Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng diễn ra phổ biến với các hành vi vi phạm ngày càng tinh vi và thủ đoạn hơn Thực trạng công tác bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam cho thấy, các vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ Hàng loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng được phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3 MCPD, vụ gian lận xăng dầu hay gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh doanh mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ…Riêng năm 2008, các lực lượng chức năng đã kiểm tra xử lý 146.958 vụ vi phạm, trong đó có 15.092 vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, 18.539 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, 4.303 vụ về đầu cơ găm hàng Đặc biệt, một số vụ vi phạm có phạm vi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng như các vụ việc về 315.000 điện kế điện tử giả; vụ gian lận cước taxi bằng cách gắn bộ tăng cây số do Trung Quốc sản xuất dưới gầm xe, nút bấm điều khiển dưới vô lăng xe; vụ sữa melamine trẻ em; vụ gian lận trong đo lường và kinh doanh sản phẩm xăng dầu; vụ mũ bảo hiểm không đảm bảo an toàn chất lượng Những vụ việc này đã gây thiệt hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng Vấn đề đầu tiên phải nói đến là chất lượng hàng hóa.
Mặt khác, một số quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bộc lộ sự bất cập, quy định đề ra trong Luật chưa được cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc; công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều hạn chế; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng còn yếu kém Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội Không chỉ tại Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác này bởi lẽ bảo vệ người tiêu dùng chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội Do đó, nhiều quốc gia đã sớm ban hành các đạo luật với mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng Tại Việt Nam, ngày 27 tháng 4 năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng trong công tác bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác này Bên cạnh Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng Việt Nam còn được quy định bởi rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa…
Lý do chọn đề tài
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng cho thấy các quy định pháp luật hiện hành có nhiều bất cập và không phù hợp với yêu cầu của công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng trong tình hình mới Trong bối cảnh đó, vấn đề hoàn thiện luật pháp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là yêu cầu cấp thiết Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng là một vấn đề được quan tâm ở nước ta cũng như nhiều nước trên toàn thế giới Cho đến nay, có rất nhiều công trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng Tại Việt Nam, một số đề tài nghiên cứu được công bố có thể kể đến:
Luật pháp Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh siêu thị là chủ đề nghiên cứu của luận văn thạc sĩ luật học được thực hiện tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia.
Hà Nội) của Nguyễn Thanh Hiếu năm 2015; Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua rau an toàn của người tiêu dùng (Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng) của Văn Thị Khánh Nhi năm 2015; Pháp luật quảng cáo thương mại với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong điều kiện công nghệ số hiện nay (Luận văn thạc sĩ luật kinh tế tại Đại học luật, Đại học Huế) của Vũ Văn Quyết năm 2017; Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm (Luận văn thạc sĩ luật kinh tế tại Đại học luật, Đại học Huế) của Lê Văn Nhật Phương năm 2017; Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động khuyến mãi theo pháp luật Việt Nam (Luận văn thạc sĩ luật kinh tế tại Đại học luật, Đại học Huế) của Hoàng Thị Kim Cương năm 2017; Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông sản (Luận văn thạc sĩ luật kinh tế tại Đại học luật, Đại học Huế) của Hoàng Văn Khơi năm 2016.
Bài viết “Bảo vệ quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Ngọc Vượng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6/2008 Bài viết đề cập đến thực trạng bảo vệ người tiêu dùng hiện nay ở nước ta Theo tác giả, bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất với nhau, quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội là quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh, phân phối hàng hoá, dịch vụ Tuy là số đông, nhưng người tiêu dùng không được tổ chức lại nên họ khó có sức mạnh, tiếng nói đơn lẻ của họ cũng rất ít được lắng nghe và hầu như người tiêu dùng Việt Nam đã và đang phải đối mặt với thực tế là đa số hàng hóa và dịch vụ đều có vấn đề xâm hại quyền của người tiêu dùng và việc bảo vệ người tiêu dùng từ phía các cơ quan quản lý nhà nước cũng như từ phía người tiêu dùng, tổ chức đại diện cho người tiêu dùng là chưa có hiệu quả thậm chí quyền của người tiêu dùng nhiều lúc còn bị xâm hại từ chính hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Bài viết “Điều kiện thương mại chung – nhu cầu điều chỉnh pháp luật từ phương diện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Nguyễn Văn Thành trongHội thảo khoa học “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng – kinh nghiệm quốc tế,thực trạng và triển vọng ở Việt Nam”, do Viện Nhà nước và Pháp luật phối hợp với Viện KAS tại Việt Nam tổ chức tháng 11/2009 Bài viết đã phân tích khái niệm người tiêu dùng, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của người tiêu dùng, trong đó tác giả nhận định “Phần lớn người tiêu dùng là người thiếu kinh nghiệm thực tế, thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu kiến thức pháp lý trong việc bảo vệ quyền chính mình cũng như là thiếu các thông tin và họ là những người yếu thế trong quan hệ với thương nhân Tác giả khẳng định: “Một trong những đặc điểm đáng quan tâm ở đây là sự yếu thế trong việc đàm phán, ký kết và thực thi các hợp đồng giữa người tiêu dùng với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ” Cùng với đó,tác giả đã chỉ ra sự khác biệt giữa điều kiện thương mại chung và hợp đồng theo mẫu, phân tích những ưu điểm cũng như những hạn chế của việc áp dụng điều kiện thương mại chung và hợp đồng theo mẫu Tác giả đã phân tích thực tiễn pháp lý về điều kiện thương mại chung liên quan tới quyền lợi của người tiêu dùng thông qua một số các vụ việc xảy ra trong thực tế, đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh pháp luật về hợp đồng theo mẫu và điều kiện thương mại chung, từ đó tác giả kiến nghị “cần soạn thảo một văn bản riêng để quy định chuyên biệt về vấn đề hợp đồng theo mẫu và điều kiện thương mại chung”.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng và những năm sau đó.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Để giải được quyết được mục tiêu nghiên cứu đề ra, nhiệm vụ của đề tài luận văn bao gồm:
Một là, hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng, quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng Trong đó, làm rõ quan điểm về quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng trong giai đoạn 2019- 2021.
Ba là, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chủ yếu hoàn thiện của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp thu thập thông tin : là dựa trên nguồn thông tin sơ cấp và thứ cấp thu thập từ các tài liệu, nghiên cứu về chính sách quản lý tài chính như: sách giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí, đề tài NCKH các cấp, các nghiên cứu có liên quan tại Thư viện Quốc gia Việt Nam và Thư viện Trường, dữ liệu trên Internet có thể định vị nhờ việc sử dụng các cổng thông tin và những công cụ tìm kiếm như Wiki; tư liệu…) và các tờ báo uy tín là nguồn hữu ích, chúng thường báo cáo tóm tắt các kết quả của các báo cáo gần đây của Chính phủ để xây dựng cơ sở luận cứ để chứng minh giả thuyết.
Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu là phương pháp phân tích lý thuyết thành những mặt, những bộ phận để nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của lý thuyết từ đó chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: từ thực nghiệm số liệu được thu thập bằng cách quan sát, theo dõi, thống kê, báo cáo các thực nghiệm Loại số liệu thu thập trong phương pháp phi thực nghiệm gồm số liệu được thu thập từ các câu hỏi đóng hoặc số liệu được thu thập từ các câu hỏi mở theo dạng khảo sát hoặc phỏng vấn.
