1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tâm lý học lao động

80 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tâm lý học lao động
Tác giả PGS TS Về Hưng, ThS. Phạm Thị Bích Ngân
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Giáo dục học
Thể loại Giáo trình
Năm xuất bản 2007
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 1,3 MB

Cấu trúc

  • PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG (61)
    • I. KHÁI QUÁT VỀ LAO ĐỘNG (4)
    • II. KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG (0)
      • 2.1. Quan nieọm (7)
      • 2.2. Lược sử tâm lí học lao động (0)
    • III. QUAN HỆ VỚI CÁC NGÀNH KHÁC (9)
      • 3.1. Với Sinh lý học và Ecgonomi (9)
      • 3.2. Với Tâm lí học đại cương và Tâm lý học phát triển (0)
      • 3.3. Phát triển đến tâm lí học kĩ thuật - công nghiệp (0)
    • IV. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP (10)
      • 4.1. Đối tượng và nhiệm vụ (0)
      • 4.2. Phương pháp luận tiếp cận chủ yếu (11)
        • 4.2.1. Tiếp cận thực tiễn (11)
        • 4.2.2. Tiếp cận tập thể –xã hội (11)
        • 4.2.3. Tiếp cận kỹ thuật - công nghệ (11)
      • 4.3. Phương pháp nghiên cứu thực địa (12)
        • 4.3.1. Hồi cứu (12)
        • 4.3.2. ẹieàu tra (12)
        • 4.3.3. Phaân tích (12)
        • 4.3.4. Quan sát, mô tả (13)
        • 4.3.5. Kết luận, nhận định (13)
      • 4.4. Phương pháp thực nghiệm (13)
  • PHẦN II. PHÂN TÍCH LAO ĐỘNG (0)
    • I. MUẽC ẹÍCH (14)
      • 1.1. Phân loại lao động (14)
      • 1.2. Đặc trưng của lao động – Một hình thức vận động (15)
        • 1.2.1. Lực cơ (15)
        • 1.2.2. Tốc độ chuyển động (15)
        • 1.2.3. Nhịp điệu chuyển động (16)
        • 1.2.4. Phối hợp chuyển động (16)
        • 1.2.5. Yeõu caàu taõm lyự cuỷa coõng vieọc (16)
    • II. ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG (17)
      • 2.2. Khái quát về môi trường lao động (19)
        • 2.2.1. Môi trường tự nhiên (19)
        • 2.2.2. Môi trường xã hội (22)
        • 2.2.3. Các yêu cầu về Ecgônômi (23)
      • 2.3. Bảo vệ sức khỏe. Phòng chống mệt mỏi (0)
        • 2.3.1. Khái niệm mệt mỏi (25)
        • 2.3.2. Chẩn đoán mệt mỏi (26)
        • 2.3.3. Phòng chống mệt mỏi (26)
      • 2.4. Khả năng lao động (0)
        • 2.4.1. Khái niệm (27)
        • 2.4.2. Biểu hiện của khả năng lao động (28)
        • 2.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng lao động (28)
        • 2.4.4. Sự đơn điệu (29)
    • III. TUYỂN CHỌN NGHỀ. ĐÀO TẠO NGHỀ (31)
      • 3.1. Khái niệm nghề nghiệp (31)
      • 3.2. Ý nghĩa và nguyên tắc tuyển chọn (31)
      • 3.3. Công tác hướng nghiệp (32)
        • 3.3.1. Nội dung hướng nghiệp (32)
        • 3.3.2. Công tác hướng nghiệp (33)
      • 3.4. Dạy nghề và chuyên môn hóa nghề (35)
    • IV. HÌNH THÀNH NĂNG LỰC NGHỀ (36)
      • 4.1. Khái niệm năng lực (36)
      • 4.2. Sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo (0)
    • V. HỌC TẬP (37)
      • 5.1. Khái niệm học tập. Các loại học tập (37)
      • 5.2. Cơ sở sinh lý của quá trình học tập (0)
        • 5.2.1. Điều kiện hóa kinh điển (0)
        • 5.2.2. Điều kiện hóa thao tác (39)
        • 5.2.3. Diễn biến của quá trình học tập (39)
    • VI. STRESS (40)
      • 6.1. Khái niệm stress (40)
        • 6.1.1. Một số quan điểm (40)
        • 6.1.2. Thuật ngữ stress (41)
      • 6.2. Lyù thuyeát veà stress (0)
        • 6.2.1. Lyù thuyeát sinh lyù (42)
        • 6.2.2. Lý thuyết di truyền – thể tạng (43)
        • 6.2.3. Lyù thuyeát taâm lyù (43)
        • 6.2.4. Lý thuyết xã hội (44)
      • 6.3. Nguyeân nhaân gaây stress (45)
        • 6.3.1. Những thay đổi trong cuộc sống (46)
        • 6.3.2. Stress và những điều phiền toái (47)
        • 6.3.3. Nguyên nhân đến từ môi trường (0)
        • 6.3.4. Stress và nhân cách (48)
      • 6.4. Những yếu tố điều tiết stress (50)
        • 6.4.1. Nhận thức (50)
        • 6.4.2. Bản lĩnh (50)
        • 6.4.3. Sự hỗ trợ của cộng đồng (51)
      • 6.5. Phản ứng với sress (0)
        • 6.5.1. Phản ứng khẩn cấp (51)
        • 6.5.2. Phản ứng tâm lý (51)
        • 6.5.3. Phản ứng nhận thức (52)
      • 6.6. Ứng phó với stress (53)
        • 6.6.1. Chiến lược ứng phó sơ cấp (53)
        • 6.6.2. Chiến lược ứng phó thứ cấp (54)
    • VII. STRESS NGHEÀ NGHIEÄP (SNN) (55)
      • 7.1. Stress không phải của riêng người lao động (0)
      • 7.2. Xác định SNN (56)
      • 7.3. Tác hại của SNN (56)
      • 7.4. Những triệu chứn g SNN (56)
      • 7.5. Nguoàn goác SNN (58)
        • 7.5.1. SNN do điều kiện lao động (59)
        • 7.5.2. SNN do vai trò lao động (59)
      • 7.6. Nguyên tắc ứng phó với SNN (0)
        • 7.6.1. Chiến lược cá nhân (60)
        • 7.6.2. Chiến lược chung (60)
        • 7.6.3. Thang đánh giá SNN (61)
  • PHẦN III. LAO ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN KỸ THUẬT MỚI (0)
    • 1. HỆ THỐNG NGƯỜI, MÁY VÀ MÔI TRƯỜNG (0)
      • 1.1. Khái niệm N-M-MT (62)
      • 1.2. Hoạt động điều khiển của con người trong hệ thống N-M-MT (63)
      • 1.3. Biểu hiện tâm lí của người điều khiển (0)
      • 1.4. Tính ưu việt của con người (65)
      • 1.5. Phân loại hoạt động của người điều khiển (65)
    • II. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN (66)
      • 2.1. Tieõu chuaồn (66)
      • 2.2. Chế độ (66)
    • III. ĐỘ TIN CẬY Ở NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN (66)
      • 3.1. Độ tin cậy (66)
      • 3.2. Đánh giá độ tin cậy (67)
      • 3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy (67)
      • 3.4. Các biện pháp đảm bảo độ tin cậy (67)
    • IV. YEÂU CAÀU TAÂM SINH LÍ VEÀ THIEÁT KEÁ – BOÁ TRÍ HỆ THỐNG MÁY ĐIỀU KHIỂN TỰ ĐỘNG (0)
      • 4.1. Yêu cầu đối với đầu vào (68)
      • 4.2. Yêu cầu đối với đầu ra (0)
  • Tài liệu tham khảo (13)

Nội dung

KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG

KHÁI QUÁT VỀ LAO ĐỘNG

Một trong những nhu cầu cơ bản của con người, bên cạnh bốn nhu cầu sinh học thiết yếu như ăn, ngủ, sinh sản và đào thải, là hoạt động Hoạt động này bao gồm nhiều hình thức khác nhau, từ hoạt động thể chất như vận động chân tay đến hoạt động tinh thần như phát triển trí tuệ, phục vụ cho những mục đích và nhu cầu đa dạng Trong số các hình thức hoạt động, lao động được coi là quan trọng nhất.

