Giới thiệu
Bối cảnh chính trị, thể chế
Từ những ngày đầu phát triển kinh tế, đặc biệt sau khi mở cửa năm 1991, Việt Nam đã xác định khu vực kinh tế nhà nước là thành phần chủ chốt và động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế Điều này được nhấn mạnh trong các văn kiện của Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII và VIII, cũng như trong Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII.
Sau khi Việt Nam mở cửa, Luật Doanh Nghiệp năm 2005 đã thúc đẩy sự gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp đăng ký mới Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh nhận định rằng luật này đã giải phóng tiềm năng kinh tế của người dân Năm 2005, nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng ấn tượng trên 8% Mặc dù có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển kinh tế, nhưng vai trò của Luật Doanh Nghiệp không thể bị phủ nhận.
Trong buổi nói chuyện tại Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, diễn giả đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của Luật doanh nghiệp trong việc hỗ trợ các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân.
Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ từ năm 2005 đến cuối năm 2012, đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục dựa vào kinh tế nhà nước Điều này được xác nhận trong Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI vào tháng 11 năm 2012 Hơn nữa, việc lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp cũng không đề cập đến việc giảm bớt vai trò của kinh tế nhà nước.
Do đó, có nhiều cơ sở để tin rằng kinh tế Việt Nam vẫn sẽ gắn liền với vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước.
Bối cảnh kinh tế - xã hội
Từ năm 2000 đến 2008, trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, Việt Nam duy trì mức tăng trưởng GDP ổn định với trung bình gần 7,5% mỗi năm Đặc biệt, sau khi Luật doanh nghiệp được ban hành vào năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn cao hơn nữa.
Từ năm 2000 đến nay, kinh tế Việt Nam trải qua hai giai đoạn khác biệt: Giai đoạn 1 (2000-2007) và Giai đoạn 2 (2008-nay) Trong giai đoạn đầu, kinh tế tăng trưởng ổn định với hai đỉnh vào năm 2005 và 2007 Năm 2005 đánh dấu sự ra đời của Luật doanh nghiệp, trong khi năm 2007 là thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), dẫn đến dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng gấp đôi so với năm 2006, góp phần quan trọng vào sự gia tăng GDP.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm từ 8,46% vào năm 2007 xuống chỉ còn hơn 6% vào năm 2008, và tiếp tục sụt giảm xuống mức thấp nhất 5,32% vào năm tiếp theo.
2009, thấp nhất trong giai đoạn 2000-2011
Từ năm 2008 đến nay, giai đoạn 3 cho thấy sự tăng trưởng của Việt Nam diễn ra với xu hướng lên xuống thất thường Chính phủ ước tính rằng vào năm 2012, tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đạt mức xấp xỉ.
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2007 đạt gần 130,000 tỷ đồng, gấp đôi so với khoảng 65,000 tỷ đồng năm 2006 Tuy nhiên, tăng trưởng GDP năm 2012 chỉ đạt 5,03%, thấp nhất từ năm 2000, cho thấy nền kinh tế đang tăng trưởng chậm hơn cả mức đáy của năm 2009.
Hình 1.1 GDP và tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2011
Khu vực kinh tế nhà nước đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ kể từ khi các tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) chính thức ra đời vào năm 2005 Trước đó, theo Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 1994, các tổng công ty đã được hình thành như là tiền thân của các tập đoàn Đến nay, Việt Nam đã có tổng cộng 11 Tập đoàn kinh tế do Nhà nước nắm 100% cổ phần hoặc cổ phần chi phối.
Gần đây, các vấn đề nổi cộm liên quan đến các Tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) và doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được đặt ra, đặc biệt là việc đồng vốn chưa được sử dụng một cách hiệu quả.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam đã gặp nhiều thách thức, đặc biệt là từ các sai lầm trong đầu tư và quản lý của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Điển hình là Tổng công ty hàng hải Vinalines và Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin, cả hai đều chịu thua lỗ nặng nề và gây ra nhiều tranh luận trong xã hội Những thất bại này không chỉ phản ánh sự kém hiệu quả trong quản lý vốn và đầu tư ngoài ngành của nhiều DNNN, mà còn đặt ra những câu hỏi quan trọng về chính sách và mô hình phát triển mà Việt Nam đang theo đuổi.
Bảng 1.1 Danh sách các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam
Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Tên tập đoàn Năm thành lập
Sở hữu nhà nước tại công ty mẹ
1 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) 2005 100%
2 Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam
3 Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VINATEX) 2005 100%
4 Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) 2006 100%
5 Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 2006 100%
6 Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (VINASHIN) 2006 100%
7 Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) 2006 100%
8 Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt (BaoViet Holdings) 2007 74.17%
9 Tập đoàn Viễn thông Quân đội (VIETTEL) 2009 100%
10.Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam (VINACHEM) 2009 100%
11 Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNNIC)* 2010 100%
12 Tập đoàn Phát triển nhà và Đô thị Việt Nam (HUD holdings)* 2010 100%
13 Tập đoàn xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) 2011 94.99%
*: TĐKTNN vừa chuyển lại thành Tổng công ty theo Quyết định 1428/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02 tháng 10 năm 2012
Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, Vinashin đã lỗ hơn 5,000 tỷ đồng vào năm 2009, cao hơn nhiều so với con số 1,700 tỷ đồng mà đơn vị này công bố Tương tự, Vinalines cũng ghi nhận khoản lỗ 2,600 tỷ đồng vào năm 2011, gấp đôi so với mức 1,200 tỷ đồng năm 2010 Bài viết này sẽ phân tích các vấn đề chính sách phát triển trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện tại, tập trung vào vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
TĐKTNN, thông qua xem xét một số tình huống điển hình.
Một số phát hiện
Sau quá trình thực hiện nghiên cứu, luận văn có một số đóng góp chủ yếu:
Việc thành lập thử nghiệm một số TĐKTNN chưa đáp ứng đầy đủ tính chất kinh tế của một đơn vị kinh tế nhà nước, như trường hợp của Tập đoàn.
Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã trải qua quá trình thành lập và quản trị một số tập đoàn, tuy nhiên, việc này chưa được thực hiện triệt để theo lý thuyết kinh tế, dẫn đến một số kết quả không như mong đợi.
Việc thiếu cơ chế và thể chế quản lý hiệu quả đối với các Tập đoàn Kinh tế Nhà nước (TĐKTNN) đã dẫn đến những tác động tiêu cực đến hạng tín nhiệm quốc gia Cụ thể, sự kiện Vinashin không thể trả nợ cho các trái chủ quốc tế đã khiến Việt Nam bị hạ bậc tín nhiệm, điều này không chỉ hạn chế khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế của nhiều doanh nghiệp trong nước mà còn khiến họ phải chịu chi phí vay mượn cao hơn nếu có thể tiếp cận.
Trong giai đoạn 1995 – 2011, đã xảy ra hiệu ứng chèn lấn của khu vực kinh tế nhà nước đối với khu vực tư nhân trong nước Cụ thể, kết quả mô hình cho thấy rằng sự gia tăng đầu tư từ Chính phủ thực sự đã làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân.
Bài luận văn được cấu trúc như sau: Chương 2 trình bày vấn đề chính sách, câu hỏi chính sách và phương pháp nghiên cứu; Chương 3 phân tích sự cần thiết của TĐKTNN trong bối cảnh Việt Nam; Chương 4 khám phá ảnh hưởng của khu vực kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế, kèm theo các nhận định từ sự kiện và số liệu liên quan; Chương 5 xem xét tác động của khu vực kinh tế nhà nước tới khu vực kinh tế tư nhân; Chương 6 nêu ra nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực của TĐKTNN đối với nền kinh tế; cuối cùng, Chương 7 đưa ra khuyến nghị chính sách và kết luận.
Vấn đề chính sách và phương pháp nghiên cứu
Vấn đề chính sách
Việt Nam hiện đang trong giai đoạn phát triển thấp so với một số quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan và Malaysia Tuy nhiên, hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã gây ra nhiều vấn đề, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư quốc gia không cao, điều này gây ra sự bất bình trong dư luận trong bối cảnh đất nước còn nghèo.