5.2 Phương pháp xử lí và phân tích dữ liệu
Phương pháp thống kê mô tả
Sau khi thu thập số liệu, tiến hành phân bổ thống kê và tổng hợp thống kê, tính toán các loại số tuyệt đối, tương đối, số bình quân và một số chỉ số khác Sử dụng các chỉ tiêu số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân để so sánh và phân tích làm rõ thực trạng quản lý nhà nước của người tiêu dùng; qua đó đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước của người tiêu dùng tại Việt Nam
Phương pháp thống kê so sánh Đây là phương pháp được áp dụng rất phổ biến So sánh trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung.Bao gồm so sánh qua các năm, so sánh việc thực hiện thu so với kế hoạch, có tính chất tương tự để xác định xu hướng biến động của các chỉ tiêu Để cho ta tổng hợp được những cái chung, tách ra được những nét riêng của chỉ tiêu được so sánh Trên cơ sở đó có thể đánh giá được cách khách quan thực trạng thu ngân sách của trường; từ đó đưa ra cách giải quyết, các giải pháp nhằm đạt được hiệu quả tối ưu.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này đóng góp vào việc hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng Ngoài ra, đề tài còn góp phần làm sáng tỏ các hoạt động quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng, từ đó tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng trong giai đoạn hiện nay.
*Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Đối với hoạt động quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng: Đây là cơ sở khoa học và khách quan giúp các nhà quản lý trong hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng thấy được những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong công tác bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng, từ đó đưa ra được những giải pháp cần thiết để hoàn thiện công tác quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng trong thời gian tới Đồng thời, nghiên cứu là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ Đối với học viên: Đề tài nghiên cứu giúp học viên nâng cao khả năng tự nghiên cứu, xuyên suốt vấn đề từ lý luận đến thực tiễn và phát triển các nghiên cứu sâu hơn đối với vấn đề quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng trong tương lai.
Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của Đề tài nghiên cứu được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận về quản lý nhà nước đối với bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng giai đoạn từ năm 2019- 2021
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng.
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
Những khái niệm
Cách quy định thứ nhất: xác định người tiêu dùng chỉ bao gồm thể nhân (cá nhân)
+ Cách quy định thứ hai: không xác định rõ người tiêu dùng chỉ bao gồm cá nhân hay bao gồm cả cá nhân và pháp nhân
Cách quy định này chỉ nói là “người nào”, “những ai” Đây là quy định không rõ ràng và thường dẫn đến cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình áp dụng luật trong thực tế
+ Cách quy định thứ ba: xác định rõ người tiêu dùng bao gồm cả thể nhân và pháp nhân.
Tóm lại: Người tiêu dùng được hiểu là cá nhân, tổ chức mua hoặc sử dụng hàng hoá, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh (Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010)
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước bằng pháp luật đến các đối tượng được quản lý nhằm thực hiện các chức năng và chức năng đối ngoại của nhà nước.
Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước gồm: cơ quan nhà nước, cá nhân được ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
1.2.3 Bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Bảo vệ người tiêu dùng gắn liền với ý tưởng về quyền người tiêu dùng và với sự thành lập của các tổ chức người tiêu dùng giúp người tiêu dùng lựa chọn tốt hơn trên thị trường và trợ giúp họ về các phàn nàn. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Tác dụng của bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng nắm trong tay quyền lực to lớn. Thị trường chủ yếu do người tiêu dùng điều tiết Là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, quyết định tiêu dùng của người tiêu dùng ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên thị trường Người tiêu dùng quyết định hàng hoá,dịch vụ mà tổ chức, cá nhân sẽ kinh doanh Mức độ tiêu dùng của người tiêu dùng chính là thước đo cho sự tồn tại của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.Việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không chỉ mang lại lợi ích tiêu dùng mà còn thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh của doanh nghiệp, cá nhân, tạo động lực quan trọng cho kinh tế phát triển ổn định Do đó, thời gian tới rất cần sự đồng thuận và chung tay của cả hệ thống chính trị đối với công tác này.
Vai trò của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng Quy định về nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng là thành tố không thể thiếu trong hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, có ý nghĩa không chỉ trong việc bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng mà còn bảo vệ lợi ích của chính người kinh doanh và đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hội So với các nước trong khu vực, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh vấn đề bảo vệ người tiêu dùng với Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng (Pháp lệnh số 13/1999/PL UBTVQH10 ngày 27/04/1999) Bởi lẽ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội Nhà nước luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác.
Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những hoạt động nhằm đảm bảo xã hội công bằng, dân chủ, văn minh qua đó góp phần duy trì thức đẩy một nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững Kinh nghiệm của các nước cho thấy, khi nền kinh tế thị trường được mở rộng và phát triển thì sẽ càng nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến người tiêu dùng Việc tranh chấp về quyền và lợi ích giữa hai chủ thể bao gồm thương nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ và một bên là cộng đồng người tiêu dùng vẫn luôn tồn tại phát sinh như một điều tất yếu Khi mối quan hệ ngày càng mở rộng ngoài phạm vi quốc gia về địa lý, mở rộng về quy mô phạm vi thị trường tiếp nhận hàng hóa, hay tính chất phức tạp của chuỗi cung ứng đòi hỏi phải có sự bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong đó cơ cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Đặc điểm của bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD hoạt động trên các nguyên tắc: mọi hoạt động của tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD phải nhằm mục đích hỗ trợ hoặc đại diện cho NTD bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật Hoạt động của tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD không vì mục đích lợi nhuận và tuân thủ các nguyên tắc khác theo quy định của pháp luật liên quan về hoạt động của các tổ chức xã hội. Để làm rõ hơn đặc điểm của tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD, có thể so sánh tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD với các tổ chức xã hội khác Theo đó, một trong những điểm nổi bật nhất của các tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD đó chính là đối tượng bảo vệ. Các tổ chức xã hội khác thường được thành lập để bảo vệ quyền lợi của hội viên của mình, tuy nhiên, tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ bảo vệ quyền lợi của hội viên mà còn bảo vệ lợi ích của cộng đồng NTD và toàn xã hội.
Trong các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD thì hoạt động của Hội bảo vệ quyền lợi NTD là chủ yếu và có ý nghĩa quan trọng trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD Ở Việt Nam, Hội bảo vệ quyền lợi NTD gồm: Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam – VINASTAS (từ năm 2019 tách ra thành Hội Bảo vệ NTD Việt Nam VICOPRO) và các Hội ở địa phương Cụ thể:
Hội Bảo vệ NTD Việt Nam là tổ chức phi chính phủ về bảo vệ quyền lợi NTD duy nhất hoạt động trong phạm vi cả nước cho tới thời điểm hiện tại VINASTAS được thành lập từ năm 1988 và chính thức triển khai công tác bảo vệ NTD từ năm
1990 Hội có bộ phận văn phòng do một chánh văn phòng thường trực quản lý, giúp lãnh đạo hội triển khai và quản lý các hoạt động, để thực hiện một số công việc cụ thể, và các tổ chức trực thuộc như: Câu lạc bộ Chất lượng, Câu lạc bộ Chống hàng giả và gian lận thương mại, Câu lạc bộ NTD nữ, Câu lạc bộ Nhà báo bảo vệ NTD…
Ngoài các tổ chức trực thuộc Trung ương nêu trên, Hội còn có những tổ chức trực thuộc là những tổ chức độc lập, có tài khoản riêng, sử dụng con dấu riêng như: Tạp chí NTD, Công ty dịch vụ Tiêu chuẩn đo lường chất lượng; Văn phòng khiếu nại của NTD; Trung tâm công nghệ bảo vệ NTD; Trung tâm nghiên cứu và tư vấn về tiêu dùng… Các tổ chức này góp phần quan trọng trong công tác thông tin, hướng dẫn cho NTD, làm cầu nối giữa Hội và NTD, giải quyết khiếu nại cho NTD, mang lại quyền lợi cho NTD, đồng thời phát hiện được những tiêu cực trên thị trường, lấy lại sự công bằng cho xã hội, làm cho thị trường vận hành lành mạnh hơn.
