NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN SỐ VÀ CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TUỔI
Quy mô, cơ cấu và sự phát triển dân số
1.1.1 Quy mô và phân bố dân số
Quy mô dân số là tổng số dân cư của một khu vực, quốc gia hoặc các vùng khác trên thế giới tại một thời điểm nhất định Thông tin về quy mô dân số rất quan trọng trong việc phân tích và so sánh với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, giúp lý giải nguyên nhân của các tình hình hiện tại và định hướng cho chiến lược phát triển.
Dữ liệu về quy mô dân số có thể thu thập thông qua các cuộc điều tra và hệ thống ghi chép định kỳ như đăng ký hộ tịch, hộ khẩu và đăng ký dân số Tại Việt Nam, do hệ thống đăng ký chưa hoàn thiện, thông tin về quy mô dân số chủ yếu được thu thập qua các cuộc Tổng điều tra dân số diễn ra 10 năm một lần và các cuộc điều tra mẫu về biến động dân số hàng năm.
Phân bố dân số nghiên cứu sự tập trung của cư dân theo đơn vị hành chính hoặc địa điểm cư trú, bao gồm cả vùng kinh tế - xã hội và khu vực thành thị - nông thôn Các chỉ tiêu quan trọng trong nghiên cứu phân bố dân số bao gồm mật độ dân số và tỷ lệ phần trăm diện tích đất đai cùng dân số theo từng đơn vị hành chính hoặc vùng cụ thể.
Mật độ dân số là chỉ số quan trọng để đánh giá sự tập trung dân cư trên một diện tích lãnh thổ, được tính bằng số người trên mỗi kilômét vuông Chỉ số này có thể áp dụng cho toàn quốc, các vùng lãnh thổ, cũng như các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện và xã.
Mật độ dân số = Số dân (người)
(1.1) Diện tích lãnh thổ (km 2 )
Theo cuộc Tổng Điều tra dân số và nhà ở vào ngày 1/4/2009, Hà Nội có 6.451.909 cư dân trên diện tích 3.345 km2, dẫn đến mật độ dân số ấn tượng tại thời điểm này.
Phân bố phần trăm diện tích đất đai và dân số theo đơn vị hành chính hoặc vùng là việc so sánh cơ cấu dân số và diện tích của từng khu vực trong tổng thể quốc gia Ví dụ, Bảng 1.1 minh họa phân bố phần trăm diện tích đất đai và dân số theo vùng tại Việt Nam năm 2009.
Bảng 1.1: Phân bố phần trăm diện tích đất đai và dân số theo vùng,
Việt Nam 2009 Đơn vị tính: phần trăm (%)
Vùng kinh tế - xã hội Diện tích Dân số
1 Trung du và miền núi phía Bắc 28,8 12,9
3 Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 29,0 21,9
6 Đồng bằng sông Cửu Long 12,2 20,0
Nguồn dữ liệu được lấy từ Tổng cục Thống kê, cụ thể là Niên giám Thống kê 2009, Biểu 10, trang 37 Thông tin về dân số được cung cấp bởi Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, thông qua Tổng điều tra dân số và nhà ở.
0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009, các kết quả suy rộng mẫu Hà Nội, 12-2009 –Tr 12, 13.
Dân số Việt Nam phân bố không đồng đều, với sự chênh lệch rõ rệt giữa các vùng Hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù chỉ chiếm gần 19% diện tích đất đai, nhưng lại có tới gần 43% tổng dân số cả nước Ngược lại, Trung du và miền núi phía Bắc cùng Tây Nguyên, dù chiếm gần một nửa diện tích cả nước, nhưng do địa hình hiểm trở và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chỉ có dưới 19% dân số sinh sống tại đây.
Cơ cấu dân số là khái niệm chỉ tập hợp các bộ phận cấu thành dân số của một lãnh thổ, được phân chia theo các tiêu chuẩn nhất định Nghiên cứu cơ cấu dân số đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ thực trạng và dự báo các quá trình, động lực dân số của khu vực Cơ cấu dân số bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có cơ cấu sinh học.
Cơ cấu sinh học của dân cư trong một lãnh thổ phản ánh thành phần và thể trạng sinh học của họ, bao gồm hai yếu tố chính: cơ cấu dân số theo độ tuổi và cơ cấu dân số theo giới tính.
1.1.2.2 Cơ cấu theo thành phần dân tộc
Cơ cấu dân tộc của một quốc gia là sự phân chia dân số thành các bộ phận dựa trên thành phần dân tộc Nó bao gồm hai yếu tố chính: cơ cấu theo thành phần dân tộc và cơ cấu theo quốc tịch.
1.1.2.3 Cơ cấu dân số về mặt xã hội
Cơ cấu xã hội của dân cư ở một lãnh thổ nhất định phản ánh những khía cạnh quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động xã hội Các dạng cơ cấu này bao gồm cơ cấu lao động, cơ cấu nghề nghiệp và cơ cấu trình độ văn hóa, đóng vai trò thiết yếu trong việc hình thành và phát triển cộng đồng.
1.1.3 Tăng trưởng dân số và lý thuyết quá độ dân số
Tỷ suất tăng dân số, hay tỷ lệ tăng dân số bình quân năm, được sử dụng để đánh giá sự chênh lệch về quy mô dân số giữa các thời điểm khác nhau Để tính toán chỉ tiêu này, cần xác định dân số tại hai thời điểm đầu và cuối của thời kỳ tính toán, đồng thời giả định rằng dân số thay đổi theo một quy luật toán học nhất định.
Công thức được sử dụng phổ biến nhất để tính tỷ lệ tăng dân số là hàm mũ hay còn gọi là hàm lũy thừa: Pt = P0* e rt
Trong đó: r – tỷ lệ tăng dân số;
Pt – Dân số cuối kỳ;
P0 – Dân số đầu kỳ; t – Độ dài thời gian trong kỳ tính theo năm
Từ đó, ta có: r = ln(Pt/P0)
Dựa trên số liệu dân số của thành phố Hà Nội từ các cuộc Tổng điều tra dân số giai đoạn 1999 đến 2009, ta có thể tính toán tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm của tỉnh Thái Bình.
Bảng 1.2: Dân số và tỷ lệ tăng dân số bình quân năm của thành phố Hà Nội tính toán được từ kết quả tổng điều tra dân số 1999, 2009 và 2014
Tổng điều tra Dân số
(người) Công thức tính Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm (%)
Nguồn: 1999-2014: Tổng cục Thống kê 2009: Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
Tổng điều tra Dân số và nhà ở vào lúc 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 đã công bố kết quả toàn bộ Kết quả của cuộc Điều tra Dân số và nhà ở giữa kỳ vào ngày 1/4/2014 cũng đã được công bố, với các thông tin chủ yếu từ Nhà XBTK.
Cơ cấu dân số theo tuổi
Tuổi là một yếu tố quan trọng trong phân tích dân số, vì vậy các nhà khoa học đặc biệt chú trọng đến cơ cấu dân số theo độ tuổi Họ thường liên kết yếu tố này với các mục tiêu kinh tế - xã hội rộng rãi nhằm đạt được những mục đích cụ thể trong nghiên cứu ứng dụng.
1.2.1 Cách tính tuổi trong nghiên cứu dân số
Mặc dù các dân tộc trên thế giới đều có bản chất tương tự trong việc tính tuổi, nhưng có sự khác biệt rõ rệt về quan niệm và phương pháp giữa các nền văn hóa, dẫn đến kết quả tuổi khác nhau Ví dụ, nhiều quốc gia phương Đông như Trung Quốc và Triều Tiên thường sử dụng lịch âm (lịch mặt trăng) để xác định tuổi, trong khi phần lớn các nước phương Tây lại áp dụng lịch dương (lịch mặt trời).
Mỹ sử dụng lịch mặt trời để tính tuổi, tương tự như Việt Nam, nơi một cá nhân có thể có nhiều loại tuổi khác nhau Khi đi học hay đi làm, tuổi được tính theo tuổi dương lịch, nhưng trong những quyết định quan trọng như xây nhà hay kết hôn, tuổi lại được tính theo tuổi mụ hoặc âm lịch Để xác định tuổi dân số chính xác, các cuộc điều tra thống nhất sử dụng lịch mặt trời và quy định làm tròn số Theo quy định này, trẻ em từ khi sinh đến chưa tròn 12 tháng được tính là 0 tuổi, từ 1 năm đến chưa tròn 2 năm là 1 tuổi, và tiếp tục như vậy cho đến tuổi cuối cùng Nói cách khác, tuổi của một người được tính bằng số lần đã kỷ niệm sinh nhật theo dương lịch đến thời điểm điều tra.
1.2.2 Cơ cấu dân số theo tuổi
Cơ cấu dân số theo tuổi là sự phân chia các nhóm người theo độ tuổi nhất định, phục vụ nghiên cứu các quá trình dân số và kinh tế-xã hội Cấu trúc này có vai trò quan trọng trong nghiên cứu dân số, phản ánh tình hình sinh tử, tuổi thọ, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động của quốc gia.
Tùy theo mục đích nghiên cứu người ta có thể chia tổng dân số theo các độ tuổi, nhóm tuổi khác nhau
Nghiên cứu cơ cấu dân số theo độ tuổi là cần thiết để phân tích sự thay đổi liên tục của các sự kiện diễn ra từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, ví dụ như mỗi độ tuổi học sinh tương ứng với các lớp học trong trường phổ thông.
Nghiên cứu cơ cấu dân số theo nhóm tuổi là yếu tố quan trọng trong việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh mức sinh và xây dựng tháp dân số Việc phân tích này hỗ trợ trong việc xây dựng bảng sống, nghiên cứu tái sản xuất dân số, xác định lực lượng lao động, và lập kế hoạch phát triển cho giáo dục, y tế, và bảo trợ xã hội Tùy theo mục đích nghiên cứu, dân số có thể được chia thành các nhóm tuổi đều nhau hoặc không đều nhau.