Engel viết: "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người Chính lao động đã sáng tạo ra con người"

Marx cho rằng lao động là một quá trình tương tác giữa con người và môi trường, trong đó con người đóng vai trò trung gian, thể hiện và kiểm soát sự trao đổi chất của thiên nhiên.

Hoạt động lao động ngày nay có những đặc điểm cơ bản như sau:

1 Lao động luụn mang tớnh tập thể, tớnh xóừù hội Khụng ai cú thể tự mình làm ra một sản phẩm hoàn chỉnh Sự phân công lao động xã hội đã hình thành từ rất xa xưa, từ khi xuất hiện hình thái kinh tế nông nghiệp, khi có những người chuyên trồng trọt và có những người chuyên sản xuất công cụ sản xuất và chế biến lương thực Sự phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc

Mỗi cá nhân và nhóm người chỉ được giao nhiệm vụ thực hiện một số công đoạn nhất định trong quá trình sản xuất, do đó, sự phối hợp giữa các bộ phận cần chặt chẽ để đảm bảo tính thống nhất và chỉnh thể của sản phẩm Trong bối cảnh toàn cầu hóa, phân công lao động không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn diễn ra trên quy mô quốc tế, mở rộng tính xã hội của lao động Sự phụ thuộc lẫn nhau về nguồn lực, tài nguyên và công nghệ giữa các quốc gia làm cho chuyên môn hóa trở nên cần thiết hơn Điều này thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, trở thành một xu hướng tất yếu để không bị tụt hậu.

2 Lao động là hoạt động luôn đi kèm với công cụ Từ sản xuất thủ công đến bán cơ khí rồi cơ khí, bán tự động rồi tự động hóa hoàn toàn, sự phát triển của công cụ, máy móc, thiết bị, của lực lượng sản xuất nói chung là yếu tố cực kì quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của xó hội, trờn từng lónh thổ, từứng quốc gia và cả trờn toàn thế giới Mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa con người và máy móc ngày càng chặt chẽ trong những môi trường tự nhiên và xã hội nhất định, tạo nên một hệ thống nhất quán "Con người - Máy móc - Môi trường" Hoạt động lao động sản xuất của con người không thể thoát ra ngoài hệ thống đó Để đảm bảo sự hài hòa nhất quán trong hệ thống đó con người luôn luôn phải giữ vai trò chủ độâng, luôn luôn phải giữ vị trí trung tõm (Vấn đềứ này sẽ được trỡnh bày đầy đủ hơn trong giỏo trỡnh "Tổ chức lao động khoa học và ecgônômi")

3 Lao động của con người bao giờ cũng có mục đích Mục đích bao trùm lên tất cả là lao động phải có hiệu quả Hiệu quả có nghĩa là thu nhập đầu vào sau cùng phải lớn hơn chi phí bỏ ra (bao gồm sức lực, thể chất và trí tuệ cũng như vốn liếng, của cải, thời gian) Nói cách khác là phải có lợi nhuận Lợi nhuận không chỉ tính cho cá nhân mà còn phải tính cho cả xã hội bởi vì xã hội cũng đã góp một phần không nhỏ cho hoạt động lao động của mỗi người Vấn đề đặt ra là phân phối lợi nhuận đó như thế nào để đảm bảo công bằng và phát triển cho mọi thành phần tham gia lao động Trước hết là người lao động (theo cách nói thông thường là người làm thuê) Người lao động phải được trả cụng xứng đỏng với sức lực thể chất và trớ tuệù bỏ ra nghĩa là phải đảm bảo cho họ và những người mà họ có trách nhiệm bảo bọc cú đủ khả năng thỏa món những nhu cầu củựa cuộùc sống và tỏi sản xuất sức lao động Người sử dụng lao động (theo cách nói thông thường là giới chủ) cũng như thế, nghĩa là phải đảm bảo được quyền lợi tối thiểu như người lao động Ngoài ra họ còn phải nhận được chi phí cho khấu hao tài sản và lợi nhuận cho tiền vốn bỏ ra Họ còn phải có chi phí dự trữ cho nhu cầu tái sản xuất mở rộng, cũng là góp phần chung cho xã hội phát triển Thành phần thứ ba cần được hưởng lợi là xã hội, nói rõ hơn là ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo trả công cho mọi nguồn lực hoạt động xã hội bao gồm cơ sở hạ tầng, hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa và nhất là quốc phòng Nguồn ngân sách đó không gì khác hơn là nguồn thu từ hai thành phần nói trên mà thông thường gọi là thuế - thuế thu nhập của mọi người lao động Có lương, có thu nhập thì phải đóng thuế thu nhập Có nhiều đóng nhiều, có ít đóng ít Đó là nghĩa vụ cũng là quyền lợi tinh thần cao quý của mọi công dân Phần thu ngân sách chủ yếu còn là các loại thuế khác mà người tham gia những hoạt động sản xuất, dịch vụ khác phải làm nghĩa vụ đối với nhà nước Ngân sách nhà nước lớùn hay nhỏ phụ thuộc vào khả năng điều tiết của cơ quan công quyền Ngân sách nhà nước ngày một lớn thì cuộc sống của người dân ngày một tốt đẹp hơn Dân có giàu nhưng nhà nước có điều tiết giỏi thì nước mới

Lao động là hoạt động có mục đích tạo ra giá trị sử dụng, theo quan điểm của Marx, và là một trong những quyền lợi cơ bản của con người Qua lao động, con người tạo ra của cải để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội Đồng thời, lao động không chỉ xây dựng xã hội mà còn góp phần hình thành sản phẩm văn hóa, từ đó thúc đẩy sự phát triển về thể chất và tâm hồn của con người.

Lao động không chỉ là hoạt động thể chất mà còn phản ánh các chức năng của cơ thể Về mặt tinh thần, lao động thể hiện những đặc điểm nổi bật của tâm lý con người, bao gồm tính tích cực, tinh thần tập thể, sự gắn kết xã hội và tính mục đích trong công việc.

Lao động xã hội là hình thức lao động tập thể, nơi nhiều người và nhóm người cùng nhau đóng góp và phối hợp Trong quá trình làm việc, các thành viên trong nhóm thường xuyên giao lưu và tác động lẫn nhau, tạo nên một bầu không khí tâm lý phong phú và đa dạng.

Các tập thể lao động được hình thành từ các nhân tố chủ quan và khách quan

Nhaân toá chuû quan bao goàm

Mục tiêu là những định hướng quan trọng cho hành động lao động, xác định tính chất và phương pháp thực hiện Có nhiều loại mục tiêu, bao gồm mục tiêu cá nhân, tập thể và xã hội, tất cả đều cần hài hòa giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích cộng đồng Ngoài ra, mục tiêu còn được phân loại theo thời gian như mục tiêu hàng ngày, mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn Mỗi loại mục tiêu yêu cầu phương pháp, nguồn lực, thời gian và nỗ lực khác nhau để đạt được hiệu quả cao nhất.

Phương pháp Để hoạt động lao động xã hội có hiệu quả cần có phương pháp, phương tiện thích hợp và có kế hoạch làm việc hợp lý

Khi chuyên môn hóa gia tăng, yêu cầu về phối hợp giữa các bộ phận trở nên chặt chẽ hơn Kế hoạch ngắn hạn và dài hạn đều nhằm phục vụ cho các mục tiêu trước mắt và lâu dài Mục tiêu được xác định trước kế hoạch, nhưng lại là kết quả cuối cùng mà kế hoạch hướng tới.

Lợi ích từ hoạt động chung đóng vai trò là nguồn động lực quan trọng, thúc đẩy sự nỗ lực tập thể và tạo sức mạnh cho các hoạt động hướng tới mục tiêu chung.