Tổ chức bảo vệ NTD ở địa phương, sau khi Hội Bảo vệ NTD Việt Nam được thành lập, một số Hội Bảo vệ NTD ở các tỉnh, thành phố cũng được thành lập Giống như Hội Bảo vệ NTD Việt Nam, các hội địa phương hoạt động trong mọi lĩnh vực liên quan đến việc bảo vệ NTD, nhưng trong phạm vi địa phương Tổ chức của các hội địa phương bao gồm những hội viên, tình nguyện viên, các chi hội trực thuộc hội tỉnh, thành phố Một số hội địa phương có thành lập các văn phòng để giải quyết khiếu nại của NTD với những tên khác nhau như: Văn phòng Khiếu nại của NTD, Văn phòng Tư vấn và Khiếu nại của NTD; Văn phòng Thu thập ý kiến của NTD… Những hội chưa thành lập văn phòng khiếu nại của NTD nói chung đều có hoạt động giúp đỡ NTD trong những trường hợp bị xâm phạm, đối xử không công bằng… Giải quyết khiếu nại của NTD chủ yếu được thực hiện thông qua thương lượng, hòa giải giữa NTD và tổ chức cung ứng hàng hóa, dịch vụ Trường hợp không hòa giải được, những khiếu nại được chuyển cho các cơ quan chức năng giải quyết Một số hội cũng có các tổ chức hỗ trợ như: Câu lạc bộ NTD nữ, Câu lạc bộ Chống hàng giả… Đến nay, có 61 Hội bảo vệ NTD ở địa phương được thành lập. Trong quá trình hoạt động, Hội bảo vệ NTD Trung ương và các hội ở địa phương thường xuyên có mối quan hệ phối hợp giúp đỡ lẫn nhau.
1.3.1 Vai trò quản lý nhà nước đối với bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trở thành vấn đề cấp bách trên con đường phát triển bền vững của đất nước Chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được xây dựng và thực thi hiệu quả không chỉ mang lại lợi ích cho cộng đồng người tiêu dùng - toàn thể nhân dân Việt Nam - mà còn thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, lưu thông, phát triển chung của nền kinh tế cả nước, đảm bảo tốc độ tăng trưởng luôn đi đôi với chất lượng tăng trưởng.
Theo quy định tại Chương 5 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Điều 34,
35 Nghị định số 99/2011/NĐ CP quy định chi tiết và hướng dẫn luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tại Trung ương Bộ Công Thương chịu trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Cục Quản lý cạnh tranh (nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng) là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Tại Địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Sở Công Thương là cơ quan giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương.
Theo quy định tại Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Bộ Công Thương có trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng Công tác này đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan, đoàn thể, trong đó các cơ quan có thẩm quyền phải tham gia theo chức năng, nhiệm vụ của mình Điều này góp phần tạo sự thống nhất trong quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại địa phương (cấp tỉnh): giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho các Phòng chuyên môn, ví dụ Phòng Quản lý thương mại, Phòng Kế hoạch, Tài chính, Thanh tra Sở, …
Phần lớn Uỷ ban nhân dân cấp huyện hiện đã giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế Hạ tầng Có một số ít Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao nhiệm vụ này cho Phòng Nông nghiệp hoặc một Phòng chuyên môn khác.
Chỉ khi các cơ quan quản lý nhà nước về-bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mới đảm bảo được các quyền và lợi ích của người tiêu dùng, nâng cao ý thức của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm và thực thi các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tham gia vào công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Điều này giúp cho công tác bảo vệ người tiêu dùng có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan liên quan. Sự hoạt động có hiệu quả của các thiết chế này góp phần lành mạnh hóa các quan hệ thị trường, bảo đảm môi trường cạnh tranh an toàn và công bằng cho người tiêu dùng và doanh nghiệp.
1.3.2 Nội dung quản lý nhà nước đối với bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Việc xem xét các quyền và lợi ích của người tiêu dùng cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng Bởi lẽ, việc xác định nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong pháp luật bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền của người tiêu dùng Đến nay, quản lý nhà nước đối tới bản vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng được thừa nhận có các quyền cơ bản sau đây:
Thứ nhất, quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
Thứ hai, quyền được an toàn;
Thứ ba, quyền được thông tin;
Thứ tư, quyền được lựa chọn;
Thứ năm, quyền được lắng nghe hay quyền được đại diện;
Thứ sáu, quyền được khiếu nại và bồi thường;
Thứ bảy, quyền được giáo dục về tiêu dùng;
Thứ tám, quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững
Tám quyền cơ bản trên của người tiêu dùng đã được dùng làm cơ sở để các quốc gia hoạch định chính sách, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và là cơ sở cho hoạt động của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới Ở Việt Nam, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng năm 1999 và các văn bản pháp luật có liên quan, ở những khía cạnh khác nhau, cũng đã thể hiện khá đầy đủ nội dung các quyền cơ bản của người tiêu dùng được nêu trong Bản hướng dẫn về Bảo vệ người tiêu dùng của Liên Hợp Quốc
1.3.3 Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng của một số quốc gia và bài học đối với Việt Nam
1.5.1 Kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng của một số quốc gia
Thứ nhất: Bài học kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp
Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp có thể xem là một trong những ví dụ điển hình cho pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các nước theo truyền thống civil law Được ban hành năm 1993, là kết quả của sự pháp điển hoá hơn 600 văn bản luật, nghị định của Pháp, các văn bản pháp luật của liên minh Châu Âu và các điều ước quốc tế, Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp gồm 2 phần (Phần pháp điển hoá các quy định của luật và Phần pháp điển hoá các quy định do chính phủ ban hành) Sau đây là một số chế định cơ bản của Bộ luật này:
Phạm vi áp dụng của Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng:
Khác với Bộ luật dân sự có phạm vi áp dụng rất rộng, Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng chỉ áp dụng đối với các giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ giữa nhà chuyên môn và người tiêu dùng Như vậy, có hai điểm sau cần lưu ý về phạm vi áp dụng của Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng:
- Về chủ thể: giữa nhà chuyên môn và người tiêu dùng; mặc dù luật không quy định cụ thể nhưng trong khoa học pháp lý, người tiêu dùng được hiểu là các cá nhân trực tiếp mua hàng hoá, thụ hưởng các dịch vụ và trực tiếp tiêu thụ, không bao gồm những người mua với mục đích bán lạ
- Về đối tượng: quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ giữa hai chủ thể trên
Nghĩa vụ của nhà chuyên môn:
Nghĩa vụ cung cấp thông tin; Nghĩa vụ bảo hành; Nghĩa vụ bảo đảm cho hàng hoá, dịch vụ an toàn, đúng chuẩn cách; Nghĩa vụ trung thực;
Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đối với sản phẩm:
Theo quy định pháp luật, nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do sản phẩm của mình gây ra cho người tiêu dùng, bất kể thiệt hại đó có liên quan đến hợp đồng hay không Nguyên tắc trách nhiệm này nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đảm bảo họ được bồi thường kịp thời và đầy đủ cho những tổn hại do sản phẩm lỗi gây ra.
