1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

(Luận văn thạc sĩ) luận văn tốt nghiệp hoàn thiện pháp luật về hình thức sở hữu theo quy định của bộ luật dân sự 2005

52 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề (Luận Văn Thạc Sĩ) Luận Văn Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hình Thức Sở Hữu Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự 2005
Trường học Trường Đại Học
Thể loại luận văn
Định dạng
Số trang 52
Dung lượng 337,88 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết, ý nghĩa của đề tài nghiên cứu (4)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu (5)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (6)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (6)
  • 5. Kết cấu của khóa luận (6)
  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU (7)
    • 1.1. Khái niệm quyền sở hữu (7)
    • 1.2. Phân loại hình thức sở hữu (8)
      • 1.2.1. Sở hữu nhà nước (8)
      • 1.2.2. Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội (16)
      • 1.2.3. Sở hữu tư nhân (19)
      • 1.2.4. Sở hữu tập thể (22)
      • 1.2.5. Sở hữu chung (24)
    • 1.3. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các hình thức sở hữu (29)
      • 1.3.1. Giai đoạn 1959-1960 (29)
      • 1.3.2. Giai đoạn 1959-1980 (29)
      • 1.3.3. Giai đoạn 1980-1992 (31)
      • 1.3.4. Giai đoạn 1992 đến nay (32)
    • 1.4. Hình thức sở hữu ở một số nước trên thế giới (34)
      • 1.4.2. Ở Trung Quốc (35)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (37)
    • 2.1. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước (37)
    • 2.2. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (38)
    • 2.3. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tập thể (39)
    • 2.4. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tư nhân (40)
    • 2.5. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu chung (42)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (45)
    • 3.1. Quan điểm chung về các hình thức sở hữu (45)
    • 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về các hình thức sở hữu ở nước ta hiện nay (47)
  • KẾT LUẬN (51)

Nội dung

Tính cấp thiết, ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Năm 2013, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới, dẫn đến việc nhiều văn bản pháp luật trước đây không còn phù hợp Bộ luật dân sự, một trong những văn bản quan trọng nhất trong đời sống và kinh tế, đã bộc lộ những bất cập về hình thức sở hữu cần được xem xét và điều chỉnh.

Hiến pháp năm 2013 xác định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu Trong khi Hiến pháp chỉ đề cập đến hình thức sở hữu toàn dân và công nhận nền kinh tế đa dạng về sở hữu, nó không nêu rõ các hình thức sở hữu như Hiến pháp 1992 Do đó, Bộ luật Dân sự cần làm rõ các hình thức sở hữu này để phù hợp với quy định của Hiến pháp.

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định hình thức sở hữu nhà nước đối với các tài sản thuộc sở hữu nhà nước Ngược lại, Hiến pháp năm 2013 và Luật đất đai năm 2013 xác định tài sản thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đóng vai trò đại diện chủ sở hữu thống nhất và quản lý.

Việc xác định các hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự hiện hành còn thiếu tính khoa học, gây ra sự phức tạp trong việc điều chỉnh pháp luật Hiện tại, Việt Nam có 6 hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị và sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội Sự phức tạp này khiến cho luật pháp trở nên xa rời thực tế, làm cho những người không có kiến thức pháp luật khó có thể hiểu và nhận biết các hình thức sở hữu này.

Kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân Nền kinh tế tập thể và hợp tác xã ngày càng nhường chỗ cho các doanh nghiệp tư nhân, công ty và hình thức kinh doanh cá thể của hộ gia đình.

Theo định hướng của Hiến pháp năm 1992 và sự sửa đổi, bổ sung năm 2001, sự phát triển kinh tế tập thể đã không còn phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại của Việt Nam.

Việc sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005, đặc biệt là các hình thức sở hữu, là cần thiết để khắc phục những bất cập hiện tại và phù hợp với tình hình phát triển của đất nước.

Việc hoàn thiện pháp luật về hình thức sở hữu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng Về lý luận, sở hữu là yếu tố then chốt giúp xác định giai đoạn phát triển của đất nước, từ đó định hướng phát triển kinh tế Nắm vững vấn đề sở hữu là cơ sở cho việc xây dựng nền kinh tế vững chắc, phù hợp với sự vận động của thị trường Về thực tiễn, việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật dân sự và sửa đổi Bộ luật dân sự theo Hiến pháp 2013 giúp Nhà nước quản lý tài sản quốc gia hiệu quả, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu của nhân dân và các chủ thể trong nền kinh tế.

Trong bối cảnh hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về các hình thức sở hữu trở nên cần thiết hơn bao giờ hết Đề tài "Hoàn thiện pháp luật về hình thức sở hữu theo quy định của " mà em lựa chọn sẽ tập trung vào việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ quyền sở hữu, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Bộ luật Dân sự 2005 ” làm bài khóa luận tốt nghiệp của mình.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đề xuất những ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về hình thức sở hữu, đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường quá độ lên xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, và tương thích với pháp luật quốc tế Nghiên cứu sẽ bao gồm cả khía cạnh lý luận lẫn thực tiễn.

Bài viết này nhằm hệ thống hóa và làm rõ lý luận về các hình thức sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 Nó cũng sẽ phân tích tính phù hợp của các hình thức sở hữu này với các văn bản luật khác, cũng như sự tương thích của chúng với thực tiễn xã hội và kinh tế hiện nay Từ những phân tích đó, bài viết sẽ đề xuất các biện pháp và kiến nghị cần thiết để khắc phục những bất cập hiện có.

Phân tích và đánh giá thực tiễn quyền sở hữu của các chủ thể trong các hình thức sở hữu là cần thiết để nhận diện ưu, nhược điểm của từng hình thức Việc này giúp xác định sự phù hợp của các hình thức sở hữu đối với nền kinh tế Đồng thời, cần xây dựng Bộ luật Dân sự trở thành nguồn cơ bản của pháp luật Việt Nam về vật quyền, nhằm chấm dứt tình trạng quy định chung chung, thiếu bao quát, và khôi phục vị trí, vai trò của Bộ luật Dân sự như là luật gốc, luật chung và luật cơ bản về mọi vấn đề, bao gồm cả vấn đề vật quyền.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu lý luận là quá trình tìm hiểu các tài liệu liên quan đến lý luận, đặc biệt là những vấn đề về quyền sở hữu và các hình thức sở hữu theo quy định hiện hành.