Khi phân tích hoàn cảnh kinh tế - xã hội của dân cư, các yếu tố như mức sinh, mức chết và trình độ học vấn được xem xét kỹ lưỡng Cơ cấu dân số thường được phân chia theo các nhóm tuổi 5 năm (0-4; 5-9; 10-14…) hoặc 10 năm (0-9; 10-19; 20-29…).
Khi phân tích lực lượng lao động, cơ cấu tuổi của dân số được chia thành hai nhóm chính: dân số trong độ tuổi lao động từ 15 đến 59 tuổi và dân số ngoài độ tuổi lao động, bao gồm trẻ em dưới 15 tuổi và người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu biểu thị cơ cấu dân số theo tuổi
Có nhiều chỉ tiêu thể hiện cơ cấu dân số theo độ tuổi, phục vụ cho các mục tiêu nghiên cứu khác nhau Trong số đó, những chỉ tiêu phổ biến nhất bao gồm:
Tỷ trọng dân số theo độ tuổi và nhóm tuổi được tính bằng phần trăm dân số trong các độ tuổi cụ thể so với tổng dân số Chỉ tiêu này rất quan trọng để so sánh cấu trúc tuổi của dân số giữa các địa phương, quốc gia khác nhau, hoặc giữa hai thời điểm khác nhau trong cùng một địa phương.
Các tỷ trọng dân số phổ biến bao gồm tỷ trọng người trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi), tỷ trọng trẻ em (dưới 15 tuổi) và tỷ trọng người cao tuổi (65 tuổi trở lên).
Tuổi trung vị là chỉ số phân chia dân số thành hai nửa bằng nhau Khi so sánh cơ cấu độ tuổi giữa hai nhóm dân số, nhóm nào có tuổi trung vị cao hơn sẽ được coi là già hơn và ngược lại.
Công thức tính tuổi trung vị cho nhóm tuổi > 1, như sau:
Trong đó: Md - độ tuổi trung vị của dân số;
∑P1- số dân của các nhóm tuổi đứng trước nhóm chứa tuổi trung vị;
Pd - số dân trong nhóm tuổi chứa trung vị;
Ld - giới hạn dưới của nhóm tuổi chứa trung vị; i - khoảng cách nhóm tuổi chứa tuổi trung vị.
Tỷ số phụ thuộc là chỉ số quan trọng thể hiện mức độ gánh nặng của dân số trong độ tuổi lao động đối với nhóm dân số quá trẻ hoặc quá già Chỉ số này giúp đánh giá sự cân bằng giữa các nhóm tuổi và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội.
Tỷ số phụ thuộc chung được tính bằng số người dưới 15 tuổi và trên 65 tuổi trên 100 người trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 Tỷ số này phản ánh gánh nặng dân số, cho thấy cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải gánh chịu bao nhiêu người ngoài độ tuổi lao động Tỷ số phụ thuộc chung càng cao, gánh nặng dân số càng lớn và ngược lại.
Tỷ số phụ thuộc chung = P0-14 + P65+
Tỷ số phụ thuộc trẻ là chỉ số thể hiện số trẻ em dưới 15 tuổi trên 100 người trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi Chỉ số này cho thấy gánh nặng mà 100 người trong độ tuổi lao động phải chịu khi phải nuôi dưỡng số trẻ em dưới 15 tuổi.
Tỷ số phụ thuộc trẻ = P0-14
Các sai sót thường gặp trong thống kê cơ cấu dân số theo tuổi và phương pháp khắc phục
Trong các cuộc điều tra dân số, thông tin về tuổi của cư dân thường bị sai lệch do nhiều lý do như sự không chính xác trong trí nhớ, xu hướng khai báo sai tuổi của người trung niên và người lớn tuổi, hay thói quen làm tròn số Điều này dẫn đến sự tập trung bất thường ở những độ tuổi ưa thích và thiếu hụt ở những độ tuổi không được ưa chuộng, gây sai lệch trong số liệu phân bố dân số theo độ tuổi Do đó, trước khi phân tích cơ cấu dân số, cần áp dụng các phương pháp đánh giá độ chính xác của thông tin khai báo tuổi, trong đó có ba chỉ số chính: chỉ số Whipple, chỉ số Myers và chỉ số tuổi và giới tính của Liên hiệp quốc.
Chỉ số Whipple, hay còn gọi là chỉ số tập trung tuổi, được sử dụng để đánh giá sự ưa chuộng hoặc không ưa chuộng các con số cụ thể khi khai báo tuổi Chỉ số này thường được tính toán nhằm xác định mức độ ưa chuộng các tuổi có số tận cùng nhất định.
0 và 5 Chỉ số này được xác định bằng tương quan giữa tổng dân số các độ tuổi 25,
30, 35, 40, 45, 50, 55 và 60 với 1/5 dân số tất cả các độ tuổi từ 23 đến 62.
Chỉ số Whipple dao động từ 100 đến 500, với giá trị 100 cho thấy không có sự tập trung vào các tuổi có tận cùng là 0 và 5 Ngược lại, chỉ số 500 biểu thị rằng tất cả mọi người đều khai tuổi có tận cùng là 0 và 5 Nếu có sự không ưa chuộng hoặc né tránh các tuổi này, chỉ số Whipple sẽ thấp hơn 100.
1.3.2 Chỉ số UNI - chỉ số chính xác theo tuổi-giới tính của Liên hợp quốc
Phân bố dân số theo nhóm tuổi, đặc biệt là nhóm 5 độ tuổi, thường được sử dụng phổ biến hơn so với phân bố theo từng độ tuổi Việc này giúp giảm sai số do khai báo tuổi, chẳng hạn như trường hợp một phụ nữ 42 tuổi khai báo mình 40 tuổi, dẫn đến sự sai lệch trong tổng hợp dân số Khi tổng hợp theo từng độ tuổi, dân số ở độ tuổi 40 có thể tăng lên trong khi dân số ở độ tuổi 42 lại giảm xuống.
Khi tổng hợp dân số theo nhóm 5 độ tuổi, việc khai báo sai tuổi vẫn ảnh hưởng đến độ chính xác của phân bố dân số Ví dụ, một nam giới 49 tuổi khai báo 50 tuổi dẫn đến sai lệch trong phân bố dân số ở độ tuổi 49 và 50 Mặc dù người này thuộc nhóm tuổi 50-54 khi tổng hợp, nhưng phân bố vẫn không chính xác do sự sai lệch trong khai báo Do đó, cần đánh giá mức độ chính xác của các phân bố theo nhóm 5 độ tuổi Liên hợp quốc đã phát triển “Chỉ số chính xác tuổi-giới tính của Liên hợp quốc” nhằm đánh giá số liệu theo nhóm tuổi.
Chỉ số chính xác tuổi-giới tính của Liên hợp quốc kết hợp các phép đo chính xác trong khai báo tuổi và tỷ số giới tính giữa các nhóm tuổi khác nhau Chất lượng khai báo tuổi được đánh giá qua các tỷ số tuổi trung bình trong dữ liệu thu thập Tỷ số tuổi được tính bằng cách so sánh số lượng dân số của một nhóm tuổi cụ thể với trung bình số lượng dân số của hai nhóm tuổi liền kề.
Tỷ số tuổi của nhóm 5 độ tuổi tính từ tuổi x (Ipx) được tính theo công thức:
Loại trừ các tác động đặc biệt về sinh, chết và di cư trong quá khứ, dân số ở các nhóm tuổi liên tiếp có thể tạo thành chuỗi đường sát nhau, dẫn đến tỷ số tuổi gần đạt 100 Độ lệch so với 100 phản ánh mức độ khai báo sai trong nhóm tuổi, và tổng độ lệch của tất cả các nhóm tuổi cho thấy độ chính xác trong báo cáo theo nhóm tuổi Chỉ số UNI là tổng các chênh lệch tuyệt đối của tỷ số giới tính từ nhóm đầu tiên đến nhóm cuối cùng, là thước đo chính xác cho các tỷ số giới tính quan sát Tỷ số giới tính giả định rằng sự thay đổi về tuổi trong tỷ số giới tính gần bằng 0 Chỉ số chính xác tuổi-giới tính của Liên hợp quốc là tổng của các giá trị này.
(a) Độ lệch trung bình của tỷ số tuổi của nam giới so với 100;
(b) Độ lệch trung bình của tỷ số tuổi của nữ giới so với 100;
(c) 3 lần độ lệch trung bình của tỷ số giới tính.
Liên hiệp quốc đã thiết lập các tiêu chuẩn để đánh giá số liệu tuổi-giới tính trong các cuộc điều tra, phân loại thành ba mức độ: chính xác, tạm chấp nhận được và không chính xác, dựa trên các kết quả tính toán cụ thể.
Giá trị của chỉ số Mức đánh giá
Chính xácTạm chấp nhận đượcKhông chính xác
Kỹ thuật làm trơn (Smoothing technique) là phương pháp hiệu quả để sửa chữa sai sót trong việc khai báo tuổi Có hai phương pháp chính trong kỹ thuật làm trơn: một là làm trơn mà không thay đổi quy mô dân số, và hai là làm trơn có thể tăng hoặc giảm nhẹ quy mô dân số.
1.3.3.1 Phương pháp làm trơn không ảnh hưởng đến quy mô dân số
5Px+5 = 10Px /[1+ (10Px-10/10Px+10) 1/4 ] (1.10) và
5Px = 10Px – 5Px+5 (1.11) Trong đó: 5Px+5: dân số nhóm tuổi x+5 đến x+9
10Px : dân số nhóm tuổi x đến x+9
5Px : dân số nhóm tuổi từ x đến x+4 1.3.3.2 Phương pháp làm trơn khiến thay đổi quy mô dân số
5P ’ x 1 (- 5Px-10 + 4*5Px-5 + 10*5Px + 4*5Px+5 - 5Px+10) (1.12) 16
Trong đó: 5P ’ x: dân số nhóm tuổi x đến x+4
Phương pháp làm trơn chỉ nên được áp dụng khi có bằng chứng rõ ràng về sự khai báo sai tuổi trong dân số Đôi khi, chỉ số đánh giá sai sót tuổi có thể nằm ngoài phạm vi cho phép, nhưng điều này không nhất thiết chỉ ra sự phổ biến của việc khai báo sai tuổi Sự sai lệch này có thể bị ảnh hưởng bởi quyền số mẫu hoặc các biến động cơ học trong cấu trúc dân số.