Thứ hai: Bài học kinh nghiệm của Liên minh Châu Âu (EU)
Pháp luật của EU về bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu là các chỉ thị Các văn bản pháp luật của EU (tính cả các điều ước quốc tế đa phương) điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm:
- Công ước Bruxelles ngày 27 tháng 9 năm 1968 về Thẩm quyền tư pháp và thi hành các phán quyết;
- Công ước La-Hay ngày 02 tháng 10 năm 1973 về Luật áp dụng đối với trách nhiệm sản phẩm;
- Chỉ thị số 85/374 ngày 25 tháng 7 năm 1985 của Hội đồng Châu Âu về trách nhiệm đối với thiệt hại do sản phẩm gây ra;
- Nghị định số 1907/90 ngày 26 tháng 6 năm 1990 của Hội đồng Châu Âu về quy tắc kinh doanh trứng gia cầm;
- Nghị định số 2081/92 ngày 14 tháng 7 năm 1992 của Hội đồng Châu Âu về chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hoá;
Chỉ thị số 98/43 ngày 6 tháng 7 năm 1998 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng Châu Âu về quảng cáo và tài trợ đối với các sản phẩm thuốc lá.
- Nghị định số 2065/2001 ngày 22 tháng 10 năm 2002 về thông tin cho người tiêu dùng đối với các sản phẩm hải sản câu được.
=> Nhìn chung Khác với luật dân sự chủ yếu dựa trên nguyên tắc tự nguyện,bình đẳng và nhà nước hầu như không can thiệp vào quá trình thực thi, luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp và EU ghi nhận sự can thiệp khá mạnh của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền của người tiêu dùng được tôn trọng trên thực tế Cơ chế bảo đảm quyền của người tiêu dùng được thể hiện trên mấy phương diện sau: Nhà nước thành lập hoặc công nhận một hệ thống các thiết chế nhằm đảm bảo thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng; Nhà nước quy định và áp dụng các chế tài; Nhà nước khuyến khích sự phát triển và tham gia của xã hội dân sự vào quá trình bảo vệ người tiêu dùng
Thứ ba: Bài học kinh nghiệm của Nhật Bản
Tại Nhật Bản, công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được triển khai bởi nhiều cơ quan khác nhau của Chính phủ Nhật Bản như Hội đồng Chính sách tiêu dùng, Hội đồng Chính sách chất lượng cuộc sống, Văn phòng Nội các và các Bộ, cơ quan khác.
Hội đồng Chính sách Tiêu dùng là hội đồng ngang bộ, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ và căn cứ theo Luật Bảo vệ Người tiêu dùng Hội đồng có trọng trách thúc đẩy xây dựng chính sách bảo vệ người tiêu dùng, xây dựng Dự thảo Luật Bảo vệ Người tiêu dùng; đồng thời, thúc đẩy thực hiện chính sách bảo vệ người tiêu dùng Ngoài ra, Hội đồng có chức năng xác minh, đánh giá, giám sát việc thực hiện chính sách bảo vệ người tiêu dùng.
Hội đồng Chính sách chất lượng cuộc sống là một cơ quan tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ, được thành lập trong Văn phòng Nội các Hội đồng bao gồm các học giả, đại diện của các tổ chức người tiêu dùng, đại diện của các doanh nghiệp lớn và các chuyên gia khác trong lĩnh vực này Hội đồng sẽ đưa ra các nghiên cứu đánh giá và thảo luận về các vấn đề cơ bản và quan trọng về chính sách người tiêu dùng. Trong khi đó, Văn phòng Nội các và các Bộ, cơ quan khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người tiêu dùng Mỗi bộ và cơ quan có liên quan sẽ thực hiện các chính sách của người tiêu dùng trong thẩm quyền Văn phòng Nội các sẽ thực hiện việc điều phối chung các chính sách cơ bản của người tiêu dùng giữa các Bộ, cơ quan liên quan và phục vụ như các văn phòng liên lạc của Hội đồng Chính sách tiêu dùng và Hội đồng Chính sách chất lượng của cuộc sống.
Tại nước này, Hội Bảo vệ người tiêu dùng là tổ chức người tiêu dùng có đủ tư cách sử dụng quyền yêu cầu lệnh cấm một cách thích hợp để bảo vệ lợi ích của toàn thể người tiêu dùng Hiện tại ở Nhật Bản có 10 tổ chức như thế được Thủ tướngChính phủ công nhận Các tổ chức này hoạt động dưới hình thức là pháp nhân phi lợi nhuận hoặc pháp nhân tổ chức thông thường hoặc các quỹ tài trợ thông thường.
Nhiệm vụ của Hội Bảo vệ người tiêu dùng là yêu cầu lệnh cấm khi phát hiện ra các hành vi bất hợp pháp của người kinh doanh vi phạm pháp luật về người tiêu dùng nhằm đình chỉ/ngăn chặn các hành vi này Khi các hành vi nói trên gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì Hội Bảo vệ người tiêu dùng xem xét toàn bộ vụ việc và đàm phán, hòa giải ngoài tòa án nhằm cải thiện nghiệp vụ kinh doanh của người kinh doanh Với các vụ việc nghiêm trọng Hội này có thể thay mặt người tiêu dùng tiến hành khởi kiện ra tòa án và đưa thông tin tới Tổng cục Người tiêu dùng công bố nhằm cảnh báo, ngăn ngừa sự việc tương tự.
1.5.2 Bài học rút ra trong quản lý nhà nước đối với Việt Nam
Bảo vệ người tiêu dùng dịch vụ tài chính có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh, minh bạch của khu vực tài chính, thúc đẩy tài chính toàn diện và tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia Xét thực trạng hệ thống pháp luật bảo vệ NTD ở Việt nam, tham khảo bài học kinh nghiệm trong xây dựng và thực thi pháp luật bảo vệ NTD của một số nước như Nhật Bản, Đức, Liên minh Châu Âu… và phân tích từ góc độ thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, theo tác giả, cần chú trọng các điểm sau:
Thứ nhất: Cần một “hệ thống pháp luật” có hiệu quả để bảo vệ NTD
Thứ hai: Xác định NTD là trung tâm của hệ thống nói trên, pháp luật phải vì
NTD, cần bảo vệ NTD ở trạng thái động, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của khoa học-kỹ thuật và tác động tích cực lẫn tiêu cực của quá trình hội nhập Thứ ba: Chú trọng cơ chế nâng cao khả năng tự bảo vệ của NTD
Thứ tư: Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy bảo vệ NTD bao gồm cả hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước (Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan, các Sở Thương mại-Công nghiệp và liên quan ở các tỉnh, thành phố) lẫn hệ thống các tổ chức xã hội (các Hội Bảo vệ NTD TW và địa phương …).
Thứ năm: Cơ chế hậu kiểm thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2019 – 2021
Trình bày phần kinh tế - xã hội của Việt Nam và đặc điểm tiêu dùng của người Việt Nam
2.1.1 Kết quả phân tích kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2022
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế phục hồi tích cực, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm trong điều kiện gặp nhiều khó khăn Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9 tháng tăng 2,73%, ước cả năm khoảng 4%
Thị trường tiền tệ, mặt bằng lãi suất, tỷ giá tương đối ổn định Tín dụng tăng trưởng 11% trong 9 tháng, tập trung chủ yếu vào sản xuất kinh doanh, góp phần hỗ trợ nền kinh tế tiếp tục phục hồi và phát triển.
Tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 8,83%; ước cả năm đạt khoảng 8% (mục tiêu là
6 - 6,5%) Tăng trưởng nông nghiệp đạt 2,99%, công nghiệp và xây dựng đạt 9,44%, dịch vụ đạt 10,57%; khu vực dịch vụ phát triển sôi động trở lại nhờ kiểm soát được dịch bệnh Sự phục hồi kinh tế diễn ra khá đồng đều giữa các địa phương, trong đó nhiều địa phương đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Thu NSNN 9 tháng đạt 94% dự toán, tăng 22% so với cùng kỳ; ước cả năm vượt 14,3%, tăng 2,9% so với năm 202 Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 9 tháng đạt trên 558 tỷ USD, tăng 15%; xuất siêu 6,76 tỷ USD Năng lượng đáp ứng đủ cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng
Lương thực, thực phẩm được bảo đảm, trong 9 tháng xuất khẩu trên 5,4 triệu tấn gạo, xuất khẩu nông sản đạt 40,8 tỷ USD Thị trường lao động phục hồi nhanh Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng tăng 12,5%; vốn FDI thực hiện đạt 15,4 tỷ USD, tăng 16,3%
Phát triển doanh nghiệp có nhiều khởi sắc, trong 9 tháng có hơn 163 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và hoạt động trở lại, tăng 38,6%, gấp 1,4 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH và 03 Chương trình mục tiêu quốc gia được tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện Trong 9 tháng đã thực hiện được hơn 60 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn 20% tổng số vốn của Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH và giao kế hoạch vốn chi tiết 03 Chương trình mục tiêu quốc gia khoảng 92 nghìn tỷ đồng, đạt 92% kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025
Các ngân hàng thương mại yếu kém, doanh nghiệp thua lỗ, dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả kéo dài đã và đang được quyết liệt tháo gỡ, xử lý; thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đạt kết quả tích cực
Quốc gia duy trì chặt chẽ nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài ở mức an toàn Chính những nỗ lực này cùng những triển vọng phát triển kinh tế tích cực đã được nhiều tổ chức uy tín quốc tế đánh giá cao, củng cố thêm niềm tin của thị trường trong nước và quốc tế về tiềm năng phát triển của Việt Nam.
Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật được đặc biệt quan tâm chỉ đạo; chủ động, tích cực xây dựng, trình Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh, cơ bản bảo đảm tiến độ và chất lượng.
Công tác xây dựng quy hoạch được chú trọng thúc đẩy; đã lập, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch, một số quy hoạch quốc gia, vùng, địa phương
Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động 12 tháng năm
Trong 9 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã thành lập 163,3 nghìn doanh nghiệp mới, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm trước Tổng vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế đạt 3.908,2 nghìn tỷ đồng, tăng 36% Tuy nhiên, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cũng tăng 24,8% lên 112,7 nghìn doanh nghiệp Theo kết quả điều tra, 82,6% doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2022, đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý III.
Hoạt động thương mại, vận tải, du lịch tiếp tục phục hồi tích cực Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 36,1% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách gấp 3,9 lần và luân chuyển hành khách gấp 5,7 lần so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hóa tăng52,6% về vận chuyển và tăng 60,4% về luân chuyển Khách quốc tế đến nước ta 9 tháng năm 2022 đạt 1.872,9 nghìn lượt người, gấp 16,4 lần so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn giảm 85,4% so với cùng kỳ năm 2019, năm chưa có dịch Covid-19.
2.1.2 Đặc điểm tiêu dùng của người Việt Nam
Thu nhập của người Việt tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng vẫn chỉ ở mức trung bình so với khu vực và thấp so với thế giới, đây là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng của người Việt Nam Thêm vào đó, với khoảng 65% dân số ở nông thôn và chỉ 35% dân số thành thị, giá cả vẫn là yếu tố quan trọng trong quyết định mua sắm của người tiêu dùng Việt Chính vì thế, hàng hóa nhập khẩu phổ biến trên thị trưởng Việt Nam vẫn là hàng Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước châu Á khác với giá cả cạnh tranh, phù hợp với khả năng tài chính của người tiêu dùng Việt Hơn nữa khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước này tương đối gần, dẫn đến chi phí vận chuyển thấp mà đây vai yếu tố quan trọng giúp giảm giá thành sản pham.
Sự phát triển kinh tế và lối sống của người Việt Nam trong thời đại mới đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể của tầng lớp trung lưu Họ có nhu cầu cao đối với hàng hóa nhập khẩu chất lượng cao từ các quốc gia phát triển như Châu Âu và Châu Mỹ Sự phổ biến của internet và sự phát triển của thương mại điện tử đã giúp người tiêu dùng tiếp cận dễ dàng hơn với các thương hiệu nước ngoài, nâng cao nhận thức và nhu cầu của họ đối với các sản phẩm nhập khẩu chất lượng.
Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng giai đoạn 2019 – 2021
2.2.1 Những quy định pháp luật của Việt nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Tiền Giang đã trích dẫn những quy định về quyền, nghĩa vụ của người tiêu dùng trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010 và Luật An toàn thực phẩm Theo Điều 8, Điều 9 Luật Bảo vệ Người tiêu dùng năm 2010, người tiêu dùng có những quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản được bảo đảm.
- Về quyền lợi của người tiêu dùng
1 Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung cấp.
2 Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hoá, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá; được cung cấp hoá đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
3 Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thoả thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
4 Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
5 Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
6 Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
7 Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
8 Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.
Về nghĩa vụ của người tiêu dùng
1 Kiểm tra hàng hoá trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và của người khác; thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng hàng hoá, dịch vụ.
2 Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hoá, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. b Theo Điều 9, Luật An toàn thực phẩm năm 2010, quy định người tiêu dùng thực phẩm có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Về quyền của người tiêu dùng thực phẩm
1 Được cung cấp thông tin trung thực về an toàn thực phẩm, hướng dẫn sử dụng, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, lựa chọn, sử dụng thực phẩm phù hợp; được cung cấp thông tin về nguy cơ gây mất an toàn, cách phòng ngừa khi nhận được thông tin cảnh báo đối với thực phẩm;
2 Yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật;
3 Yêu cầu tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
4 Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật;
5 Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do sử dụng thực phẩm không an toàn gây ra.
- Người tiêu dùng thực phẩm có các nghĩa vụ sau
1 Tuân thủ đầy đủ các quy định, hướng dẫn về an toàn thực phẩm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong vận chuyển, lưu giữ, bảo quản và sử dụng thực phẩm;
2 Kịp thời cung cấp thông tin khi phát hiện nguy cơ gây mất an toàn thực phẩm, khai báo ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm với Ủy ban nhân dân nơi gần nhất, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
3 Tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá trình sử dụng thực phẩm. c Các văn bản có liên quan như:
- Nghị định số 15/2019/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm.
- Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Kế hoạch số 203/KH-UBND ngày 02/8/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về triển khai Chương trình phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh Tiền Giang đến năm 2020.