Bộ luật dân sự năm 2005.

Phương pháp phân tích của bài viết dựa trên việc nghiên cứu tài liệu lý luận, từ đó tiến hành phân tích các hình thức sở hữu hiện có Bài viết sẽ chỉ ra những điểm phù hợp và không phù hợp của các hình thức sở hữu này đối với tình hình đất nước ta hiện nay.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu lý luận cùng với những phân tích cá nhân, từ đó đề xuất hướng hoàn thiện các hình thức sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự 2005.

Kết cấu của khóa luận

Ngoài tóm tắt, mở đầu, mục lục, danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ, từ viết tắt, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương chính.

Chương 1: Lý luận về các hình thức sở hữu.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về các hình thức sở hữu ở nước ta hiện.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về các hình thức sở hữu ở nước ta hiện nay. h

LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU

Khái niệm quyền sở hữu

Khi của cải vật chất trở nên dư thừa, những người giàu có chiếm phần lớn tài sản trong xã hội, dẫn đến sự hình thành các quan hệ sở hữu như một yếu tố khách quan để điều chỉnh xã hội Giai cấp giàu có nhận ra rằng phong tục tập quán không đủ bảo vệ quyền lợi của họ đối với tư liệu sản xuất, do đó, họ đã thiết lập các quan hệ sở hữu mới có lợi cho mình Để duy trì sự thống trị về chính trị và tư tưởng, giai cấp thống trị đã sử dụng pháp luật về sở hữu như một công cụ thể hiện ý chí giai cấp, ghi nhận và củng cố vị thế của họ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông tài sản Luật pháp về sở hữu trở thành một công cụ hiệu quả để bảo vệ cơ sở kinh tế của giai cấp nắm quyền trong bất kỳ nhà nước nào.

Quyền sở hữu là khái niệm pháp lý phản ánh mối quan hệ sở hữu trong một chế độ nhất định, bao gồm các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu trong xã hội Các quy phạm này xác nhận và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và quản lý tài sản.

Quyền sở hữu được hiểu là hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, bao gồm tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản Điều này được quy định trong Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005, cho thấy vai trò quan trọng của quyền sở hữu trong hệ thống pháp luật.

Quyền sở hữu, theo nghĩa hẹp, là mức độ mà pháp luật cho phép chủ thể thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản trong những điều kiện nhất định Điều này có nghĩa là quyền sở hữu bao gồm các quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu đối với tài sản cụ thể, dựa trên quy định của pháp luật về sở hữu.

Quyền sở hữu có thể được hiểu như một quan hệ pháp luật dân sự, phản ánh sự tác động của pháp luật vào các quan hệ xã hội liên quan đến sở hữu Theo đó, quyền sở hữu bao gồm ba yếu tố cơ bản của quan hệ pháp luật dân sự: chủ thể, khách thể và nội dung, tương tự như các quan hệ pháp luật khác.

Phân loại hình thức sở hữu

Việc phân biệt các hình thức sở hữu trong pháp luật dân sự là cần thiết do sự tác động khác nhau đến sản xuất, phân phối và lưu thông Mỗi hình thức sở hữu có những đặc điểm riêng, do đó, việc quy định cụ thể các hình thức sở hữu giúp xác định rõ phương thức tồn tại và vận động của sở hữu, đồng thời liên kết với các chủ sở hữu cụ thể và chế độ pháp lý đặc thù của từng hình thức.

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định sáu hình thức sở hữu, bao gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội, cũng như sở hữu của tổ chức xã hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

1.2.1 Sở hữu nhà nước a Khái niệm Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Nxb. Công an nhân dân, H 2006, 178.

2Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Nxb Công an nhân dân, H 2006, 178. h

Theo Hiến pháp, Nhà nước đại diện cho toàn dân và được trao quyền lực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng và ngoại giao nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tất cả tài liệu sản xuất chủ yếu, bao gồm đất đai, tài nguyên trên biển và dưới lòng đất thuộc thềm lục địa Việt Nam, cùng với các tài sản khác theo quy định pháp luật, đều thuộc quyền quản lý, khai thác và sử dụng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho nhân dân trong việc quản lý và nắm giữ tư liệu sản xuất Theo Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005, Nhà nước là chủ sở hữu tài sản và thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản này Điều 201 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước đối với tài sản.

“1 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước.

2 Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu nhà nước”.

Sở hữu toàn dân theo Điều 53 Hiến pháp 2013 là một phạm trù pháp lý, trong đó tài sản của toàn dân cần có chủ sở hữu thực sự để thực hiện quyền sở hữu nhằm phát triển sản xuất, kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng Để sử dụng hiệu quả tài sản của nhân dân, cần trao quyền cho Nhà nước và người có thẩm quyền quyết định về tài sản theo quy định pháp luật Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 200 quy định Nhà nước là chủ sở hữu đối với chế độ sở hữu toàn dân.

Quyền sở hữu nhà nước, hiểu theo nghĩa khách quan (hay theo nghĩa rộng) là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm:

Nhà nước xác nhận quyền chiếm hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu, bao gồm cả chiếm hữu pháp lý và chiếm hữu thực tế, nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả và phát triển kinh tế bền vững.

-Quy định về nội dung và trình tự thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của Nhà nước;

Xác định rõ phạm vi và quyền hạn của các cơ quan nhà nước cùng với các doanh nghiệp nhà nước trong việc quản lý tài sản do Nhà nước giao Điều này cần tuân thủ các quy định pháp luật nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh và hoạt động công ích.

Nhà nước cung cấp vốn và tư liệu sản xuất cho các doanh nghiệp nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh và hoạt động công ích Các doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, quyền và nghĩa vụ dân sự, cho phép họ quản lý và sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác Họ cũng có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản quản lý, ngoại trừ các thiết bị và nhà xưởng quan trọng cần được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép, theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn (Điều 203 Bộ luật Dân sự năm 2005).