Ảnh hưởng của biến động cơ cấu dân số theo tuổi đến phát triển kinh tế-xã hội
Theo lý thuyết quá độ, dân số các quốc gia trải qua giai đoạn chuyển đổi từ trạng thái cân bằng lãng phí sang tiết kiệm, hiệu quả, dẫn đến bùng nổ dân số với tỷ suất sinh cao và tỷ suất chết giảm Quá trình này tạo gánh nặng cho nền kinh tế toàn cầu và các nước đang phát triển Để ứng phó, nhiều chính phủ đã áp dụng chính sách kiểm soát dân số, làm giảm mức sinh và chậm lại tốc độ gia tăng dân số Hệ quả là thời kỳ quá độ dân số được rút ngắn, thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển đổi cơ cấu tuổi và ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.4.1 Biến động cơ cấu tuổi ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
Nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế ở Đông Nam Á cho thấy cơ cấu dân số theo tuổi đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người Biến động này không chỉ ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư mà còn thúc đẩy tăng trưởng GDP Mô hình tăng trưởng kinh tế kết hợp giữa cơ cấu tuổi dân số và lý thuyết vòng tròn tiết kiệm cho thấy giai đoạn đầu với dân số trẻ và tỷ lệ lao động thấp dẫn đến tăng trưởng chậm Khi dân số chuyển dịch sang giai đoạn có tỷ lệ không phụ thuộc cao, tiết kiệm gia tăng, thúc đẩy tăng trưởng thu nhập Kết quả nghiên cứu từ 78 quốc gia cho thấy dân số trong độ tuổi lao động tăng cường tích cực vào tăng trưởng GDP, trong khi quy mô dân số lớn lại làm giảm tốc độ này Quá trình chuyển đổi dân số đã góp phần quan trọng vào sự phát triển “thần kỳ” của khu vực Châu Á từ những năm 1960, với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người đạt 6%/năm nhờ vào lực lượng lao động dồi dào từ thế hệ bùng nổ dân số.
Nghiên cứu của Bloom và Williamson (2000) chỉ ra rằng biến đổi cơ cấu tuổi dân số đóng góp 1/3 vào tăng trưởng kinh tế của các nước "thần kỳ Châu Á" Tỷ lệ dân số phụ thuộc tăng, đặc biệt là nhóm tuổi 0-14 và 65+, có thể làm chậm lại tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, ảnh hưởng này không đồng đều giữa hai nhóm dân số phụ thuộc trẻ và già; trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc trẻ tăng có mối quan hệ nghịch với tăng trưởng GDP bình quân đầu người, thì không có mối liên hệ đáng kể giữa tăng trưởng kinh tế và dân số phụ thuộc già.
Nghiên cứu của Behrman et al (1999) đã phân tích mối quan hệ giữa tuổi trung bình dân số và các chỉ tiêu kinh tế tại 164 quốc gia trong giai đoạn 1950-1995 Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được xem xét bao gồm tiết kiệm quốc nội, GDP bình quân đầu người, tỷ lệ vốn đầu tư trên mỗi công nhân, doanh thu thuế, và chi tiêu chính phủ cho giáo dục và sức khỏe, cùng với các chỉ tiêu xã hội như chỉ số bất bình đẳng, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tội phạm và tỷ lệ nhập học Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng cơ cấu tuổi của dân số có ảnh hưởng đáng kể đến các đầu ra kinh tế, với sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng và các chính sách như chính sách mở cửa và thị trường tài chính trong nước Các mô hình nghiên cứu đã sử dụng nhiều biến giải thích liên quan đến cơ cấu tuổi như tỷ lệ dân số phụ thuộc, tuổi trung bình, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động và tốc độ tăng trưởng của dân số trẻ hoặc già.
Nghiên cứu của Lindh và Malmberg (1999) đã phân chia dân số thành năm nhóm tuổi: nhóm trẻ em (0-14 tuổi), nhóm thanh niên (15-24 tuổi), nhóm lao động chính (25-49 tuổi), nhóm trung niên (50-64 tuổi) và nhóm người cao tuổi (65 tuổi trở lên).
Sự phân loại theo vòng đời ảnh hưởng đến nền kinh tế, với trẻ em từ 0-14 tuổi phụ thuộc vào người lớn và tiêu dùng chủ yếu dịch vụ sức khỏe và giáo dục Nhóm thanh niên (15-24 tuổi) cũng tiêu dùng dịch vụ này nhưng với mục đích khác Người lao động chính (25-49 tuổi) chi tiêu phần lớn thu nhập cho nhà ở và nuôi con, dẫn đến tiết kiệm ít Nhóm trung niên (50-64 tuổi) thường có thu nhập cao hơn và tiết kiệm nhiều hơn nhờ kinh nghiệm Cuối cùng, người cao tuổi (65+) thường đã nghỉ hưu, phụ thuộc vào người khác và chủ yếu chi tiêu cho sức khỏe.
Mô hình nghiên cứu này khẳng định rằng vai trò của cá nhân trong nền kinh tế thay đổi theo độ tuổi, với tỷ trọng dân số theo tuổi được xem là yếu tố giải thích cho tỷ lệ tăng GDP trên mỗi công nhân Dựa trên dữ liệu từ các nước OECD giai đoạn 1950-1990, Lindh và Malmberg đã chỉ ra rằng có mối quan hệ thuận giữa tỷ trọng dân số trung niên (50-64 tuổi) ở giai đoạn trước và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo, đồng thời phát hiện mối quan hệ nghịch giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ trọng dân số già.
Gần đây, Andersson (2001) đã nghiên cứu tác động của sự biến đổi cơ cấu dân số theo tuổi đến tăng trưởng kinh tế ở các nước Xcăng-đi-na-vi, với kết quả cho thấy tỷ trọng dân số tuổi trung niên có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế Tại Việt Nam, trong 20 năm qua, biến động cơ cấu tuổi của dân số đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, dẫn đến hàng loạt nghiên cứu định tính và định lượng Nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh sử dụng dữ liệu từ 56 tỉnh/thành phố để phân tích tác động của tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (15-65) đến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người từ 2002 đến 2006 Kết quả cho thấy, Việt Nam đã hưởng lợi từ cơ cấu tuổi dân số, với biến đổi này đóng góp khoảng 14,5% vào mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người hàng năm.
Một nghiên cứu của Tiến sỹ Giang Thanh Long từ Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã đánh giá cơ hội và thách thức mà nền kinh tế Việt Nam đối mặt khi chuyển từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số vàng Nghiên cứu chỉ ra rằng Việt Nam có khả năng tận dụng lợi thế từ cơ cấu dân số vàng nếu thực hiện các chính sách phù hợp.
1.4.2 Biến động cơ cấu tuổi ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội
Nghiên cứu lý thuyết quá độ dân số cho thấy sự thay đổi về mức sinh và mức chết ảnh hưởng đến cơ cấu tuổi của dân số Sự biến đổi này lại tác động ngược trở lại quy mô dân số thông qua các yếu tố như mức sinh, mức chết và di cư.
1.4.2.1 Ảnh hưởng đến các vấn đề dân số
Mô hình xác định quy mô dân số trong thời kỳ nghiên cứu thường được sử dụng nhiều nhất là mô hình thành phần:
Pt: dân số kỳ nghiên cứu;
B: tổng số trẻ sinh ra trong thời kỳ từ năm 0 đến năm t;
D: tổng số người chết trong thời kỳ từ năm 0 đến năm t;
I: tổng số người nhập cư trong thời kỳ từ năm 0 đến năm t;
E: tổng số người xuất cư trong thời kỳ từ năm 0 đến năm t;
Quy mô dân số bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sinh, tử và di cư Đối với các quốc gia đang phát triển, sự chênh lệch giữa số người xuất cư và nhập cư thường không đáng kể, do đó có thể coi di cư quốc tế bằng 0 (I-E=0) Vì vậy, phương trình dân số có thể được xác định dựa trên các yếu tố sinh và tử.
Trong nghiên cứu, số trẻ em (B) chịu ảnh hưởng bởi quy mô dân số, mức sinh và cơ cấu tuổi – giới tính Hai nhóm dân số có cùng quy mô và mức sinh theo độ tuổi phụ nữ như nhau, nhưng nhóm nào có tỷ trọng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cao hơn sẽ có số trẻ em lớn hơn Khi chuyển từ cơ cấu dân số trẻ sang dân số vàng và già, số người bước vào độ tuổi sinh đẻ hàng năm vẫn nhiều hơn số người ra, dẫn đến mặc dù tỷ lệ sinh thấp, số trẻ em sinh ra vẫn tương đối lớn so với tổng dân số.
Số người chết (D) trong thời kỳ nghiên cứu từ năm 0 đến năm t chịu ảnh hưởng bởi quy mô, mức độ chết và cơ cấu tuổi của dân số Hai nhóm dân số có quy mô và mức độ chết theo tuổi tương đương, nhưng nhóm nào có tỷ trọng người trong độ tuổi rủi ro cao hơn sẽ có số người chết lớn hơn Khi dân số chuyển sang cơ cấu già hóa, tỷ lệ người bước vào độ tuổi rủi ro tăng lên, dẫn đến số người chết có xu hướng gia tăng, mặc dù tuổi thọ bình quân ngày càng cao.