Vào năm 2008, vụ việc tập đoàn Vinashin đã khơi dậy những tranh luận sôi nổi trong xã hội về mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước Được đầu tư lớn, với khoản trái phiếu chính phủ 750 triệu USD vào năm 2005, Vinashin đã mở rộng nhanh chóng, đạt 74.000 lao động tại gần 260 công ty vào năm 2007 Tuy nhiên, trong phiên thảo luận Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, con số nợ của Vinashin được Thanh tra Chính phủ công bố lên tới hơn 86.000 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu vượt 11 lần và vốn điều lệ âm 5.000 tỷ đồng Điều này cho thấy hiệu quả hoạt động của Vinashin không đáp ứng yêu cầu của một doanh nghiệp, và về mặt kỹ thuật, Vinashin có thể được coi là phá sản khi không thể thanh toán các nghĩa vụ nợ đúng hạn.
Tổng công ty hàng hải Vinalines đã trở thành tâm điểm tranh luận trong xã hội và Quốc hội từ năm 2011, do nhiều sai phạm và thua lỗ lớn trong bối cảnh khó khăn.
Nhiều ý kiến cho rằng việc thành lập và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện nay cần hiểu rõ bản chất hình thành DNNN, khả năng duy trì hoạt động và trình độ quản trị của các doanh nghiệp này Đồng thời, việc đánh giá cụ thể hơn về các yếu tố liên quan cũng rất cần thiết.
Năm 2011, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1,407 USD, trong khi Thái Lan là 4,972 USD và Malaysia là 9,977 USD Mô hình phát triển dựa vào vốn đầu tư của Việt Nam đang được triển khai, cùng với ảnh hưởng từ hoạt động của các Tập đoàn Kinh tế Nhà nước (TĐKTNN) đối với nền kinh tế Để hiểu rõ hơn về quá trình thành lập, điều hành và quản trị TĐKTNN cũng như tác động của chúng tới nền kinh tế, luận văn sẽ tập trung vào một số câu hỏi chính sách và tìm kiếm những câu trả lời liên quan.
Câu hỏi và phạm vi nghiên cứu
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội đang chuyển mình sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bài viết tập trung vào những vấn đề quan trọng liên quan đến sự phát triển kinh tế dựa vào khu vực nhà nước Các câu hỏi được đặt ra nhằm làm rõ những thách thức và cơ hội trong quá trình chuyển đổi này.
Câu hỏi 1 Sự ra đời của một số TĐKTNN trong giai đoạn 2006 – 2011 có thực sự cần thiết?
Trong trường hợp thành lập Tổ chức Đánh giá và Kiểm tra Năng lực Quốc gia (TĐKTNN) không cần thiết, nếu đơn vị này gây ảnh hưởng đến bậc tín nhiệm quốc gia, nền kinh tế sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực Sự giảm sút tín nhiệm có thể dẫn đến việc giảm đầu tư nước ngoài, tăng chi phí vay mượn và giảm khả năng cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế mà còn có thể làm gia tăng bất ổn xã hội và giảm lòng tin của người dân vào chính phủ.
Mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư, đặc biệt từ khu vực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (DNNN), có thể gây ra hiệu ứng chèn lấn đối với các thành phần kinh tế khác Sự tập trung nguồn lực vào DNNN có thể làm giảm cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp tư nhân và các lĩnh vực kinh tế khác Điều này dẫn đến việc phân bổ không hiệu quả nguồn lực, ảnh hưởng đến sự cạnh tranh và đổi mới trong nền kinh tế Do đó, cần có chính sách hợp lý để cân bằng giữa đầu tư nhà nước và phát triển khu vực tư nhân nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế.
2.2.2 Phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào tìm hiểu những ảnh hưởng của khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là TĐKTNN, tới nền kinh tế
Luận văn sử dụng dữ liệu thu thập được cho giai đoạn 1995 tới 2011.
Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ nhất Để trả lời về sự cần thiết của các TĐKTNN, luận văn sẽ so sánh tình hình thực tế của Việt h
Bài viết này sẽ áp dụng lý thuyết kinh tế để đánh giá tính cần thiết của việc thành lập một số tập đoàn Đồng thời, luận văn cũng sẽ so sánh trường hợp của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới để đưa ra cái nhìn đối sánh rõ ràng.
2.3.2 Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ hai
Để trả lời câu hỏi này, luận văn áp dụng phương pháp nghiên cứu tình huống với trường hợp Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin, khi đơn vị này không thể trả nợ vào năm 2010 Sự kiện Vinashin không trả được nợ đã dẫn đến việc hạ bậc tín nhiệm của Việt Nam, khiến chi phí vốn vay của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế tăng cao.
2.3.3 Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba
Luận văn sẽ sử dụng mô hình SVAR để phân tích sâu sắc ảnh hưởng của đầu tư khu vực nhà nước đối với đầu tư khu vực tư nhân, không chỉ dừng lại ở việc phân tích số liệu cụ thể.
Sự cần thiết của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Lý thuyết về sự cần thiết của các tập đoàn kinh tế nhà nước
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sở hữu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với quy mô khác nhau, bao gồm cả các quốc gia phát triển như Mỹ, nơi vẫn tồn tại các DNNN (United States General Accounting Office, 1995) Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, chính phủ Mỹ đã quốc hữu hóa một số doanh nghiệp tư nhân yếu kém như General Motors và Fannie Mae Tại OECD, có tới 2057 DNNN hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ tài chính đến giáo dục (Christiansen, 2011) Điều này cho thấy việc hình thành và duy trì các DNNN ở Việt Nam có cơ sở thực tiễn nhất định.
Theo thống kê của OECD, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ yếu hiện diện trong lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng và tài chính (Christiansen, 2011) Nhiều nghiên cứu chuyên sâu cũng đã chỉ ra sự xuất hiện của DNNN trong các lĩnh vực này (Nunnenkamp, 1986; Toninelli, 2008; FORFÁS, 2010; Efird, 2010) Thông thường, Chính phủ sẽ thành lập DNNN hoặc nhận được sự ủng hộ từ các nhà kinh tế trong các lĩnh vực như năng lượng, nơi cần kiểm soát để đảm bảo an ninh năng lượng và ngăn chặn tình trạng độc quyền của tư nhân Các ngành cụ thể bao gồm điện, dầu khí, than, thép và năng lượng hạt nhân, cùng với hàng hóa thiết yếu, truyền thông và vận tải.
Năm 1995 là thời gian tham khảo đã cũ, nên tác giả đã truy cập các trang web của Amtrak và USEC vào tháng 04 năm 2013 để xác nhận rằng đây vẫn là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Chính phủ các nước thường thành lập DNNN trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, giáo dục và y tế Các nhà kinh tế đồng thuận rằng DNNN được thành lập để khắc phục các thất bại của thị trường như độc quyền, thông tin bất cân xứng, ngoại tác và hàng hóa công Sự tương đồng giữa các thất bại thị trường và lĩnh vực hoạt động của DNNN rất rõ ràng, như việc DNNN có thể cải thiện tình trạng độc quyền trong ngành điện và nước hoặc cung cấp các hàng hóa công như giáo dục và chăm sóc sức khỏe Mặc dù sửa chữa thất bại thị trường không nhất thiết phải thông qua công cụ nhà nước, nhưng thường là những bước can thiệp đầu tiên.
Đối sánh với trường hợp TĐKTNN Việt Nam
Luận văn chỉ tập trung vào việc so sánh các tổ chức kinh tế nhà nước (TĐKTNN), vì thông tin về hoạt động của các tổ chức này có thể được tổng hợp một cách hiệu quả.
Theo Bảng 1.1, các TĐKTNN hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm: Bưu chính viễn thông với hai đơn vị VNPT và Viettel; Năng lượng và khai khoáng với bốn đơn vị là EVN, PVN, Petrolimex và Vinacomin; Tài chính, bảo hiểm, ngân hàng với BaoViet holdings; Hóa chất cơ bản và phân bón với Vinachem; Sản xuất và chế tạo với Vinashin và VRG; Xây dựng và kinh doanh bất động sản với VNNIC và HUD holdings; cùng với lĩnh vực Dệt may do Vinatex đảm nhiệm.
Từ góc độ thực tiễn, khi so sánh với những lĩnh vực mà các DNNN trên thế giới thường
Hai tập đoàn chuyển đổi mô hình Tổng công ty đã được thống kê đến cuối năm 2011 và vẫn duy trì hoạt động theo mô hình TĐKTNN cho đến đầu tháng 10 năm 2012 Các TĐKTNN tại Việt Nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo và xây dựng.
Kinh doanh bất động sản và dệt may dường như không tương thích, và việc thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) chưa rõ ràng trong việc khắc phục thất bại của thị trường Mục tiêu của các DNNN, theo Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), là sử dụng chúng như công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô và thị trường của Nhà nước Các TĐKTNN được kỳ vọng trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có khả năng cạnh tranh quốc tế, nhưng điều này có vẻ mâu thuẫn với quan điểm rằng công cụ điều tiết chủ yếu phải là chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và cơ cấu (Vũ Thành Tự Anh, 2012).