Nhà nước giao tài sản cho doanh nghiệp nhà nước, cho phép họ thực hiện quyền sở hữu trong phạm vi pháp luật quy định Quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước được gọi là “quyền sở hữu hạn chế” Quyền năng của chủ sở hữu được thực hiện theo Điều 204 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu toàn dân được hiểu là những hành vi mà Nhà nước, với tư cách đại diện cho chủ sở hữu, thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản Mặc dù Nhà nước là "chủ" đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng không có quy định cụ thể nào về phạm vi quyền hạn của Nhà nước đối với các tài sản này Nhà nước tự quy định quyền năng và trình tự thực hiện, nhưng quyền hạn không phải là vô tận và phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ sở hữu tài sản thuộc chế độ sở hữu toàn dân, thực hiện quyền sở hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế.

3Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Nxb Công an nhân dân, H 2006, 225.

Theo Điều 53 Hiến pháp 2013, tài sản công bao gồm đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý, thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước đại diện quản lý Bên cạnh đó, Điều 201 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước.

Nhà nước là một chủ thể đặc biệt trong quan hệ sở hữu, vì là chủ sở hữu duy nhất đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu Thay vì thực hiện quyền sở hữu trực tiếp, Nhà nước thông qua các văn bản pháp luật, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước để quản lý tài sản Vai trò của Nhà nước là kiểm tra, thanh tra và giám sát việc sử dụng tài sản nhằm đảm bảo tính hợp lý, tiết kiệm và đúng mục đích.

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các hình thức sở hữu

theo pháp luật Việt Nam

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập Nhà nước Việt Nam sở hữu toàn bộ lãnh thổ bao gồm đất, trời, biển, thềm lục địa và các hải đảo Các tài sản mà nhà nước sở hữu bao gồm những tài sản bị tịch thu, trưng mua và quốc hữu hóa, như hầm mỏ, xí nghiệp, nhà máy, cùng các cơ sở sản xuất và hạ tầng trong các lĩnh vực văn hóa, y tế, kỹ thuật và khoa học trên toàn quốc.

Trong giai đoạn này, nhà nước thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng” bằng cách thu hồi đất của các địa chủ phong kiến và phân chia cho nhân dân lao động Hình thức sở hữu đất đai của các địa chủ đã dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho quyền sở hữu ruộng đất của người lao động để phục vụ cho sản xuất.

Theo Điều 12 của Hiến pháp năm 1946, quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo, khẳng định rằng hình thức sở hữu tài sản cá nhân được công nhận và được pháp luật bảo vệ.

Giai đoạn 1960-1980 là thời kỳ quan trọng trong lịch sử Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đến quy định pháp luật về sở hữu Trong giai đoạn này, nhân dân Việt Nam phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.

Tại Điều 11 Hiến pháp năm 1959 đã xác định các hình thức sở hữu nước ta:

Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu bao gồm: sở hữu nhà nước đại diện cho toàn dân, sở hữu hợp tác xã thể hiện sự tập thể của nhân dân lao động, sở hữu cá nhân của người lao động, và sở hữu của nhà tư sản dân tộc.

10 TS Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, Nxb Chính trị - Hành chính, H 2011.

11Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Nxb Công an nhân dân, H 2006.

12TS Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, Nxb Chính trị - Hành chính, H 2011. h

Theo đó, hình thức sở hữu trong giai đoạn này là:

Hình thức sở hữu nhà nước được quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 1959, bao gồm các tài sản như hầm mỏ, sông ngòi, rừng cây, đất hoang và các tài nguyên khác theo quy định của pháp luật Quyền sở hữu toàn dân đối với những tài sản quan trọng của đất nước được ghi nhận trong Hiến pháp, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, đặc biệt phát triển qua phong trào hợp tác xã ở miền Bắc Việt Nam, được quy định trong Điều 13 Hiến pháp năm 1959, nhấn mạnh rằng “Kinh tế hợp tác xã thuộc hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động” Nhà nước khuyến khích sự phát triển của hợp tác xã, nơi mà nhân dân lao động tham gia tích cực Hợp tác xã là chủ sở hữu ruộng đất và các tư liệu sản xuất, hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập với quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo nguyên tắc tập trung dân chủ Tài sản của hợp tác xã bao gồm các tư liệu sản xuất, trong đó có đất đai, khẳng định vai trò quan trọng của hợp tác xã trong nền kinh tế.

Hình thức sở hữu của người lao động cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam Cụ thể, Điều 14 của Hiến pháp khẳng định quyền sở hữu của công dân, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Năm 1959, quy định của Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất của nông dân, đồng thời hướng dẫn và hỗ trợ họ cải tiến kỹ thuật canh tác và phát triển sản xuất Nhà nước khuyến khích nông dân tổ chức hợp tác xã sản xuất, mua bán và vay mượn theo nguyên tắc tự nguyện Điều này cũng áp dụng cho những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ, cho phép họ sở hữu tư liệu sản xuất trong ngành nghề của mình Nhà nước cam kết giúp đỡ cải tiến hoạt động sản xuất và khuyến khích việc thành lập hợp tác xã, cho thấy sự chú trọng vào phát triển kinh tế hợp tác xã trong giai đoạn này.

Theo Điều 16 Hiến pháp năm 1959, Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu của nhà tư sản dân tộc, bảo vệ tài sản và tư liệu sản xuất của họ Nhà nước khuyến khích các nhà tư sản dân tộc hoạt động vì lợi ích quốc kế dân sinh, đồng thời hướng dẫn họ tham gia vào cải cách xã hội chủ nghĩa thông qua các hình thức hợp tác công tư và cải tạo khác Mục tiêu là phát triển kinh tế quốc dân, góp phần vào sự thịnh vượng chung.

Trong giai đoạn 1959-1975 ở miền Bắc Việt Nam, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại nhiều hình thức sở hữu như sở hữu nhà nước, sở hữu hợp tác xã, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của tư sản dân tộc Trong số đó, sở hữu nhà nước và hợp tác xã được ưu tiên phát triển, đại diện cho các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa.

