1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tư tưởng hồ chí minh về nhà nước pháp quyền với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

135 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Tác giả Phạm Huy Bình
Người hướng dẫn TS. Hồ Anh Dũng
Trường học Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Triết học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2023
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 135
Dung lượng 1,35 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài (9)
  • 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn (15)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn (0)
  • 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn (16)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn (16)
  • 7. Kếu cấu đề tài (16)
  • Chương 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (17)
    • 1.1. KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ CÁC HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (17)
      • 1.1.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền (17)
      • 1.1.2. Các hình thức nhà nước pháp quyền (20)
    • 1.2. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (27)
      • 1.2.1. Điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền (27)
      • 1.2.2. Tiền đề văn hóa, tư tưởng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền (35)
    • 1.3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (48)
      • 1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân trong nhà nước pháp quyền (48)
      • 1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền (53)
      • 1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hiến pháp và pháp luật trong nhà nước pháp quyền (60)
  • Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (77)
    • 2.1. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (77)
      • 2.1.1. Quá trình xây dựng nhà nước và nhà nước pháp quyền (77)
      • 2.1.2. Thành tựu, hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (89)
      • 2.1.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế (96)
    • 2.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NÀY (100)
      • 2.2.1. Phương hướng (101)
      • 2.2.2. Giải pháp (104)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước pháp quyền là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu chính trị học hiện đại, được thảo luận từ nhiều khía cạnh khác nhau Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền chưa được khai thác sâu.

Trong những năm gần đây, NNPQ đã trở thành một chủ đề tranh luận sôi nổi, với nhiều quan điểm khác nhau Các vấn đề liên quan đến NNPQ thường được xem là bắt nguồn từ phương Tây, gắn liền với các triết gia - chính trị gia nổi tiếng Theo Đinh Ngọc Thạch và Trần Quang Thái (2016), các nguyên tắc cơ bản của pháp quyền đã được giải thích và hoàn thiện qua từng giai đoạn lịch sử Tư tưởng NNPQ không ngừng phát triển, với những thay đổi căn bản, trở thành những giá trị phổ quát mang tính nhân loại.

Trong hành trình tìm kiếm con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa của cả phương Đông và phương Tây, đặc biệt là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền (NNPQ) Sự tiếp thu này đã đóng góp quan trọng vào việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) sau khi giành độc lập năm 1945 Theo GS.TS Mạch Quang Thắng, Hồ Chí Minh đã khai sinh ra VNDCCH, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, tạo nền tảng cho việc xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn Đảng và toàn dân trong việc xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ông đã đề xuất những tư tưởng quan trọng về nhà nước, nhấn mạnh nguyên tắc nhà nước của dân, do dân và vì dân Những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh đã góp phần vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là cần thiết trong công cuộc đổi mới và xây dựng NNPQ XHCN hiện nay Đây là nhiệm vụ cơ bản, mang tầm quan trọng đặc biệt trong việc xây dựng một nhà nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ được khẳng định là tài sản tinh thần vô cùng quý giá của Đảng và dân tộc, luôn soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân giành thắng lợi.

Qua hơn 35 năm đổi mới, việc xây dựng NNPQ XHCN đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới, phục vụ lợi ích của nhân dân Báo cáo tổng kết 30 năm đổi mới đã chỉ ra những thành công và thách thức trong quá trình này.

Đảng ta nhận thức rõ ràng về sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, coi đây là một trong tám đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam đang hướng tới Việc này không chỉ tiếp thu những thành tựu của nhân loại trong lĩnh vực nhà nước và NNPQ, mà còn thể hiện bản sắc và đặc điểm riêng của Việt Nam.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục Những vấn đề thực tiễn chưa được giải quyết đầy đủ và hệ thống, dẫn đến thiếu sót trong việc định hướng và tạo ra những kết quả đột phá trong quá trình đổi mới Do đó, cần tiếp tục chú trọng giải quyết những bất cập tồn tại trong thời gian tới.

Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng và đạo đức trong một bộ phận cán bộ đảng viên đang gia tăng, cùng với các hiện tượng quan liêu, tham nhũng và lãng phí Các âm mưu chống phá từ những thế lực thù địch, cả trong và ngoài nước, với những luận điệu xuyên tạc, đã làm xa rời mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nâng cao vai trò của nhà nước và các vấn đề liên quan đến pháp luật, nhằm tổ chức hoạt động của nhà nước một cách hiệu quả Để đối phó với những thách thức này, việc kiên định lập trường và tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân là vô cùng quan trọng, như đã khẳng định trong Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng.

Kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc cho Đảng Cộng sản Việt Nam Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cùng với đường lối đổi mới, cần được giữ vững Đảng phải tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc, dựa trên luật pháp quốc tế và hợp tác bình đẳng Đây là vấn đề nguyên tắc sống còn, không cho phép sự dao động hay ngả nghiêng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Để kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ về Nhà nước pháp quyền (NNPQ) của nhân loại, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ XHCN trong việc xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Vì lý do này, tôi đã chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn nghiên cứu của mình.

Tổng quan nghiên cứu đề tài

Tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về NNPQ, là một vấn đề quan trọng với nhiều nội dung chính trị - pháp lý sâu sắc Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến NNPQ được phân loại thành ba nhóm chính, mỗi nhóm thể hiện những khía cạnh khác nhau của tư tưởng này.

Nhóm thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý luận chung về khái niệm NNPQ, lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng NNPQ trong lịch sử

Nhà nước pháp quyền của Josef Thesing (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,

Năm 2002, tác giả phân tích tầm quan trọng của pháp quyền trong phát triển kinh tế và xã hội, nhấn mạnh mối quan hệ tương hỗ giữa chúng Ông chỉ ra rằng dân chủ và pháp quyền không thể tách rời, và khi pháp quyền hình thành trong một trật tự chính trị, nó giúp người dân giải quyết xung đột về giá trị và lợi ích theo quy định của pháp luật Tác giả đánh giá cao vai trò đa dạng của pháp quyền, đặc biệt chú trọng đến giá trị nhân văn mà nó mang lại.

Giáo trình Nhà nước pháp quyền của GS.TS Đào Trí Úc (NXB Đại học

Giáo trình NNPQ (2015) của Quốc gia Hà Nội cung cấp một cái nhìn toàn diện và hệ thống về những vấn đề lý luận nền tảng của NNPQ Nó đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng NNPQ, các giá trị và đặc trưng cơ bản, cũng như các mô hình NNPQ trên thế giới và cách xây dựng NNPQ tại Việt Nam.

Hình thức của các nhà nước hiện đại của GS.TS Nguyễn Đăng Dung

(NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2019); Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến –

Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài tại Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội bao gồm: "Lịch sử các học thuyết chính trị thế giới" của PGS.TS Đinh Ngọc Thạch và PGS.TS Trần Quang Thái (NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2016) và "Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX" của TS Ngô Thị Mỹ Dung (NXB Lao Động – Xã Hội, Hà Nội, 2002).

Chính trị quốc gia tại Hà Nội vào năm 2016 đã được nghiên cứu qua nhiều bài báo khoa học, trong đó nổi bật là khái niệm nhà nước pháp quyền từ góc nhìn triết học.