Bảng 3.1 Thất bại thị trường và khả năng sửa chữa của một số tập đoàn
Thất bại thị trường Vinashin VRG VNNIC & HUD Vinatex Độc quyền do lợi thế kinh tế theo quy mô ×* × × ×
Bất cân xứng thông tin × × × ×
Hàng hóa công/ khuyến dụng × × × ×
*: × thể hiện rằng tính chất tương ứng không xuất hiện trong dạng hàng hóa mà TĐKTNN đó cung cấp
Bảng 3.1 tổng hợp các dạng thất bại thị trường và liệt kê một số TĐKTNN được thành lập thử nghiệm, đồng thời chỉ ra rằng những TĐKTNN này không khắc phục được các dạng thất bại thị trường đã nêu.
Độc quyền tự nhiên do lợi thế kinh tế theo quy mô không hiện diện trong lĩnh vực kinh doanh của Vinashin, VRG, VNNIC, HUD và Vinatex Các doanh nghiệp này cũng không hoạt động trong lĩnh vực hàng hóa công hoặc hàng hóa khuyến dụng, do đó không cần thiết phải thành lập tập đoàn nhà nước để giải quyết.
Bất cân xứng thông tin xảy ra khi một bên trong giao dịch nắm giữ thông tin mà bên kia không biết, từ đó tạo ra lợi thế cho bên có thông tin Tuy nhiên, trong luận văn này, không có cơ sở để khẳng định rằng bất cân xứng thông tin tồn tại trong các lĩnh vực liên quan đến các tập đoàn.
Ngoại tác trong ngành đóng tàu chủ yếu là ô nhiễm môi trường và rác thải công nghiệp, nhưng Việt Nam đã ban hành Luật bảo vệ môi trường cùng các hướng dẫn chi tiết, yêu cầu tất cả doanh nghiệp tuân thủ Vinashin không thể được xem như một ví dụ tiêu biểu để giảm nhẹ các ngoại tác này Tác giả cũng không nhận thấy ngoại tác trong hoạt động của các doanh nghiệp như VRG, VNNIC, HUD và Vinatex Đặc biệt, VRG, mặc dù cần nhiều đất để trồng cao su, cũng khó gây ra ngoại tác thiếu đất canh tác lúa hay hoa màu do loại đất trồng cao su là khác biệt.
Hàng hóa công có hai đặc tính quan trọng là không loại trừ và không tranh giành Đặc tính không loại trừ cho phép mọi người đều có quyền sử dụng, trong khi không tranh giành có nghĩa là việc sử dụng của một người không làm giảm khả năng sử dụng của người khác Tuy nhiên, khi so sánh với các sản phẩm của những TĐKTNN, chúng ta nhận thấy rằng những đặc tính này không được đáp ứng.
Sau khi phân tích các thất bại thị trường, có thể nhận thấy rằng việc thành lập một số TĐKTNN không hoàn toàn phù hợp với lý thuyết kinh tế về sửa chữa thất bại thị trường.
Theo Quyết định 339/QĐ-TTg về tái cơ cấu kinh tế, không nên đầu tư mới vào các lĩnh vực mà khu vực tư nhân có khả năng đảm nhận, như dịch vụ thương mại, khách sạn, nhà hàng, bất động sản và sản xuất vật liệu xây dựng Tuy nhiên, sự hiện diện của HUD và VNNIC cho thấy sự mâu thuẫn trong việc thực hiện quyết định này Mặc dù hai đơn vị này đã quay trở lại mô hình Tổng công ty, quy mô và vốn đầu tư của họ vẫn lớn, cho thấy quá trình tái cơ cấu chưa được thực hiện triệt để như mong đợi.
Việc thành lập TĐKTNN cần xem xét tình hình thực tiễn của từng quốc gia, không chỉ dựa vào lý thuyết Chẳng hạn, Malaysia có nhiều doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cao su, thiếc Tuy nhiên, luận văn sẽ phân tích rằng việc thành lập Vinashin ở Việt Nam chưa thực sự phù hợp với thực tiễn.
Nghiên cứu của Huỳnh Thế Du (2006) chỉ ra rằng Việt Nam thiếu nhiều điều kiện cần thiết mà Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã có, điều này ảnh hưởng đến khả năng nâng tầm Vinashin để cạnh tranh quốc tế và chiếm khoảng 10% thị phần đóng tàu toàn cầu.
2015 như dự định Những điều kiện này, theo nghiên cứu vừa dẫn, bao gồm:
1 Lợi thế nhân công giá rẻ: dù tại Việt Nam giá nhân công rẻ nhưng nhân công của chúng ta khó có thể rẻ hơn Trung Quốc Theo khảo sát của Bộ nhân lực và bảo hiểm xã hội Trung Quốc, lương lao động tối thiếu tại những thành phố hạng A của Trung Quốc thấp nhất là 870RMB (tương đương với khoảng 140USD 7 ), cao nhất là 1,500RMB (tương đương với 243USD) và thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2011 theo số liệu WorldBank là 5,445USD Con số tương ứng của Việt Nam là 1.65 triệu VNĐ (tương đương 80USD cho khu vực IV) và 2.35 triệu VNĐ (tương đương với 113USD cho khu vực I) (Chính phủ, 2011) với thu nhập bình quân đầu người theo số liệu của WorldBank là 1,407USD Như vậy, nếu tính theo tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người thì lương tối thiểu của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc
2 Sự hỗ trợ và trợ cấp của Chính phủ: (Huỳnh Thế Du, 2006) chỉ ra rằng Nhật Bản và Hàn Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho ngành công nghiệp đóng tàu của hai quốc gia này Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đưa ra số liệu để minh chứng cho nhận định này Với Việt Nam, số vốn Chính phủ bỏ ra cho Vinashin không hề ít như sẽ được phân tích ở Phần 4.1 So với nền kinh tế Việt Nam, đó là những con số lớn nhưng do không có số liệu của Nhật Bản và Hàn Quốc nên khó có thể so sánh và đưa ra nhận định thật chính xác Tuy vậy, dù không thể so sánh để đưa ra nhận xét tương quan với hai quốc gia trên, luận văn bảo lưu ý kiến Vinashin nhận được sự hỗ trợ lớn từ phía Chính phủ
Ảnh hưởng tới bậc tín nhiệm quốc gia
Tiến trình hình thành, phát triển và không trả được nợ của Vinashin
Tập đoàn Vinashin, tiền thân là Tổng công ty Vinashin, được thành lập với mục tiêu trở thành
"Quả đấm thép" Vinashin đã giúp Việt Nam nổi bật trên thị trường đóng tàu quốc tế Kể từ khi trở thành tập đoàn vào năm 2006, Vinashin đã nhận được nguồn vốn khổng lồ, bao gồm 750 triệu USD trái phiếu quốc tế do chính phủ phát hành năm 2005 và 600 triệu USD trái phiếu quốc tế do Vinashin phát hành năm 2007 Đến năm 2009, Vinashin tiếp tục phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu nội địa, cho thấy nguồn lực đầu tư dành cho tập đoàn này rất lớn.
Bảng 4.2 Quá trình thanh, kiểm tra chính thức đối với Vinashin giai đoạn 2006 – 2009
Nguồn: Tổng hợp từ Quốc hội, Thanh tra Chính phủ,
Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT, Bộ Xây dựng
STT Năm Đơn vị thanh, kiểm tra Nội dung làm việc
1 2006 Bộ Tài chính Kiểm tra việc quản lý, sử dụng trái phiếu quốc tế
2 2007 Bộ Xây dựng Kiểm tra việc quản lý tài chính
3 2008 Bộ Tài chính Thanh tra việc quản lý tài chính
4 - Bộ Kế hoạch - Đầu tư
Thanh tra việc thực hiện quyết định 390/QĐ-TTg liên quan đến kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát Quyết định này đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn lực tài chính và đảm bảo sự phát triển bền vững Việc thanh tra sẽ giúp đánh giá mức độ thực hiện và hiệu quả của các dự án đầu tư, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để cải thiện tình hình kinh tế.
5 - Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật trong đầu tư xây dựng, sử dụng vốn h
STT Năm Đơn vị thanh, kiểm tra Nội dung làm việc
Thanh tra dự án xây dựng và mua sắm thiết bị cho phòng thí nghiệm trọng điểm và bể thử mô hình tàu thủy do Viện Khoa học Công nghiệp Tàu thủy Vinashin làm chủ đầu tư.