1.4.2.2 Ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội
Hoạt động và nhu cầu của mỗi cá nhân trong xã hội thay đổi theo độ tuổi Ở trẻ em, nhu cầu chủ yếu là vui chơi và học tập Khi trưởng thành, mọi người tham gia vào lực lượng lao động với mong muốn tạo thu nhập để đáp ứng các chi phí cho bản thân và gia đình Đến tuổi già, nhu cầu lớn nhất của người cao tuổi là sức khỏe và chăm sóc sức khỏe Sự ảnh hưởng của các nhóm tuổi đến các vấn đề xã hội có thể được hệ thống hóa như ở Bảng 1.3.
Bảng 1.3: Ảnh hưởng của các nhóm tuổi đến các nhu cầu của xã hội
Y tế Giáo dục và đào tạo An sinh xã hội Các vấn đề xã hội khác
Chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng trẻ em
Giáo dục mầm non, tiểu học và trung học cơ sở Đảm bảo quyền trẻ em: quyền được học hành, vui chơi giải trí.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản
Giáo dục trung học phổ thông, dạy nghề, hướng nghiệp và đào tạo chuyên môn, chuyên sâu
Có việc làm ổn định và thu nhập đủ để nuôi sống bản thân và gia đình Được hỗ trợ tài chính trong các trường hợp ốm đau, rủi ro, sinh nở và khi thất nghiệp.
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi Được nghỉ ngơi, được xã hội và gia đình quan tâm chăm sóc Được hưởng trợ cấp tuổi già (hưu trí)
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ XU HƯỚNG THAY ĐỔI CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TUỔI Ở KHU VỰC NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ 1999-2014
Đánh giá mức độ chính xác dựa vào chỉ số Whipple
Dựa vào công thức (1.8) và số liệu dân số theo độ tuổi từ ba cuộc Điều tra dân số và nhà ở trong các biểu phụ lục 1, 2, 3, chỉ số Whipple cho các năm 1999, 2009 và 2014 đã được tính toán.
Chỉ số Whipple trong các năm 1999 và 2014 dao động quanh mức 100, cho thấy không có sự thiên lệch rõ rệt về sự ưa chuộng hoặc không ưa chuộng các độ tuổi là bội số của 5 khi khai báo.
Đánh giá mức độ chính xác dựa vào chỉ số UNI
Sử dụng bảng tính AGESEX trong phần mềm PAS để tính chỉ số UNI, kết quả tổng hợp được trình bày trong Bảng 2.1 Kết quả cho thấy chỉ số tuổi-giới tính từ các cuộc Tổng điều tra không đạt chỉ số chính xác tuyệt đối nhưng nằm trong khoảng chấp nhận được Đặc biệt, mức độ chính xác tuổi từ kết quả Tổng điều tra lần sau cao hơn so với lần trước.
Bảng 2.1: Chỉ số uni theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở của Việt Nam năm
Chỉ số chính xác tuổi - giới tính 21,2 22,3 20,8
Số liệu dân số theo tuổi và giới tính của Việt Nam từ ba cuộc Tổng điều tra là chính xác và đáng tin cậy Việc sử dụng dữ liệu này để nghiên cứu xu hướng biến đổi cơ cấu tuổi và đánh giá tác động của nó đến phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 1989-2009 là hợp lý và có cơ sở khoa học.
Phân tích thống kê xu hướng thay đổi của cơ cấu dân số theo tuổi của khu vực nông thôn Việt Nam thời kỳ 1999-2014
2.3.1 Các chính sách dân số của Nhà nước Việt Nam giai đoạn 1999-2014
Trước khi phân tích sự biến đổi cơ cấu tuổi của dân số Việt Nam trong 20 năm (1999-2014), cần xem xét các chính sách dân số quan trọng của nhà nước, đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy sự biến đổi nhanh chóng của cơ cấu dân số theo tuổi.
Chính sách dân số là các biện pháp và chương trình của Chính phủ nhằm điều chỉnh xu hướng dân số vì sự phát triển bền vững của quốc gia Tùy thuộc vào tình hình dân số và các yếu tố sinh, tử, di cư, các quốc gia xây dựng chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển Tại Việt Nam, từ những năm 1960, Chính phủ đã triển khai các chính sách dân số, với Quyết định số 216/CP được coi là văn bản pháp quy đầu tiên, nhấn mạnh tầm quan trọng của sức khỏe mẹ và hạnh phúc gia đình Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã trở thành một phần quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống Từ 1999 đến 2014, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản và nghị quyết về dân số, như Pháp lệnh số 03/2003/PLUBTVQH11 vào ngày 9/1/2003.
Pháp lệnh Dân số 2008 cùng các chiến lược dân số Việt Nam từ 1993 đến 2020 đã được triển khai, hình thành hệ thống tổ chức chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở Chính quyền và các tổ chức đoàn thể đã cụ thể hóa chính sách dân số thành các nghị quyết và quyết định địa phương Kết quả, tỷ suất sinh tổng hợp (TFR) giảm từ 6,10 con/phụ nữ vào năm 1969-1970 xuống còn 3,80 vào năm 1989, và tiếp tục giảm còn 2,33 vào năm 1999, dưới mức sinh thay thế với TFR 2,03 và 2,09 vào năm 2009 và 2014 Thành công này đánh dấu sự chuyển từ sinh sản tự nhiên sang sinh đẻ có kế hoạch Tỷ lệ tăng trưởng dân số trung bình giảm từ 1,7% năm (1989-1999) xuống 1,2% (1999-2009) và chỉ còn 1,1% (2009-2014).
2.3.2 Đặc điểm cơ bản của dân số Việt Nam hiện nay
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009, Việt Nam có dân số 85,8 triệu người, đứng thứ 13 thế giới và thứ 3 Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia và Philippines Để xây dựng chính sách dân số hiệu quả, cần nắm vững những đặc điểm cơ bản về dân số Việt Nam.
Thứ nhất, quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số nhanh Đầu thế kỷ
Dân số Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể từ khoảng 13 triệu người vào năm 1931 lên 17,7 triệu người, với nhịp độ gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong các thập niên 60-70 Từ năm 1955 đến 1977, dân số tăng gấp đôi chỉ trong 22 năm, đạt từ 25 triệu lên 50 triệu người Tuy nhiên, từ năm 1978 đến nay, nhờ vào các chương trình kế hoạch hóa gia đình, tốc độ tăng dân số đã giảm dần qua các giai đoạn: 1,7% (1989-1999), 1,2% (1999-2009) và 1,1% (2009-2014) Đặc biệt, giai đoạn 1999-2009 có sự khác biệt rõ rệt so với trước đó, khi tốc độ gia tăng dân số chủ yếu do đà tăng dân số, mặc dù mức sinh đã giảm xuống dưới mức thay thế từ năm 2005 Sự bùng nổ dân số trong giai đoạn 1955-1977 đã tạo ra một lượng lớn người bước vào độ tuổi sinh đẻ, dẫn đến một giai đoạn tăng dân số mới.
Năm 2014 đánh dấu sự chuyển biến trong tình hình dân số Việt Nam, khi có dấu hiệu chững lại và mức sinh giảm mạnh, với mức sinh thay thế thấp nhất vào năm 2011 là 1,99 con/phụ nữ Tuy nhiên, đến năm 2014, mức sinh có xu hướng tăng lên gần mức thay thế, đạt 2,09 con/phụ nữ Dự báo, dân số Việt Nam sẽ đạt 108,4 triệu người vào năm 2049.
Cơ cấu dân số Việt Nam đang trải qua sự chuyển biến nhanh chóng từ trẻ hóa sang già hóa Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỷ lệ trẻ em dưới 14 tuổi chỉ còn 24,45%, giảm từ 33,11% năm 1999 và 23,95% năm 2014 Trong khi đó, tỷ lệ người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) đã tăng từ 4,71% năm 1989 lên 6,42% năm 2009 Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cũng tăng đáng kể, từ 53,66% năm 1989 lên 66,86% năm 2009 Điều này cho thấy, sau 20 năm, cứ 100 người dân Việt Nam thì có thêm 13 người bước vào độ tuổi lao động, phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu dân số.
Mức sinh thay thế là mức sinh mà một đoàn hệ phụ nữ trung bình có đủ số con gái để thay thế họ trong dân số Khi đạt mức sinh thay thế, số sinh sẽ cân bằng với số chết, và nếu không có di cư, dân số sẽ ngừng gia tăng, trở thành "dân số dừng" Một dân số đạt hoặc dưới mức sinh thay thế vẫn có thể tăng trong vài thập kỷ do mức sinh cao trước đây, dẫn đến sự tập trung nhiều phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, khiến tổng số sinh tiếp tục vượt quá tổng số chết.
Thứ ba, dân cư phân bố không đều và tỷ lệ đô thị thấp Kết quả Tổng điều tra
Dữ liệu từ Dân số và Nhà ở năm 2009 cùng với Điều tra dân số giữa kỳ vào ngày 1/4/2014 chỉ ra rằng sự phân bố dân cư tại Việt Nam rất không đồng đều giữa các vùng và khu vực.
Vùng Đồng bằng sông Hồng, nơi có số lượng dân số đông nhất cả nước, chỉ chiếm hơn 6% tổng diện tích lãnh thổ Đây cũng là khu vực có mật độ dân số cao nhất Việt Nam, đạt mức tối đa.
Hai vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số lần lượt là 930 người/km² và 594 người/km², tập trung tới 39% dân số cả nước nhưng chỉ chiếm gần 13% diện tích lãnh thổ Ngược lại, vùng Trung du và miền núi phía Bắc cùng Tây Nguyên chỉ có 19% dân số nhưng lại chiếm gần một nửa diện tích lãnh thổ cả nước, với mật độ dân số thấp nhất là 116 người/km² tại Trung du và miền núi phía Bắc, và 93 người/km² tại Tây Nguyên.