Trần ngọc Liêu (Tạp chí Triết học, số 11, 2009); khái niệm nhà nước pháp quyền tiếp cận dưới góc độ triết học của ThS Trần Diệu Linh (ĐHQG Hà Nội,

2016); Nhận diện Nhà nước pháp quyền của PGS.TS Hoàng Kim Quế (Tạp chí Lập pháp, số 5, 2004)

Hệ thống các công trình nghiên cứu tổng thể quá trình hình thành và phát triển tư tưởng NNPQ trong lịch sử, cung cấp lý thuyết và thực tiễn về khái niệm pháp quyền Các công trình này giới thiệu khái niệm NNPQ từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm triết học, luật học và sử học Đồng thời, chúng cũng đề cập đến các phương diện lý thuyết và học thuyết liên quan đến NNPQ.

NNPQ được hình thành và phát triển song song với sự ra đời của các học thuyết chính trị và các trào lưu chính trị cụ thể Lịch sử các học thuyết về NNPQ phản ánh những quan điểm và tư tưởng liên quan đến nhà nước, pháp luật và quyền lực, tạo nên điểm chung trong cách tiếp cận NNPQ Các tác giả đã trình bày và xác định rõ các bộ phận cấu thành của NNPQ.

Nhóm thứ hai, các công trình nghiên cứu điều kiện hình thành, phát triển, và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của GS.TS Nguyễn Đăng

Trong tác phẩm của mình, Dung (2007) đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền (NNPQ) với các nội dung chính như quá trình hình thành, phát triển và nguồn gốc của tư tưởng này Ông nhấn mạnh tính tối cao của pháp luật và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, cũng như việc tổ chức nhà nước theo Hiến pháp Bên cạnh đó, tác giả đề cập đến việc bảo vệ quyền con người và quyền lực được nhân dân giao phó, đồng thời nhấn mạnh sự phân công quyền lực nhà nước dưới sự giám sát của nhân dân Những quan điểm này là cơ sở để xác định và phát triển các nguyên tắc áp dụng trong bối cảnh xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay.

Cuốn sách "Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh" của Vũ Đình Hòe (NXB Văn hóa thông tin – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001) khái quát những sự kiện và câu chuyện cụ thể liên quan đến nhân tình và phong cách Hồ Chí Minh Tác giả nghiên cứu tư tưởng hiến chính và pháp quyền của Hồ Chí Minh, dựa trên nguyên tắc “không có gì quý hơn độc lập tự do” Kết luận của tác giả cho thấy tư tưởng pháp quyền của Hồ Chí Minh là thành tố tự nhiên của nhân nghĩa, thể hiện sự kết hợp giữa tính nhân nghĩa và ý thức pháp quyền quốc gia cũng như pháp quyền quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam của Phạm Ngọc Anh – Bùi Đình Phong (NXB Lao động, Hà Nội,

Vào năm 2003, tác giả đã trình bày một cách hệ thống và toàn diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao gồm quá trình hình thành, phát triển và bản chất của Nhà nước Bài viết cũng nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, cùng với những điều kiện cần thiết để đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật Trên cơ sở đó, tác giả đã nêu ra sự vận dụng và phát triển tư tưởng này trong thực tiễn.

Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh được trình bày trong các tác phẩm như "Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh" của Bùi Ngọc Sơn (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) và "Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh" của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018) Ngoài ra, nghiên cứu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Hiến pháp ở Việt Nam – giá trị lý luận và thực tiễn" của Trịnh Quốc cũng đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về tư tưởng này.

Việt (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019); Tập sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí

Minh ký về nhà nước và pháp luật của Bộ tư pháp – thông tin khoa học pháp lý

NXB Viện Thông tin tư liệu địa chất đã xuất bản nhiều tài liệu quan trọng về tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tác phẩm "Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng NNPQ" của Phan Ngọc Dũng (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012) Ngoài ra, còn có các bài báo khoa học như "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền từ góc độ triết học" của TS Nguyễn Mạnh Tường (Tạp chí Luật học, số 08, 2011) và "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền" của PGS.TS Tào Thị Quyên (Tạp chí Kiểm sát, số 02, 2018).

Các công trình trên tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề cơ bản như sau:

Tiếp cận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật và NNPQ cho thấy rằng NNPQ được xác định là nhà nước hợp hiến và hợp pháp, trong đó nhân dân là chủ thể quyền lực Vai trò của nhà nước là phục vụ lợi ích của nhân dân và quản lý xã hội bằng pháp luật Chủ tịch Hồ Chí Minh được khẳng định là người đặt nền tảng cho việc xây dựng NNPQ tại Việt Nam Các công trình và bài viết cũng nêu bật các giá trị đạo đức trong tư tưởng của Người.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa pháp luật và đạo đức, cho rằng pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi của nhân dân mà còn góp phần xây dựng nền đạo đức xã hội Điều này tạo ra một xã hội tự do, bình đẳng và hạnh phúc, thể hiện sự hòa hợp giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích chung của cộng đồng.

Nhóm thứ ba, các công trình nghiên cứu sự vận dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam

Cuốn sách "NNPQ XHCN Việt Nam của dân do dân vì dân – lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010) đã hệ thống hóa các vấn đề liên quan đến xây dựng NNPQ XHCN tại Việt Nam Tác phẩm nêu rõ khái niệm, đặc trưng, và các yếu tố chi phối NNPQ, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu cho việc xây dựng NNPQ XHCN Qua đó, các tác giả gián tiếp đề cập đến tư tưởng pháp quyền thông qua việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của NNPQ.

Một số vấn đề hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước PQXHCN Việt Nam của

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, đồng thời phân tích thực trạng xây dựng NNPQ và đề xuất phương hướng, giải pháp áp dụng tư tưởng này nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Luận văn này nhằm giải quyết các nhiệm vụ quan trọng, bao gồm việc trình bày và phân tích cơ sở thực tiễn cũng như tiền đề lý luận ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ Đồng thời, luận văn cũng sẽ đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng này trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam trong những năm qua Cuối cùng, luận văn sẽ đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm phát triển NNPQ XHCN ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ và cách thức áp dụng những tư tưởng này trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ và việc vận dụng tư tưởng này nhằm xây dựng thành công NNPQ XHCN tại Việt Nam.

5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn này được xây dựng dựa trên nền tảng của thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và NNPQ.

Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả áp dụng nhiều phương pháp cụ thể như hệ thống cấu trúc, lịch sử và lôgích, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, cũng như trừu tượng hóa và khái quát hóa để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc của nội dung.

Luận văn này mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng, dựa trên cơ sở xã hội và tiền đề lý luận về NNPQ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh Nó hệ thống và phân tích rõ ràng các nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, đồng thời nêu bật sự vận dụng sáng tạo của Người trong bối cảnh cách mạng Việt Nam Những bài học từ tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ không chỉ bổ ích mà còn có ý nghĩa thiết thực, góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về tư tưởng này.

Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ nói riêng

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết

Chương 1 ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1 KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ CÁC HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1.1 Khái niệm về nhà nước pháp quyền

Khái niệm NNPQ vẫn chưa có định nghĩa chung nhất, mặc dù đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu Các nhà nghiên cứu tiếp cận NNPQ từ nhiều góc độ khác nhau như luật học, triết học, và sử học, đồng thời liệt kê các dấu hiệu đặc trưng của nó Ngoài ra, khái niệm NNPQ cũng có thể được phân tích qua mối quan hệ với các khái niệm khác, như pháp quyền và dân chủ, lý thuyết tam quyền phân lập, cơ cấu kinh tế, đạo đức, và các tổ chức xã hội, tạo nên một thể thống nhất trong nghiên cứu về NNPQ.

Thuật ngữ Rechtsstaat, xuất phát từ các học giả Đức, đề cập đến khái niệm "Nhà nước pháp quyền", trong khi thuật ngữ Rule of Law trong tiếng Anh mang ý nghĩa khác Tương tự, État de droit của Pháp và Pravovoe gosudarstvo của Nga cũng diễn tả ý tưởng rằng "Nhà nước phải chịu sự ràng buộc của pháp luật", nhấn mạnh yêu cầu tuân thủ pháp luật Trong tiếng Anh, khái niệm này còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau như "legal state".

“state of law”, “state of justice” hoặc “state of rights” được xem như là một nhà nước hợp hiến

Khái niệm NNPQ, được phát triển từ học thuyết luật thực chứng, nhấn mạnh tầm quan trọng của lý trí trong việc xây dựng pháp luật của nhà nước Welcker, Aretin và Mohl là những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập đến NNPQ như một thể loại nhà nước chuyên biệt, khẳng định rằng nó tôn trọng luật pháp và thiên về lý tính Nguyên tắc lý tính là nền tảng để nhà nước tổ chức cuộc sống của con người, với mục tiêu chính là đảm bảo mỗi thành viên trong xã hội nhận được sự hỗ trợ và khuyến khích phát triển tự do tối đa, đồng thời hoàn thiện năng lực tổng hợp của bản thân.

Tại Hội nghị quốc tế về “Nhà nước pháp quyền” vào tháng 9 năm 1991, Liên hợp quốc lần đầu tiên định nghĩa NNPQ là chế độ mà mọi công dân, bao gồm cả nhà nước, đều phải tuân thủ pháp luật Khái niệm này nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ của mỗi người dân được pháp luật ghi nhận, hướng tới việc tôn trọng các giá trị của con người Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải dựa trên pháp luật, trong đó hiến pháp giữ vị trí tối thượng và được xây dựng nhằm đảm bảo quyền tự do và quyền công dân cho mỗi cá nhân.

Các chuyên gia nghiên cứu đồng ý rằng NNPQ bao gồm việc thừa nhận tính tối cao của pháp luật, xác định ba quyền lực trong bộ máy nhà nước, và tôn trọng quyền lợi hợp pháp của con người cũng như pháp luật quốc tế Pháp quyền được công nhận là nguyên tắc quản trị nhà nước ở nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới Liên Hợp Quốc xác định pháp quyền là nguyên tắc quản trị quốc gia, trong khi Nghị viện châu Âu coi đây là nguyên tắc chung của các quốc gia trong khu vực Nguyên tắc pháp quyền không chỉ định hướng cho hoạt động của các quốc gia mà còn ràng buộc quan hệ giữa các nước, do đó, nó được xem là nguyên tắc phổ quát có tính toàn cầu và là yếu tố nền tảng trong các quan hệ quốc tế.

NNPQ là một khái niệm mới, khó thống nhất, nhưng có thể hiểu là hệ thống tư tưởng đề cao pháp luật và quyền con người, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và quản lý xã hội bằng pháp luật Tất cả cơ quan nhà nước và tổ chức đều phải hoạt động theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân NNPQ được xây dựng trên cơ sở chủ quyền nhân dân với hệ thống pháp luật dân chủ, minh bạch, đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong xã hội Theo GS Nguyễn Duy Quý, NNPQ thừa nhận tính tối cao của pháp luật, phân định rõ quyền hạn để kiểm soát lẫn nhau, đảm bảo an toàn pháp lý cho công dân và thực hiện các cam kết quốc tế một cách tận tâm.

Khái niệm NNPQ được hiểu qua nhiều quan điểm khác nhau, phản ánh sự nhận thức sâu sắc và đa dạng về các khía cạnh của nó Một số nghiên cứu coi NNPQ như hình thức tổ chức nhà nước có khả năng kiềm chế quyền lực nhà nước, trong khi những nghiên cứu khác lại nhấn mạnh rằng sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước là tiêu chí chính để đánh giá NNPQ.

Khái niệm NNPQ được tiếp cận từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, nhưng theo tác giả luận văn, NNPQ là hình thức và thể chế của nhà nước trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật Quyền lực nhà nước tập trung ở hệ thống hiến pháp và pháp luật, tạo thành quyền lực công cộng tối cao, được xây dựng trên nền tảng xã hội công dân Nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên pháp luật qua các thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền con người và quyền công dân.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn được xây dựng dựa trên nền tảng của thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và Nhà nước pháp quyền.

Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả áp dụng và kết hợp nhiều phương pháp cụ thể như hệ thống cấu trúc, phương pháp lịch sử và lôgíc, cùng với phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, trừu tượng hóa và khái quát hóa.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Luận văn này nghiên cứu ý nghĩa khoa học và thực tiễn của NNPQ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó hệ thống và phân tích các nội dung cơ bản của tư tưởng này Nó làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh trong bối cảnh cách mạng Việt Nam, đồng thời rút ra những bài học bổ ích và thiết thực từ tư tưởng của Người Kết quả nghiên cứu cũng góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực NNPQ.

Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ nói riêng.

Kếu cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết

ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ CÁC HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1.1 Khái niệm về nhà nước pháp quyền

Khái niệm NNPQ vẫn chưa có một định nghĩa chung nhất, mặc dù đã được các nhà khoa học nghiên cứu sâu Các nhà nghiên cứu tiếp cận NNPQ từ nhiều góc độ như luật học, triết học, và sử học, nhằm liệt kê các dấu hiệu đặc trưng của nó Ngoài ra, khái niệm NNPQ cũng có thể được phân tích qua mối quan hệ biện chứng với các khái niệm khác, như pháp quyền với dân chủ, lý thuyết tam quyền phân lập, cơ cấu kinh tế, đạo đức, và các tổ chức xã hội.

Thuật ngữ "Rechtsstaat" có nguồn gốc từ các học giả Đức, mang ý nghĩa "nhà nước pháp quyền" Trong khi đó, thuật ngữ "Rule of Law" trong tiếng Anh có nội dung khác, còn "État de droit" trong tiếng Pháp và "Pravovoe gosudarstvo" trong tiếng Nga đều chỉ ra rằng "Nhà nước phải chịu sự ràng buộc của pháp luật" hoặc yêu cầu tuân thủ pháp luật Thuật ngữ này cũng được dịch sang tiếng Anh với nhiều nghĩa khác nhau, như "legal state".