7 2009 Bộ Tài chính Kiểm tra việc quản lý sử dụng trái phiếu quốc tế
Trong giai đoạn 2006 – 2009, Vinashin đã trải qua nhiều cuộc thanh tra nhưng không phát hiện sai phạm, mặc dù Thanh tra Chính phủ sau đó chỉ ra rằng hầu hết các sai phạm xảy ra trong thời gian này Đến năm 2011 và 2012, khi các sai phạm được phơi bày và Vinashin bị buộc phải tái cơ cấu do không hiệu quả, họ không thể trả lãi cho khoản nợ 600 triệu USD trái phiếu phát hành Hệ số tín nhiệm tín dụng của Việt Nam cũng bị hạ bậc liên tiếp bởi các tổ chức xếp hạng hàng đầu thế giới, cho thấy mối liên hệ giữa sự phát triển và tình trạng nợ nần của Vinashin với sự thay đổi trong đánh giá tín nhiệm tín dụng của quốc gia.
Ảnh hưởng từ việc Vinashin không trả được nợ tới bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia18 Chương 5 Ảnh hưởng chèn lấn của khu vực nhà nước tới khu vực tư nhân
Khi hệ số tín nhiệm quốc gia bị hạ bậc, hai vấn đề chính xảy ra: (1) Nhà nước và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc vay vốn quốc tế; (2) Nếu có khả năng vay, lãi suất phải trả sẽ cao Luận văn này sử dụng hai yếu tố trên để đo lường sự thất bại kinh tế do việc sử dụng TĐKTNN không dựa trên lý thuyết kinh tế Cụ thể, khi các TĐKTNN không thể tiếp cận thị trường quốc tế do tình hình bất lợi, như trường hợp Vinashin vỡ nợ, các đơn vị này sẽ phải tìm kiếm tín dụng từ thị trường nội địa.
9 Việc bị hạ bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia vì những yếu tố nào sẽ được phân tích rõ hơn trong phần tiếp theo
Vietnam's debt rating has been downgraded by Fitch due to concerns over foreign borrowing and the weakness of its banks This downgrade raises alarms about potential crowding out effects on other sectors of the economy.
Trước khi Vinashin không trả được nợ, quá trình tích tụ vốn của các TĐKTNN đã diễn ra, trong khi chiến lược tăng trưởng kinh tế quốc gia vẫn phụ thuộc vào khu vực kinh tế nhà nước Dự đoán rằng sự chèn lấn trong tiếp cận tín dụng nội địa sẽ gia tăng, đặc biệt khi bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia bị hạ, khiến việc vay vốn từ nước ngoài trở nên khó khăn hơn Hiệu ứng chèn lấn của khu vực DNNN đối với kinh tế tư nhân sẽ được phân tích qua mô hình hồi quy đa biến SVAR Một trong ba lý do chính cho tình trạng này là “chính sách không nhất quán” của Chính phủ về các khoản nợ.
Moody’s Investors Services has downgraded Vietnam's credit rating to B1 while maintaining a negative outlook for the country This decision reflects concerns about Vietnam's economic stability and financial health For more information, visit the official Moody's website.
PR_211262 ngày 12 tháng 05 năm 2012 Có 4 lý do trong đó có lý do liên quan tới khoản nợ của Vinashin
The S&P has downgraded Vietnam due to vulnerabilities in its banking sector, highlighting concerns about financial stability This decision reflects the ongoing risks associated with the country's economic environment, as reported by Reuters For further details, refer to the original article published on December 23, 2010.
Vào ngày 13/12/2010, S&P đã cảnh báo rằng việc Vinashin không trả được nợ sẽ ảnh hưởng đến đánh giá tín nhiệm của tổ chức này về khu vực ngân hàng Việt Nam Chỉ 10 ngày sau đó, S&P thông báo giảm hệ số tín nhiệm tín dụng của Việt Nam do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng Điều này cho thấy rằng việc Vinashin không trả nợ đã tác động tiêu cực đến tín nhiệm tín dụng quốc gia.
Hình ảnh: Tác giả vẽ theo thông tin tổng hợp từ Bộ Tài chính, Moody’s, Fitch, S&P, Wall Street Journal
Hình 4.1 Quá trình hoạt động của Vinashin gắn với bậc tín nhiệm tín dụng quốc gia
2009 Vinashin phát hành 3,000 tỷ đồng trái phiếu nội địa
Chính phủ phát hành 750 triệu USD trái phiếu quốc tế và ủy thác cho TCT Vinashin
12/2006 Vinashin hoạt động tốt (theo báo cáo)
11 lần kiểm toán, kiểm tra, thanh tra nhưng không phát hiện sai phạm
10/12/10 Vinashin tuyên bố không thể trả khoản lãi đầu tiên 60 triệu USD của khoản nợ trái phiếu
600 triệu USD phát hành năm 2007
15/12/10 Moody's hạ bậc tín nhiệm trái phiếu Việt Nam từ Ba3 xuống B1, triển vọng tiêu cực
3/7/10 Chính phủ tuyên bố Vinashin sắp phá sản
30/6/11 Vinashin không trả nợ lần 2
29/7/10 Fitch hạ bậc tín nhiệm nợ dài hạn Việt Nam xuống B+ từ mức BB-
18/6/10 Tái cơ cấu Vinashin theo Quyết định 926/QĐ-TTg
2/4/12 Elliott Advisors rút lại đơn kiện Vinashin
2007 Vinashin phát hành 600 triệu USD trái phiếu quốc tế
12/2011 Elliott Advisors, sau khi mua lại một phần khoản nợ 600 triệu USD của Vinashin, đã phát đơn kiện
20/12/11 Vinashin không trả nợ lần 3
19/8/11 S&P giữ nguyên mức triển vọng tiêu cực đối với nợ dài hạn nội tệ và ngoại tệ của Việt Nam
23/12/10 S&P hạ bậc tín nhiệm ngoại tệ dài hạn của Việt Nam từ BB xuống BB-, nội tệ từ BB+ xuống BB, triển vọng tiêu cực h
Bảng 4.3 Trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế
Nguồn: Thị trường chứng khoán Luxembourg, Singapore Đơn vị phát hành Thời điểm
Khối lượng dự kiến (triệu USD)
Khối lượng thành công (triệu USD) Lãi suất coupon Thời hạn
Trái phiếu chính phủ 1998 n/a 24.55 LIBOR + 0.8125% 30
Trái phiếu chính phủ 1998 n/a 290.01 6M LIBOR + 0.8125% 18
Bảng 4.4 Tích tụ nguồn lực của các khu vực trong nền kinh tế
Nguồn: TS Vũ Thành Tự Anh tính toán từ số liệu của GSO, IMF, Bộ Tài chính
DNNN DN dân doanh FDI
Lãi suất coupon trung bình của trái phiếu từ Việt Nam cho thấy sự biến động rõ rệt qua các năm, đặc biệt từ năm 2010 trở đi khi các đơn vị phát hành phải đối mặt với lãi suất cao hơn nhiều so với thời điểm trước vụ việc Vinashin So với trái phiếu chính phủ, lãi suất năm 2010 có phần thấp hơn, nhưng thời hạn vay ngắn hơn khiến cho chi phí thực tế không giảm Đáng chú ý, Vincom đã huy động trái phiếu quốc tế với lãi suất chỉ 5% vào năm 2012, điều này có thể được giải thích bởi các yếu tố thị trường và điều kiện kinh tế tại thời điểm đó.
Trong giai đoạn 2009-2010, sau cuộc khủng hoảng toàn cầu, lãi suất vay cao đã ảnh hưởng đến Vincom, buộc công ty phải tham chiếu lãi suất trái phiếu của mình Vincom phát hành trái phiếu chuyển đổi với lãi suất thấp và đã thành công trong việc phát hành trái phiếu quốc tế năm 2009, chứng minh cam kết của mình và nhận được sự tin tưởng từ nhà đầu tư, khi 99.9% trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu Tuy nhiên, do bị hạ bậc tín nhiệm, các đơn vị phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam từ năm 2011 đến nay phải chấp nhận trả thêm 20.075 triệu USD trong vòng 5 năm tới so với giả định nếu tín nhiệm tín dụng quốc gia không bị ảnh hưởng.