Hoạt động tập thể không thể thiếu sự chỉ đạo của người lãnh đạo, và phẩm chất của người lãnh đạo (thủ lĩnh) đóng vai trò cực kỳ quan trọng Mối quan hệ giữa tư lệnh và thành viên là hai chiều, dựa trên niềm tin và sự tin tưởng lẫn nhau Niềm tin này được hình thành từ phẩm chất của thủ lĩnh, là yếu tố then chốt điều chỉnh mọi hoạt động lao động tập thể.

Nhân tố khách quan có thể kể ra:

Trình độ phát triển lực lượng sản xuất phản ánh sự sáng tạo và phát triển công cụ lao động của con người, khác biệt hoàn toàn với hoạt động kiếm ăn của động vật Quá trình lao động của con người là phong phú và đa dạng, gắn liền với sự hoàn thiện liên tục của công cụ sản xuất Khi phân công lao động càng sâu, yêu cầu về nỗ lực cá nhân và sự phối hợp giữa các thành viên trong xã hội càng trở nên chặt chẽ Tuy nhiên, sự phức tạp trong quan hệ lao động cũng gia tăng, dẫn đến khó khăn trong việc điều hòa và phối hợp các hoạt động.

Nhu cầu của xã hội xã hội chủ nghĩa yêu cầu mọi hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, kinh tế và xã hội phải được tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất ngày càng hoàn thiện cho chủ nghĩa xã hội, đồng thời cải thiện mối quan hệ xã hội và phát triển con người xã hội chủ nghĩa.

KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG

Trình độ tổ chức của một tập thể lao động, thể hiện ở việc sử dụng thời gian hợp lý, trong việc phân chia trách nhiệm rạch ròi

Các nhân tố chủ quan và khách quan kết hợp tạo thành một chỉnh thể xã hội lao động, trong đó đặc điểm của chỉnh thể này được xác định bởi mối quan hệ sản xuất chủ yếu và nhiệm vụ mà nó cần thực hiện trong mục tiêu phát triển sản xuất.

II KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG

Lao động là chủ đề nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó tâm lý học lao động tập trung vào việc hình thành các đặc điểm tâm lý dựa trên cơ sở sinh lý của lao động Nó nhấn mạnh sự liên kết giữa hoạt động thể chất, như sức mạnh cơ sinh, và các yếu tố tinh thần như tư duy, ý chí và cảm xúc.

Tâm lý học lao động nghiên cứu các hoạt động lao động liên quan đến công cụ và mức độ hoàn thiện của chúng, đồng thời chú trọng đến các phương pháp đặc trưng, bao gồm kỹ thuật và nghệ thuật, được gọi là kỹ thuật lao động.

Tâm lý học lao động xem mỗi hành động là một đơn vị của hoạt động lao động, hướng đến một mục tiêu cụ thể Từ những mục tiêu nhỏ nhất và các cử động đơn giản, các cử động này kết hợp lại để tạo thành động tác Tiếp theo, các động tác hợp thành thao tác, và cuối cùng, tập hợp các thao tác sẽ dẫn đến việc hình thành sản phẩm.

Tâm lý học lao động nghiên cứu hành vi của tập thể lao động, chú trọng vào việc quan sát, mô tả và giải thích các hành động của họ Nó cũng phân tích sự thay đổi trong các hành động nhằm đạt được sự phối hợp hiệu quả với các mục tiêu chung.

Tâm lý học lao động xem hoạt động lao động là sự kết hợp giữa khoa học và công nghệ, không mâu thuẫn với nhau Tổ chức lao động là sự hòa quyện giữa kinh nghiệm, tri thức và hành động cụ thể.

2.2 Lược sử tâm lý học lao động

Tâm lý học lao động, một chuyên ngành thuộc lĩnh vực tâm lý học, đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 với thuật ngữ ban đầu là "kỹ thuật tâm lý học" Chuyên ngành này gắn liền với các hoạt động thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Trước khi diễn ra Thế chiến I, đã có một số nghiên cứu về hiện tượng tâm lý và các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động Nhiều công trình khác cũng đề cập đến vấn đề tuyển chọn, đào tạo nghề và tổ chức nơi làm việc Những nghiên cứu này chủ yếu xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong sản xuất, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển lý luận về tâm lý học Từ những bước khởi đầu này, một số hướng nghiên cứu tâm lý học đã dần dần hình thành.

- Tâm lý học về nhân cách trong lao động đang là hướng nghiên cứu chủ đạo

- Định hướng tuyển chọn đào tạo nghề nghiệp như một phương hướng hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả lao động xã hội

Hợp lý hóa lao động đang trở thành một ngành khoa học độc lập với nhiều thuật ngữ khác nhau như ergonomy, khoa học kỹ thuật lao động, và kỹ thuật sinh học lao động, nhưng đều mang ý nghĩa tương tự nhau.

Múnsterberg nhấn mạnh rằng việc tuyển chọn nghề nghiệp là yếu tố quan trọng giúp con người thích ứng với điều kiện lao động, từ đó nâng cao năng suất lao động Là một trong những người tiên phong trong tâm lý học lao động, ông đã phát triển các phương pháp tuyển chọn và đào tạo lao động hiệu quả, góp phần tạo ra những người lao động có năng suất cao Các kỹ thuật tuyển chọn của Múnsterberg đã được áp dụng rộng rãi trong Thế chiến I để xây dựng quân đội, và sau đó, nhiều quốc gia phương Tây cùng Liên Xô cũng đã áp dụng các chương trình hướng nghiệp và tuyển chọn để đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp và quốc phòng.

Từ năm 1915 đến 1926, nhiều phòng tư vấn hướng nghiệp đã được thành lập tại châu Âu, đặc biệt là ở Anh, nơi Hội đồng quốc gia nghiên cứu về hướng nghiệp được thành lập.

Taylor là người tiên phong trong nghiên cứu hợp lý hóa lao động từ cuối thế kỷ 19 "Phương pháp Taylor" phân chia các thao tác lao động thành nhiều động tác nhỏ, loại bỏ những động tác không cần thiết để nâng cao hiệu suất làm việc Phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi ở châu Mỹ và châu Âu, và vẫn còn được sử dụng trong nghiên cứu tổ chức lao động khoa học ngày nay.

Kỹ sư Gilbreth và vợ đã áp dụng các kỹ thuật phân tích lao động như chụp ảnh, quay phim và bấm giờ để xác định 17 động tác phổ biến nhất trong lao động Đồng thời, Xêtrenov, một nhà sinh lý học người Nga vào đầu thế kỷ 20, đã khám phá những cơ sở sinh lý liên quan đến các quá trình tâm lý, ảnh hưởng đến chất lượng lao động.

Xêtrenov là người tiên phong trong việc thiết lập tiêu chuẩn thời gian làm việc tối đa trong ngày là 8 giờ, đồng thời cũng là người đầu tiên phát triển lý thuyết về nghỉ ngơi tích cực Lý thuyết này nhằm ngăn ngừa mệt mỏi sớm và bảo vệ sức khỏe cho người lao động.

Nhiều nghiên cứu gần đây đã tập trung vào việc đề xuất các phương pháp đo lường và đánh giá mức độ mệt mỏi, cũng như phát hiện các yếu tố khách quan và chủ quan gây ra tình trạng mệt mỏi, đặc biệt trong lĩnh vực lao động trí óc.

QUAN HỆ VỚI CÁC NGÀNH KHÁC

Hoạt động lao động là chủ đề nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, đặc biệt là sinh lý học, ergonomics, tâm lý học đại cương và tâm lý học phát triển.

3.1 Với Sinh lý học và Ecgônômi

Cơ sở vật chất của hoạt động tâm lý liên quan chặt chẽ đến chức năng và cơ chế thần kinh, với mọi biểu hiện tâm lý gắn liền với quá trình hưng phấn và ức chế Tất cả các biểu hiện này đều là phản xạ không điều kiện và có điều kiện Trong bối cảnh lao động, các biểu hiện tâm lý cũng không khác biệt, mà được hình thành từ các quy luật hoạt động thần kinh cấp cao.