“state of law”, “state of justice” hoặc “state of rights” được xem như là một nhà nước hợp hiến

Khái niệm NNPQ, được lấy cảm hứng từ học thuyết luật thực chứng, đặt nền tảng của pháp luật nhà nước trên lý trí Các nhà tư tưởng như Welcker, Aretin và Mohl đã lần đầu tiên đề cập đến NNPQ như một thể loại nhà nước chuyên biệt, không chỉ là một hình thái đặc biệt Họ thống nhất rằng NNPQ tôn trọng luật pháp theo hướng lý tính, với mục tiêu tổ chức đời sống nhân dân sao cho mỗi cá nhân nhận được sự hỗ trợ và khuyến khích phát triển tự do tối đa, cũng như hoàn thiện năng lực tổng hợp của mình (Đào Trí Úc, 2005, trang 18).

Tại Hội nghị quốc tế về "Nhà nước pháp quyền" vào tháng 9 năm 1991, Liên hợp quốc đã định nghĩa NNPQ là một chế độ trong đó mọi công dân, bao gồm cả nhà nước, đều phải tuân thủ pháp luật Quyền và nghĩa vụ của người dân được ghi nhận trong pháp luật, nhằm tôn trọng giá trị con người Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải dựa trên pháp luật, trong đó hiến pháp giữ vị trí tối thượng, được xây dựng để bảo đảm các quyền tự do và quyền công dân của mỗi cá nhân.

Các chuyên gia nghiên cứu đều thống nhất rằng NNPQ bao gồm sự thừa nhận tính tối cao của pháp luật, xác định ba quyền lực trong bộ máy quyền lực nhà nước, và tôn trọng quyền lợi hợp pháp của con người cũng như pháp luật quốc tế Pháp quyền được công nhận là nguyên tắc quản trị nhà nước ở nhiều quốc gia và tổ chức toàn cầu Liên hợp quốc và Nghị viện châu Âu đều coi pháp quyền là nguyên tắc cốt lõi của quản trị quốc gia và các quốc gia trong châu lục Nguyên tắc pháp quyền không chỉ định hướng hoạt động của các quốc gia mà còn ràng buộc quan hệ quốc tế, khẳng định vai trò toàn cầu của nó trong các quan hệ quốc tế.

NNPQ là khái niệm mới, khó thống nhất, nhưng có thể hiểu là hệ thống tư tưởng đề cao pháp luật và quyền con người, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, và mọi cơ quan, tổ chức đều phải hoạt động theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân NNPQ được xây dựng trên cơ sở chủ quyền nhân dân với hệ thống pháp luật dân chủ, minh bạch, đảm bảo sự thượng tôn của pháp luật trong đời sống xã hội Theo GS Nguyễn Duy Quý, NNPQ thừa nhận tính tối cao của pháp luật, phân định rõ quyền lợi và nghĩa vụ để kiểm soát lẫn nhau, đảm bảo an toàn pháp lý cho công dân và thực hiện cam kết quốc tế một cách tận tâm.

Khái niệm NNPQ được hiểu theo nhiều cách khác nhau, phản ánh sự nhận thức phong phú và đa chiều về các khía cạnh của nó Một số quan điểm cho rằng NNPQ là hình thức tổ chức nhà nước có khả năng chế ước quyền lực nhà nước, trong khi những nghiên cứu khác lại nhấn mạnh sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước như tiêu chí chính của NNPQ.

Khái niệm NNPQ được tiếp cận từ nhiều góc độ nghiên cứu, nhưng theo tác giả, NNQP là hình thức và thể chế nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật Quyền lực nhà nước tập trung ở hệ thống hiến pháp và pháp luật, đại diện cho quyền lực công cộng tối cao, được xây dựng trên nền tảng xã hội công dân Nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên pháp luật và theo thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền con người và quyền công dân.

Nhà nước pháp quyền (NNQP) là hình mẫu nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do của con người, khác biệt với nhà nước bạo lực và độc tài Tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật là nền tảng cho mọi hình thức tổ chức quyền lực công khai, yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước tuân thủ pháp luật Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý xã hội mà còn đảm bảo tính nghiêm minh và dân chủ Mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và chịu sự kiểm soát của nó Qua đó, hình thức nhà nước thể hiện sự phục vụ nhân dân thông qua cách thức thành lập và hoạt động của các cơ quan nhà nước.

1.1.2 Các hình thức nhà nước pháp quyền

NNPQ, từ một ý tưởng ban đầu, đã dần trở thành hiện thực gắn liền với sự hình thành của nhà nước tư sản và được xem là biểu hiện của sự phát triển dân chủ Điều này cho thấy NNPQ không chỉ là một kiểu nhà nước mà còn có thể được xây dựng ở các quốc gia theo định hướng XHCN, với cách thức tổ chức và vận hành phù hợp Do đó, tồn tại hai hình thức NNPQ song song trong lý luận và thực tiễn: NNPQ tư bản chủ nghĩa và NNPQ XHCN.

 Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa

Nhà nước tư sản ra đời từ cuộc cách mạng tư sản chống lại chế độ phong kiến, đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong lịch sử Dù vậy, bản chất bốc lột vẫn tồn tại trong nhà nước tư sản, mặc cho giai cấp tư sản tuyên truyền về nhà nước phúc lợi chung.

NNPQ TBCN được tổ chức dựa trên nguyên tắc phân quyền và đa nguyên chính trị, nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ của giai cấp và che đậy sự bóc lột trước quần chúng lao động Quyền lực nhà nước được chia thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp, với mục tiêu kiểm soát và đối trọng lẫn nhau nhưng vẫn độc lập Bộ máy NNPQ dân chủ tư sản bao gồm các bộ phận cơ bản như vậy.

Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao với chức năng lập pháp, hoạt động chuyên môn hóa cao và có ba chức năng cơ bản: đại diện, quyết định và kiểm soát Tính đại chúng và tính đặc quyền là những đặc trưng chủ yếu của nghị viện trong các nước tư bản chủ nghĩa Cấu trúc tổ chức nghị viện toàn cầu thường bao gồm hai viện: thượng nghị viện và hạ nghị viện, với quyền lực khác nhau giữa các nghị viện Sự phát triển của nghị viện hiện nay rất phức tạp, không chỉ đơn thuần là cơ quan lập pháp mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển dân chủ, đặc biệt ở những quốc gia có đảng cánh tả chiếm đa số ghế trong nghị viện.

Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước, đại diện cho quốc gia trong công tác đối nội và đối ngoại, với hình thức và thẩm quyền khác nhau tùy theo loại hình chính thể Trong các nhà nước quân chủ lập hiến, nguyên thủ thường được truyền kế và là biểu tượng của truyền thống dân tộc (Nhật Bản, Vương quốc Anh) Ngược lại, ở các nước cộng hòa, nguyên thủ quốc gia được bầu cử, nhưng thẩm quyền cũng khác nhau Trong các chính thể cộng hòa tổng thống, nguyên thủ có quyền lực lớn, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là lãnh đạo cơ quan hành pháp (Mỹ, Mêxicô, Philippines) Trong khi đó, ở các nước cộng hòa đại nghị và quân chủ lập hiến, nguyên thủ phần lớn mang tính chất đại diện hình thức, nhưng vẫn có ảnh hưởng nhất định trong việc thành lập chính phủ hoặc các vấn đề khác (Đức, Ý, Nhật Bản).