Sử dụng TĐKTNN không đúng cách có thể dẫn đến việc khu vực khác bị chèn lấn trong việc tiếp cận vốn trong nước, đồng thời làm tăng chi phí vay mượn do lãi suất trái phiếu quốc tế tăng khi bậc tín nhiệm quốc gia giảm Mặc dù nhiều yếu tố ảnh hưởng đến bậc tín nhiệm quốc gia, sự kiện Vinashin là một yếu tố quan trọng góp phần vào việc hạ bậc tín nhiệm của Việt Nam theo các tổ chức đánh giá tín nhiệm quốc tế.
Vincom đã thành công trong việc phát hành 185 triệu USD trái phiếu quốc tế, theo thông tin từ Ngọc Tuyên Sự kiện này đánh dấu bước tiến quan trọng trong hoạt động huy động vốn của công ty Chi tiết có thể được tìm thấy trên trang VnExpress vào ngày 12 tháng 05 năm 2012.
Việc đánh giá tín nhiệm tín dụng của các tổ chức không chỉ phụ thuộc vào chỉ số tín nhiệm tín dụng của quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác Khi một quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm tín dụng, các tổ chức trong quốc gia đó cũng sẽ bị xem xét lại và có thể bị hạ bậc tín nhiệm tín dụng tương ứng.
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ Thị trường chứng khoán Luxembourg và Singapore
Hình 4.2 Lãi suất trái phiếu trung bình của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Lãi suất coupon Lãi suất trung bình giả định h
Chương 5 Ảnh hưởng chèn lấn của khu vực nhà nước tới khu vực tư nhân
Luận văn này đánh giá tác động của khu vực kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế tổng thể và khu vực kinh tế tư nhân, sử dụng mô hình tự hồi quy đa biến có cấu trúc (SVAR) để phân tích.
Bối cảnh Việt Nam
Trong gần hai thập kỷ qua, đầu tư luôn là một trong những bộ máy giúp Việt Nam tăng trưởng cao Từ
Mặc dù tăng trưởng kinh tế đã suy giảm sau khủng hoảng châu Á cuối thập niên 90, tỷ lệ đầu tư luôn duy trì ở mức khoảng 40% so với GDP, dẫn đến kết quả tăng trưởng khả quan Đặc biệt, trong năm 2000, đầu tư của khu vực nhà nước chiếm tới 60% tổng đầu tư, và mặc dù tỷ lệ này đã có xu hướng giảm trong những năm gần đây, nhưng vẫn duy trì ở mức cao, chiếm gần một nửa tổng đầu tư của nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng đầu tư của Việt Nam luôn vượt trội hơn so với tăng trưởng GDP, với tỷ trọng đầu tư lớn trong nền kinh tế, dẫn đến tổng đầu tư ngày càng gia tăng Hình 5.3 minh chứng cho sự gia tăng này, đồng thời giá trị GDP cũng có xu hướng tăng theo Mặc dù tỷ trọng đầu tư giữa các thành phần kinh tế đang dần cân bằng, nhưng đầu tư từ khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với quốc tế Điều này cho thấy Việt Nam đang áp dụng mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và vốn (Trần Đình Thiên, 2013; Võ Trí Thành, 2013).
Mặc dù khu vực nhà nước đầu tư lớn, nhưng động lực phát triển chủ yếu đến từ khu vực phi nhà nước, bao gồm tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài Số liệu cho thấy, lao động trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ chiếm khoảng 10% trong hơn 10 năm qua, trong khi khu vực tư nhân luôn chiếm khoảng 86% Đặc biệt, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng tạo ra nhiều việc làm hơn, cho thấy vai trò quan trọng của khu vực này trong nền kinh tế.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 5.1 Mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng GDP của Việt Nam
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tỷ trọng đầu tư so với GDP (cột trái)
Tỷ trọng đầu tư nhà nước so với tổng đầu tư Tăng trưởng GDP
Tốc độ tăng trưởng đầu tư Tốc độ tăng trưởng GDP h
Hình 5.2 Tốc độ tăng trưởng đầu tư và tốc độ tăng trưởng GDP
Chính phủ đang có dấu hiệu vay mượn nhiều hơn để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế dựa vào đầu tư Đồng thời, chính phủ cũng áp dụng chính sách tài khóa mở rộng thông qua việc tăng cường chi tiêu.
Theo số liệu từ Hình 5.5, tổng nợ vay của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh năm 2011 đã tăng so với năm 2010, bao gồm cả nợ trong nước và nợ nước ngoài Việc gia tăng vay nợ giúp Chính phủ có thêm nguồn tài trợ cho chi tiêu Đặc biệt, dư nợ của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại các tổ chức tín dụng chiếm tới 60% tổng dư nợ toàn hệ thống, cho thấy DNNN sử dụng đòn bẩy tài chính lớn, với các DNNN trung ương có hệ số lên tới 3.53 lần (Tô Ngọc Hưng, 2013).
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 5.3 Đầu tư của các thành phần kinh tế và GDP Việt Nam giai đoạn 1995 – 2011
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Khu vực kinh tế tư nhân Khu vực kinh tế nhà nước GDP (cột phải, tỷ đồng) h
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 5.4 Cơ cấu lao động tại các khu vực kinh tế Đơn vị: tỷ USD Nguồn: Bộ Tài chính
Hình 5.5 Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2010 – 2011
Từ những thông tin trên, có những dấu hiệu cho thấy khu vực kinh tế nhà nước đang tạo
Nhà nước Ngoài nhà nước Có vốn đầu tư nước ngoài
Năm 2010-2011, hiệu ứng chèn lấn đã ảnh hưởng đến khu vực phi nhà nước Luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu sâu hơn về tác động này trong phần tiếp theo thông qua mô hình SVAR.
Hiệu ứng chèn lấn
The crowding out effect is a significant topic of interest among economists and has been one of the most debated economic issues for many years Key studies by Carlson & Spencer (1975), Friedman (1978), Vu, Byron, & Ilan (2007), and Benedek, Crivelli, Gupta, & Muthoora (2012) highlight the ongoing discourse surrounding this phenomenon.
Hiệu ứng chèn lấn xảy ra khi chính sách tài khóa mở rộng mà chi tiêu của chính phủ được tài trợ bằng thuế hoặc nợ, nhưng không kích thích tăng trưởng kinh tế như mong đợi Điều này dẫn đến việc nền kinh tế không mở rộng mặc dù khu vực kinh tế nhà nước gia tăng, do khu vực tư nhân bị ảnh hưởng và giảm sút.
Theo mô hình IS-LM, khi chi tiêu chính phủ tăng, đường IS sẽ dịch chuyển sang phải, dẫn đến mức lãi suất tại điểm cân bằng mới cao hơn mức lãi suất ban đầu Điều này làm giảm đầu tư tư nhân do chi phí vay vốn tăng.
Cơ chế truyền dẫn khi chi tiêu chính phủ thay đổi được mô tả qua chuỗi tác động: khi chi tiêu chính phủ (Δ𝐺) tăng, tổng sản phẩm quốc nội (Δ𝑌) cũng tăng theo, dẫn đến cầu tiền (Δ𝑀 𝑑) gia tăng, từ đó làm tăng lãi suất thực (Δ𝑟) và cuối cùng dẫn đến sự giảm sút trong đầu tư tư nhân (Δ𝐼).
Hoạt động chi tiêu của chính phủ cần được tài trợ từ một nguồn nào đó, dẫn đến việc cầu tiền trong nền kinh tế gia tăng và lãi suất cũng phải tăng theo Khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, khu vực kinh tế tư nhân có thể phải giảm đầu tư do lãi suất thực tăng cao Mặc dù chi tiêu gia tăng nhằm nâng tổng sản lượng nền kinh tế, nhưng chính phủ vẫn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư của khu vực tư nhân, hiện tượng này được gọi là hiệu ứng chèn lấn.
Nghiên cứu định lượng về hiệu ứng chèn lấn đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế nhờ tính thuyết phục cao của kết quả Một trong những nghiên cứu đầu tiên, bài báo của Andreoni (1993), chỉ ra rằng việc tài trợ cho chi tiêu hàng hóa công có thể hoàn toàn chèn lấn đóng góp của các thành phần kinh tế khác Tương tự, nghiên cứu của Serven (1996) về Ấn Độ cho thấy rằng trong ngắn hạn, đầu tư từ khu vực công có thể gây ảnh hưởng chèn lấn đối với khu vực tư nhân.
Các phương pháp nghiên cứu hiện tại chủ yếu sử dụng các hàm hồi quy đơn giản dựa trên mô hình kinh tế lượng thông thường, nhưng chúng chưa tính đến độ trễ về chính sách và đầu tư Điều này tạo ra điểm yếu trong việc phản ánh chính xác các yếu tố này trong mô hình Để khắc phục nhược điểm này, phương pháp hồi quy đa biến với cấu trúc SVAR (structural vector autoregression) có thể được áp dụng.