Bảng 2.2: Phân bố phần trăm diện tích đất và dân số theo các vùng, 2014
Vùng kinh tế - xã hội Diện tích
(%) Dân số (%) Mật độ dân số
Trung du và miền núi phía Bắc 28,8 12,9 116 Đồng bằng sông Hồng 6,4 22,8 930
Bắc Trung Bộ và DH miền Trung 29,0 22,0 196
Tây Nguyên 16,5 6,1 93 Đông Nam Bộ 7,1 16,3 594 Đồng bằng sông Cửu Long 12,3 20,0 423
Theo Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở TW, báo cáo về Tổng điều tra dân số và nhà ở vào ngày 1/4/2009 đã công bố các kết quả chủ yếu, được phát hành bởi Nhà xuất bản Thống kê năm 2010 Ngoài ra, Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ vào ngày 1/4/2014 cũng đã cung cấp các kết quả quan trọng.
Sự phân bố dân cư ở Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng và tỉnh/thành phố Các khu vực đô thị, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thường có mật độ dân số cao Ngược lại, một số tỉnh ở vùng núi cao phía Bắc và Tây Nguyên, mặc dù có diện tích lớn, lại có mật độ dân cư thưa thớt.
Bảng 2.3 trình bày phân bố phần trăm diện tích đất và dân số của một số tỉnh tại Việt Nam trong các năm 2009 và 2014 Dữ liệu cho thấy sự thay đổi trong diện tích và dân số, cũng như mật độ dân số tính theo người trên mỗi km².
Nguồn: - Diện tích: Niên Giám Thống kê, 2009 và 2014
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương đã thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ở vào ngày 1/4/2009, công bố một số chỉ tiêu chủ yếu Tiếp đó, vào ngày 1/4/2014, cuộc Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ đã được tiến hành, cung cấp các kết quả quan trọng Những số liệu này giúp đánh giá tình hình dân số và mật độ dân số tại Hà Nội, đóng góp vào việc hoạch định chính sách phát triển.
Sự thay đổi của các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình biến đổi cơ cấu dân số theo tuổi khu vực nông thôn của Việt Nam
Qua các phân tích trước, chúng ta nhận thấy rằng sự biến đổi cấu trúc tuổi của dân số là kết quả của ba chỉ tiêu nhân khẩu học quan trọng: mức sinh, mức chết và di cư Trong phần này, dựa vào dữ liệu từ ba cuộc Tổng điều tra, chúng ta sẽ nghiên cứu xu hướng biến động của ba chỉ tiêu nhân khẩu học này để làm rõ ảnh hưởng của chúng đến quá trình dịch chuyển cơ cấu dân số theo tuổi qua các thời kỳ.
Sinh đẻ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng dân số và ảnh hưởng đến cơ cấu tuổi cũng như giới tính Để đánh giá tình hình sinh đẻ, hai chỉ tiêu phổ biến nhất được sử dụng là tỷ suất sinh thô (Crude Birth Rate - CBR) và tổng tỷ suất sinh (Total Fertility Rate - TFR).
Tỷ suất sinh thô (CBR) biểu thị số trẻ em sinh ra sống trong năm, tính bình quân trên 1.000 người dân của năm đó
Tổng tỷ suất sinh (TFR) là chỉ số đo lường số con trung bình mà một người phụ nữ có thể sinh ra trong suốt cuộc đời của mình, dựa trên tỷ suất sinh theo độ tuổi được ghi nhận trong năm nghiên cứu.
Bảng 2.10 trình bày kết quả ước lượng gián tiếp Tỷ suất sinh thô của dân số Việt Nam thu thập được qua các cuộc Tổng điều tra năm 1979,1989,1999 và 2009
Bảng 2.10: Tỷ suất sinh thô đã chuẩn hóa, khu vực nông thôn của Việt Nam, năm
Năm điều tra Tỷ suất sinh thô (CBR - %o)
- Năm 1979, 1989: Dân số và Phát triển ở Việt Nam, Quá độ dân số, trang 87
- Năm 1999:Ban chỉ đạoTổng điều tra Dân số và Nhà ở TW, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1/4/1999: Những kết quả chủ yếu Nhà xuất bản Thống kê, 2001
- Năm 2009: Ban chỉ đạoTổng điều tra Dân số và Nhà ở TW, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1/4/2009: Những kết quả chủ yếu Nhà xuất bản Thống kê, 2010
Tỷ suất sinh thô đã giảm liên tục qua các giai đoạn Tổng điều tra, từ hơn 30 trẻ em trên 1000 người dân vào năm 1999 xuống chỉ còn hơn 19 trường hợp vào năm 2009.
12 tháng trước điều tra Sau 15 năm, tỷ suất sinh thô của dân số Việt Nam đã giảm đi một phần ba
Đánh giá sự thay đổi mức sinh chỉ dựa vào CBR có thể dẫn đến những sai sót, vì chỉ tiêu này bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tuổi và giới tính của dân số Điều này làm cho việc so sánh mức sinh giữa các dân số khác nhau hoặc giữa các thời kỳ khác nhau trong cùng một dân số trở nên khó khăn Để khắc phục nhược điểm này, Tổng tỷ suất sinh (TFR) được sử dụng như một chỉ số chính xác hơn.
Hình 2.5: Tổng tỷ suất sinh khu vực nông thôn Việt Nam, 2002 - 2014
Nguồn: Điều tra Dân số và Nhà ở 1/4/2024: Những kết quả chủ yếu Nhà xuất bản Thống kê, 2015
Hình 2.5 cho thấy sự thay đổi Tổng tỷ suất sinh của Việt Nam qua các cuộc điều tra nhân khẩu học từ năm 1999 đến 2014, với số con sinh trung bình của phụ nữ nông thôn giảm từ 2,57 con/phụ nữ xuống 2,21 con/phụ nữ Trong 10 năm đầu (1999-2009), tốc độ giảm sinh diễn ra chậm, chỉ 0,43 con/phụ nữ Tuy nhiên, trong ba năm tiếp theo (2009-2011), mức sinh dao động quanh mức sinh thay thế Từ năm 2012 đến nay, mức sinh ở khu vực nông thôn lại tăng lên, dao động quanh 2,2 con/phụ nữ.
Mức sinh thay thế thông thường là 2,1 con mỗi phụ nữ, nhưng ở Việt Nam, ước tính có thể cao hơn do tỷ số giới tính khi sinh cao Đặc biệt, từ năm 1975 đến 2015, Việt Nam ghi nhận mức giảm sinh cao nhất trong khu vực ASEAN, ngoại trừ Thái Lan.
Bảng 2.11: Tổng tỷ suất sinh của Philippines, Indonesia, Malaysia, Myamar và Việt
Nam qua các thời kỳ Đơn vị tính: con/phụ nữ
Philippines Indonesia Malaysia Myamar Việt Nam
Nguồn: World population prospect, Data Query, United Nation.
Từ những năm 80 trở về trước, Việt Nam luôn dẫn đầu về mức sinh, với trung bình 5,5 con mỗi phụ nữ giai đoạn 1975-1980 và 3,85 con giai đoạn 1985-1990 Tuy nhiên, con số này đã giảm gần một nửa vào cuối thập niên 90, chỉ còn 2,25 con/phụ nữ, giảm 1,6 con/phụ nữ Đến cuối những năm 2000, mức sinh của Việt Nam tiếp tục giảm, trở thành quốc gia duy nhất trong nhóm có cơ cấu dân số vàng (trừ Thái Lan) có mức sinh dưới mức thay thế Điều này cho thấy thành công của chính phủ Việt Nam trong việc kiểm soát tỷ lệ tăng dân số.
Mức chết là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu nhân khẩu học, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng tự nhiên và cơ cấu dân số Khác với mức sinh chỉ tác động đến nhóm dân số 0 tuổi, mức chết tác động đến mọi độ tuổi, dẫn đến sự gia tăng tuổi thọ bình quân Sự gia tăng này không chỉ làm tăng tỷ trọng dân số trẻ mà còn kéo theo sự gia tăng tỷ trọng người cao tuổi, do thời gian sống lâu hơn Khi tỷ suất sinh giảm, cơ cấu dân số sẽ già đi, không phải do tỷ suất chết giảm Để đánh giá mức tử vong, các chỉ tiêu thường được sử dụng bao gồm tỷ suất chết thô (CDR), tỷ suất chết sơ sinh (IMR) và tuổi thọ bình quân từ lúc sinh (E0).
Tỷ suất chết thô (CDR) đo lường số người chết trên 1.000 dân trong một năm nghiên cứu Trong khi đó, tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) phản ánh số trẻ em dưới 1 tuổi qua đời trên 1.000 trẻ sống trong cùng thời gian nghiên cứu.
Tuổi thọ bình quân từ lúc sinh (E0) phản ánh số năm trung bình mà một người có thể sống kể từ khi sinh ra Chỉ tiêu này có mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ tử vong trong dân cư; nếu tỷ lệ tử vong, đặc biệt là ở trẻ em, cao thì tuổi thọ bình quân sẽ thấp và ngược lại.
Trong các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở, mức chết được đánh giá qua số trường hợp tử vong ghi nhận trên phiếu điều tra mẫu Tuy nhiên, thông tin tử vong thường gặp sai số do bỏ sót người chết, dẫn đến ước lượng thấp về mức độ chết Do đó, cần áp dụng các phương pháp ước lượng gián tiếp để hiệu chỉnh Kết quả ước lượng tỷ suất chết thô (CDR) từ các cuộc điều tra được trình bày trong bảng 2.12.