Sau khi đất nước được thống nhất, Hiến pháp của Nhà nước thống nhất năm

Hiến pháp năm 1980 đã xác định rõ quan điểm phát triển kinh tế, xã hội tại Việt Nam, nhấn mạnh rằng Nhà nước sẽ tiến hành cách mạng trong quan hệ sản xuất, hướng dẫn và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa Mục tiêu là thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhằm xây dựng nền kinh tế quốc dân với hai thành phần chủ yếu: kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động Trong giai đoạn này, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo và được ưu tiên phát triển.

Theo Điều 19 Hiến pháp 1980, tất cả tài sản như đất đai, rừng núi, tài nguyên thiên nhiên, xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng, và các công trình phục vụ lợi ích công cộng đều thuộc sở hữu của Nhà nước và toàn dân Hiến pháp này khẳng định rằng đất đai không còn thuộc sở hữu cá nhân như trong Hiến pháp 1959, mà là tài sản chung của toàn dân Các tài sản này bao gồm những tư liệu sản xuất quan trọng, thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát tài chính và hạ tầng quốc gia Trong bối cảnh khoa học công nghệ chưa phát triển, hệ thống thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình và điện ảnh cũng được coi là sở hữu toàn dân.

Hiến pháp năm 1980 đã ghi nhận hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, cụ thể tại Điều 23 quy định rằng “Tài sản của hợp tác xã và các tổ chức tập thể khác của nhân dân lao động được Nhà nước bảo vệ theo pháp luật” Điều này cho thấy sự công nhận quyền sở hữu không chỉ dành riêng cho hợp tác xã mà còn mở rộng cho các tổ chức tập thể khác Thêm vào đó, Điều 25 của Hiến pháp 1980 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sở hữu tập thể trong nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước ta đã tiến hành quốc hữu hóa toàn bộ cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản mà không bồi thường, thể hiện rõ ràng quyết tâm xóa bỏ hoàn toàn sở hữu của các địa chủ phong kiến.

Hình thức sở hữu ở một số nước trên thế giới

Quyển IV Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định về tài sản đã ghi nhận các hình thức sở hữu của Thái Lan, đó là: a Sở hữu Nhà nước

Theo quy định của của pháp luật Thái Lan, Nhà nước không chỉ nắm giữ các tài sản quốc gia, mà còn nắm giữ các tài sản như:

Quần đảo được hình thành trong một hồ nước hoặc nước đường trong vùng lãnh hải và vùng đất nổi lên ở sông là tài sản của Nhà nước.

Nếu tài sản cổ không có người nhận, quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, nhưng người tìm thấy có quyền nhận phần thưởng 10% giá trị tài sản Đất hoang và đất được trả lại cho Nhà nước theo quy định pháp luật có thể được mua lại theo quy định của pháp luật đất đai.

Bộ luật Thương mại và Dân sự Thái Lan quy định rằng đồng chủ sở hữu có cổ phần bằng nhau và quyền quản lý tài sản chung Pháp luật Thái Lan thừa nhận và bảo vệ các tài sản thuộc sở hữu chung.

Các vấn đề quản lý tài sản thường được quyết định bởi đa số đồng chủ sở hữu, nhưng mỗi đồng chủ sở hữu có quyền quản lý bình thường trừ khi có quyết định khác từ phần lớn Trong trường hợp này, những đồng chủ sở hữu có ý kiến khác vẫn có thể thực hiện các hành vi bảo quản tài sản Tất cả các quyết định quan trọng về việc định đoạt tài sản cần có sự đồng thuận của ít nhất một nửa giá trị tài sản từ các chủ sở hữu Đặc biệt, việc định đoạt tài sản chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu.

Mỗi đồng chủ sở hữu có quyền thực hiện các quyền liên quan đến quyền sở hữu tài sản, trừ khi có yêu cầu bồi thường do thu hồi tài sản Họ cũng có quyền sử dụng tài sản mà không xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người khác.

Theo Bộ luật Thương mại và Dân sự Thái Lan, quyền sở hữu tài sản được xác định khi một người giữ tài sản với ý định chiếm hữu cho riêng mình Người sở hữu được coi là có quyền sở hữu hợp pháp nếu việc chiếm hữu diễn ra một cách hòa bình, công khai và với mục đích tốt.

Trong những năm qua, nền kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Thái Lan Sự phát triển này đã dẫn đến nhu cầu cấp thiết phải ghi nhận sở hữu tư nhân trong hệ thống pháp luật, điều này không chỉ cần thiết cho Thái Lan mà còn cho các quốc gia khác trên thế giới.

Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách các hình thức sở hữu, đặc biệt là sở hữu nhà nước.

Trung Quốc xác định rằng tài sản cơ bản trong xã hội có tổ chức, là đất đai, được đặt dưới chế độ công hữu.

Nhà nước Trung Quốc kiểm soát các ngành, nghề quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nắm giữ hầu hết tư liệu sản xuất thiết yếu Kinh tế nhà nước phát triển thông qua việc đầu tư vào các lĩnh vực then chốt, đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế.

Bên cạnh đó là những tài sản quốc phòng, an ninh nhằm mục đích bảo vệ đất nước cũng thuộc sở hữu Nhà nước. h b Sở hữu tập thể

Kinh tế tập thể tại Trung Quốc được Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích phát triển mạnh mẽ ở cả khu vực thành phố và nông thôn Hình thức kinh tế này chủ yếu thể hiện qua các xí nghiệp, trong đó tài sản không chỉ bao gồm vốn góp ban đầu và công sức của người dân mà còn nhận được nguồn vốn hỗ trợ từ Nhà nước.

Theo Điều 8 khoản 1 của Hiến pháp Trung Quốc sửa đổi, tổ chức kinh tế tập thể ở nông thôn được xác định là cơ sở kinh doanh theo cơ chế khoán hộ gia đình, kết hợp giữa kinh doanh hai tầng, thống nhất và phân tán Điều này nhấn mạnh sự công nhận nền kinh tế tập thể và bảo đảm quyền sở hữu tập thể của quần chúng lao động xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế tư nhân, thể hiện qua việc pháp luật công nhận quyền sở hữu tư nhân Luật pháp Trung Quốc bảo vệ tài sản của công dân, đảm bảo rằng họ có quyền đối với tài sản của mình.

THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách nhằm tối đa hóa lợi nhuận từ đất đai, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp Chính sách giao đất không thu tiền cho nông dân, ngư dân và những người trồng rừng được áp dụng để phát triển quỹ đất nông nghiệp Bên cạnh việc xây dựng kinh tế, Nhà nước cũng chú trọng đến quốc phòng và an ninh thông qua việc giao đất không thu tiền cho các mục đích này Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách giao đất có thu tiền cho các tổ chức kinh tế gặp nhiều bất cập, khi nhiều nhà đầu tư không nhanh chóng triển khai dự án, dẫn đến lãng phí đất đai Việc thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để phát triển khu công nghiệp đã tạo ra hệ lụy xã hội, khi nông dân tiêu xài hoang phí tiền bồi thường mà không còn đất sản xuất Đối với tài nguyên nước và khoáng sản, Nhà nước đã ban hành quy định và thiết lập cơ quan quản lý để bảo vệ nguồn tài nguyên này, nhưng việc thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế Cuối cùng, Nhà nước cũng chủ trương bảo vệ và phát triển các nguồn lợi từ biển và rừng, nhưng tình trạng khai thác trái phép và bỏ hoang rừng vẫn diễn ra.

Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp nhà nước đang gặp khó khăn trong việc phát triển kinh tế do tư duy cũ kỹ về tài sản của nhà nước Sự thiếu đổi mới và sáng tạo trong quản lý đã dẫn đến sự đi xuống của các doanh nghiệp này, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh trên thị trường Việc thay đổi cách nhìn nhận và khai thác tài sản nhà nước một cách hiệu quả hơn là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Nhà nước giao tài sản chủ yếu là vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên, việc kiểm tra và giám sát việc sử dụng vốn đầu tư thường gặp nhiều tiêu cực Các cơ quan kiểm tra không chỉ phát hiện sai phạm mà còn đối mặt với tình trạng che giấu thông tin từ các doanh nghiệp này Hệ quả là nguồn vốn nhà nước không được sử dụng đúng mục đích, rơi vào tay những kẻ tham ô công quỹ.

Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội

Các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội tại Việt Nam hoạt động vì lợi ích chung của xã hội, không vì mục đích lợi nhuận Theo quy định pháp luật, nguồn tài sản của các tổ chức này bao gồm vốn đóng góp từ thành viên, tài sản được tặng và các nguồn khác hợp pháp do Nhà nước chuyển giao Những tổ chức này thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật và theo điều lệ của mình.

Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những tổ chức chính trị lớn, hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn đóng góp quỹ của Đảng viên và tài sản do Nhà nước chuyển giao Đảng viên cần gương mẫu trong việc tiết kiệm, tuân thủ quy định của Điều lệ Đảng, tuy nhiên vẫn còn một số ít có hành vi tham ô Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, cũng hoạt động dựa trên nguồn vốn đóng góp và tài sản được tặng, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách của Nhà nước và giúp đỡ nhân dân Để phát triển, Nhà nước đầu tư vào việc bồi dưỡng thanh thiếu niên thông qua Đoàn thanh niên tại các trường học Tuy nhiên, nguồn kinh phí hạn chế làm cho các hoạt động của Đoàn chưa được mở rộng, và việc công khai tài chính trong Đoàn thanh niên gặp khó khăn, dễ dẫn đến tiêu dùng hoang phí trong một bộ phận nhỏ Đoàn viên.

Các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội sử dụng ngân quỹ của mình theo đúng quy định, nhằm phục vụ lợi ích cộng đồng thay vì mục tiêu lợi nhuận.

Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tập thể

Hình thức sở hữu tập thể được thể hiện qua các hợp tác xã, là tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục tiêu lợi nhuận Theo quy định pháp luật, tài sản của hợp tác xã được hình thành từ vốn góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp từ sản xuất, kinh doanh, cùng với sự hỗ trợ từ Nhà nước hoặc các nguồn khác hợp pháp.

Hợp tác xã sử dụng tài sản từ nguồn vốn đóng góp của xã viên để gia tăng sản xuất và kinh doanh dịch vụ theo quy định của pháp luật Việc sử dụng tài sản phải dựa trên sự đồng thuận trong tập thể, đảm bảo đúng mục đích quy định trong điều lệ Trong những năm qua, hợp tác xã đã tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn Khi góp vốn, xã viên có ý thức hơn trong việc sử dụng ngân quỹ, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận Đối với tài sản do nhà nước hỗ trợ, Ban quản trị quyết định sử dụng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhằm đảm bảo lợi nhuận và tuân thủ quy định pháp luật cũng như điều lệ của hợp tác xã.

Mặc dù hình thức sở hữu hợp tác xã mang lại nhiều lợi ích, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn Các thành viên chủ yếu là nông dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp, những ngành nghề phụ thuộc nhiều vào thời tiết và thường không mang lại lợi nhuận cao, dẫn đến tình trạng giải thể và phá sản Nông dân và ngư dân thường thiếu kiến thức kinh tế và hiểu biết về chiến lược phát triển, dẫn đến những quyết định sai lầm trong việc sử dụng nguồn vốn đóng góp và tài sản hỗ trợ từ Nhà nước Hơn nữa, nguồn vốn đóng góp từ xã viên thường thấp, gây khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất để gia tăng lợi nhuận Việc kiểm toán tại các hợp tác xã còn hạn chế, làm gia tăng nguy cơ tiêu cực trong quản lý ngân quỹ do thiếu sự giám sát.

Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tư nhân

Tài sản tư liệu tiêu dùng, thường là thu nhập hợp pháp từ tiền lương hàng tháng, được cá nhân sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và gia đình với quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt Tuy nhiên, nhiều cá nhân khai báo thu nhập thấp hơn thực tế để tránh nghĩa vụ thuế, dẫn đến sự không công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ này, đặc biệt là tại các doanh nghiệp tư nhân Đối với tài sản để dành như vàng, bạc, và tiền, việc tích trữ quá mức có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, như làm tăng giá vàng và tạo ra sự phân hóa giàu nghèo Khi giá vàng tăng, người giàu tích trữ, trong khi người nghèo khó khăn trong việc mua sắm Sự biến động giá vàng có thể dẫn đến tình trạng hỗn loạn khi người sở hữu bán tháo khi giá giảm Ngoài ra, việc cho vay, cho thuê tài sản cũng có thể dẫn đến tranh chấp giữa chủ sở hữu và người sử dụng Điều 22 Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền sở hữu nhà ở, nhấn mạnh tầm quan trọng của tài sản này trong đời sống cá nhân.

Mỗi công dân đều có quyền sở hữu nhà ở hợp pháp, bao gồm quyền xây dựng, mua, thừa kế hoặc nhận tặng cho Họ có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, đồng thời được nhà nước bảo vệ quyền sở hữu Việc xây dựng nhà ở trên đất do nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất là điều kiện cần thiết để đảm bảo quyền lợi của công dân.

Theo Điều 55 Luật đất đai năm 2013, việc xây dựng nhà ở phải tuân thủ quy hoạch của nhà nước và được cấp giấy phép từ cơ quan có thẩm quyền Tuy nhiên, vẫn xảy ra tình trạng xây dựng trái phép, như xây nhà không xin phép hoặc xây vượt tầng quy định Gần đây, nhiều cư dân chung cư gặp khó khăn trong việc sửa chữa nhà ở do phải thông qua ban quản lý tòa nhà Sự gia tăng giá nhà đất đã dẫn đến nhiều vụ lừa đảo, khi một căn nhà được bán cho nhiều người Về tư liệu sinh hoạt, pháp luật công nhận quyền sở hữu cá nhân, và trong tranh chấp, chỉ cần chứng minh quyền sở hữu Đối với tư liệu sản xuất, cá nhân luôn muốn đầu tư để thu lợi nhuận, và pháp luật khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân Sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra bước chuyển biến cho nền kinh tế Việt Nam Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn về vốn đầu tư và các nghĩa vụ tài chính với nhà nước, cũng như thủ tục thuế quan, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu chung

Sở hữu chung theo phần cho phép nhiều người cùng chung sức tạo ra tài sản, giúp tài sản hình thành nhanh chóng và đạt chất lượng tốt hơn Ví dụ, khi hai người cùng may một chiếc áo, người may phần thân áo và người may tay áo sẽ tạo ra tài sản chung Các chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo thỏa thuận Tuy nhiên, có thể xảy ra tranh chấp giữa các chủ sở hữu khi họ không hài lòng với phần tài sản của mình.

Tài sản chung được hình thành từ việc góp tiền để mua sắm hoặc xây dựng công trình, với quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt được thực hiện dựa trên nguyên tắc nhất trí giữa các chủ sở hữu Ví dụ, hai người bạn cùng phòng trọ góp tiền mua xe máy để thuận tiện di chuyển, hay một khu tập thể cùng nhau xây dựng bể lọc nước để sử dụng chung Tuy nhiên, việc nhiều chủ thể cùng sử dụng một tài sản có thể dẫn đến mâu thuẫn trong quá trình sử dụng.

Tài sản được tặng hoặc thừa kế chung thường được phân chia theo di chúc của người đã mất hoặc theo quy định pháp luật về thừa kế Các chủ sở hữu chỉ cần tuân thủ di chúc hoặc quy định pháp luật liên quan để thực hiện quyền thừa kế, do đó thường không phát sinh vấn đề trong quá trình phân chia tài sản.

Sở hữu chung hợp nhất bao gồm hai loại: sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và không thể phân chia Ví dụ, khi người cha qua đời, ông có thể để lại quyền thừa kế số tiền dành dụm cho vợ chồng người con trai cả, thể hiện sở hữu chung có thể phân chia Ngược lại, chiếc xe máy mà hai vợ chồng anh A mua để phục vụ cho việc đi lại trong gia đình là ví dụ của sở hữu chung không thể phân chia.

Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc thực hiện quyền sở hữu chung, quản lý tài sản chung dựa trên sự đồng thuận, trừ khi pháp luật có quy định khác Họ cũng có quyền khai thác công dụng của tài sản và cùng hưởng hoa lợi, lợi ích chung, thường được sử dụng để phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt gia đình.

Xã hội ngày càng phát triển, tiếng nói của phụ nữ ngày càng được coi trọng hơn trong gia đình Vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc đầu tư tài sản chung vào các doanh nghiệp khác nhau nhằm tăng trưởng tài sản Tuy nhiên, vẫn tồn tại những gia đình, đặc biệt ở khu vực nông thôn, nơi người vợ không có quyền quyết định về tài sản chung và phải tuân theo quyết định của chồng.

Trong thực tế, đã xảy ra nhiều vụ việc mà một bên vợ hoặc chồng tự ý chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, như quyền sử dụng đất hay nhà ở, mà theo quy định pháp luật cần có sự đồng ý của cả hai bên Hành động này dẫn đến tranh chấp, vì giao dịch liên quan đến tài sản đó thường bị coi là không có giá trị pháp lý Mặc dù một trong hai bên đã nhận được quyền lợi từ giao dịch, nhưng việc thực hiện nghĩa vụ liên quan lại trở nên khó khăn.

Trong sở hữu chung cộng đồng, mỗi thành viên đều có quyền sử dụng tài sản chung, nhưng việc quyết định liên quan đến tài sản phải dựa trên sự nhất trí và thỏa thuận của tất cả Tài sản chung thường bao gồm nhà thờ họ và các khu sinh hoạt cộng đồng, nơi mà mọi người tôn trọng và bảo vệ Tuy nhiên, có những trường hợp một thành viên sử dụng tài sản chung cho mục đích cá nhân mà không có sự đồng ý của người khác, như việc đào ao thả cá, có thể gây ra mâu thuẫn Ngoài ra, việc một người bán phần đất của nhà thờ họ mà không được sự đồng ý cũng dẫn đến tranh chấp Các khu sinh hoạt chung thường được xác định rõ ràng và được cộng đồng đồng thuận sử dụng, do đó ít xảy ra tranh chấp về quyền chiếm hữu và sử dụng.