Bài toán hiệu ứng chèn lấn dựa trên mô hình lý thuyết IS-LM và các mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô, trong đó phương pháp SVAR giúp mô hình hóa cả mô hình IS-LM lẫn các mối quan hệ này Đặc điểm nổi bật của SVAR là khả năng đưa vào các biến độ trễ trong các phương trình mô tả mô hình kinh tế, nhằm phản ánh chính xác hơn các tương tác chính sách theo thời gian Phương pháp này cũng cho phép phân tích những thay đổi ở một hoặc nhiều biến nhất định, từ đó đánh giá tác động của chúng đến các biến số khác trong mô hình.
Nhiều nghiên cứu quốc tế đã khám phá hiệu ứng chèn lấn sử dụng mô hình SVAR, như các tác giả Mitra (2006), Alfonso & Sousa (2009), Fazzari, Morley & Panovska (2012), và Wong (2012) Tuy nhiên, tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào áp dụng mô hình SVAR để phân tích hiệu ứng chèn lấn Đến nay, chỉ có nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF vào năm 2007 là thực hiện khảo sát vấn đề này tại Việt Nam bằng phương pháp SVAR.
Nghiên cứu của Lee, Tumbarello, Sacasa và Mitra (2007) chỉ cung cấp dữ liệu đến năm 2006, trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức kinh tế quốc tế được thành lập hoàn chỉnh.
Phương pháp SVAR mang lại nhiều lợi thế, nhưng chưa có nghiên cứu cập nhật về hiệu ứng chèn lấn của khu vực nhà nước đối với khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài) tại Việt Nam Luận văn này thực hiện nghiên cứu hiệu ứng này trong khoảng thời gian dài từ 1995 đến 2011, nhằm cung cấp cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn so với nghiên cứu gần đây của IMF.
Phương pháp hồi quy đa biến có cấu trúc SVAR
Để nghiên cứu hiệu ứng chèn lấn của khu vực nhà nước lên khu vực tư nhân, luận văn sử dụng mô hình SVAR với các biến đầu tư chính phủ (GI), đầu tư tư nhân (PI) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Mặc dù mô hình VAR có thể lượng hóa một số mối quan hệ giữa các biến, nhưng nó không thể xác định ảnh hưởng của GI lên PI Vì vậy, nghiên cứu bắt đầu với mô hình VAR và sau đó phát triển sang mô hình SVAR.
Giả sử mô hình VAR đơn giản có dạng:
Mô hình tự hồi quy bậc hữu hạn được biểu diễn qua công thức 𝐵 0 𝑦 𝑡 = 𝐵 1 𝑦 𝑡−1 + 𝐵 2 𝑦 𝑡−2 + ⋯ + 𝐵 𝑝 𝑦 𝑡−𝑝 + 𝑢 𝑡, trong đó 𝑦 𝑡 bao gồm các biến ln 𝐺𝐼, ln 𝑃𝐼 và ln 𝐺𝐷𝑃 Sai số 𝑢 𝑡 là một vector với các thành phần không tương quan và có giá trị trung bình bằng 0.
Viết lại phương trình (1) theo dạng ma trận hơn ta được
Trong phương trình 𝐵 𝐿 𝑦 𝑡 = 𝑢 𝑡, ma trận 𝐵 𝐿 bao gồm các đa thức độ trễ với bậc hữu hạn, thể hiện mối quan hệ giữa các biến Mỗi biến thay đổi sẽ ảnh hưởng đến các biến khác, nhưng không thể tách biệt hiệu ứng của từng biến khi có sự thay đổi đồng thời Do đó, việc áp dụng mô hình SVAR là cần thiết để phân tích cụ thể các ảnh hưởng, thông qua việc sử dụng các điều kiện được sinh ra từ các ma trận giới hạn.
Phương pháp SVAR giúp xác định mối quan hệ giữa các phần dư của mô hình VAR, được coi là những thay đổi không biết trước, và các thay đổi mang tính cấu trúc Những thay đổi này thể hiện sự liên kết giữa các biến, trong đó sự thay đổi của một biến sẽ dẫn đến sự thay đổi của biến khác theo một mô hình nhất định Các thay đổi mang tính cấu trúc thường là các biến độc lập và không có mối tương quan với nhau Việc ước lượng ảnh hưởng thông qua mô hình SVAR được thể hiện qua phương trình cụ thể.
𝐴𝑢 𝑡 = 𝐶𝑒 𝑡 , (3) trong đó 𝑒 𝑡 là vector của các biến thay đổi có cấu trúc, A và C là những ma trận định nghĩa mối quan hệ tuyến tính giữa các biến 𝑢 𝑡 và 𝑒 𝑡
Sau khi thiết lập biểu diễn tuyến tính trong phương trình (3), chúng ta có thể ước lượng các phần tử còn lại bằng cách áp dụng các mô hình lý thuyết kinh tế Điều này được thực hiện thông qua việc sử dụng ma trận giới hạn để loại bỏ một số phần tử không cần thiết từ ma trận A và C.
Nhiều tài liệu (dẫn phía trên) cho thấy mối quan hệ giữa 𝑢 𝑡 và 𝑒 𝑡 có thể được thể hiện qua hệ phương trình SVAR sau:
Các hệ số 𝑎 𝑗 𝑖 thể hiện sự thay đổi của biến j do biến i không biết trước, trong khi 𝑐 𝑗 𝑖 phản ánh sự thay đổi có cấu trúc của biến j theo biến i Phương trình (4.1) chỉ ra rằng những thay đổi không biết trước trong đầu tư chính phủ (GI) liên quan đến biến động không biết trước của GDP và những thay đổi có cấu trúc của chính GI Đầu tư chính phủ thường có mối liên hệ chặt chẽ hơn với GDP so với đầu tư khu vực tư nhân Tiếp theo, phương trình (4.2) mô tả rằng những thay đổi không biết trước của đầu tư tư nhân (PI) do những thay đổi có cấu trúc của GI và PI Cuối cùng, phương trình (4.3) cho thấy rằng những biến động không biết trước của GDP xuất phát từ những thay đổi không biết trước của GI và PI, cùng với sự thay đổi có cấu trúc của chính GDP.
Nghiên cứu của Blanchard và Perotti (2002), được trích dẫn bởi Mitra (2006), chỉ ra rằng những biến động không lường trước của chỉ số tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thường xảy ra đồng thời với những thay đổi không lường trước của chỉ số tổng chi tiêu (GI).
Vì vậy, ta có thể sử dụng 𝑎 𝐺𝐼 𝐺𝐷𝑃 = 1 và khi đó việc ước lượng các hệ số trong hệ phương trình
(4) sẽ trở nên đơn giản hơn khi chỉ còn phải ước lượng 𝑐 𝑃𝐼 𝐺𝐼 , 𝑎 𝐺𝐷𝑃 𝐺𝐼 và 𝑎 𝐺𝐷𝑃 𝑃𝐼 Dấu kỳ vọng của
CPI GI là chỉ số âm, trong khi hai tham số còn lại mang dấu dương Trong số các tham số này, CPI GI được chú trọng nhất vì nó thể hiện tác động của cú sốc từ đầu tư khu vực nhà nước đến đầu tư khu vực tư nhân.
Kết quả định lượng và nhận xét
Dữ liệu GDP, GI và PI từ năm 1995 đến 2011 được lấy từ Tổng cục Thống kê và sử dụng trong luận văn Mô hình phân tích sử dụng sai phân bậc 1 của các biến ln GI, ln PI và ln GDP, với chi tiết mô hình được trình bày trong Phụ lục A.
Kết quả ước lượng hệ số trong Bảng 5.1 cho thấy các mối tương quan giữa các biến đúng như kỳ vọng của mô hình Cụ thể, trong ngắn hạn, sự gia tăng đầu tư từ khu vực nhà nước, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và tổ chức kinh tế nhà nước, sẽ dẫn đến sự giảm đầu tư từ khu vực tư nhân Nếu tốc độ tăng trưởng đầu tư của khu vực nhà nước trong quý t + 1 tăng 1% so với quý t, thì tốc độ đầu tư của khu vực tư nhân trong quý t + 1 sẽ giảm khoảng 0.66% so với quý t.