Bảng 2.12: Tỷ suất chết thô khu vực nông thôn của Việt Nam, năm
1999, 2009 và 2014 Đơn vị tính: trường hợp chết/1000 người dân
Năm điều tra Tỷ suất chết thô – CDR
Nguồn: Ban chỉ đạoTổng điều tra Dân số và Nhà ở TW, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1/4/2009: Những kết quả chủ yếu
Theo số liệu từ biểu 2.13, tỷ lệ tử vong trên 1000 dân đã có sự biến động qua các năm Năm 1989, trung bình có 7,9 trường hợp tử vong, con số này giảm xuống còn 6,0 vào năm 1999 Tuy nhiên, đến năm 2009, tỷ lệ tử vong lại tăng lên 7,4 trên 1000 dân, trước khi giảm nhẹ xuống còn 7,2 vào năm 2014.
Tỷ suất chết thô bị ảnh hưởng bởi cấu trúc dân số theo tuổi và giới tính, tương tự như tỷ suất sinh thô Khi tỷ lệ dân số dưới 5 tuổi giảm và có mức sinh thấp, tỷ suất chết thô có thể giảm Tuy nhiên, sự gia tăng dân số già, nhóm có tỷ suất chết theo tuổi cao, có thể làm bù đắp cho sự giảm sút của số lượng chết sơ sinh và trẻ em Do đó, tỷ suất chết thô có thể không thay đổi hoặc thậm chí tăng lên.
Để đánh giá chính xác tỷ lệ tử vong, cần dựa vào các chỉ số như tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh (Infant Mortality Rate - IMR) và tuổi thọ bình quân từ lúc sinh (Life Expectancy at birth - E0) Bảng 2.13 cung cấp kết quả ước lượng IMR và E0 dựa trên dữ liệu từ ba cuộc Tổng điều tra.
Bảng 2.13: Tỷ suất chết của trẻ sơ sinh và tuổi thọ bình quân của Việt Nam khu vực nông thôn năm 1999, 2009 và 2014
Năm điều tra Tỷ suất chết trẻ sơ sinh – IMR
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TUỔI Ở KHU VỰC NÔNG THÔN ĐẾN PHÁT TRIỂN
Sự thay đổi cơ cấu dân số theo tuổi ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
3.1.1 Cơ cấu dân số theo tuổi ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế vùng nông thôn giai đoạn 1999-2014
Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong tăng trưởng và phát triển kinh tế nhờ thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập Từ 1991-1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 8,2%/năm, tiếp theo là 6,7%/năm (1996-2000), 7,5%/năm (2001-2005) và 7,6%/năm (2006-2008) Mặc dù tốc độ tăng trưởng năm 2008 giảm xuống 6,23% do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn được đánh giá có mức tăng trưởng cao và nhanh chóng vượt qua khủng hoảng So với năm 1989, GDP năm 2009 ước tính tăng gấp 4,11 lần, tương đương 411% Thu nhập bình quân đầu người cũng tăng đáng kể, từ 375 USD năm 1999 lên 1.084 USD năm 2009 và 2.637 USD năm 2014 Đặc biệt, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng từ 225 nghìn đồng năm 1999 lên 2,04 triệu đồng năm 2014, cho thấy tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đến đời sống xã hội nông thôn.
Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao ở khu vực nông thôn nhờ vào việc huy động lượng vốn đầu tư và lao động lớn trong sản xuất Sự cải tiến công nghệ và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại trong nông, lâm, ngư nghiệp đã góp phần tạo ra những thành tựu đáng kể Đặc biệt, quá trình chuyển dịch cơ cấu dân số từ trẻ sang dân số vàng đã cung cấp một lực lượng lao động trẻ dồi dào, thúc đẩy tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người từ 1999 đến 2014 Chương này sẽ phân tích tác động của sự dịch chuyển cơ cấu tuổi dân số ở khu vực nông thôn giai đoạn 1989-2014 đến tốc độ tăng trưởng GDP, dựa trên mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas, cho thấy rằng sản lượng đầu ra của nền kinh tế phụ thuộc vào sự thay đổi của vốn và lao động, trong khi yếu tố khoa học công nghệ được giữ cố định.
Công thức tính như sau:
- GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
- A : yếu tố khoa học công nghệ
- α và β: là các hệ số co giãn theo sản lượng của vốn và lao động, chúng cố định và do công nghệ quyết định.
Theo công thức (3.1), nếu giả định rằng tất cả người trong độ tuổi lao động đều tham gia vào hoạt động kinh tế để tạo ra GDP, ta có thể coi tỷ lệ người lao động tham gia không thay đổi trong suốt thời kỳ nghiên cứu Do đó, số lượng lao động của nền kinh tế được tính theo công thức đã đề ra.
- d 15-59 : Tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (15-59)
Từ (3.1) và (3.2), ta có công thức tính GDP trong đó có sự tham gia của tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động như sau:
Biến đổi logarit hai vế của Phương trình (3.3), ta có: lnGDP = lnA + α.lnK + β1.lnd15-59 + β2.lnP (3.4)
Biểu phụ lục số 7 trình bày nguồn số liệu được sử dụng để chạy mô hình hồi quy số (3.4) Nguồn số liệu bao gồm:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và Vốn đầu tư theo giá so sánh năm 1994 được công bố trong Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê từ năm 1999 đến 2014, với đơn vị tính là tỷ đồng.
- Dân số từ năm 1999 có chỉnh lý theo dân số 2014 do Tổng cục Thống kê công bố (đơn vị tính: người);
- Tỷ trọng dân số từ 15-59 từ năm 1999 đến nay (đơn vị tính: lần);
Sử dụng phần mềm SPSS để xây dựng mô hình kinh tế lượng với biến phụ thuộc là lnGDP, trong đó các biến giải thích bao gồm lnA, lnK, lnd15-59 và lnP Kết quả của mô hình được trình bày chi tiết trong biểu phụ lục 8.
Kết quả hồi quy mô hình cho thấy R² = 0,997, cho thấy các biến độc lập giải thích 99,7% biến phụ thuộc, chứng tỏ mô hình này khá tốt Thống kê t cho thấy, với mức ý nghĩa α = 0,05, không có cơ sở để loại bỏ các biến giải thích khỏi mô hình.
Kết quả hồi quy cho thấy mô hình có thể giải thích ảnh hưởng của vốn đầu tư, dân số và tỷ trọng dân số trong độ tuổi từ 15-59 đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
* K 0,169 * d15-59 1,844 * P 1,803 (3.5) e 21 Theo kết quả hồi quy trên, trong thời kỳ 1999-2014, khi tỷ trọng người trong độ tuổi lao động tăng 1% thì GDP tăng 1,84%
Giữa giai đoạn 1999 - 2014, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tại Việt Nam đã tăng 24,6%, góp phần làm GDP tăng 45% Điều này cho thấy sự biến động trong cơ cấu dân số theo độ tuổi đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP của đất nước trong thời gian này.
3.1.2 Cơ cấu dân số theo tuổi ảnh hưởng đến thị trường lao động tại khu vực nông thôn
Bảng 3.1 trình bày dân số và sự thay đổi tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động khu vực nông thôn qua ba thời điểm 1999, 2009 và 2014.
Theo số liệu từ bảng 3.1, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động tại khu vực nông thôn đạt 56,4%, trong khi tỷ lệ người có việc làm ở khu vực này lần lượt là 73,1% và 69,3% Điều này cho thấy số lượng lao động thực tế có việc làm tại khu vực nông thôn trong năm qua.
1999 là 29,4, năm 2009 tăng lên là 35,1 triệu người và năm 2014 đạt 36,7 triệu người
Năm 2009, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) đạt 73,1%, tương đương với 44,4 triệu người Nếu tỷ lệ người có việc làm là 60,5%, số người làm việc theo cơ cấu tuổi năm 2009 sẽ là 26,84 triệu Tuy nhiên, con số thực tế năm 2014 cao hơn 8,67 triệu người, cho thấy sự thay đổi cơ cấu tuổi đã bổ sung thêm 8,67 triệu người tham gia vào thị trường lao động.
Bảng 3.1: Dân số và tỷ trọng dân trong độ tuổi lao động, tỷ trọng dân số có việc làm, khu vực nông thôn, năm 1999, 2009 và 2014
Tỷ trọng người trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) (%) 56,4 73,1 69,3
Dân số trong độ tuổi lao động
Số lao động có việc làm (triệu người) 29,4 35,1 36,7
Tỷ trọng người có việc làm trong tổng dân số trong độ tuổi lao động
Năm 2014, nếu giả định tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) giữ nguyên ở mức 37,2% như năm 2009, sẽ có khoảng 22,47 triệu người trong độ tuổi này Với tỷ lệ người có việc làm đạt 60,5%, số người làm việc trong độ tuổi lao động năm 2014 sẽ là 36,54 triệu người, thấp hơn 0,16 triệu người so với con số thực tế Sự thay đổi cơ cấu tuổi giữa năm 2014 và năm 2009 đã ảnh hưởng đến tình hình việc làm.
2009 đã bổ sung thêm 0,16 triệu người tham gia vào thị trường lao động.
Sự thay đổi cơ cấu dân số theo độ tuổi đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể số người trong độ tuổi lao động tại khu vực nông thôn Việt Nam Quá trình này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phân công lao động, chuyển dịch từ các lĩnh vực có năng suất và thu nhập thấp sang những lĩnh vực có năng suất và thu nhập cao hơn, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây Bảng 3.2 thể hiện xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động giai đoạn 2009-2014 theo ba ngành kinh tế chính: Nông, lâm, thủy sản; Công nghiệp và xây dựng; và Dịch vụ.
Số liệu từ Bảng 3.2 cho thấy số người trong độ tuổi lao động tại Việt Nam đã tăng mạnh, dẫn đến sự gia tăng đáng kể lao động trong cả ba ngành kinh tế Ngành dịch vụ là lĩnh vực thu hút nhiều lao động nhất với hơn 6,3 triệu người, tiếp theo là ngành công nghiệp và xây dựng với khoảng 4,5 triệu người Trong 10 năm qua (1999-2009), có sự chuyển dịch rõ rệt cơ cấu lao động từ các ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất và tỷ trọng đóng góp vào GDP cao Ngành nông, lâm, thủy sản có năng suất lao động thấp nhất và tỷ trọng lao động đã giảm từ 69,4% năm 1999 xuống 53,9% năm 2009 Ngược lại, ngành công nghiệp và xây dựng đã tăng tỷ trọng lao động từ 14,9% lên 20,3% trong cùng thời gian, cho thấy sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu lao động Ngành dịch vụ, với năng suất lao động cao nhất, đã thu hút tỷ trọng lao động lớn nhất trong giai đoạn này.