Ecgônômi là một khoa học liên ngành ngày càng phát triển, kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực như cơ-sinh học và tâm lý học để nghiên cứu khoa học lao động Mục tiêu chính của ecgônômi là nâng cao năng suất lao động, bảo vệ sức khỏe người lao động và tạo ra sự tiện nghi cho người sử dụng sản phẩm Trong bối cảnh công nghiệp hiện đại, yêu cầu về tâm lý trở nên rất quan trọng, đặc biệt trong việc phòng ngừa stress cho người lao động.

3.2 Với Tâm lý học đại cương và Tâm lý học phát triển

Tâm lý học lao động là một chuyên ngành thuộc lĩnh vực tâm lý học, tập trung vào việc áp dụng các nguyên lý cơ bản của tâm lý học đại cương và quy luật nhận thức vào nghiên cứu hoạt động lao động Chuyên ngành này sử dụng các phương pháp luận tiếp cận cụ thể để phân tích các đối tượng lao động, từ đó làm phong phú thêm các phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học đại cương.

Tâm lý học lao động áp dụng kiến thức từ tâm lý học cá nhân và tâm lý học lứa tuổi để nghiên cứu hoạt động lao động của con người, tập trung vào mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cũng như giữa các tập thể với nhau.

Những kết quả nghiên cứu về tâm lý học lao động góp phần bổ sung và nâng cao hiệu quả nghiên cứu tâm lý học nói chung

3.3 Phát triển đến tâm lý học kĩ thuật - công nghiệp

Trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng, kỹ thuật cơ khí và tự động hóa đang trở thành yếu tố chủ chốt trong sản xuất công nghiệp Khoa học kỹ thuật giúp giảm bớt gánh nặng cho người lao động, nhưng cũng đặt họ vào những mối quan hệ phức tạp với máy móc và môi trường làm việc Tự động hóa với cường độ và nhịp điệu cao yêu cầu con người phải thích ứng về thể chất và tâm lý để làm chủ công nghệ Đồng thời, kỹ thuật tự động hóa tạo ra những đặc điểm mới trong môi trường lao động, đòi hỏi các giải pháp thích ứng phù hợp Tuy nhiên, con người vẫn là yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giữ vai trò trung tâm trong mọi tiến trình phát triển.

Trong bối cảnh thời đại mới, ngành tâm lý học lao động cần phát triển để nghiên cứu hoạt động lao động của con người trong mối quan hệ với máy móc và môi trường Sự chuyển biến này hướng tới việc hình thành một chuyên ngành mới mang tên tâm lý học kỹ thuật - công nghiệp.

ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP

Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, con người giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động lao động Các ngành khoa học, đặc biệt là tâm lý học lao động, cần phải tập trung vào mục tiêu phục vụ và phát triển vì con người.

Đối tượng của tâm lý học lao động tập trung vào các vấn đề tâm lý của con người trong vai trò người lao động, tương tác với công cụ, thiết bị máy móc và môi trường, bao gồm cả môi trường tự nhiên và xã hội.

Tâm lý học lao động nghiên cứu việc áp dụng các quy luật tâm lý để giải thích hành động của người lao động, từ đó đưa ra giải pháp nhằm tạo sự hòa hợp giữa con người, thiết bị, máy móc và môi trường làm việc.

Nghiên cứu tâm lý học lao động yêu cầu xây dựng hệ thống tri thức và hành động của con người trong quá trình làm việc Người nghiên cứu cần quan sát, mô tả và giải thích hành động của người lao động, từ đó điều chỉnh phương thức hành động để phù hợp với mục tiêu đề ra Mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả lao động và góp phần hoàn thiện nhân cách của người lao động.

Tâm lý học lao động nghiên cứu hành động của người lao động, từ cử động đến thao tác trong quá trình thực hiện trách nhiệm; nó giúp phát hiện yêu cầu chức năng tâm lý và khả năng, giới hạn sinh lý của con người Bằng cách tìm kiếm mức độ hợp lý và tối ưu trong các phương thức lao động, tâm lý học lao động đề xuất định mức, chỉ tiêu nhằm tiêu chuẩn hóa năng lực lao động về thể chất và tâm lý, từ đó góp phần hoàn thiện nhân cách người lao động.

4.2 Phương pháp luận tiếp cận chủ yếu

Lao động là một hoạt động thực tiễn, bao gồm cả lao động sản xuất và lao động quản lý, nghiên cứu, học tập, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn Mục đích của lao động là đạt được một kết quả cụ thể, đáp ứng nhu cầu từ thực tiễn Để đạt được mục tiêu, cần xác định nhiệm vụ cụ thể, phân công và phối hợp giữa các bộ phận, sắp xếp trình tự hoạt động và phân phối thời gian hợp lý Người lao động cần hiểu rõ mục đích công việc, đối tượng phục vụ và động cơ thực hiện.

Nhu cầu, mục đích, nhiệm vụ và động cơ đều bắt nguồn từ thực tiễn lao động Tâm lý học lao động được hình thành từ hoạt động thực tiễn này và sau đó lại phục vụ cho các hoạt động thực tiễn.

Phương pháp lập luận trong nghiên cứu tâm lý học lao động cần phải tiếp cận thực tiễn, vì thực tiễn không chỉ đặt ra những yêu cầu mà còn là cơ sở để nghiên cứu nhằm phục vụ và nâng cao nhận thức về những yêu cầu đó.

Những đặc điểm tâm lý học cá nhân được hình thành và phát triển trong môi trường tập thể, thể hiện qua mối quan hệ giữa các cá nhân và giữa cá nhân với tập thể Phương châm "Mình vì mọi người - Mọi người vì mình" là nền tảng cho sự gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng.

4.2.2 Tiếp cận tập thể - xã hội Đó là xem xét những biểu hiện tâm lý của cá nhân dưới khuôn đúc của tập thể - xã hội; xem xét sự hình thành nhân cách lao động trong quá trình lao động tập thể - xã hội để trở lại góp sức vào sự hoàn thiện nhân cách lao động phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Về thực tiễn, lao động là một loại hoạt động xã hội, lao động tập thể, theo sự phân công xã hội Mỗi cá nhân lao động đều nằm trong sự chi phối của tập thể Thành quả lao động tập thể không chỉ đơn thuần là phép cộng của thành tích cá nhân mà chủ yếu là sự phối hợp đồng bộ của từng cá nhân, từng nhóm nhỏ trong một đơn vị hoạt động

4.2.3 Tiếp cận kỹ thuật – công nghệâ

Lao động là hoạt động gắn liền với công cụ, phát triển theo nhịp độ công nghệ Lao động thủ công dần được thay thế bằng lao động cơ khí và tự động hóa Tính chất lao động nghề nghiệp thay đổi nhanh chóng theo sự đổi mới công nghệ, yêu cầu tổ chức lao động linh hoạt Con người ngày càng gắn bó với thiết bị kỹ thuật và môi trường làm việc Sự đổi mới khoa học kỹ thuật đòi hỏi nâng cao trình độ kỹ thuật và tay nghề, đồng thời tạo ra áp lực tâm lý lớn cho người lao động Trong công nghiệp hiện đại, người lao động phải đối mặt với những gánh nặng tâm lý mới, ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể lực.

Tiếp cận kỹ thuật công nghệ học liên quan đến việc phân tích sự biến đổi tâm lý của cá nhân và tập thể lao động trong mối quan hệ chặt chẽ giữa con người, thiết bị công cụ và môi trường Con người luôn giữ vai trò trung tâm trong hệ thống này.

