy dù còn nhiều yếu kém, tình hình thế giới đang dần ổn định Nước ta không ngừng nỗ lực hội nhập và vươn ra thế giới, với Báo cáo Chính trị khẳng định 5 nhóm thành tựu quan trọng, trong đó nổi bật là sự mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X

Việt Nam cam kết trở thành bạn bè và đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế, nỗ lực vì hòa bình, độc lập và phát triển Sau gần 20 năm thực hiện đổi mới, đất nước đã có những biến chuyển lớn lao, khẳng định sự kiên định trong đường lối đổi mới của Đại hội.

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ vào việc bổ sung và phát triển qua các đại hội và hội nghị Trung ương.

Tình hình trong nước và quốc tế đang có những thay đổi lớn, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới của nhân dân Toàn cầu hóa kinh tế mang lại cơ hội phát triển nhưng cũng tạo ra bất bình đẳng, đặc biệt với các nước đang phát triển Nền kinh tế Việt Nam vẫn kém phát triển, có nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới, với tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng Trình độ khoa học - công nghệ còn lạc hậu, trong khi tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng và đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn liền với tham nhũng và lãng phí đang rất nghiêm trọng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được triệu tập từ ngày 18 đến 25-4-2006, sau một ngày họp trù bị, với sự tham gia của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trên toàn quốc Trong khuôn khổ Đại hội, đường lối chính trị của Đảng về đối ngoại đã được thảo luận và xác định.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác phát triển, với mục tiêu chính là "phát triển" và "an ninh" Mục tiêu phát triển được ưu tiên hàng đầu, nhằm tạo điều kiện vật chất cho an ninh và nâng cao vị thế quốc tế Để đạt được điều này, hoạt động đối ngoại cần mở rộng quan hệ quốc tế, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các quốc gia và trung tâm toàn cầu, tạo ra môi trường hòa bình Đại hội X nhấn mạnh tầm quan trọng của việc "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang tiến tới gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại, quốc phòng và an ninh, không chỉ ở cấp độ vĩ mô mà còn trong từng hoạt động cụ thể để đảm bảo môi trường ổn định cho phát triển Đại hội đã ghi nhận một số thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu này.

Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008 — 2009.

Năm 2010, Việt Nam đã thành công trong vai trò Chủ tịch ASEAN, đóng góp tích cực vào nhiều hoạt động đa phương khu vực và toàn cầu Quốc gia này đã tham gia giải quyết các vấn đề an ninh hạt nhân, giải trừ vũ khí hạt nhân, phòng chống tội phạm và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:

Đến năm 2010, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại và đầu tư với khoảng 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, khiến tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP vượt 170% Nền kinh tế Việt Nam đã trở nên gắn kết chặt chẽ với nền kinh tế toàn cầu, với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 789 triệu USD năm 1986 lên 71,6 tỷ USD vào năm 2010, trong đó đạt 48 tỷ USD năm 2007 và khoảng 62,9 tỷ USD năm 2008.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

Đại hội XI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 12 đến 19/1/2011 trong bối cảnh tình hình thế giới phức tạp, với hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chủ đạo Tuy nhiên, các vấn đề như chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố và tranh chấp lãnh thổ vẫn diễn ra căng thẳng Đặc biệt, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn và đẩy mạnh hoạt động "diễn biến hòa bình".

Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đồng thời đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế Quốc gia chủ động và tích cực hội nhập, nâng cao vị thế trên trường quốc tế vì lợi ích quốc gia và dân tộc Đại hội đã ghi nhận những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng một Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, trở thành bạn bè, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội toàn cầu.

Thực hiện đúng đường lối đối ngoại của Đảng đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra môi trường hòa bình thuận lợi cho sự phát triển Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước tiếp tục được bảo đảm vững chắc.

Quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được mở rộng và đi vào chiều sâu, với việc củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng và các quốc gia trong ASEAN Đến năm 2015, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 quốc gia, đối tác toàn diện với 10 quốc gia, và quan hệ đối tác chiến lược lĩnh vực với Vương quốc Hà Lan.

Năm 2012, ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung kỷ niệm 10 năm Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông, cùng với việc ASEAN đưa ra tuyên bố 6 điểm liên quan đến vấn đề này Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm duy trì môi trường hòa bình và ổn định ở Biển Đông, đồng thời giải quyết các vấn đề dựa trên luật pháp quốc tế Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân đã được triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả, mang lại sự phát triển mới Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng và hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước.

I.Bối cảnh lịch sử từ sau đổi mới 1986 – nay: Vào đầu những năm 1980, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bắt đầu bộc lộ sự lạc hậu Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa mà bỏ qua sự khác nhau về lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa cũng như điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước Việt Nam cũng là một trong số những nước chịu ảnh hưởng của vấn nạn này, tình hình kinh tế - xã hội trong nước ngày càng bộc lộ nhiều khó khăn, yếu kém và lâm vào tình trạng khủng hoảng Mô hình kinh tế quan liêu bao cấp đã được duy trì hàng chục năm ở miền Bắc như chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (nhất là đất đai), về lao động tập thể, độc quyền của nhà nước về thương nghiệp và giá cả; về kế hoạch hóa tập trung cùng với thói quen bao cấp đã hình thành lâu năm càng làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng Thách thức này đặt Đảng Cộng sản Việt Nam trước nhiệm vụ lịch sử hệ trọng và khó khăn đó là phải tạo các được bước ngoặt sửa sai cơ bản từ đường lối chính sách, trước hết trên lĩnh vực kinh tế và cả với tổng thể đường lối, để đứng vững và phát triển.