Năm 2009, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam đạt 25,8%, tăng 10 điểm phần trăm so với năm 1999 Sự biến đổi cơ cấu dân số theo tuổi đã góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh thị trường lao động, phù hợp với chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam tiến tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Trong những năm qua, Việt Nam đã khai thác hiệu quả lợi thế từ sự thay đổi cơ cấu tuổi trong dân số Thành công này đến từ các chính sách mở cửa kinh tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế tư nhân và đầu tư vào cơ sở hạ tầng Những nỗ lực này đã giúp nền kinh tế Việt Nam hiện thực hóa tiềm năng kinh tế, đặc biệt là tiềm năng về nhân khẩu học.
Phân tích ảnh hưởng của sự thay đổi cơ cấu dân số theo tuổi đến một số vấn đề xã hội chủ yếu của vùng nông thôn ở Việt Nam thời kỳ 1999-2014
3.2.1 Ảnh hưởng đến mức sinh
Các chỉ tiêu nhân khẩu học có mối quan hệ tương tác qua lại, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau Trong các chương trước, chúng ta đã phân tích sự tác động của các chỉ tiêu này đến quá trình dịch chuyển cơ cấu dân số theo tuổi Ở phần này, chúng ta sẽ sử dụng số liệu về số trẻ em sinh ra và số người chết trong năm nghiên cứu, cùng với tỷ suất sinh và chết theo nhóm 5 độ tuổi từ ba cuộc Tổng điều tra năm 1999, 2009 và 2014, để lượng hóa ảnh hưởng của sự thay đổi cơ cấu dân số theo tuổi đến mức sinh và mức chết.
Số liệu về dân số nữ, tỷ trọng và số lượng dân số nữ trong độ tuổi sinh đẻ được trình bày trên Bảng 3.3.
Bảng 3.3: Dân số, tỷ trọng và số lượng dân số nữ trong độ tuổi sinh đẻ của Việt Nam khu vực nông thôn, 1999, 2009 và 2014
Dân số nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) (người) 15.276.698 16.908.550 16.137.540
Tỷ trọng nữ trong độ tuổi sinh đẻ so với dân số nữ
Dữ liệu về dân số nữ trong độ tuổi 15-49 và mức sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR) tại khu vực nông thôn trong 12 tháng trước Tổng điều tra 2009 và Điều tra dân số giữa kỳ 2014 được thể hiện rõ trong Bảng 3.4.
Bảng 3.4: Dân số nữ 15-49 tuổi và mức sinh đặc trưng theo nhóm 5 độ tuổi (ASFR), khu vực nông thôn Việt Nam 2009 và 2014
Phụ nữ 15-49 (Nghìn người) ASFR (‰) Phụ nữ 15-49
Gọi B là số con sinh sống trong 12 tháng trước điều tra:
- Bi : số con sinh sống của phụ nữ nhóm tuổi i, i = 1,2….7, tương ứng với số phụ nữ trong nhóm tuổi 15-19,20-24,25-29,30-34,35-39,40-44,45-49.
- Wi : số phụ nữ 15-49, chia theo nhóm 5 độ tuổi
ASFRi, hay Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi, cho biết số trẻ em sinh ra trên 1000 phụ nữ trong nhóm tuổi nhất định trong một năm Để đánh giá tác động của sự thay đổi cơ cấu tuổi của dân số từ 2009 đến 2014 đến mức sinh, giả định rằng không có sự thay đổi nào trong cơ cấu tuổi của phụ nữ trong giai đoạn này Bằng cách sử dụng cơ cấu tuổi của phụ nữ năm 2009, ta ước tính số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và số trẻ được sinh ra năm 2014 dựa trên cơ cấu tuổi giả định và mức sinh năm 2014 Kết quả ước tính sẽ được so sánh với kết quả thực tế để đánh giá ảnh hưởng của sự thay đổi cơ cấu tuổi đến số trẻ sinh ra trong năm, với các dữ liệu được trình bày trong Bảng 3.5.
Bảng 3.5 trình bày số liệu về số trẻ em sinh sống thực tế vào năm 2014, cùng với số trẻ em được ước tính dựa trên cơ cấu tuổi của phụ nữ nông thôn năm 2009 và mức sinh trong năm 2014.
Số sinh thực tế năm 2014
Số sinh giả định năm 2014 tính theo cơ cấu và tỷ trọng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ năm 2009 và mức sinh năm 2014
Bi – số sinh thực tế (nghìn trẻ)
Số phụ nữ theo cơ cấu dân số nữ,
Bi – số sinh theo cơ cấu giả định (Nghìn trẻ)
Theo Bảng 3.5, tỷ trọng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại khu vực nông thôn chiếm 57,3% tổng dân số nữ ở khu vực này Dữ liệu năm 2014 cho thấy cơ cấu dân số nữ và tỷ suất sinh đặc trưng theo nhóm 5 độ tuổi, từ đó phản ánh số trẻ em sinh ra trong khu vực nông thôn.
Nếu cơ cấu tuổi của dân số nông thôn năm 2014 không thay đổi so với năm 2009, tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ sẽ vẫn giữ ở mức 55,7% Nếu cấu trúc phụ nữ trong độ tuổi 15-49 ở khu vực này năm 2014 giống như năm 2009, số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại nông thôn năm 2014 sẽ phản ánh đúng sự ổn định này.
Năm 2014, dự báo số lượng người dân trong khu vực này sẽ đạt 16,97 triệu, vượt hơn 8,3 triệu so với số phụ nữ thực tế Dựa trên mức sinh đặc trưng theo tuổi tại khu vực nông thôn trong năm 2014, giả thuyết cho thấy có khoảng 1.102,7 trẻ sơ sinh, nhiều hơn 36,4 nghìn trẻ so với số trẻ thực tế được sinh ra.
Trong giai đoạn 2009-2014, cơ cấu tuổi của dân số Việt Nam đã có sự dịch chuyển đáng kể, dẫn đến sự giảm sút cả về tỷ trọng và số lượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ 15-49 Sự thay đổi này đã ảnh hưởng đến số trẻ sinh ra, làm giảm tương đối số lượng trẻ em trong giai đoạn này.
2014 so với năm 2009, giảm đi 3,2,% tương ứng 36,4 nghìn trẻ) ngay cả khi mức sinh có xu hướng tăng đáng kể.
3.2.2 Ảnh hướng đến hệ thống giáo dục
Bảng 3.6 cung cấp số liệu về dân số và tỷ lệ dân số trong các độ tuổi tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, cũng như cao đẳng và đại học, được tổng hợp từ kết quả của ba cuộc Tổng điều tra dân số diễn ra vào các năm 1989, 1999 và 2009.
Bảng 3.6 trình bày thông tin về dân số, tỷ trọng và số lượng dân số theo độ tuổi đi học phổ thông tại khu vực nông thôn trong các năm 1999, 2009 và 2014 Dữ liệu được thể hiện theo đơn vị tính cụ thể, cho thấy sự biến động về dân số trong giai đoạn này.
1 60.554.037 Dân số trong độ tuổi tiểu học (6-10 tuổi) Người 7.482.775 4.941.429 4.971.476
Dân số trong độ tuổi trung học cơ sở (11-
Dân số trong độ tuổi trung học phổ thông
Dân số trong độ tuổi cao đẳng và đại học
(18-25 tuổi) Người 8.177.186 9.339.134 8.324.220 Đơn vị tính Năm 1999 Năm 2009 Năm 2014
Tỷ trọng dân số trong độ tuổi tiểu học (5-
Tỷ trọng dân số trong độ tuổi trung học cơ sở (10-14 tuổi) % 10,1 7,7 6,4
Tỷ trọng dân số trong độ tuổi trung học phổ thông (15-18 tuổi) % 7,1 6,6 5,0
Tỷ trọng dân số trong độ tuổi cao đẳng và đại học (19-25 tuổi) đã ghi nhận các mức 14,0%, 15,5% và 13,7% trong giai đoạn 1999-2014 Bằng cách áp dụng phương pháp chuẩn hóa tương tự như với mức sinh và mức chết, chúng ta có thể đánh giá tác động của sự thay đổi cơ cấu tuổi đến dân số trong độ tuổi đi học Sử dụng cơ cấu tuổi của năm 1999, chúng ta ước tính số học sinh đi học đúng tuổi vào năm 2014 và so sánh với kết quả thực tế để đánh giá ảnh hưởng của sự thay đổi này đến số trẻ đi học và các chỉ tiêu giáo dục liên quan Kết quả ước tính được trình bày chi tiết trong Bảng 3.10.
Theo Bảng 3.7, nếu cơ cấu tuổi dân số năm 2014 không thay đổi so với năm 2009, cả nước sẽ có khoảng 4,97 triệu học sinh tiểu học, 4,66 triệu học sinh trung học cơ sở, 4 triệu học sinh trung học phổ thông và 9,4 triệu sinh viên cao đẳng và đại học So với số liệu thực tế năm 2014, những con số này cho thấy sự thay đổi đáng kể trong hệ thống giáo dục.
Năm 2014, số liệu về học sinh ở các cấp học như trung học cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng và đại học được tính theo cơ cấu giả định lần lượt là 0,8 triệu, 0,98 triệu và 1,1 triệu người.