4.3 Phương pháp nghiên cứu thực địa

Tâm lý học lao động kỹ thuật là một khoa học thực nghiệm, dựa trên nguyên lý tâm lý học phổ biến và sinh lý học lao động, cùng với các lĩnh vực khoa học lao động khác như tổ chức lao động khoa học, kinh tế học lao động và xã hội học Do đó, bên cạnh các phương pháp điều tra và quan sát (cắt ngang và liên tục), việc tổ chức thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và môi trường lao động đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Mục đích nghiên cứu không chỉ là mô tả thực trạng mà còn tìm kiếm giải pháp thực thi nhằm phát huy các yếu tố tâm lý tích cực bền vững trong hoạt động lao động, từ đó đạt hiệu quả tối ưu.

Thông thường các bước tiến hành như sau:

Mục đích của việc khai thác thông tin là tìm hiểu các nguồn tài liệu khác nhau để làm rõ lý luận tâm lý học có giá trị khoa học cho nghiên cứu thực tiễn Các tài liệu cần đọc bao gồm số liệu thống kê về tai nạn lao động, năng suất lao động, và các yếu tố môi trường tự nhiên và xã hội, đặc biệt là mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động Cần nghiên cứu các công trình liên quan và ghi chép số liệu về tình trạng lao động cũng như nhận xét của các tác giả để so sánh với kết quả nghiên cứu sau này Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tài liệu thu thập không phải lúc nào cũng đầy đủ và đáng tin cậy, vì vậy cần phát hiện những sơ hở để có thể đào sâu nghiên cứu hơn.

PHÂN TÍCH LAO ĐỘNG

MUẽC ẹÍCH

Phân tích lao động có nhiều mục đích khác nhau tùy thuộc vào nghiên cứu cụ thể, nhưng trong tâm lý học lao động, nó thường nhằm vào các mục tiêu chính như cải thiện hiệu suất làm việc, tăng cường sự hài lòng của nhân viên và tối ưu hóa quy trình làm việc.

1 Mô tả hoạt động lao động trên khía cạnh tâm lý (cảm giác, tri giác, trí tuệ…) dưới tác động của các yếu tố môi trường, của thiết bị, máy móc cũng như các yếu tố về tổ chức lao động

2 Qua mô tả hoạt động lao động điều quan trọng là giải thích được các hành động, sự tác động qua lại của các hành động, nguyên nhân và cơ chế gây ra những hành động đó

Trước hết là phải đề cập đến các cách phân loại lao động

Trong quá trình phát triển của xã hội, nội dung và tính chất của lao động không ngừng biến đổi, ngày càng phong phú và phức tạp hơn Sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thúc đẩy sự đổi mới trong nghề nghiệp, chức danh lao động và công việc Ở mỗi thời kỳ và mỗi quốc gia, có những công việc và nghề nghiệp chiếm tỷ lệ ưu thế khác nhau.

Lao động là quá trình giúp xã hội loài người thích ứng với môi trường xung quanh để tồn tại và phát triển Tính chất lao động luôn biến đổi, do đó, việc phân loại lao động chỉ mang giá trị lịch sử, phản ánh một giai đoạn phát triển nhất định và không thể tồn tại vĩnh viễn.

Phân loại lao động có thể được thực hiện theo hai hình thức chính: lao động chân tay và lao động trí óc Tuy nhiên, thực tế cho thấy mọi loại lao động đều yêu cầu sự kết hợp giữa yếu tố thể chất và trí tuệ, mặc dù tỷ lệ giữa chúng có thể khác nhau.

Theo Intelson, có thể phân loại thành ba nhóm dựa trên tính chất: nhóm tổng hợp, nhóm chuyên hóa một phần và nhóm chuyên hóa thực thụ Ngoài ra, cũng có thể chia thành hai nhóm dựa trên công cụ: nhóm máy móc và nhóm chân tay Tuy nhiên, cách phân loại này được cho là quá thô sơ.

* Theo phương tiện lao động, theo thao tác công nghệ và lao động được đầu tư, Viện khoa học lao động Moskva đã phân chia thành các loại:

- Lao động phổ thông, chủ yếu là lao động thể lực, không có máy móc, không được đào tạo, không có yêu cầu lành nghề;

Lao động bán lành nghề chủ yếu liên quan đến việc sử dụng máy móc đơn giản hoặc thực hiện các công việc thủ công bằng tay Các công việc này thường yêu cầu kỹ năng cơ bản và có tính chất lặp đi lặp lại, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và dịch vụ.

- Lao động lành nghề, làm việc với máy móc cơ khí, điện…;

- Lao động lành nghề có trình độ cao, làm việc và điều khiển các thiết bị phức tạp

* Dựa trên khả năng sáng tạo các nhà xã hội học ở St Petersburg lại chia làm sáu nhóm bao gồm:

- Lao động đặc trưng là thể lực, làm việc bằng chân tay, không có máy móc hoặc ít máy móc lành nghề;

Lao động dây chuyền là hình thức làm việc mà các công nhân thực hiện những thao tác đơn giản, nối tiếp nhau trên một dây chuyền sản xuất Mỗi thao tác diễn ra theo nhịp độ nhất định và phụ thuộc lẫn nhau, tạo ra sự hiệu quả trong quy trình sản xuất.

- Lao động cơ giới, không có nhịp bắt buộc, trình độ lành nghề vừa phải;

- Lao động điều khiển các thiết bị tư động, không lắp ráp và sửa chữa, trình độ lành nghề trung bình;

- Lao độâng lành nghề bằng tay, đòi hỏi đào tạo chuyên môn sâu như các nghệ nhân truyền thống;

- Lao động điều khiển và sửa chữa các hệ thống thiết bị tự động

Sự phân chia này, mặc dù có sự chi tiết, nhưng chủ yếu tập trung vào kỹ năng thao tác, trong khi các kỹ năng khác như sáng tạo nghệ thuật và thiết kế lại bị bỏ qua.

* Dựa vào yêu cầu tâm sinh lí, nhà tâm lí học Titô phân chia lao động thành bốn nhóm:

- Nhóm đặc trưng cho tính chất đột biến, bất ngờ của thao tác lao động;

- Nhóm đặc trưng bởi tình huống lao động được lặp lại thường xuyên;

- Nhóm lao động không có yêu cầu đặc biệt đối với chất lượng tâm sinh lý của con người;

- Nhóm lao động không đòi hỏi đào tạo chuyên môn, nhóm lao động phổ thông

* Dựa trên yêu cầu trí tuệ, một số nhà khoa học Mỹ lại chia ra nhóm có yêu cầu thấp, trung bình và cao

* Theo theo mức độ chú ý tập trung và dịch chuyển (theo một số nhà khoa học Ba Lan)

* Khuynh hướng ngày nay là chia lao động thành ba nhóm gồm:

- Nhóm chủ yếu sử dụng thể lực;

- Nhóm lao động có mật độ (nhịp điệu và cường độ) rất cao;

- Nhóm lao động hiện đại (trong hệ thống tự động hóa cao)

Hiện nay, có nhiều bảng phân loại lao động khác nhau, chủ yếu do sự khác biệt trong cách tiếp cận vấn đề, mục đích và tính khả thi trong thực tiễn.

1.2 Đặc trưng của lao động - một hình thức vận động 1.2.1 Lực cơ

Lực cơ là yếu tố quan trọng trong hệ thống vận động, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như số lượng cơ tham gia, sự thích ứng của hệ thần kinh, tuổi tác, giới tính, nhịp sinh học, động lực tập luyện, mức độ mệt mỏi và các yếu tố môi trường Dưới tác động của một kích thích tâm lý, lực cơ có thể đạt mức tối đa, thậm chí vượt qua ngưỡng bình thường của hằng số sinh học Sức bền và sự dẻo dai của cơ bắp cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố tâm lý Thông thường, chỉ khoảng 1/3 lực cơ tối đa được sử dụng để thiết kế cho các loại chuyển động.