2.2.2 Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
Đánh giá chung
2.3.1 Những kết quả đạt được
Hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật, các văn bản hướng dẫn đã góp phần đạt được một số kết quả nổi bật, trong đó đặc biệt là việc hình thành hệ thống văn bản pháp luật, hệ thống cơ quan quản lý từ Trung ương tới địa phương; mạng lưới các Hội Bảo vệ người tiêu dùng và một số thành tựu trong công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ người tiêu dùng, tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, thu hồi sản phẩm khuyết tật, bảo hành và thực thi các trách nhiệm của doanh nghiệp theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại Bộ Công Thương, nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giao cho Cục Quản lý cạnh tranh (nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng) Trong cơ cấu tổ chức của Cục, Phòng Bảo vệ người tiêu dùng và Phòng Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung là hai đơn vị thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại địa phương (cấp tỉnh): 100% Sở Công Thương đã giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho các Phòng chuyên môn, ví dụ Phòng Quản lý thương mại, Phòng Kế hoạch, Tài chính, Thanh tra Sở, …
Tại cấp huyện: Phần lớn UBND cấp huyện hiện đã giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế Hạ tầng Có một số ít UBND cấp huyện giao nhiệm vụ này cho Phòng Nông nghiệp hoặc một Phòng chuyên môn khác.
Số lượng các tổ chức xã hội tham gia công tác bảo vệ người tiêu dùng (các hội bảo vệ người tiêu dùng) đã có sự gia tăng đáng kể Tại một số tỉnh, thành đã phát triển mạng lưới Hội xuống cấp huyện, xã Một số Hội tại các địa phương đã đăng ký thành thành viên của Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, tạo thành một khối tổ chức thống nhất, cùng hoạt động vì mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng
Kết quả thực thi trách nhiệm của doanh nghiệp Với vị trí là đối tượng điều chỉnh trực tiếp của hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong 8 năm qua, nhận thức và hành động của các doanh nghiệp tại Việt Nam đã có sự chuyển biến rõ nét, thể hiện tính chủ động và hiệu quả, trong đó, nổi bật là việc thực thi các trách nhiệm về bảo vệ thông tin của người tiêu dùng, cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ; thực hiện đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; thu hồi hàng hóa có khuyết tật; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng.
Các Hội tham gia tích cực, chủ động và hiệu quả vào việc thực hiện các nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong đó tiêu biểu là tham gia 353 hoạt động đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp luật; Thực hiện tư vấn, giải quyết 13.294 khiếu nại trong giai đoạn 2017-2018 Tỷ lệ giải quyết thành công trên 80%; thực hiện nhiều khảo sát, nghiên cứu nhằm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng và xã hội; Chủ động kiến nghị, đề xuất các hoạt động phối hợp với các cơ quan nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, qua đó, trong giai đoạn 2016-2018, đã có 20 Hội địa phương được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao.
Nhiều người tiêu dùng còn e ngại khiếu nại vì chi phí khiếu nại có thể cao hơn giá trị sản phẩm Trong khi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có hiệu lực từ năm 2011, tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng vẫn phổ biến Người tiêu dùng chưa nắm rõ luật và chưa hiểu hết quyền lợi của mình, dẫn đến thái độ thờ ơ và không biết cách tự bảo vệ Đây là một trong những nguyên nhân làm tình trạng hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại diễn biến phức tạp.
- Thứ nhất, đối với công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch thực hiện nhằm cụ thể hóa 18 chính sách, pháp luật vềBVQLNTD trên địa bàn cấp tỉnh: cần phải chủ động và kịp thời tiến hành; công tácQLNN này cần phải được hoàn thiện thêm Vì Cho đến nay trong pháp luật nước ta chưa có quy định về khởi kiện tập thể hoặc thủ tục khởi kiện đối với các chủ thể tham gia vào chuỗi phân phối (nhà sản xuất, nhà phân phối và người bán lẻ) Ngoài ra, các khó khăn đối với người tiêu dùng trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh, án phí cũng là những rào cản họ thực hiện quyền khởi kiện của mình
- Thứ hai, đối với tổ chức bộ máy, công cụ QLNN về BVQLNTD trên địa bàn cấp tỉnh: mô hình hoạt động chưa hoàn thiện và thống nhất giữa các địa phương trong cả nước Công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chỉ mới được chú trọng ở cấp trung ương Ở cấp tỉnh và đặc biệt ở cấp huyện, chứ chưa nói đến cấp xã, người tiêu dùng khi bị vi phạm quyền lợi trong các lĩnh vực không liên quan đến thương mại, sử dụng dược phẩm và mỹ phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ không biết cậy nhờ vào sự bảo vệ của cơ quan nhà nước nào, ngoài việc khởi kiện ra tòa án Đây là một hạn chế rất lớn của cơ chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bởi cho đến nay hơn 70% dân số Việt Nam vẫn đang sống ở địa bàn nông thôn (cấp xã, huyện và tỉnh) Khi bị xâm hại người tiêu dùng phải gửi đơn lên tận cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương để khiếu nại, tố cáo và đề nghị giải quyết thì họ sẽ không đủ thời gian, tiền bạc để thực hiện quyền công dân của mình và điều này sẽ làm giảm bớt hiệu quả của quy định về quyền của người tiêu dùng.
- Thứ ba, đối với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; tư vấn, hỗ trợ và nâng cao nhận thức về BVQLNTD: vẫn còn nhiều hạn chế Một trong những lý do dẫn đến việc áp dụng các chế tài hành chính đối với hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng không hiệu quả là do mức xử phạt hành chính do pháp luật quy định quá thấp Ví dụ, Nghị định 45 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm đã bị biến chất, có tạp chất lạ hoặc nhiễm các chất độc hại có nguy cơ gây hại đối với sức khoẻ con người thì bị phạt tối đa 15 triệu đồng Mức phạt quá nhẹ này khiến nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh sẵn sàng nộp phạt để rồi tiếp tục tái phạm Vì mức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng có thể nói là quá thấp như vậy nên trong thực tế thường có tình trạng, mặc dù biết là vi phạm pháp luật nhưng vẫn vi phạm, bởi vì những người này ý thức được rằng với mức phạt thấp như vậy thì vi phạm pháp luật vẫn có lợi.
- Thứ tư, đối với công tác quản lý hoạt động; hỗ trợ, tạo điều kiện cho tổ chức xã hội tham gia BVQLNTD; giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ khi giao cho tổ chức xã hội BVQLNTD: còn chưa được quan tâm đúng mức ở nhiều địa phương Thứ năm, đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của NTD và xử lý vi phạm pháp luật về BVQLNTD ở địa bàn cấp tỉnh: cần được hoàn thiện hơn Vì các cơ quan chức năng của Nhà nước hoạt đông không hiệu quả, điều này dẫn đến việc người tiêu dùng có tâm lý ngại lên tiếng, ngại khiếu kiện vì sợ phiền toái Ngoài ra, người tiêu dùng ở Việt Nam rất thiếu thông tin nên trở thành những người chịu thiệt thòi nhất Vì vậy, trong bối cảnh mới, người tiêu dùng cần chủ động phát hiện và khiếu nại về các hành vi gây ảnh hưởng đến quyền lợi của mình; biết tự bảo vệ mình trong tiêu dùng, nâng cao ý thức về quyền và trách nhiệm của mình và đấu tranh cho quyền và lợi ích hợp pháp đó.
- Thứ sáu, đối với công tác hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ để cơ quan QLNN về BVQLNTD cấp huyện thực hiện các nội dung có liên quan vẫn còn nhiều hạn chế.