Bảng 5.1 Các hệ số được ước lượng trong mô hình SVAR
Hệ số Giá trị p-value
Kết quả nghiên cứu này trái ngược với báo cáo của Lee, Tumbarello, Sacasa, và Mitra (2007), trong đó IMF chỉ ra rằng chưa có dấu hiệu cho thấy đầu tư khu vực nhà nước đang chèn lấn đầu tư tư nhân Sự khác biệt này có thể xuất phát từ mô hình nghiên cứu của IMF, được thực hiện trên chuỗi dữ liệu từ năm 1994.
Giai đoạn 2006-2011 chứng kiến nhiều thay đổi lớn, bao gồm sự ra đời của nhiều TĐKTNN ở giai đoạn thí điểm, bất ổn kinh tế vĩ mô với lạm phát và lãi suất cao, khủng hoảng tài chính toàn cầu, gói kích cầu trị giá hơn 140,000 tỷ đồng vào năm 2009, và thua lỗ nghiêm trọng của một số DNNN như Vinashin, Vinalines và Sông Đà.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng đầu tư khu vực tư nhân (PI) có tác động tích cực đến GDP Cụ thể, nếu tốc độ đầu tư khu vực tư nhân trong quý t + 1 tăng 1% so với quý t, thì tốc độ tăng GDP trong quý t + 1 cũng sẽ tăng theo.
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sẽ cao hơn khoảng 0.11% so với quý trước Khi chỉ số giá tiêu dùng (GI) tác động tiêu cực đến chỉ số sản xuất (PI), nền kinh tế sẽ không được hưởng lợi Mặc dù GI có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến GDP so với ảnh hưởng của PI.
GDP cần được xem xét không chỉ qua sự ảnh hưởng của GI đối với PI mà còn từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm các thành phần kinh tế đa dạng Mặc dù tác động của GI lên GDP mạnh hơn so với PI, nhưng không thể khẳng định rằng GI hiệu quả hơn PI, bởi thực tế cho thấy nguồn lực dành cho GI thường lớn hơn nhiều so với PI.
Phân tích và khuyến nghị
Sự phù hợp của việc sử dụng TĐKTNN làm trụ cột tăng trưởng và điều tiết kinh tế vĩ mô 34 6.2 Trách nhiệm giải trình
Các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô không nên được giao cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đặc biệt là Tập đoàn Đầu tư và Kinh doanh Nhà nước (TĐKTNN) Chính sách tài khóa và tiền tệ cần phát huy tác dụng tại đây Việc sử dụng DNNN làm trụ cột tăng trưởng và công cụ điều hành kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải đầu tư lớn về vốn, bất động sản và nhân lực Khi tích tụ nguồn lực lớn, TĐKTNN có thể mở rộng nhanh chóng và ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã hội Tuy nhiên, nếu xảy ra sự cố với các đơn vị này, nền kinh tế có thể chịu tác động tiêu cực, như đã được đề cập trong Chương 4.
Ngày 19 tháng 02 năm 2013, Quyết định 339/QĐ-TTg đã phê duyệt “Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng” giai đoạn 2013-2020, tập trung vào việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, theo hướng tinh gọn và tập trung vào hoạt động cốt lõi, giảm thiểu đầu tư ngoài ngành Một số tập đoàn đã đề xuất các phương án tái cấu trúc riêng Theo thống kê, trong số 06 tập đoàn được phê duyệt, chỉ riêng 02 tập đoàn VRG và Vinacomin đã phải thoái vốn ngoài ngành khoảng 10,000 tỷ đồng vào cuối năm 2015 Nếu tính toán đầy đủ cho các tập đoàn khác, con số này sẽ còn lớn hơn nhiều.
Từ năm 2006 đến nay, tổng vốn đầu tư ngoài ngành của các TĐKTNN và Tổng công ty nhà nước đã liên tục tăng, ngoại trừ năm 2009 khi xảy ra khủng hoảng Đáng chú ý, số vốn này chủ yếu được đầu tư vào các lĩnh vực có rủi ro cao như chứng khoán và quỹ đầu tư, cho thấy xu hướng đầu tư mạo hiểm trong thời gian qua.
Trong bối cảnh khó khăn của thị trường bất động sản và hệ thống ngân hàng hiện nay, việc thu hồi vốn trở nên gian nan, dẫn đến tình trạng dòng tiền bị ứ đọng và không sinh lợi Các tập đoàn lớn như PVN, Vinacomin, Vinachem, Vinatex, VRG và EVN đang đối mặt với những thách thức tương tự, làm cho tình hình càng thêm phức tạp.
Hình 6.1 Vốn đầu tư ngoài ngành của TĐKTNN và Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 – 2011
Việc đầu tư vào các tổ chức tín dụng đã làm cho hệ thống ngân hàng trở nên khó kiểm soát hơn, điển hình là ngân hàng An Bình với cổ đông EVN và Công ty tài chính dầu khí, trong đó PVN nắm giữ 78% cổ phần Tương tự, ngân hàng GP Bank cũng có cổ đông là PVN Đặc biệt, các Tập đoàn kinh tế Nhà nước (TĐKTNN) đang chiếm hơn 50% tổng nợ xấu của các tổ chức tín dụng, ước tính lên tới gần 90,000 tỷ đồng (Tô Ngọc Hưng, 2013).
Nhật Bản hiện đang trải qua 17 thập kỷ mất mát, một hệ quả từ bong bóng bất động sản bùng nổ vào những năm 1990 Tương tự, khủng hoảng kinh tế hiện nay ở Tây Ban Nha cũng bắt nguồn từ tình trạng bong bóng bất động sản.
Góp vốn vào quỹ đầu tư 600,0 1050,0 1424,0 694,0 495,0 675,0
Tổng đầu tư ngoài ngành 5903,0 14441,0 19840,0 14991,0 21814,0 23742,0
Số v ốnđ ầu t ư (đơn v ị: t ỷ đồ ng ) h
Theo thống kê, mỗi TĐKTNN tại Việt Nam tham gia trung bình 6.4 ngành, con số này cao hơn so với Hàn Quốc và Malaysia Điều này cho thấy các TĐKTNN không chỉ hoạt động trong các lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, bảo hiểm và bất động sản, mà còn tham gia vào nhiều lĩnh vực khác, ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế Nếu các TĐKTNN hoạt động không hiệu quả, nền kinh tế sẽ bị tác động tiêu cực Ngược lại, khi nền kinh tế gặp khó khăn và một số TĐKTNN thua lỗ, người chịu thiệt thòi chính là những người đóng thuế, khi họ phải trả cho các sản phẩm và dịch vụ mà họ có thể không sử dụng hoặc thậm chí là cho các đối thủ cạnh tranh.
Chính phủ Việt Nam hiện chưa có quản lý chặt chẽ đối với các Tổ chức Đầu tư Nhà nước (TĐKTNN) và thiếu một luật điều chỉnh cụ thể cho khu vực này TĐKTNN không có tư cách pháp nhân, với Chủ tịch Hội đồng thành viên được Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm Mặc dù không hoàn toàn chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp (2005), mọi hoạt động của TĐKTNN vẫn hướng về phía Chính phủ Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các sai phạm của TĐKTNN, ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, là trách nhiệm giải trình chưa được thực thi đầy đủ và mạnh mẽ.
Yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo trách nhiệm giải trình là sự minh bạch thông tin Tuy nhiên, điều kiện này hiện chưa được đáp ứng trong mối quan hệ phân quyền giữa TĐKTNN, Chính phủ và người dân.
Nhiều TĐKTNN hiện nay thiếu minh bạch trong việc báo cáo thông tin với Chính phủ, dẫn đến tình trạng báo cáo không đầy đủ, không rõ ràng hoặc sai sự thật Điều này làm giảm hiệu quả của trách nhiệm giải trình hướng lên trên và chỉ mang tính hình thức Khi thông tin từ các đơn vị dưới không minh bạch, Chính phủ gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết sách hợp lý.
Khi các TĐKTNN thực hiện dự án không thuộc danh mục Nhà nước chỉ định, thông tin liên quan cần được gửi cho bộ phận xử lý trong Chính phủ để phê duyệt Tuy nhiên, rủi ro có thể phát sinh nếu thông tin không chính xác hoặc bị thay đổi vì lợi ích cá nhân Điển hình là vụ Vinashin với tàu Hoa Sen, nơi thông tin bị che giấu dẫn đến việc mua tàu cũ không phù hợp, gây thiệt hại kinh tế lớn Ngoài tàu Hoa Sen, còn nhiều dự án khác vi phạm do thiếu minh bạch trong thông tin, như vụ mua ụ nổi của Vinalines.