Tốc độ chuyển động của cơ thể phụ thuộc vào điều kiện sinh lý và tâm lý Tùy thuộc vào yêu cầu và tính chất công việc, cơ thể thực hiện các loại chuyển động khác nhau để đáp ứng các yêu cầu về định hướng, tốc độ và cường độ Tốc độ lớn thường xảy ra khi sức cản nhỏ, trong khi để đạt được tốc độ cao, chuyển động quay là cần thiết Lực kéo thường nhanh và mạnh hơn so với lực đẩy, và chuyển động ngang thường thuận lợi hơn so với chuyển động đứng Khi mức gắng sức đạt 50% lực tối đa, tốc độ tối ưu cần đạt khoảng 20% tốc độ tối đa.

Nhịp điệu chuyển động phụ thuộc vào biên độ và yêu cầu độ chính xác Biên độ 20 cm là tối ưu cho chuyển động lặp lại của bàn tay, trong khi yêu cầu độ chính xác cao hơn đòi hỏi biên độ và nhịp điệu phải nhỏ hơn Nhịp điệu lý tưởng cho mỗi chuyển động là 30 giây, trong khi nhịp điệu bình thường của người Âu và Mỹ có sự khác biệt đáng kể.

45-50 giây/cử động (Người Việt Nam chưa có số liệu)

Thông thường được thực hiện theo nguyên tắc cùng hoạt động nhưng khác hướng nhau cả tay lẫn chân và được theo dõi, điều chỉnh baèng maét

1.2.5 Yeõu caàu taõm lyự cuỷa coõng vieọc Để hoàn thành bất kỳ công việc gì con người đều phải trải qua đầy đủ các khâu: Phát tín hiệu - tiếp nhận thông tin - xử lý thông tin - ra quyết định - thực hiện quyết định - thông báo kết quả Quy trình này huy động hầu hết các chức năng sinh lý, các quá trình tâm lí và một số đặc điểm tâm lí cá nhân với mức độ khác nhau tùy theo từng coõng vieọc cuù theồ:

ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG

Mỗi hoạt động lao động đều diễn ra trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là lao động sản xuất Điều kiện lao động phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng như giữa người lao động và người sử dụng lao động Hiện nay, điều kiện lao động không còn bị chi phối nhiều bởi bản chất chế độ chính trị, mà chủ yếu liên quan đến chính sách và phương pháp quản lý sản xuất.

Các nhà quản lý sản xuất xuất sắc luôn chú trọng cải thiện điều kiện lao động, đặt người lao động làm trung tâm trong chính sách và biện pháp của họ Họ nỗ lực tạo ra môi trường làm việc tốt cho sức khỏe thể chất và tinh thần của nhân viên, khuyến khích sự gắn bó với doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự hài hòa giữa quyền lợi của người lao động, người sử dụng lao động và nhu cầu phát triển của doanh nghiệp.

Để đảm bảo điều kiện lao động tốt trong nhiều lĩnh vực, việc chú trọng đến môi trường làm việc là rất quan trọng Cần tổ chức lao động một cách hợp lý, bảo vệ sức khỏe cho người lao động, và thực hiện các biện pháp phòng chống tai nạn cũng như bệnh nghề nghiệp.

Quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững Sự phát triển sản xuất ảnh hưởng đến điều kiện lao động, tạo ra những biến động với nhiều mức độ khác nhau, tác động trực tiếp đến người lao động.

Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức, vệ sinh, tâm lý và sinh lý, ảnh hưởng đến chức năng cơ thể, tinh thần thái độ lao động, sức khỏe, năng lực lao động, và hiệu quả lao động hiện tại cũng như khả năng tái sản xuất sức lao động trong tương lai Nội dung của điều kiện lao động được chia thành bốn nhóm chính.

1 Các yếu tố vệ sinh môi trường bao gồm các yếu tố vật lí, hóa học, sinh học được tạo nên chủ yếu dưới tác động của công cụ, thiết bị lao động (phương tiện lao động), đối tượng lao động và quy trình công nghệ

2 Các yếu tố tâm sinh lý bao gồm các yếu tố về tải trọng thể lực, thần kinh, tâm lý được hình thành trong quá trình lao động và hồi phục sức lao động

3 Các yếu tố tâm lý xã hội được hình thành dướùi tác động của các mối quan hệ kinh tế xã hội như tổ chức lao động, trạng thái sức khỏe, năng suất lao động và thu nhập của người lao động, cung cách điều hành quản lý của người sử dụng lao động

4 Các yếu tố thẩm mỹ phản ánh qua cảm xúc, hứng thú của người lao động bao gồm các cấu trúc không gian, nhà xưởng, bố cục màu sắc, âm thanh, không khí tâm lý tập thể

Sự phân chia các yếu tố thành bốn nhóm chỉ mang tính chất học thuật, vì trong thực tế sản xuất, các yếu tố này không tồn tại tách biệt mà tương tác lẫn nhau, ảnh hưởng đến người lao động với mức độ khác nhau.

Mức độ tác động của điều kiện lao động lên trạng thái cơ thể người lao động có thể đong đếm được bằng nhiều phương pháp khác nhau:

Phương pháp đánh giá mức độ nặng nhọc và độc hại của điều kiện lao động, được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành, là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo an toàn lao động.

Các yếu tố của điều kiện lao động gồm hai nhóm chính:

Môi trường lao động bao gồm 10 yếu tố và tâm sinh lý có 12 yếu tố Mức độ năng nhọc và độc hại của từng yếu tố được phân loại theo thang điểm 6 bậc, với điểm số từ 1 đến 6, từ nhẹ đến nặng Để đánh giá tổng hợp các yếu tố này, có thể áp dụng công thức cụ thể.

Y = 17,1x – 1,2x 2 + 2 trong đó - Y là mức độ nặng nhẹ

- x là giá trị trung bình cộng của các yếu tố đã khảo sát

Dựa trên giá trị trung bình Y đã được tính toán, chúng ta có thể phân loại theo thang 6 bậc từ nhẹ đến nặng: Bậc I áp dụng cho Y < 18, Bậc II cho Y từ 18 đến 34, Bậc III cho Y từ 34 đến 46, Bậc IV cho Y từ 46 đến 55, Bậc V cho Y từ 55 đến 59, và Bậc VI cho Y > 59.

Nhiều tổ chức khoa học và các công ty đa quốc gia như Toyota đã phát triển nhiều phương pháp nghiên cứu để đánh giá điều kiện lao động, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng.

2.2 Khái quát về môi trường lao động

Các yếu tố tự nhiên có vai trò quan trọng trong quá trình lao động, ảnh hưởng đến thể chất và tâm lý của người lao động Mỗi yếu tố môi trường tác động lên cơ thể con người theo quy luật giới hạn, từ điểm thấp nhất (minimum-min) đến điểm cao nhất (maximum-max) Khoảng giới hạn này được gọi là giới hạn sinh thái, phản ánh khả năng chống chịu của cơ thể đối với các yếu tố tác động Khi các yếu tố này vượt qua giới hạn sinh thái, chúng sẽ trở thành yếu tố gây ô nhiễm.

TUYỂN CHỌN NGHỀ ĐÀO TẠO NGHỀ

Nghề nghiệp là lĩnh vực hoạt động của con người, dựa trên sự phân công lao động xã hội phù hợp với năng lực cá nhân Qua đó, mỗi người nhận được thù lao tương xứng với số lượng và chất lượng sức lực cũng như trí tuệ mà họ đã cống hiến cho công việc.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện nay yêu cầu người lao động phải có khả năng giải mã thông tin đa dạng một cách chính xác và kịp thời, không chỉ dựa vào quan sát trực tiếp Họ cần tiếp nhận lượng thông tin lớn và đa dạng, đồng thời duy trì sự tỉnh táo, linh hoạt và nhanh nhẹn trong môi trường làm việc với máy móc tự động hóa, đòi hỏi khả năng theo dõi liên tục và can thiệp kịp thời khi cần thiết.

Ngoài ra người lao động nghề nghiệp còn phải có khả năng chịu đựng tốt với nhiều loại rối nhiễu xảy ra trong lao động

Ngày nay, nghề nghiệp yêu cầu nhiều yếu tố trí tuệ hơn là thể lực, cùng với những yêu cầu tâm lý khắt khe và trách nhiệm cá nhân cao hơn.