Chính phủ, đứng đầu là Tổng thống hoặc Thủ tướng, là cơ quan nắm giữ quyền hành pháp cao nhất và đóng vai trò trung tâm trong bộ máy nhà nước Quy mô và chức năng của bộ máy hành pháp ngày càng mở rộng, quyết định các chính sách đối nội và đối ngoại Cách thức hình thành chính phủ khác nhau giữa các quốc gia; trong các nước cộng hòa tổng thống, chính phủ không phụ thuộc vào nghị viện và không có chức vụ thủ tướng Ngược lại, trong các chính thể cộng hòa đại nghị hoặc quân chủ đại nghị, chính phủ được thành lập dựa trên đảng chính trị nắm đa số ghế trong nghị viện Một số quốc gia có thể có chính phủ với quyền lực lấn át vai trò của nghị viện, trong khi Thủ tướng và các thành viên chính phủ có thể được Tổng thống bổ nhiệm hoặc được bầu kết hợp với nghị viện.

ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.2.1 Điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền

 Bối cảnh thế giới cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thế giới trải qua nhiều biến động lớn, với sự chuyển mình của chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền - chủ nghĩa đế quốc Mục tiêu của các quốc gia đế quốc là mở rộng thị trường, khai thác sức lao động và tài nguyên, đồng thời xuất khẩu tư bản Điều này dẫn đến việc bóc lột tàn bạo nhân dân lao động trong nước và tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm biến các quốc gia nhỏ yếu thành thuộc địa Cuộc sống của nhân dân lao động ở các nước bị thống trị trở nên cực khổ, làm gia tăng mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa thực dân Mâu thuẫn này trở thành vấn đề cốt lõi của thời đại chủ nghĩa đế quốc, thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sôi nổi ở các nước thuộc địa và kết nối với phong trào cách mạng quốc tế.

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã diễn ra giữa các nước đế quốc, dẫn đến sự suy yếu của chủ nghĩa tư bản ở Nga và tạo điều kiện cho cách mạng vô sản phát triển Dưới sự lãnh đạo của V.I Lênin, quần chúng nhân dân lao động Nga đã tiến hành cách mạng Tháng Mười thành công, giành được thắng lợi lớn và thiết lập chính quyền thuộc về nhân dân lao động, tạo ra nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới Sự kiện này đã khuyến khích các phong trào giải phóng dân tộc tại nhiều quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ.

Cách mạng tháng Mười Nga là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ

XX đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhân loại, được ví như “tiếng sấm vang dội làm chấn động toàn cầu” (Hồ Chí Minh, tập 12, 2011, trang 30) Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử mà còn thể hiện sự tiến bộ và phát triển vượt bậc của con người.

Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột và đưa giai cấp vô sản từ áp bức trở thành giai cấp chủ đạo trong xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh Sự ra đời của nhà nước XHCN - nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử - đã biến chủ nghĩa xã hội từ lý thuyết thành hiện thực, giúp nhân dân lao động từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân đất nước Nhiều dân tộc bị áp bức đã vùng lên đấu tranh giành độc lập và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh cho rằng

Cách mạng Tháng Mười đánh dấu thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và học thuyết Lênin tại Liên Xô, một quốc gia rộng lớn chiếm một phần sáu thế giới Sự kiện này đã sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ giai cấp tư sản và phong kiến, thiết lập chính quyền của những người lao động, từ đó xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng bóc lột.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, mô hình nhà nước Xô viết ra đời bên cạnh nhà nước tư sản, đánh dấu sự xuất hiện của các nước XHCN Bản Hiến pháp Liên Xô khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, do giai cấp công nhân lãnh đạo Các hiến pháp này xác định chính thể nhà nước cộng hòa xô viết và tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc tập quyền XHCN, không chấp nhận phân quyền Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga cùng với hệ tư tưởng Mác – Lênin đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy của nhiều quốc gia, trong đó có Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đánh dấu một sự kiện lịch sử quan trọng trong sự hình thành và phát triển của hệ thống XHCN toàn cầu Sau chiến tranh, nhiều quốc gia ở châu Âu và châu Á đã tách ra khỏi hệ thống TBCN nhờ vào những điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi Tại Đông Âu, quá trình này đã bắt đầu diễn ra từ năm 1944.

Năm 1945, trước những thất bại quân sự của các nước phát xít và với sự hỗ trợ từ Hồng quân Liên Xô, nhân dân các nước Đông Âu đã đứng lên lật đổ chế độ tư sản – địa chủ, tiêu diệt chế độ quân chủ chuyên chế và lập nên chính quyền Dân chủ nhân dân Đến năm 1948 – 1949, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu được triển khai tại các quốc gia này Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Dân chủ Đức ra đời và gia nhập vào hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh đã ghi nhận sự kiện lịch sử này.

Với những thắng lợi đã đạt được, một hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành trên toàn cầu, kéo dài từ Trung Âu đến Đông Nam Á Điều này đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của cách mạng thế giới và mở ra một tương lai tươi sáng cho nhân loại.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều quốc gia mới độc lập đã hình thành, với tư tưởng xây dựng nhà nước dựa trên việc thực hiện quyền con người và chế độ dân chủ, thường dưới hình thức cộng hòa hoặc đại nghị Hiến pháp khẳng định nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, thể hiện qua sự ủy quyền của họ Do đó, hiến pháp được xem là điều kiện tiên quyết cho một chính quyền hợp hiến Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển tư tưởng xây dựng hiến pháp dân chủ cho Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị toàn cầu, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và quá độ lên CNXH Sự thiết lập chế độ XHCN không chỉ định hướng cho các dân tộc theo con đường phát triển tất yếu mà còn thông qua sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả, các nước XHCN đã góp phần mạnh mẽ vào phong trào giải phóng dân tộc.

 Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX

Vào đầu thế kỷ XIX, Việt Nam là một quốc gia thống nhất với nền kinh tế tự chủ và quan hệ bang giao ổn định Tuy nhiên, triều đình nhà Nguyễn đang trong tình trạng suy thoái Năm 1858, liên quân thực dân Pháp – Tây Ban Nha đã tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), đánh dấu sự khởi đầu của cuộc xâm lược Việt Nam.

Cuộc khai thác thuộc địa lần 1 vào năm 1897, dựa trên tư tưởng chủ nghĩa thực dân và chính sách thuộc địa của Pháp, đã được thực hiện thông qua nhiều chương trình Sự áp dụng mạnh mẽ và có kế hoạch các chương trình này đã gây ra những biến đổi lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Thực dân Pháp đã nắm giữ quyền lực chính trị, thực thi các chính sách cai trị chuyên chế và đàn áp phong trào yêu nước một cách tàn bạo, tước đoạt độc lập và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam, đồng thời ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài Về kinh tế, họ thực hiện chính sách độc quyền và bốc lột, áp đặt thuế nặng nề, khiến nền kinh tế Việt Nam trở nên trì trệ và lệ thuộc vào chính quốc Về văn hóa, thực dân Pháp áp dụng chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa nô dịch và tiêu cực, xóa bỏ các giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ cho nhân dân trong tình trạng dốt nát và lạc hậu Hồ Chí Minh đã lên án những hành động này và bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ.