Rủi ro minh bạch trong mối quan hệ giữa Chính phủ và người dân thể hiện rõ qua việc đầu tư của các TĐKTNN Theo Nghị quyết 49/2010/QH12, các dự án có vốn nhà nước trên 11,000 tỷ đồng phải được Quốc hội phê duyệt Tuy nhiên, Điều lệ hoạt động cho phép Hội đồng Quản trị quyết định đầu tư lên tới 50% vốn điều lệ mà không cần sự giám sát của Quốc hội Cụ thể, Vinashin đã đầu tư vượt quá mức cho phép, sử dụng vốn vay từ phát hành trái phiếu mà không có sự kiểm soát của Quốc hội, dẫn đến sự kém hiệu quả và tổn thất lớn Chính phủ đã cấp cho Vinashin 750 triệu USD từ trái phiếu quốc tế và cho phép phát hành thêm hai lần, nhưng việc đầu tư không tuân thủ quy trình nghiêm túc đã gây ra nhiều vấn đề.
6.2.2 Thanh tra và kiểm toán
Trách nhiệm giải trình được củng cố thông qua giám sát mạnh mẽ và hiệu quả Trong mối quan hệ giữa TĐKTNN và Chính phủ, giám sát thường được thực hiện qua công cụ thanh tra, trong khi kiểm toán đóng vai trò là tiếng nói độc lập Ở một quốc gia dân chủ với cơ chế chặt chẽ, kiểm toán hoạt động độc lập và có khả năng kiểm tra các TĐKTNN bất cứ lúc nào Sự hiện diện của đối trọng kiểm soát giúp giảm thiểu động cơ vụ lợi và khả năng sai phạm của các TĐKTNN, khi các kết quả hoạt động và đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau Tuy nhiên, cả hoạt động thanh tra và kiểm toán tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa đạt hiệu quả như mong đợi.
Từ khi Vinashin hoạt động vào năm 2006 cho đến khi những sai phạm bị phanh phui, đã có ít nhất 7 cuộc thanh kiểm tra chính thức từ các cơ quan có thẩm quyền, nhưng không có sai phạm nào được chỉ ra, mọi thứ đều được báo cáo là “tốt đẹp.” Điều này cho thấy chức năng tham mưu của các bộ phận đối với Chính phủ chưa hoàn thành nhiệm vụ, dẫn đến việc Chính phủ không thực hiện đầy đủ vai trò giám sát đối với Vinashin và các TĐKTNN khác Những sai phạm của Vinashin không chỉ lớn mà còn để lại hậu quả nghiêm trọng, nhưng trách nhiệm của các đơn vị thanh tra lại không được nhắc đến, và dù có bị kiểm điểm, vẫn không có sự giám sát nào từ dư luận.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, trực thuộc Quốc hội, lý thuyết có quyền kiểm toán bất kỳ đơn vị nào, nhưng trường hợp Vinashin lại khác Đến thời điểm mọi việc bị phanh phui, Kiểm toán Nhà nước chưa thực hiện được cuộc kiểm toán nào đối với tập đoàn này do chức năng và quyền hạn không được thể hiện đầy đủ Mặc dù đã lên kế hoạch kiểm toán nhiều lần, nhưng các cuộc kiểm toán đều bị hoãn vì trùng với thời gian Thanh tra Chính phủ kiểm tra Theo Kiểm toán Nhà nước, cơ chế kiểm toán và thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ, dẫn đến việc kiểm toán phải dừng lại khi có thanh tra Ngay cả khi không có thanh tra, Kiểm toán Nhà nước cũng nhận được đề nghị hoãn để doanh nghiệp tập trung sản xuất, khiến Vinashin không phải chịu bất kỳ cuộc kiểm toán nào trong suốt thời gian sai phạm.
Khuyến nghị chính sách
Các khuyến nghị chính sách nhằm giảm dần ảnh hưởng của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) đối với nền kinh tế, đồng thời tăng cường trách nhiệm giải trình của các đơn vị này.
Khuyến nghị rằng cần dần đưa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) đến gần hơn với vai trò phục vụ sửa chữa những thất bại của thị trường, theo tiêu chuẩn quốc tế Cụ thể, cần cổ phần hóa những TĐKTNN không được ủng hộ về mặt lý thuyết kinh tế, đồng thời nghiên cứu kỹ lưỡng cách thức hoạt động của các DNNN tại những quốc gia có nền quản trị công tiên tiến và những nước có điều kiện tương tự như Việt Nam Mục tiêu là đưa DNNN Việt Nam hoạt động theo mô hình tối ưu, cắt giảm những lĩnh vực cạnh tranh trực tiếp với khu vực khác hoặc những nhiệm vụ mà các thành phần kinh tế khác có thể thực hiện hiệu quả hơn.
Khuyến nghị 2 Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa nhiều vào đầu tư thông qua những h
Việc nghiên cứu kỹ lưỡng về "quả đấm thép" - Tập đoàn Đầu tư Nhà nước và Tổng công ty là rất cần thiết, đặc biệt là trong việc đưa ra các biện pháp quản trị hiệu quả nhằm tránh những sai lầm như Vinashin hay Vinalines Đồng thời, cần xem xét nghiêm túc việc coi những TĐKTNN là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô từ góc độ chi phí - lợi ích Mặc dù lợi ích từ Vinashin hay Vinalines có thể chưa được xã hội nhận thức rõ, nhưng chi phí để khắc phục hậu quả lại rất lớn và đã gây ra phản ứng mạnh mẽ trong cộng đồng.
Khuyến nghị 3 nhấn mạnh việc quyết liệt tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đặc biệt là Tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN), bằng cách thoái vốn khỏi các ngành kinh doanh không cốt lõi nhằm giảm thiểu tác động đến nền kinh tế Quá trình tái cấu trúc cần đi kèm với lộ trình cụ thể và nghiêm ngặt, tuy nhiên, hiện tại các đề án tái cấu trúc vẫn thiếu cơ chế thưởng phạt và các mốc mục tiêu rõ ràng để thực thi chính sách này Chỉ khi có chế tài cụ thể, quá trình tái cấu trúc mới có thể diễn ra hiệu quả.
Để nâng cao minh bạch thông tin trong khối TĐKTNN, cần yêu cầu các đơn vị công bố báo cáo tài chính hàng năm được kiểm toán bởi bên thứ ba độc lập Tuy nhiên, trường hợp Vinashin cho thấy kiểm toán độc lập không luôn hiệu quả Trong giai đoạn 2006 – 2009, mặc dù KPMG thực hiện kiểm toán hàng năm, nhưng không phát hiện sai sót nào Nguyên nhân có thể là do họ không đủ quyền yêu cầu hồ sơ đầy đủ, dẫn đến việc chỉ có thể đưa ra các ngoại trừ Điều này đặt ra thách thức rằng công bố báo cáo tài chính kiểm toán không nhất thiết đảm bảo minh bạch trong hoạt động.
Cần thiết phải có lộ trình để yêu cầu các TĐKTNN thực hiện cổ phần hóa và niêm yết doanh nghiệp mẹ, ngay cả với một lượng cổ phần nhỏ Việc niêm yết sẽ giảm động cơ sai phạm trong đầu tư và quản lý vốn, đồng thời nếu có sai phạm, hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn vì thông tin sẽ được công khai Do đó, yêu cầu cổ phần hóa và niêm yết sẽ nâng cao tính minh bạch và xác lập trách nhiệm giải trình một cách đầy đủ hơn.
Khuyến nghị 5 nhấn mạnh việc thiết lập một cơ chế làm việc cụ thể và dài hạn cho thanh tra và kiểm toán Cần đảm bảo rằng công việc của một bên không bị ảnh hưởng khi kế hoạch của bên kia thay đổi Trong trường hợp xảy ra sự trùng lặp đột xuất, mọi hoạt động vẫn phải tuân theo kế hoạch đã đề ra Hơn nữa, sau khi có kết luận thanh tra và kiểm tra, các báo cáo cần được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng trong vòng 01 tháng để đảm bảo tính kịp thời và thông tin đến tay đông đảo người dân Hiện nay, việc tìm kiếm các báo cáo thanh tra và kiểm toán gặp nhiều khó khăn, thường phải chờ đến các kỳ họp Quốc hội mới có thể tiếp cận thông tin.
Quốc hội cần tăng cường thực thi quyền giám sát bằng cách yêu cầu Chính phủ định kỳ báo cáo về tình hình sử dụng vốn, đầu tư và quản trị tại các TĐKTNN mỗi kỳ họp Các báo cáo này cần được công bố rộng rãi để người dân có thể tham gia giám sát hiệu quả.