3.2 Ý nghĩa và nguyên tắc tuyển chọn

Chọn nghề không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn có tác động lớn đến xã hội Việc lựa chọn nghề nghiệp giúp đảm bảo thu nhập cho bản thân và gia đình, đồng thời định hình một con đường sống bền vững Qua đó, mỗi người góp phần nhỏ bé vào việc xây dựng và phát triển xã hội Như một nữ giám đốc trẻ đã chia sẻ, lựa chọn nghề nghiệp là một quyết định quan trọng trong cuộc đời.

Nghề nghiệp không chỉ là nguồn sống cho bản thân và gia đình, mà còn là cách để khám phá năng lực cá nhân, nuôi dưỡng ước mơ và đạt được thành công Quan trọng là biết cách nắm bắt những cơ hội nghề nghiệp phù hợp với bản thân.

Những hiểu lầm về nghề nghiệp có thể dẫn đến việc lựa chọn sai nghề, gây hại cho cá nhân và tạo ra khó khăn cho xã hội Việc này làm cho cơ cấu ngành nghề không phù hợp với nhu cầu phát triển, gây ra rối loạn trong thị trường lao động.

Những sai lầm thường xảy ra do hai nguyên nhân chủ yếu là sai lầm về nhận thức và do thiếu thông tin, thiếu hiểu biết

* Thuộc loại nguyên nhân thứ nhất thường là:

Việc chọn nghề không chỉ đơn thuần là lựa chọn một vị trí xã hội danh giá hay có thu nhập cao, mà còn là sự công nhận giá trị của từng nghề nghiệp trong xã hội Mỗi nghề đều mang ý nghĩa riêng và quan trọng hơn cả là thái độ lao động và khả năng đóng góp của mỗi người đối với cộng đồng qua công việc của mình.

- Phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của cha mẹ hoặc do ảnh hưởng của bạn bè, người thân

- Do sự say mê hứng thú nhất thời nào đó, chạy theo "thần tượng", đua đòi theo những biểu hiện bên ngoài

* Thuộc về nguyên nhân thứ hai có thể là:

- Thiếu thông tin về nghề nghiệp, không tìm hiểu hoặc không có điều kiện tìm hiểu về nghề nghiệp để lựa chọn

Nhiều người gặp khó khăn trong việc tự đánh giá năng lực bản thân, không nhận thức rõ những khả năng và giới hạn của mình về thể chất, tinh thần và tâm lý Việc thiếu khả năng tự nhìn nhận này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển cá nhân và nghề nghiệp.

Việc chọn nghề là một quyết định quan trọng và không hề đơn giản Cá nhân cần tự giác trong việc lựa chọn, xác định rõ động cơ và đánh giá đúng năng lực bản thân Đồng thời, xã hội cũng cần có trách nhiệm trong việc tổ chức, hướng dẫn và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên.

Việc chọn nghề cần phải kết hợp được ba điều kiện:

- Phù hợp với nguyện vọng, sở thích và năng lực cá nhân;

- Đáp ứng tốt yêu cầu xã hội (theo định hướng phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ);

- Đảm bảo những đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp

Hướng nghiệp hiện nay đã trở thành một nhu cầu xã hội lớn tại Việt Nam, nhưng vẫn còn nhiều yếu kém trong việc thực hiện Nguyên nhân chính bao gồm sự thiếu sót của ngành giáo dục, sự hạn chế của các tổ chức xã hội, và nhận thức chưa đầy đủ của thanh niên cũng như những người có trách nhiệm Khái niệm hướng nghiệp đã được phổ biến từ đầu thế kỷ 20, với Hội nghị quốc tế tại Barcelona năm 1921 và sự ra đời của phòng hướng nghiệp đầu tiên vào năm 1915 Trong thập kỷ 20, nhiều quốc gia châu Âu đã bắt đầu phát triển các chương trình hướng nghiệp.

Pháp, Đức, Ý, Anh đã đặc biệt quan tâm đến công tác hướng nghiệp Ở Anh có cả một Hội đồng quốc gia về hướng nghiệp Nhà giáo dục

Nga Platônov đề xuất mô hình "tam giác hướng nghiệp" và các hình thức hướng nghiệp như sau:

- Nội dung hướng nghiệp Công tác hướng nghiệp phải giải đáp đươc những yêu cầu sau:

Mỗi nghề nghiệp, dù đơn giản hay phức tạp, đều yêu cầu những tiêu chuẩn nhất định về thể chất, tinh thần và tâm lý Thời gian đào tạo nghề khác nhau tùy thuộc vào mức độ phức tạp và trình độ học vấn của thí sinh Các cơ quan và tổ chức đào tạo thường xuyên giới thiệu các ngành nghề, nội dung đào tạo và yêu cầu nghề nghiệp qua báo chí và phương tiện truyền thông đại chúng, tạo thành kênh thông tin quan trọng cho công tác hướng nghiệp.

Thị trường lao động hiện nay đòi hỏi sự cân đối giữa nhu cầu nhân lực và trình độ chuyên môn, bao gồm kỹ sư, trung cấp và công nhân kỹ thuật Công tác đào tạo không chỉ nhằm cung cấp nhân lực cho sự phát triển xã hội mà còn phải đáp ứng các yêu cầu khác nhau về số lượng và chất lượng nhân lực theo từng giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước.

Giáo dục tuyên truyeàn ngheà

Năng lực và tính cách cá nhân

Các nghề và yêu cầu cuûa ngheà

Để đảm bảo sự phát triển bền vững của các ngành nghề trọng điểm, việc quy hoạch nhân lực là rất cần thiết Dự báo về nhân lực đóng vai trò quan trọng trong công tác hướng nghiệp và quy hoạch đào tạo của nhà nước và xã hội.

Năng lực và đặc điểm cá nhân là yếu tố quan trọng trong công tác hướng nghiệp Thanh thiếu niên cần hiểu rõ năng lực thể chất và trí tuệ của mình, cùng với xu hướng phát triển tâm lý như tính cách và năng khiếu, để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp Tuy nhiên, nhiều thanh thiếu niên và phụ huynh thường không đánh giá đúng năng lực bản thân, dẫn đến những ảo tưởng về tài năng và lựa chọn nghề nghiệp không phù hợp, gây lãng phí cho cá nhân, gia đình và xã hội, thậm chí tạo ra sự thất vọng.

Công tác hướng nghiệp bao gồm giáo dục tuyên truyền nghề nghiệp, tư vấn nghề nghiệp và hướng dẫn tuyển chọn nghề Một khâu quan trọng không kém là phân luồng học sinh, vì chỉ một tỷ lệ nhỏ học sinh có khả năng theo học hết các bậc học phổ thông Đối với số đông học sinh còn lại, việc tiếp nhận giáo dục nghề nghiệp sớm là cần thiết để họ chọn được nghề phù hợp, từ đó có thể sớm tham gia vào cuộc sống và đóng góp cho xã hội Nếu không thực hiện tốt việc phân luồng kịp thời, sẽ tạo ra gánh nặng cho công tác tuyển sinh sau giáo dục phổ thông.

HÌNH THÀNH NĂNG LỰC NGHỀ

Năng lực là thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được thành công trong các hoạt động Nó thể hiện khả năng thực hiện công việc với chất lượng tốt, năng suất cao và hiệu quả vượt trội so với người khác.

Thông thường có hai khái niệm năng lực:

Năng lực tổ chức là yếu tố quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và công việc tại gia đình cũng như trong xã hội Điều này bao gồm khả năng lập kế hoạch hiệu quả về thời gian và không gian, cũng như việc sắp xếp và quản lý mọi công việc trong gia đình một cách hợp lý Việc phát triển năng lực tổ chức giúp cải thiện hiệu suất làm việc và tạo ra môi trường sống hài hòa hơn.