Sở hữu chung hỗn hợp là hình thức mà các chủ thể từ các thành phần kinh tế khác nhau, bao gồm Nhà nước, tập thể và tư nhân, cùng góp vốn để thực hiện hoạt động sản xuất và kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận Tài sản trong sở hữu này có thể là nhà máy, xí nghiệp, máy móc, khu chung cư và nguồn vốn đầu tư Các chủ thể thực hiện quyền sở hữu chung theo nguyên tắc nhất trí và thỏa thuận, hướng tới việc tối ưu hóa lợi nhuận từ tài sản chung Mặc dù các bên thường có sự đồng thuận cao trong việc sử dụng tài sản để đạt được lợi nhuận tối đa, vẫn có thể xảy ra tranh chấp khi một chủ thể định đoạt tài sản mà không có sự đồng ý của các bên khác, dẫn đến những rủi ro tài chính cho các chủ thể liên quan.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Quan điểm chung về các hình thức sở hữu

Hiện nay, có các luồng quan điểm về việc phân loại các hình thức sở hữu là:

Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đề xuất ba hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung, nhằm ghi nhận quy định của Điều 53 Hiến pháp năm 2013 Sở hữu toàn dân, liên quan đến các tài sản có giá trị lớn và tư liệu sản xuất chủ yếu của đất nước, được coi là hình thức sở hữu quan trọng về mặt kinh tế và chính trị PGS.TS Phùng Trung Tập từ ĐH Luật Hà Nội nhấn mạnh rằng hình thức sở hữu này giúp xác định chủ thể tác động lên quyền sở hữu, trong khi Nhà nước là một chủ thể độc lập bên cạnh các hình thức sở hữu khác như sở hữu cá nhân của công ty, doanh nghiệp, và sở hữu chung của vợ chồng hay theo phần.

Quan điểm của tôi là cần quy định ba hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung Sở hữu toàn dân được xem là hình thức sở hữu độc lập, bao gồm những tài sản đặc biệt như đất đai, sông hồ, rừng núi, tài nguyên thiên nhiên, và tài sản quốc phòng, an ninh Những tài sản này không thuộc về cá nhân nào mà là của toàn thể công dân, với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu Việc này giúp người dân ý thức bảo vệ và sử dụng tiết kiệm tài sản chung, tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”.

Bài viết trên trang báo điện tử Chính phủ Việt Nam đề cập đến việc lấy ý kiến nhân dân và đề xuất ba quy định về hình thức sở hữu Thông tin này được công bố vào năm 2015, thể hiện sự quan tâm của chính phủ đối với việc lắng nghe ý kiến cộng đồng trong quá trình xây dựng chính sách.

Hình thức sở hữu chung là tài sản do nhiều chủ thể góp sức hoặc được tặng cho, thuộc về một nhóm người, với quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung dựa trên sự nhất trí Sở hữu chung chỉ có thể có nhiều chủ sở hữu, trong khi sở hữu riêng chỉ có một chủ sở hữu Sở hữu toàn dân, mặc dù thuộc về toàn thể dân tộc, nhưng thực tế chỉ được thể hiện qua Nhà nước Do đó, cần có quy định riêng cho hình thức sở hữu toàn dân, khác biệt với sở hữu chung và sở hữu riêng để phản ánh những đặc thù của nó.

Có ý kiến cho rằng chỉ nên quy định hai hình thức sở hữu: sở hữu riêng và sở hữu chung, trong đó sở hữu toàn dân là một dạng đặc biệt của sở hữu chung Lý do là vì việc phân loại sở hữu dựa trên số lượng chủ thể thực hiện quyền sở hữu, không phụ thuộc vào việc xác định cụ thể chủ thể đó Sở hữu toàn dân được hiểu là hình thức sở hữu chung, với toàn dân là chủ sở hữu và Nhà nước là đại diện, do đó không nên xem sở hữu toàn dân như một hình thức độc lập Tuy nhiên, việc quy định sở hữu toàn dân trong khuôn khổ sở hữu chung có thể không làm rõ ràng vai trò của Nhà nước trong quan hệ sở hữu này.

Bài viết đề xuất rằng Bộ luật Dân sự cần quy định ba hình thức sở hữu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu chung Sở hữu toàn dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 53) và được hiểu là chế độ sở hữu Trong mối quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, cần xác định rõ chủ thể có quyền và nghĩa vụ dân sự, đó có thể là cá nhân hoặc tổ chức Trong chế độ sở hữu toàn dân, chỉ có Nhà nước mới có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công, đại diện cho toàn dân Do đó, sở hữu toàn dân được hiểu là chế độ sở hữu, trong khi hình thức sở hữu cụ thể là sở hữu Nhà nước.

Trong 10 năm qua, hình thức sở hữu Nhà nước đã được quy định trong Bộ luật Dân sự và nhiều văn bản pháp luật khác Việc không quy định rõ ràng hình thức sở hữu Nhà nước trong Bộ luật Dân sự có thể dẫn đến việc phải sửa đổi nhiều văn bản và phát sinh chi phí Do đó, cần có một tên gọi chính xác để phản ánh bản chất của hình thức sở hữu này, dù có thể phát sinh chi phí, nhưng điều này là cần thiết để hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật.

2013 đã quy định về hình thức sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu rồi.

Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về các hình thức sở hữu ở nước ta hiện nay

Điều 51 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thừa nhận chế độ kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Hiến pháp năm 2013 không quy định rõ các hình thức sở hữu mà chỉ nói tới hình thức sở hữu toàn dân (sở hữu Nhà nước) khác với Hiến pháp năm 1992 quy định các thành phần kinh tế đi kèm với đó là các hình thức sở hữu được Nhà nước ghi nhận Bộ luật Dân sự năm 2005 là Bộ luật được xây dựng căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10, Hiến pháp năm 2013 đã thay thế bản Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước Vì vậy, mà Bộ luật dân sự cũng cần có những thay đổi để phù hợp với Hiến pháp mới ra đời Trong phạm vi bài khóa luận tốt nghiệp của mình, em xin trình bày một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về các hình thức sở hữu ở nước ta hiện nay: Đổi tên hình thức sở hữu nhà nước thành hình thức sở hữu toàn dân: Theo quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” Việc đổi tên hình thức sở hữu nhà nước thành hình thức sở hữu toàn dân sẽ thống nhất tên gọi với Đạo luật gốc là Hiến pháp và các văn bản chuyên ngành khác như Luật đất đai năm 2013 (Điều 4

Theo quy định của năm 2015, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thực hiện quản lý thống nhất Điều này được nêu rõ trong bài viết trên Báo điện tử Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều này thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với tài sản quốc gia, phù hợp với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích của Nhân dân.

Nhà nước chỉ là đại diện cho quyền sở hữu tài sản, trong khi nhân dân mới là chủ sở hữu thực sự Mọi quyết định quan trọng liên quan đến tài sản thuộc sở hữu toàn dân đều phải được Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, phê duyệt Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và tiếng nói của các Đại biểu Quốc hội chính là tiếng nói của nhân dân, với mục tiêu phục vụ lợi ích của cộng đồng.

Theo Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005, hình thức sở hữu tập thể và sở hữu của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và nghề nghiệp sẽ được thay thế bằng hình thức sở hữu của pháp nhân Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định trong luật.

1 Được thành lập hợp pháp

2 Có cơ cầu tổ chức chặt chẽ

3 Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó

4 Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”.

Hợp tác xã và các tổ chức chính trị, xã hội đều là pháp nhân với mục tiêu hoạt động khác nhau: một bên vì lợi nhuận, bên còn lại vì lợi ích cộng đồng Tất cả hoạt động của các tổ chức này phải tuân thủ quy định pháp luật và điều lệ riêng của từng tổ chức Quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của các pháp nhân phải dựa trên điều lệ quy định, đảm bảo sự phát triển ổn định và thực hiện tốt mục tiêu đề ra Ngoài hợp tác xã, các pháp nhân khác như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế và quỹ xã hội cũng có những quy định riêng về sở hữu và mục tiêu hoạt động, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.

Cần quy định rõ hình thức sở hữu của hộ gia đình trong Bộ luật dân sự hiện hành, theo đó hộ gia đình có thể sở hữu tài sản theo hình thức sở hữu tập thể khi cùng góp vốn và hợp tác sản xuất, kinh doanh Quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của hộ gia đình nên dựa trên sự đồng thuận của các thành viên, giúp mỗi cá nhân cảm thấy có tiếng nói và trách nhiệm đối với tài sản đã góp Điều này khuyến khích mọi người nỗ lực tối đa để thu lợi nhuận từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của hộ gia đình Để tránh sự trùng lặp trong quy định, cần loại bỏ quy định về sở hữu chung hỗn hợp.

Sở hữu chung hỗn hợp là hình thức sở hữu tài sản do các chủ sở hữu từ các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất và kinh doanh nhằm thu lợi nhuận Hình thức này tương tự như sở hữu chung theo phần, trong đó quyền sở hữu của mỗi chủ thể được xác định Sự khác biệt chính nằm ở việc các chủ thể trong sở hữu chung hỗn hợp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, và mục tiêu là tạo ra lợi nhuận Do đó, cần quy định một hình thức sở hữu chung rộng hơn, vì sở hữu chung theo phần bao hàm cả sở hữu chung hỗn hợp theo Bộ luật Dân sự năm 2005 Các chủ thể trong sở hữu chung hỗn hợp có thể xác định phần quyền sở hữu của mình thông qua các tài sản như tiền, cửa hàng thương mại, bằng phát minh sáng chế, và các tài sản có thể định giá khác Hơn nữa, việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản trong cả hai hình thức sở hữu này được quy định giống nhau trong Bộ luật Dân sự năm 2005.

Trong những năm gần đây, kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt so với thời kỳ trước khi nền kinh tế tập thể hợp tác xã được người dân tham gia nhiệt tình Để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân và nâng cao quyền làm chủ của cá nhân đối với tài sản, cần thiết phải có những quy định phù hợp Những quy định này sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.

Cần thiết phải có quy định rõ ràng về việc định đoạt tài sản có giá trị lớn trong sở hữu chung của cộng đồng, nhằm tránh tình trạng một cá nhân có quyền lực tự ý quyết định mà không có sự đồng thuận từ các thành viên khác Theo pháp luật, tài sản chung của cộng đồng là tài sản không thể phân chia, do đó, cần quy định cụ thể rằng các tài sản lớn như bất động sản phải được sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu Quy định này không chỉ bảo vệ quyền làm chủ tài sản chung của từng thành viên mà còn giảm thiểu tranh chấp phát sinh trong quá trình quyết định về tài sản chung.

Ngày đăng: 06/11/2023, 05:26

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
9. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1
Nhà XB: Nxb. Giáodục
10. TS Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
Tác giả: TS Phùng Trung Tập
Nhà XB: Nxb. Chính trị - Hành chính
Năm: 2011
11. Thu Phương (2015), Các hình thức sở hữu phù hợp với thực tiễn, Báo tin tức, baotintuc.vn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các hình thức sở hữu phù hợp với thực tiễn
Tác giả: Thu Phương
Nhà XB: Báo tin tức
Năm: 2015
12. Lấy ý kiến nhân dân (2015), Đề xuất 3 quy định hình thức sở hữu, Báo điện tử chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, baodientu.chinhphu.vn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo điện tửchính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tác giả: Lấy ý kiến nhân dân
Năm: 2015
13. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, Quyển IV, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 1995
15. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb.Công an nhân dân
Năm: 2006
1. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 Khác
2. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 Khác
3. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 Khác
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 Khác
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 Khác
6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 Khác
7. Luật đất đai của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam năm 2013 Khác
14. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 15 Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

  • Đang cập nhật ...

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w