Bảng 3.7 trình bày số lượng học sinh nhập học đúng tuổi thực tế vào năm 2014, cùng với số ước tính dựa trên cơ cấu tuổi của dân số khu vực nông thôn năm 2009 và tỷ lệ nhập học đúng tuổi trong năm 2014.
Số liệu thực tế về dân số nhập học đúng tuổi năm 2014 chia theo cấp học
Số dân số nhập học đúng tuổi năm
2014 tính theo cơ cấu tuổi năm 2009
Tỷ lệ nhập học đúng tuổi, 2014 (%)
Số học sinh nhập học đúng tuổi (người)
2014 tính theo cơ cấu tuổi năm 2009 (người)
Tỷ lệ nhập học đúng tuổi, 2014 (%)
Số nhập học đúng tuổi tính theo cơ cấu tuổi năm 2009 (người) 6-10 tuổi 7.111.224 96,4 6.855.220 5.934.296 96,4 5.720.661 11-14 tuổi 5.429.672 86,4 4.691.237 4.541.553 86,4 3.923.902 15-17 tuổi 4.099.552 59,2 2.426.935 3.936.012 59,2 2.330.119 18-25 tuổi 12.430.297 11,7 1.454.345 9.385.876 11,7 1.098.160
Sự thay đổi cơ cấu dân số theo tuổi đã làm gia tăng số lượng trẻ em trong độ tuổi đi học, gây áp lực lên cơ sở hạ tầng và chất lượng giáo dục tại khu vực nông thôn Kết quả là, tỷ lệ nhập học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học liên tục tăng lên, đặc biệt từ năm 1999 đến nay.
Các giải pháp để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức do biến đổi cơ cấu dân số đến phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn
Việt Nam đang bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng, tạo ra cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở khu vực nông thôn Tuy nhiên, để tận dụng lợi thế này, cần có chính sách phù hợp, vì thời kỳ này không kéo dài mãi mãi Bài viết sẽ trình bày một số giải pháp chính sách mà Việt Nam có thể áp dụng để đối phó với thách thức từ biến đổi cơ cấu dân số Những chính sách này mang tính chất tham khảo và chưa được nghiên cứu tiền khả thi.
Tập trung nguồn lực cải cách hệ thống đào tạo đại học và nghề nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, tạo ra lực lượng lao động kỹ thuật có tay nghề cao Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp ở khu vực nông thôn giải quyết "cơn khát" lao động có kỹ năng, trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu lao động từ thành phố về nông thôn đang diễn ra nhanh chóng.
Để tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt cho thanh niên, cần tăng cường đầu tư cho khu vực nông thôn nhằm đa dạng hóa ngành nghề, đồng thời chú trọng lợi thế ngành nghề ở từng vùng Điều này không chỉ thu hút lao động dồi dào từ các khu vực nông thôn mà còn giảm gánh nặng dân số cho các thành phố do quá trình di dân Việc thực hiện các chính sách nâng cao chất lượng cho các ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến là cần thiết, vì đây là những ngành sử dụng nhiều lao động và chất lượng sản phẩm quyết định năng lực cạnh tranh Khuyến khích xuất khẩu lao động gắn liền với đào tạo nghề và đảm bảo an sinh xã hội cho lao động xuất khẩu sẽ tạo ra việc làm và thu nhập hiệu quả Cuối cùng, cần xây dựng và hoàn thiện các kênh thông tin về lao động để tăng cơ hội việc làm cho người thất nghiệp và những lao động có trình độ kỹ thuật thấp.
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn viện trợ và đầu tư trong và ngoài nước, cần thực hiện nghiêm chính sách tiết kiệm và chống lãng phí Đầu tư có trọng điểm vào các ngành thiết yếu như nông, lâm, thủy sản là rất cần thiết, đặc biệt sau bài học từ cuộc suy thoái kinh tế năm 2008 Đồng thời, việc giảm gánh nặng bội chi ngân sách sẽ giúp đảm bảo nguồn lực tài chính cần thiết cho các dự án đầu tư hiệu quả và mang lại lợi ích kinh tế cao.
Tiếp tục triển khai chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình tại khu vực nông thôn, đặc biệt tập trung vào các vùng có tỷ lệ sinh cao như Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, và Duyên hải miền Trung, cũng như những khu vực có trình độ dân trí thấp Đồng thời, cần xây dựng các chương trình an sinh xã hội nhằm hỗ trợ dân số già.
Sự gia tăng dân số nhanh chóng ở khu vực nông thôn đã gây áp lực lớn lên phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến suy giảm chất lượng cuộc sống và cạn kiệt tài nguyên môi trường Để đối phó với tình hình này, chính phủ đã thực hiện các biện pháp kiểm soát dân số thông qua Pháp lệnh dân số và các chính sách liên quan từ năm 1979 đến nay.
Kết quả là tỷ lệ sinh đẻ của phụ nữ Việt Nam đã chuyển từ mức sinh tự nhiên sang mức sinh có kế hoạch Đồng thời, sự phát triển kinh tế và các chính sách chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần đã góp phần nâng cao đáng kể tuổi thọ trung bình của người dân.
Quá trình chuyển đổi nhân khẩu học của dân số Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng, từ trạng thái cân bằng lãng phí sang cân bằng tiết kiệm Điều này đã dẫn đến sự chuyển dịch từ cơ cấu dân số trẻ vào năm 1999 sang cơ cấu dân số vàng vào năm 2009 và 2014 Tuy nhiên, hiện nay, cơ cấu dân số già đang có xu hướng gia tăng mạnh mẽ.
Sự chuyển dịch nhân khẩu học tại Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng, phù hợp với xu hướng toàn cầu và đặc biệt là các nước Đông Nam Á Việt Nam đang tiến gần đến cơ cấu dân số già, cho thấy sự thay đổi này diễn ra nhanh hơn so với các quốc gia trong khu vực.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu dân số từ trẻ sang cơ cấu dân số vàng ở khu vực nông thôn trong thời kỳ “dân số vàng” mang lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế-xã hội nhờ vào lực lượng lao động trẻ, dồi dào Tuy nhiên, thách thức lớn vẫn tồn tại khi đến năm 2014, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo nghề ở nước ta vẫn đạt 82,3%.
Khoảng 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn, nhưng nông dân chỉ dành 40% thời gian cho sản xuất nông nghiệp, trong khi 60% còn lại là thời gian rảnh rỗi Điều này dẫn đến thu nhập thấp và thiếu việc làm, ảnh hưởng đến chất lượng sống và chất lượng dân số Ngoài ra, tốc độ già hóa nhanh và chi phí an sinh xã hội cao cũng là những thách thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt.
Thời kỳ dân số vàng và già hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra đồng thời, yêu cầu Nhà nước cần xây dựng chính sách tối ưu hóa sự tham gia của người cao tuổi vào phát triển kinh tế-xã hội Đặc biệt, cần khuyến khích những người trong độ tuổi 55-75, vẫn còn sức khỏe, như các nhà khoa học, quản lý, doanh nhân, nghệ nhân và bác sỹ, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của đất nước sau khi nghỉ hưu.
Thay đổi cơ cấu dân số theo tuổi đã dẫn đến sự giảm số lượng trẻ em trong độ tuổi đi học, tạo điều kiện thuận lợi cho các gia đình trong việc chăm sóc sức khỏe và cho con đến trường Từ 1999 đến 2014, tỷ lệ nhập học các bậc học không ngừng tăng lên Mặc dù tỷ lệ học sinh phổ thông nhập học tăng, nhưng do dân số trong độ tuổi học phổ thông giảm, số lượng học sinh phổ thông cũng giảm, làm giảm áp lực lên hệ thống giáo dục Tuy nhiên, trong tương lai, số phụ nữ trong độ tuổi sinh sản sẽ tăng, có thể dẫn đến sự gia tăng nhẹ số trẻ sinh ra Nhu cầu về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông vẫn cần được chú trọng cả về số lượng và chất lượng Do đó, Việt Nam cần chuẩn bị đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu này Bên cạnh đó, khi dân số chuyển sang cơ cấu vàng và già hóa, nhu cầu khám chữa bệnh mãn tính và chi phí y tế cũng sẽ gia tăng.
Theo dự báo, thời kỳ “vàng” của dân số Việt Nam sẽ kéo dài đến năm 2039, với tỷ số phụ thuộc chung dưới 50 và tỷ trọng dân số già dưới 15% Thời kỳ này sẽ kết thúc vào năm 2041, khi tỷ số phụ thuộc chung vượt 50 và tỷ trọng người già tăng trên 15%.
Thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" đang mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam nhằm vượt qua thách thức và nâng cao chất lượng dân số cũng như nguồn nhân lực, yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững Để tận dụng cơ hội này cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, chúng ta cần thực hiện các hành động thiết thực ngay từ bây giờ Cơ hội dân số không tự động mang lại tác động tích cực mà phải được hiện thực hóa thông qua các chính sách và chiến lược cụ thể phù hợp với điều kiện hiện tại.
2 Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2009 Trang 3-5)
“Tổng điều tra Dân số và nhà ở 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009: Quá trình thực hiện và kết quả sơ bộ”.
4 Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010) “Tổng điều tra Dân số và nhà ở 2009: Các kết quả chủ yếu”
4 Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010) “Tổng điều tra Dân số và nhà ở 2009: Các chỉ tiêu chủ yếu”
5 Dự báo dân số Việt Nam 2014-2049, (2016) Nhà xuất bản Thông Tấn.
6 Điều tra Dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: Các kết quả chủ yếu, xuất bản tháng 9 năm 2015.
7 Điều tra Dân số và nhà ở giữa kỳ 2014: Mức sinh ở Việt Nam: Những khác biệt, xu hướng và yếu tố tác động, Nhà xuất bản Thông Tấn, năm 2016.
8 Giang Thanh Long (2010), “Tận dụng cơ hội dân số ‘vàng’ ở Việt Nam:
“Thuận lợi, thách thức và các khuyến nghị chính sách”.