Có thể do cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ, hướng dẫn, định hướng cho người tiêu dùng bảo vệ mình như thế nào còn chưa đầy đủ, thực chất tới người dân Dẫn đến việc người tiêu dùng không biết quyền lợi của mình bị vi phạm, điều này cho thấy khả năng bảo vệ, phản ứng và nhận thức về vai trò, vị trí của người tiêu dùng còn chưa rõ, do đời sống kinh tế, hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế.
2.3.3 Nguyên nhân của hạn chế
Có thể nói, quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng đã xuất hiện nhiều vấn để bất cập trong chính các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn Một số hạn chế bất cập nổi bật trong các quy định có thể chỉ ra là: Toàn bộ các quy định hiện nay chỉ phù hợp với các giao dịch, kinh doanh – tiêu dùng có tính “truyền thống” mà chưa tính đến một số phương thức mới, hiện đại, đặc biệt là sự phát triển của thương mại điện tử và cách mạng khoa học công nghệ 4.0.Chưa “định vị” được vị trí của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quan hệ với các Luật chuyên ngành cũng như quy định rõ được về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức khác trong việc phối hợp thực hiện các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Nhiều hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng mới xuất hiện nhưng chưa được bổ sung vào phần các hành vi cấm hoặc nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan Một số quy định trong Luật chưa rõ ràng hoặc đã không còn phù hợp do sự xuất hiện của các chủ thể mới hoặc dạng hành vi mới.
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG 51 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
Những giải pháp hoàn thiện quản lý bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu dùng
Bối cảnh bình thường mới đã và đang mở ra những thay đổi lớn trong hành vi mua sắm của người tiêu dùng Tuy nhiên, điều này cũng khiến nhiều quyền lợi của người tiêu dùng có nguy cơ bị ảnh hưởng Quyền lợi người tiêu dùng bị ảnh hưởng.
Trong bối cảnh dịch Covid 19, số người sử dụng internet tham gia mua sắm trực tuyến đã tăng rất mạnh trong 2 năm gần đây Sự phát triển của các kênh thương mại điện tử đã mang đến nhiều tiện lợi song cũng bộc lộ những mặt trái Các quy định về thương mại điện tử, nghị định hướng dẫn không “phủ sóng” hết Trong khi đó, những đối tượng kinh doanh gian lận cũng ngày một phát triển với các phương thức lừa đảo người tiêu dùng rất tinh vi.
Hiện nay, có tình trạng hàng hóa bán trên các trang mạng xã hội chưa được cấp phép hoặc không có pháp nhân tại Việt Nam; không kiểm tra được thông tin người bán hoặc thông tin về giá cả, chất lượng, nguồn gốc hàng hóa… Điều này dẫn đến việc người mua nhận phải hàng kém chất lượng, không có hóa đơn, chứng từ. Ngoài ra, còn có tình trạng các đối tượng khởi tạo gian hàng trên kênh thương mại điện tử và chỉ chạy trong một đợt, với nhiều chương trình giảm giá đặc biệt như giá 1.000 đồng, giá 0 đồng…, bán những sản phẩm chất lượng kém rồi biến mất Nhiều người tiêu dùng đã bị thiệt hại do những hành vi lợi dụng giao dịch trên không gian ảo để lừa dối, trục lợi “Nhà nước đã ban hành luật về thương mại điện tử Chính phủ cũng có các Nghị định hướng dẫn Tuy nhiên, pháp luật không “phủ sóng” hết được Những người kinh doanh gian lận họ tìm mọi kẽ hở để khai thác Vì vậy, công tác quản lý nhà nước cần phải được tăng cường”.
Bên cạnh đó, công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thời gian qua đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng, nhưng quyền lợi người tiêu dùng vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng Ngoài nguyên nhân chủ quan trong công tác thực thi pháp luật, việc thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng phát sinh những vướng mắc, khó khăn, bất cập Đơn cử, đến nay, vẫn còn 9 tỉnh, thành phố chưa có tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Có hai tỉnh đã thành lập và đi vào hoạt động, nhưng do khó khăn nhiều mặt, trong đó có vấn đề kinh phí, đã phải xin giải thể.
Có một nghịch lý là Hội Bảo vệ người tiêu dùng được giao trách nhiệm, nhưng không được giao quyền hạn cũng như nguồn lực để thực hiện Chính vì vậy, đến nay, trong 7 nội dung tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội theo khoản 1, điều 28 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, còn một số nội dung rất khó thực hiện Chẳng hạn, luật quy định “Đại diện người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng” Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ kinh phí để thực hiện Như kinh phí điều tra, thu thập, giám định chứng cứ, thuê luật sư, bồi thường trong trường hợp thua kiện
Hay, theo khoản 3, điều 25, Nghị định 99/2011/NĐ CP ngày 27/10/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khi tự mình khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vì lợi ích công cộng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có nghĩa vụ chịu các chi phí phát sinh trong quá trình khởi kiện Tuy nhiên, Hội là tổ chức phi lợi nhuận, không được ngân sách hỗ trợ, vì vậy, không có nguồn kinh phí Nếu thắng kiện, tiền bồi thường cũng không thuộc về Hội…
Ngoài ra, Nghị quyết số 82 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 30 CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ban hành ngày 26/5/2020 đã nêu rõ nhiệm vụ của các bộ, ngành trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng trong chính bộ, ngành, lĩnh vực của mình. Tuy nhiên, sau hơn một năm triển khai thực hiện, công tác bảo vệ người tiêu dùng hiện nay đang gặp nhiều khó khăn Một số bộ, ngành vẫn chưa ban hành văn bản triển khai, nên chưa giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, cá nhân, dẫn đến hiệu quả mang lại chưa được như mong muốn Nhiều địa phương do hạn chế về nhân lực và tài chính nên hoạt động bảo vệ người tiêu dùng mới chỉ lồng ghép trong các hoạt động chuyên môn.
3.2.1 Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng a) Tăng cường công tác xây dựng, ban hành văn bản cụ thể hóa chính sách, quy định pháp luật, các chương trình, kế hoạch thực hiện về BVQLNTD trên địa bàn cấp tỉnh b) Hoàn thiện tổ chức, bộ máy QLNN về BVQLNTD trên địa bàn cấp tỉnh: bao gồm các nội dung sau:
- Trước mắt, cần kiện toàn tổ chức, bộ máy theo hướng thống nhất bộ máy QLNN về BVQLNTD ở các địa phương.
- Về lâu dài, cần kiến nghị thành lập Phòng chuyên trách về vấn đề BVQLNTD tại Sở Công Thương.
- Xúc tiến việc thành lập tổ chức hòa giải thuộc Sở Công Thương hoặc Hội BVQLNTD tỉnh. c) Hoàn thiện năng lực triển khai, thực thi các trách nhiệm QLNN được giao về BVQLNTD trên địa bàn cấp tỉnh: Bao gồm các nội dung sau:
- Tăng cường vai trò chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh đối với BVQLNTD.
- Nâng cao năng lực thực thi BVQLNTD cho Sở Công Thương và UBND cấp Huyện.
- Tăng cường sự phối hợp, hợp tác giữa cơ quan QLNN về BVQLNTD cấp tỉnh với các cơ quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương và tại địa phương.
- Tăng cường giao thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước, hỗ trợ các Hội Bảo vệ NTD ở địa phương.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật BVQLNTD.