2 Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế và sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước Sau năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cũng như văn hóa, xã hội, ngoại giao của Đảng ta tiếp tục diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung, cải tiến trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm của thực tiễn Bằng việc triển khai nhiều chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội, Việt Nam liên tục đạt được các thanh tựu mới, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại giao với việc trở thành đối tác chiến lược toàn diện của nhiều cường quốc lớn trên thế giới, cũng như góp phần quan trọng trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

Giai đoạn 1986 – 1990 đánh dấu khởi đầu của công cuộc đổi mới với chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đạt được những thành tựu quan trọng như GDP tăng 4,4%/năm và phục hồi các chương trình phát triển lương thực, hàng tiêu dùng và xuất khẩu Từ 1991 – 1995, nền kinh tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ, khắc phục tình trạng trì trệ với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8,2%/năm Giai đoạn 1996 - 2000 chứng kiến sự phát triển quan trọng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặc dù gặp khó khăn từ khủng hoảng tài chính khu vực và thiên tai, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng với GDP bình quân đạt 7%/năm.

Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội nhờ triển khai các chiến lược hiệu quả Đặc biệt, vào năm 2005, Việt Nam đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu và đứng thứ hai trong các mặt hàng như gạo, cà phê, và hạt điều.

4 về cao su Các năm 2019, 2020, 2021, dù chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-

19 GDP Việt Nam vẫn đạt tăng trưởng dương và đứng hàng đầu khu vực.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội, từ ngày 20 đến 28 tháng 1 năm 2016.

Đại hội tập trung vào việc tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa Mục tiêu là đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ gìn môi trường hòa bình và ổn định Đồng thời, Đại hội phấn đấu đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp hiện đại.

Đại hội XII của Đảng thu hút 1.510 đại biểu, được tổ chức thành 68 đoàn, bao gồm 197 đại biểu đương nhiên, 1.300 đại biểu bầu cử và 13 đại biểu được chỉ định, đánh dấu sự tăng trưởng đáng kể trong số lượng đại biểu tham dự.

Đại hội XII của Đảng có 133 đại biểu, là Đại hội đông nhất trong 12 kỳ Đại hội toàn quốc, diễn ra 30 năm sau công cuộc đổi mới, mang nhiều ý nghĩa quan trọng Đại hội đã đánh giá tình hình quốc tế và Việt Nam, nhấn mạnh những vấn đề như kinh tế thế giới phục hồi chậm, khủng hoảng chính trị, cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn, và diễn biến phức tạp trên Biển Đông Những hạn chế trong quản lý kinh tế đã dẫn đến lạm phát cao, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô và đời sống nhân dân Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước trong giai đoạn 2016 – 2020.

Trong 30 năm đổi mới từ 1986 đến 2016, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở rộng và tăng cường quan hệ với hơn 200 đảng ở 115 quốc gia, bao gồm trên 100 Đảng Cộng sản và công nhân, hơn 40 đảng cầm quyền, cùng gần 80 đảng tham gia Quốc hội các nước Qua đó, Đảng khẳng định đường lối đổi mới và tư duy đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển toàn cầu Việc mở rộng quan hệ với các đảng chính trị trên thế giới là cần thiết, tạo sự đồng thuận và cổ vũ cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đại biểu lần thứ XIII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc vào sáng ngày 26/01/2021 tại Hà Nội, với sự tham gia của 1.587 đại biểu đại diện cho hơn 5 triệu đảng viên Đường lối của Đại hội XIII kế thừa các nhận định từ các kỳ đại hội trước, đặc biệt là Đại hội XII, đồng thời cập nhật phù hợp với tình hình mới Đại hội khẳng định hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, tuy nhiên phải đối mặt với nhiều khó khăn do biến động toàn cầu Đặc biệt, Đại hội nhấn mạnh việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là ưu tiên hàng đầu, nhưng không mang tính vị kỷ Lợi ích này cần được thúc đẩy dựa trên nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, hướng tới hòa bình và tiến bộ xã hội Để hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, Đại hội XIII xác định cần xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Việt Nam, đặt ra yêu cầu chiến lược và cấp thiết cho đối ngoại và ngành ngoại giao trong bối cảnh mới Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa và phát triển các chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi mới, nhằm tạo ra kim chỉ nam cho việc triển khai đối ngoại đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong tương lai.