Chính sách thực dân đã tước đoạt ruộng đất, của cải và xóa bỏ mọi quyền lợi, quyền tự do, bao gồm cả quyền tự do thân thể của người dân bản xứ.

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân trong nhà nước pháp quyền

Hồ Chí Minh đã khẳng định và thực hiện hệ thống quan điểm về dân chủ XHCN, coi đây là hình thức hiệu quả để xây dựng một đất nước văn minh và tiến bộ Tư tưởng dân chủ của ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhân dân trong việc tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, quản lý nhà nước và thực hành dân chủ trong mọi lĩnh vực đời sống.

Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin, thể hiện qua quan niệm ngắn gọn: “dân là chủ” và “dân làm chủ” Cụm từ “dân là chủ” xác định vị thế của người dân, trong khi “dân làm chủ” nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ của họ Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, thể hiện rõ bản chất dân chủ trong xã hội Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng “thực hiện dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” (Hồ Chí Minh, tập 15, 2011, trang 325), thể hiện cống hiến mới trong khái niệm dân chủ Ông đã làm rõ rằng đây là sự nghiệp cách mạng, nhấn mạnh nền dân chủ XHCN như mục tiêu cao nhất, hướng tới việc giải phóng triệt để con người và phục vụ lợi ích của nhân dân.

Hồ Chí Minh cho rằng sự chuyển đổi từ nền dân chủ cũ sang dân chủ mới là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân toàn cầu, nhằm đạt được bình đẳng giữa các quốc gia và giữa con người với nhau.

Hồ Chí Minh coi dân chủ là giá trị nhân loại, sản phẩm của nền văn minh và là quá trình tự giải phóng con người trong xã hội và tự nhiên Dân chủ phát triển từ tự do, bình đẳng, bác ái trong xã hội nguyên thủy đến dân chủ chủ nô, rồi từ thắng lợi của dân chủ tư sản chống lại chế độ phong kiến đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân cho nền dân chủ XHCN Những giai đoạn phát triển của dân chủ phản ánh khát vọng giải phóng của nhân loại, với dân chủ trở thành tiêu chí phấn đấu không ngừng của con người.

Dân chủ là thành quả của quá trình đấu tranh gian khổ của nhân dân, thể hiện ước vọng về một xã hội tốt đẹp trong tương lai Nó mang lại quyền làm chủ vận mệnh cho nhân dân, không phải là điều tự nhiên có sẵn, mà là sự nghiệp của quần chúng Công cuộc đổi mới, xây dựng và kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm của toàn dân Đồng thời, dân chủ XHCN nhấn mạnh mục tiêu cao nhất là vì con người, giúp con người phát huy sức mạnh, tham gia tích cực, chủ động và sáng tạo trong đời sống.

Hồ Chí Minh coi dân chủ là giải pháp quan trọng để tạo sự nhất trí về lợi ích và huy động mọi tầng lớp trong xã hội, nhằm thực hiện thành công cách mạng Ông khẳng định rằng mọi công việc của đất nước và kháng chiến đều là trách nhiệm của nhân dân, và sự đoàn kết chính là sức mạnh giúp đất nước vượt qua khó khăn Theo Hồ Chí Minh, "dân chủ, sáng kiến, hăng hái" là ba yếu tố liên quan mật thiết với nhau, trong đó dân chủ giúp cán bộ và quần chúng phát huy sáng kiến Dân chủ không chỉ giải phóng tiềm năng sáng tạo mà còn là động lực cho sự phát triển Ngược lại, sự thiếu sáng kiến và hăng hái trong cán bộ và nhân dân phần lớn là do cách lãnh đạo thiếu dân chủ.

Trong thực hành dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng lợi ích phải thuộc về nhân dân, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, cùng sự thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ Người dân cần được hưởng độc lập, tự do và quyền làm chủ trong kinh tế, chính trị, văn hóa, đồng thời phải nhận thức rõ quyền lợi và bổn phận của mình Kiến thức là yếu tố quan trọng để tham gia xây dựng nhà nước, tạo tiền đề cho sự phát triển dân chủ xã hội ở Việt Nam.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng giá trị của tự do và dân chủ chỉ được nhận thức khi người dân có đủ cơm ăn, áo mặc và hạnh phúc Ông cho rằng việc thực hành dân chủ là cần thiết để quần chúng hiểu rõ và tích cực tham gia, từ đó đảm bảo thành công Sự tham gia đông đảo của quần chúng sẽ dẫn đến thành công nhanh chóng và toàn diện Hơn nữa, Hồ Chí Minh xem thực hành dân chủ như một chìa khóa vạn năng giúp giải quyết mọi khó khăn trong xã hội.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của dân chủ trong xã hội, xác định rằng trách nhiệm của nhà nước là tạo ra cơ sở pháp lý và điều kiện để thực hiện dân chủ, đồng thời phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị Nhờ có dân chủ, Đảng có thể nâng cao uy tín và định hướng xã hội, từ đó dân chủ trở thành mục tiêu và động lực cho sự phát triển của xã hội Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đã giúp nhân dân từ vị trí áp bức trở thành chủ đất nước, tạo sự nhất trí về lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội.

Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, thể hiện bản chất là Nhà nước của nhân dân, nhằm động viên toàn bộ lực lượng nhân dân đưa cách mạng tiến lên (Hồ Chí Minh, tập 12, 2011) Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động mọi người dân, không để sót ai, để tạo thành sức mạnh toàn dân thực hiện các nhiệm vụ được Chính phủ và Đoàn thể giao phó (Hồ Chí Minh, tập 6, 2011) Ông cho rằng dân chủ phải gắn liền với chuyên chính, mà chuyên chính không phải là mục đích mà là phương tiện bảo vệ nền dân chủ, nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân và chống lại những kẻ đi ngược lại lợi ích đó Quyền làm chủ của cá nhân không được xâm phạm quyền làm chủ của người khác và của cộng đồng, tạo nên một xã hội dân chủ với trật tự kỷ cương.

Dân chủ và chuyên chính có mối quan hệ chặt chẽ, theo Hồ Chí Minh, để đạt được dân chủ thực sự, cần có chuyên chính thực sự Nếu không có chuyên chính, các lực lượng thù địch sẽ đe dọa và làm tổn hại đến nền dân chủ của nhân dân Do đó, sự kết hợp giữa dân chủ và chuyên chính là điều cần thiết để bảo vệ quyền lợi của nhân dân.

Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh đã được Hồ Chí Minh xác định từ Đại hội II của Đảng năm 1951 và tiếp tục được nhấn mạnh sau năm 1954 Dân chủ luôn là mục tiêu phấn đấu không ngừng của cách mạng Việt Nam, và Hồ Chí Minh khẳng định rằng không ai có quyền phá hoại chế độ dân chủ và những giá trị mà nhân dân đã xây dựng Ông nhấn mạnh rằng Nhà nước phải đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng đồng thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do đó để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và nhân dân, như đã được ghi trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Dân chủ, theo Hồ Chí Minh, bao gồm quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm, cần được thể hiện qua các quy định pháp luật Pháp luật là yếu tố quan trọng đảm bảo tự do dân chủ, phản ánh quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân Để dân chủ hoạt động hiệu quả, pháp luật phải được thực thi tốt và duy trì trong khuôn khổ hợp lý Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật là không thể tách rời, cho thấy rằng không có dân chủ nào tồn tại bên ngoài pháp luật.