- Xây dựng và thực thi cơ chế phối hợp trong hỗ trợ, giải quyết tranh chấp, khiếu nại của NTD giữa các chủ thể có liên quan trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng cơ chế thông tin, tư vấn về tiêu dùng và cảnh báo cho NTD.
- Tăng cường tương tác, liên lạc giữa NTD với cơ quan nhà nước, các HộiBVQLNTD.
Triển khai hiệu quả các chương trình, đề án phát triển nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Hoàn thiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn, bao gồm: kiểm tra các điều kiện kinh doanh, chất lượng hàng hóa, dịch vụ; xử lý các hành vi vi phạm; bảo vệ quyền của người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử; phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý kịp thời các vụ việc, kiến nghị ban hành các quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ người tiêu dùng.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm quyền lợi NTD trên địa bàn tỉnh
- Tăng cường giải quyết khiếu nại, tố cáo của NTD; tích cực tư vấn, hỗ trợ NTD trong giải quyết các tranh chấp với tổ chức, cá nhân kinh doanh.
3.2.2 Giải pháp nâng cao trách nhiệm của ban quản lý nhà nước có thẩm quyền
Từ khi Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và sau 10 năm thực hiện, công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam đã có bước phát triển Hệ thống văn bản pháp luật, từ cấp cao nhất là luật đến các văn bản dưới luật, như: Nghị định, chỉ thị, thông tư, đã được nhà nước ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được các cấp, ngành, tổ chức chính trị- xã hội, cơ quan thông tấn báo chí thực hiện thường xuyên, bằng những hình thức phong phú, đa dạng, đã góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Với vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương đã được thành lập và phát huy hiệu quả Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn những nội dung ẩn chứa nhiều yếu tố cản trở thực hiện, Bộ Công Thương đang xin ý kiến các bộ, ngành và hiệp hội để sửa đổi Động thái này được đánh giá là kịp thời và cần thiết để đảm bảo hiệu quả hoạt động của hệ thống này.
Một số kiến nghị
Quá trình chuyển đổi số yêu cầu sự đồng bộ và nhanh chóng trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật số Do vậy, để đảm bảo hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng, chính phủ các nước đang xây dựng, bố trí nguồn lực phù hợp nhằm đảm bảo theo kịp sự phát triển của trình độ khoa học, công nghệ thông tin.
Cụ thể, tăng cường công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Đẩy mạnh sự phối hợp với các tổ chức cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử, kinh doanh nền tảng, hỗ trợ xây dựng các chiến lược, chính sách kinh doanh phù hợp để vừa đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng, vừa tạo lợi thế cạnh tranh, thúc đẩy hoạt động kinh doanh.
Xây dựng và triển khai quy trình, công cụ, phương tiện để hỗ trợ người tiêu dùng trong các giao dịch kinh doanh trên nền tảng công nghệ, kĩ thật số cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ người tiêu dùng, đẩy mạnh cơ chế phối hợp, tăng cường việc giám sát thị trường…
Quá trình chuyển đổi số không chỉ kết nối các lĩnh vực kinh tế trong phạm vi một quốc gia mà còn chú trọng và đặt ra yêu cầu mở rộng kết nối xuyên quốc gia để phối hợp giải quyết các vấn đề xuyên biên giới, có yếu tố nước ngoài Vì vậy, với phạm vi tiêu dùng liên quan đến nhiều lĩnh vực và hoạt động tiêu dùng mở rộng ra khỏi biên giới của đất nước, các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có xu hướng tăng cường, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, phối hợp không chỉ với các cơ quan quản lý chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau,các bộ, ban, ngành, địa phương tại quốc gia mà cần có sự phối hợp đồng bộ, xây dựng những thỏa thuận, hiệp ước và thống nhất về quy định quốc tế đối với cơ quan cùng cấp tại các quốc gia khác nhằm tăng cường bảo vệ người tiêu dùng toàn diện và đầy đủ.
Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng đưa ra các đánh giá và cơ chế khuyến khích, ghi nhận sự tham gia của các doanh nghiệp trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng Việc ghi nhận này đóng vai trò quan trọng, không chỉ giúp giảm tải cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước mà quan trọng hơn, nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và ngăn chặn, hạn chế các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ngay từ việc xây dựng và thực hiện các mô hình kinh doanh mới.
Bên cạnh vai trò của doanh nghiệp riêng rẽ thì các hiệp hội ngành nghề cũng tạo ra các cơ chế để tham gia vào công tác bảo vệ người tiêu dùng Thông qua các tổ chức này, hoạt động bảo vệ người tiêu dùng dễ đạt được sự đồng thuận trong triển khai và tạo ra động lực mạnh mẽ để các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực cùng thống nhất thực hiện.
Quy trình tăng cường bảo vệ thông tin cá nhân cho người tiêu dùng được xây dựng trên những nỗ lực tự nguyện nhằm tận dụng kiến thức chuyên môn từ tất cả cá nhân, tổ chức có liên quan trong việc đề xuất các giải pháp để tăng cường bảo mật thông tin trong thời đại số Trong quá trình xây dựng và phát triển sáng kiến, đề xuất liên quan đến vấn đề này đã thúc đẩy liên kết và hình thành mạng lưới kết nối các cá nhân, tổ chức hợp tác phát triển và thực hiện các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác bảo mật thông tin cá nhân.
3.3.2 Đối với Thành ủy, UBND các cấp
Các đề xuất, kiến nghị khác của người tiêu dùng: Tuyên truyền Luật BVQLNTD đến tận địa phương, tới tận người tiêu dùng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để mọi người dân biết đúng quyền lợi và nghĩa vụ của người tiêu dùng Cần có kênh trao đổi thông tin nhanh chóng, thuận tiện để mọi người dân dễ dàng tiếp cận thông tin.
Mở rộng Tổng đài Tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng (1800-6838), tăng cường năng lực tiếp nhận để đáp ứng nhu cầu tư vấn thường xuyên và lâu dài của người tiêu dùng.
Tăng cường tuyên truyền về BVQLNTD trên các phương tiện truyền thông đại chúng như Đài Truyền hình, Đài Phát thanh bằng cách lập mục thường kỳ Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BVQLNTD thông qua truyền hình và mạng xã hội để nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của cộng đồng về vấn đề này.
Tuyên truyền, thông tin, hướng dẫn cho người tiêu dùng về cách thức, phương thức và cơ quan, tổ chức mà họ có thể gửi khiếu nại, tố cáo đến.
Quan tâm hơn đến người tiêu dùng, thu thập ý kiến, đề xuất của nhân dân và người tiêu dùng để kịp thời hỗ trợ và BVQLNTD tốt nhất Thúc đẩy công tác BVQLNTD bằng mọi hình thức có thể.
Tuyên truyền mạnh mẽ và thường xuyên hơn để người tiêu dùng nhận biết hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng hóa độc hại, các hành vi gian lận thương mại (thông qua hội thảo, truyền hình, truyền thanh, xây dựng tài liệu tuyên truyền như đĩa CD, clip, để phân phát tới cấp phường, xã, thị trấn, xóm, )
Các cơ quan liên quan cần nâng cao tinh thần trách nhiệm trong BVQLNTD Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Hội BVQLNTD, các cơ quan quản lý nhà nước, tăng cường kiểm tra xử lý các hành vi kinh doanh bất hợp pháp, gian lận thương mại, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, vi phạm quản lý chất lượng sản phẩm Thống nhất số điện thoại đường dây nóng cho người tiêu dùng trên toàn quốc.