So sánh đường lối đối ngoại của Đảng trước và sau đổi mới

Đại hội lần IV tập trung vào việc tận dụng những điều kiện quốc tế thuận lợi nhằm nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

Đại hội lần V nhấn mạnh rằng công tác đối ngoại cần trở thành một mặt trận chủ động và tích cực nhằm đối phó với các thế lực hiếu chiến đang tìm cách chống phá cách mạng Việt Nam Độc lập, tự chủ và việc đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế là những yếu tố quan trọng Giai đoạn 1996 - 2007 cũng đã bổ sung vào chính sách này sự chủ động và tích cực trong việc hội nhập kinh tế quốc tế.

Quan hệ với các nước

Củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Lào và

Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam

Chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương nhằm xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Thúc đẩy quan hệ bình đẳng và hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chung Đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô để phát triển mối quan hệ bền vững và có lợi cho cả hai bên.

Xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và ổn định thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.

Việt Nam đang nỗ lực mạnh mẽ để tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các quốc gia trong tổ chức ASEAN, đồng thời không ngừng củng cố mối quan hệ với các bạn bè truyền thống.

Chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với

Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt

Nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt

– Lào trong bối cảnh vấn đề

Campuchia đang diễn biến phức tạp;

Chủ trương xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do, trung lập và ổn định là mục tiêu quan trọng, đồng thời yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng được đặt ra nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khu vực.

Chủ chương khôi phục quan hệ bình thường với Trung

Quốc Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp là cần thiết Để đạt được điều này, cần đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của bộ máy nhà nước.

Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế

Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập

Có thể thấy, những sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới được thể hiện rõ nét trên nhiều mặt.

Đảng ta đã chú trọng đổi mới nhận thức và đánh giá tình hình thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh lạnh và sự đối đầu Đông - Tây Trước đây, nhận thức của ta thường mang tính một chiều, dẫn đến việc không nhận ra đầy đủ những chuyển động phức tạp trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là giữa các nước lớn Đại hội VI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại trong bối cảnh xu thế hòa hoãn và hợp tác kinh tế toàn cầu Để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nước ta cần tham gia vào phân công lao động quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi, thể hiện sự đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng dựa trên nguyên lý chủ nghĩa Mác.

Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã giúp nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế Hai tư tưởng này nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh và phát triển, đồng thời khẳng định sự cần thiết của hợp tác và đấu tranh trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) đã mở ra bước ngoặt quan trọng trong tư duy đối ngoại, tiếp nối bởi Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VI, 3/1989), nâng cao nhận thức về cục diện thế giới và xu thế thời đại Đảng xác định ưu tiên hàng đầu là giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế, với chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa phương hóa quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và hợp tác cùng có lợi Nghị quyết Trung ương 6 còn nhấn mạnh việc chuyển đổi mạnh mẽ hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Những tư duy đột phá này đã định hình quan điểm cơ bản trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở và đa dạng hóa của Đảng.

Trong bối cảnh đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế, Đảng ta đã nhận thức rõ sự chuyển dịch lớn trong mối quan hệ giữa các nước lớn Từ tình trạng đối đầu gay gắt về chính trị - quân sự và sự phân chia trong kinh tế, hiện nay đang diễn ra một quá trình vừa đấu tranh, vừa hợp tác nhằm hướng tới sự tồn tại hòa bình.

Đảng ta ngày càng chú trọng đổi mới nhận thức về những vấn đề cơ bản của thời đại hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô Vấn đề thời đại đã trở thành một tiêu điểm quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận Nhờ nỗ lực đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn trong nước cũng như quốc tế, nhận thức về thời đại của Đảng đã được bổ sung và hoàn thiện, với cách tiếp cận ngày càng sát hợp và rõ nét hơn.

Đối ngoại là một trụ cột quan trọng bên cạnh chính trị, kinh tế và văn hóa, phục vụ cho sự phát triển của đất nước Chính sách đối ngoại được xem là “cánh tay nối dài” của chính sách đối nội, bảo vệ an ninh quốc gia và tối đa hóa lợi ích quốc gia Trong thời đại toàn cầu hóa, vai trò của đối ngoại càng trở nên nổi bật, góp phần duy trì an ninh, ổn định và thu hút nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội Đồng thời, nó cũng giúp quảng bá hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế.

Với những thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại, Đảng và Nhà nước tự tin đưa đất nước vượt qua khó khăn ban đầu, từng bước phục hồi và phát triển kinh tế vững mạnh Sự phát triển này không chỉ tạo điều kiện cho các trụ cột khác vững chắc mà còn nâng cao đời sống nhân dân Trên bình diện toàn cầu, Việt Nam tích cực tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và hoạt động kết nối, thiết lập mối quan hệ song phương và đa phương, khẳng định vai trò là người bạn đồng hành cùng các quốc gia trong sự phát triển chung.

Công tác đối ngoại mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng đặt ra thách thức lớn cho các quốc gia trong việc duy trì nền kinh tế độc lập, an ninh quốc gia, và bảo vệ môi trường Để đối phó với những vấn đề này, Đảng và Nhà nước cần xây dựng đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện và năng lực quốc gia nhằm hạn chế bất lợi, khai thác cơ hội từ hội nhập, từ đó đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đồng thời nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Ngày đăng: 29/11/2023, 05:49

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w