Hồ Chí Minh viết: “Phải nhận thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật

Sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật” (Hồ Chí Minh, tập 5, 2011, trang 418)

Trong mối quan hệ biện chứng giữa quyền và nghĩa vụ công dân đối với quốc gia và dân tộc, lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân thường nhất trí Do đó, khi được hưởng quyền lợi từ Nhà nước và tập thể, mỗi công dân cần tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và cộng đồng Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự giác này.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

2.1.1 Quá trình xây dựng nhà nước và nhà nước pháp quyền

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ĐCSVN đã xây dựng và củng cố nhà nước NNPQ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên thực tiễn lịch sử và việc áp dụng quan điểm nhà nước và pháp luật của chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình hình Việt Nam Đồng thời, ĐCSVN cũng tiếp thu có chọn lọc các giá trị của NNPQ nhân loại và kinh nghiệm tổ chức nhà nước từ các nước khác, nhằm áp dụng phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), quá trình xây dựng nhà nước VNDCC đã trải qua nhiều giai đoạn cụ thể.

Giai đoạn 1945 đến 1954 là thời kỳ mà mặc dù chưa có thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”, nhưng tư tưởng NNPQ của Hồ Chí Minh đã được thực hiện thông qua việc giải phóng dân tộc, con người và xã hội, nhằm xây dựng một nhà nước vì nhân dân Giai đoạn này được chia thành hai phần: từ 1945 đến 1946, tập trung vào việc xây dựng nhà nước mới và giải quyết các vấn đề quốc gia, và từ 1946 đến 1954, liên quan đến kháng chiến chống Pháp và hoàn thiện nhà nước Ngày 20/09/1945, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34 lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, và trong vai trò Chủ tịch nước, ông đã lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp 1946 và 1959, ký ban hành 16 đạo luật và 613 sắc lệnh, tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của Nhà nước VNDCCH và toàn xã hội Việt Nam, nhằm thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Quyền công dân và quyền trở thành công dân nước VNDCCH được quy định theo Sắc lệnh số 53 ngày 20/10/1945 và Sắc lệnh số 73 ngày 07/12/1945 Quyền học tập được xác định là bắt buộc và miễn phí theo Sắc lệnh số 20 ngày 08/09/1945 và Sắc lệnh số 147 ngày 07/12/1945 Để duy trì trật tự và kỷ cương trong xã hội, Hồ Chí Minh đã ký các sắc lệnh thành lập hệ thống cơ quan tư pháp, bao gồm Sắc lệnh số 33C ngày 13/09/1945, nhằm thành lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và thực hiện pháp quyền.

Vào ngày 6/1/1946, nhân dân Việt Nam đã thực hiện quyền bầu cử bằng hình thức bỏ phiếu kín để bầu ra đại biểu Quốc hội, đánh dấu sự ra đời của Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Quốc hội khóa đầu tiên này đã thông qua Hiến pháp, thể hiện nguyên tắc pháp quyền và tư tưởng dân chủ.

Vào ngày 09/11/1946, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch nước và thành lập Chính phủ VNCCH Trong bối cảnh đất nước đang trong chiến tranh, Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện rõ nét trong đời sống xã hội, với một phần giá trị của Hiến pháp được hiện thực hóa.

Nhà nước đã xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh tạo căn cứ pháp lý cho việc bầu Quốc hội và thành lập Chính phủ Các sắc lệnh này quy định cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc xây dựng chế độ xã hội mới Quá trình hình thành Nhà nước VNDCCH thể hiện tư tưởng pháp quyền và chính Nhà nước này là điều kiện đảm bảo thực hiện pháp quyền, đồng thời là chủ thể xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi pháp luật, hướng tới hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền trong đời sống xã hội.

Quốc hội nước VNDCCH được thành lập theo quy luật chung của các cơ quan lập pháp trên thế giới, thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại về pháp quyền Sự vận dụng sáng tạo này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, phản ánh tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh Quốc hội không chỉ thể hiện tư tưởng pháp quyền mà còn là ý chí và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm khẳng định và bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Chính phủ được coi là cơ quan hành chính cao nhất, thể hiện tư tưởng pháp quyền, và sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đề nghị thành lập Chính phủ lâm thời nước VNDCCH Sự ra đời của Chính phủ VNDCCH không chỉ khẳng định pháp quyền mà còn tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân ủy thác Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng Chính phủ phải lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động, bảo vệ sự nghiệp cách mạng, độc lập dân tộc và xây dựng xã hội mới Ông cũng thể hiện sự nhạy bén trong việc tiếp thu thuyết phân quyền mà không nhằm mục đích phân chia quyền lực theo nguyên tắc tam quyền phân lập Chính phủ này thể hiện tinh thần quốc dân liên hiệp và cam kết làm việc để đạt được độc lập và thống nhất lãnh thổ, cùng xây dựng một nước Việt Nam mới.

Tòa án là một phần quan trọng trong bộ máy nhà nước, và Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tòa án về cả tổ chức lẫn nguyên tắc hoạt động Với vai trò độc lập trong việc thực hiện quyền xét xử, tòa án không chỉ phản ánh tư tưởng pháp quyền mà còn là điều kiện cần thiết để đảm bảo thực thi pháp quyền trong xã hội.

Trong giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc vận dụng lý thuyết NNPQ vào Việt Nam, khẳng định quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân và được ủy thác cho Nhà nước Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc Chính phủ, và quyền tư pháp thuộc Tòa án, với sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực Việc xây dựng bộ máy nhà nước hoàn chỉnh, ban hành và tổ chức thi hành pháp luật trong xã hội không chỉ đảm bảo tính hiệu lực và nghiêm minh của pháp luật mà còn hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền, tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện pháp quyền.

Hiến pháp 1959 được ban hành trong bối cảnh lịch sử quan trọng, bao gồm chiến thắng Điện Biên Phủ và sự ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, dẫn đến tình trạng tạm chia cắt đất nước Trong khi phong trào cách mạng toàn cầu đang phát triển mạnh, Hiến pháp 1946 đã trở nên không còn phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới Hồ Chí Minh nhận định rằng sự cần thiết phải có một hiến pháp mới là điều không thể tránh khỏi để đáp ứng yêu cầu của thời đại.

Hiến pháp năm 1946, được xem là Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam, đã phù hợp với bối cảnh và nhiệm vụ cách mạng thời kỳ đó, hoàn thành sứ mệnh của mình Tuy nhiên, với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay, Hiến pháp này đã trở nên không còn phù hợp, do đó, việc sửa đổi Hiến pháp là cần thiết.

Tại phiên họp đầu tiên của Ban sửa đổi Hiến pháp vào ngày 27/02/1957, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng bản Hiến pháp sửa đổi cần kế thừa và phát huy tinh thần tiến bộ của Hiến pháp 1946.

Năm 1946, bản Hiến pháp phản ánh khách quan tình hình thực tế của chế độ do cuộc cách mạng thắng lợi mang lại, thể hiện con đường tiến lên của dân tộc và khẳng định sự phát triển của một nước dân chủ nhân dân hướng tới chủ nghĩa xã hội.

Hiến pháp năm 1959 khẳng định quyền lực nhà nước bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, nhấn mạnh rằng nhân dân là chủ thể tổ chức nhà nước Các thể chế do nhân dân thiết lập đại diện cho quyền lực nhân dân Nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động nhà nước Quốc hội và HĐND là những cơ quan đại diện của nhân dân, nhận quyền lực trực tiếp từ họ thông qua cơ chế pháp lý, và có trách nhiệm thực hiện quyền lực đó trước nhân dân.

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NÀY

Xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam là tư tưởng chủ đạo trong quá trình hình thành nhà nước, thể hiện một cuộc cách mạng lâu dài đầy thách thức Để đạt được thành công trong việc xây dựng NNPQ, cần có những định hướng cụ thể cho từng giai đoạn, tạo điều kiện tiền đề cho sự phát triển Việc thực hiện và cụ thể hóa các định hướng này bằng các giải pháp nghiêm túc là yếu tố quyết định cho sự thành công của NNPQ Việt Nam.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Hội nghị TW lần 6 khóa XIII: thứ nhất là

Kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; duy trì đường lối đổi mới và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại Đảm bảo sự tổng thể, đồng bộ giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển.

Mục tiêu tổng quát được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày

09/11/2022 “về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” Đảng ta khẳng định:

Hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam cần được thực hiện bởi Nhân dân, do Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với hệ thống pháp luật hoàn thiện và thực hiện nghiêm minh Cần tôn trọng và bảo vệ hiệu quả quyền con người và quyền công dân, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

Nghị quyết đã xác định ba trọng tâm chiến lược để xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam, bao gồm: hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm thượng tôn Hiến pháp; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật; và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đồng thời đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, cùng với cải cách tư pháp.

12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn (2021 – 2030), xác định một trong những phương hướng quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN:

Xây dựng NNPQ XHCN vững mạnh và tinh gọn, hoạt động hiệu quả vì lợi ích nhân dân và sự phát triển đất nước Tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời kiểm soát quyền lực gắn liền với kỷ cương và kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và cán bộ Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội.

Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là yếu tố then chốt trong xây dựng và quản lý nhà nước Việc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, cũng như tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, có ý nghĩa quan trọng đối với chế độ ta Phát huy dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là biện pháp thiết yếu trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Đảng khẳng định tầm quan trọng của vấn đề này.

Thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân là cần thiết để củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Điều này không chỉ nâng cao niềm tin của nhân dân mà còn tăng cường đồng thuận xã hội Để đạt được mục tiêu này, việc đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức chính trị xã hội là vô cùng quan trọng.

Mở rộng dân chủ là một yếu tố quan trọng, bao gồm việc nâng cao chất lượng hoạt động và cải cách thể chế cũng như thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến đời sống nhân dân Cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật để thiết lập rõ ràng quyền giám sát và kiểm tra của nhân dân Đặc biệt, cần chú trọng đến hiệu quả của cơ chế nhân dân trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thông qua dân chủ trực tiếp và đại diện, nhất là ở cấp cơ sở.

Thực hiện và mở rộng dân chủ cần đảm bảo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Cần nhận thức đúng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tăng cường tính pháp quyền trong hoạt động của Đảng và trong quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.

Ba là thể chế hóa và cụ thể hóa kịp thời các quan điểm của Ðảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người và quyền công dân; nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

Đổi mới tư duy trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, công khai và minh bạch Việc tổ chức thi hành pháp luật hiệu quả sẽ góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời và đồng bộ, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp Mục tiêu này không chỉ thúc đẩy đổi mới sáng tạo mà còn đảm bảo sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước.

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo và kịp thời là cần thiết, với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Cần nâng cao hiệu lực thực thi và hiệu quả của hệ thống pháp lý, đồng thời lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Cần hoàn thiện khung pháp lý để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp năm 2013 Hệ thống pháp luật cần được cải thiện nhằm bảo vệ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân trong nền dân chủ nhân dân xã hội chủ nghĩa.

Ba cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật để đảm bảo tính chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi và hiệu quả Đồng thời, cần đổi mới công tác phổ biến và giáo dục pháp luật, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực pháp luật, cũng như hiện đại hóa phương thức và phương tiện trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật.

Ngày đăng: 14/11/2023, 11:45

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Arnaud De Raulin, Jean Paul Pastore, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Hoàng Anh (Đồng chủ biên). (2016). Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp tới pháp luật Việt Nam. Hà Nội: Đại học quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp tới pháp luật Việt Nam
Tác giả: Arnaud De Raulin, Jean Paul Pastore, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Hoàng Anh (Đồng chủ biên)
Năm: 2016
2. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng. (2022). Tài liệu học tập các Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành TƯ Đảng khóa XIII. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu học tập các Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành TƯ Đảng khóa XIII
Tác giả: Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng
Năm: 2022
3. Bộ Quốc phòng Học viện chính trị - Trịnh Quốc Việt. (2019). Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Hiến pháp ở Việt Nam. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Hiến pháp ở Việt Nam
Tác giả: Bộ Quốc phòng Học viện chính trị - Trịnh Quốc Việt
Năm: 2019
4. Bộ Tư Pháp. (2008). Quốc triều Hình luật những giá trị lịch sử và đương đạị góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Hà Nội: Tư Pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc triều Hình luật những giá trị lịch sử và đương đạị góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Tác giả: Bộ Tư Pháp
Năm: 2008
5. Bùi Ngọc Sơn. (2004). Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam . Hà Nội: Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam
Tác giả: Bùi Ngọc Sơn
Năm: 2004
6. Bùi Ngọc Sơn. (2005). Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền. Hà Nội: Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền
Tác giả: Bùi Ngọc Sơn
Năm: 2005
7. C.Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). Toàn tập, tập 4. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập, tập 4
Tác giả: C.Mác và Ph. Ăng-ghen
Năm: 1995
8. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2000). Toàn tập, tập 1. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập, tập 1
Tác giả: C.Mác và Ph.Ăngghen
Năm: 2000
9. Doãn Chính - Nguyễn Văn Trịnh . (2007). Pháp gia với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp gia với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Tác giả: Doãn Chính - Nguyễn Văn Trịnh
Năm: 2007
10. Đảng Cộng Sản Vệt Nam. (1994). Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
Tác giả: Đảng Cộng Sản Vệt Nam
Năm: 1994
11. Đảng Cộng Sản Việt Nam. (1995). Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 BCH TW (khóa VII). Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 BCH TW (khóa VII)
Tác giả: Đảng Cộng Sản Việt Nam
Năm: 1995
12. Đảng Cộng Sản Việt Nam. (1997). Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCH TW (khóa VIII). Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCH TW (khóa VIII)
Tác giả: Đảng Cộng Sản Việt Nam
Năm: 1997
13. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2001
14. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2006
15. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2011
16. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2012). Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW khóa XI. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW khóa XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2012
17. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2014). Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2014
18. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016). Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2015
19. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2016
20. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,2. Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,2
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2021

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w