Năng lực tổ chức đặc biệt, hay còn gọi là năng lực nghề, là một khái niệm rộng, bao gồm các năng lực riêng biệt của từng nghề Những năng lực này có thể từ đơn giản như khả năng tưởng tượng không gian và tri giác nhanh, đến phức hợp, kết hợp nhiều năng lực đơn giản, ví dụ như năng lực của thợ tiện Dù năng lực đơn giản có phát triển đến mức nào, nó cũng không thể một mình hoàn thành sản phẩm.

Năng lực kỹ thuật, một khái niệm quan trọng trong tâm lý học lao động từ đầu thế kỷ 20, đã được giới thiệu qua tác phẩm "Tâm lý học ứng dụng" của Stern Đến thập kỷ 30, khái niệm này dần được hình thành và bao gồm các năng lực như sự khéo tay, tri giác không gian, thời gian, phản xạ vận động, chú ý tập trung, phân phối, óc quan sát, tư duy logic và thông minh.

Trong cấu trúc năng lực kỹ thuật, có hai loại chính: một loại tập trung vào tư duy thiết kế kỹ thuật và một loại chú trọng vào khả năng thực hành.

Nghiên cứu của W Hirche cho thấy trong số những người có năng lực kỹ thuật, 28% thiên về tư duy thiết kế, 58% nổi bật với khả năng thực hành, và 40% có sự cân bằng tương đối giữa hai loại năng lực này.

Theo nhiều nhà nghiên cứu năng lực kỹ thuật thì cấu trúc của năng lực này thường thay đổi cùng với sự phát triển cá nhân M

Jaleabson và I Salamen nhận thấy có một sự thay đổi về chất trong hoạt động thiết kế kĩ thuật diễn ra ở trẻ em khoảng 10 - 11 tuổi A

Rey cho rằng cấu trúc chức năng của tư duy thiết kế kỹ thuật ở học sinh phát triển theo lứa tuổi, phụ thuộc vào kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp đã có, cũng như kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực kỹ thuật Phương pháp đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong quá trình này Mục tiêu là tăng cường tỷ lệ tư duy thiết kế và cân bằng giữa hai cấu trúc tư duy.

4.2 Sự hình thành kỹ năng - kỹ xảo Ở đây có hai khái niệm gần nhau, dễ lẫn lộn là kĩ năng và kĩ xảo

- Kỹ năng là phương thức vận dụng tri thức vào hoạt động thực hành đã được củng cố

Kỹ xảo là những thao tác tự động hóa qua luyện tập, không chỉ là hành động đơn giản mà là mối quan hệ phức tạp với môi trường Tính ổn định của kỹ xảo xuất phát từ sự ổn định của một số yếu tố trong môi trường Có ba loại kỹ xảo chính: kỹ xảo trí tuệ, kỹ xảo vận động và kỹ xảo tri giác, được phân chia để phục vụ nghiên cứu.

72 | 73 không tồn tại độc lập mà pha trộn với nhau và liên quan đến trí nhớ

Để hình thành kỹ xảo, việc xác định mục đích rõ ràng và duy trì sự chuyên cần trong luyện tập có hệ thống là rất quan trọng.

Trong công nghiệp người ta phân biệt bốn loại kĩ xảo:

- Kỹ xảo thiết kế đề cập đến việc thiết kế (design) các bản vẽ, hình mẫu (thuộc lĩnh vực công tác của kỹ sư, kiến trúc sư)

Nghiên cứu cũng bao gồm việc đọc và triển khai bản vẽ, một kỹ năng quan trọng thường thấy ở kỹ sư thực hành và công nhân bậc cao.

Kỹ xảo công nghệ là quá trình tổ chức và thực hiện theo mẫu, bản vẽ, bao gồm việc lựa chọn công cụ, thiết bị, nguyên vật liệu và phương thức tiến hành Để phát triển kỹ xảo này, cần có kiến thức vững chắc về sức bền vật liệu, công nghệ và tổ chức lao động Tuy nhiên, việc đạt được kỹ xảo không chỉ dựa vào kiến thức mà còn phải trải qua quá trình học hỏi và bồi dưỡng liên tục, điều này đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực của các kỹ sư công nghệ.

- Kỹ xảo thao tác thuộc về lĩnh vực xử lý trên công cụ thiết bị

Kỹ thuật cắt gọt kim loại và các phương pháp lắp ráp, gia công trong dây chuyền sản xuất rất phổ biến, với nhiều cường độ và nhịp điệu khác nhau.

Kỹ xảo cân đo - kiểm tra là quá trình sử dụng các công cụ và thiết bị kiểm tra, bao gồm thước, cân và đồng hồ, nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm Kỹ xảo này không chỉ yêu cầu người thực hiện nắm vững trình tự và các bước công việc mà còn cần có khả năng thao tác với tín hiệu thông tin thông qua thị giác, thính giác và trực giác Bên cạnh đó, việc tính toán sai lệch và độ tin cậy cũng là những yếu tố quan trọng trong quá trình kiểm tra.

HỌC TẬP

Con người luôn cần học hỏi trong suốt cuộc đời Ngay từ khi còn nhỏ, chúng ta phải học cách đứng, đi, ăn, nói và thể hiện phép lịch sự Khi đến trường, việc học mở rộng ra bao gồm đọc, viết, văn hóa, khoa học, nghề nghiệp và cả những bài học về cách sống.

Học làm người lao động và cách đối nhân xử thế là bước đầu quan trọng trong cuộc sống Khi về già, chúng ta cần học cách sống khỏe, sống vui và sống có ích Cổ nhân đã từng nhấn mạnh giá trị của việc rèn luyện bản thân trong suốt cuộc đời.

"Học tập là một quá trình lao động, đòi hỏi sự nỗ lực và cống hiến Do đó, nó cũng trở thành một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong tâm lý học lao động."

Học tập là quá trình tạo ra sự thay đổi bền vững trong ứng xử hoặc tiềm năng ứng xử, được gọi là trải nghiệm Sự thay đổi này thường được thể hiện qua các thành tích, nhưng cần lưu ý rằng thành tích không phản ánh đầy đủ những gì đã được học.

- Việc học tập ảnh hưởng đến tiềm năng ứng xử nhiều hơn là trực tiếp ứng xử

Học tập có thể được phản ánh qua những thay đổi nhận biết được, nhưng không phải mọi thay đổi trong hành vi đều do học tập mà có thể do sự phát triển chức năng sinh lý, bệnh tật, tác động của thuốc, hoặc động cơ ý chí thúc đẩy thành tích Những thành tích này thường không bền vững trong điều kiện bình thường.

Sự thay đổi trong tiềm năng ứng xử phải tương đối lâu dài mới được coi là do học tập

Có nhiều thuật ngữ tương tự như luyện tập, việc học, sự học nhưng thực chất không có gì khác nhau về nội dung khái niệm Phần

74 | 75 lớn những gì ta học được cũng sẽ tự quên đi hoặc thay đổi chi tiết theo những bài học về sau

Học tập là quá trình chuyển đổi hành vi và hoạt động, bao gồm cả bên ngoài như sử dụng công cụ và bên trong như xử lý thông tin Điều này giúp đạt được những mục tiêu nhất định Học tập không chỉ đơn thuần là sự thay đổi trong hoạt động, mà còn bao gồm việc ghi nhớ kiến thức đã học để có thể áp dụng khi cần thiết.

Học tập là một quá trình đã qua trải nghiệm

1 Học tập chỉ có thể thực hiện qua trải nghiệm

2 Trải nghiệm bao gồm thu thập thông tin, thực hiện những đáp ứng tác động tới môi trường

3 Một số thay đổi trong ứng xử cũng cần phù hợp với trải nghiệm tương ứng

Việc học tập sẽ diễn ra khi có đủ ba dạng hoạt động cần thiết Tuy nhiên, đôi khi con người không nhận ra sự tồn tại của ba dạng này trong quá trình học.

Học tập không chỉ đơn thuần là việc tiếp thu kiến thức về một vấn đề cụ thể, mà còn bao gồm việc hình thành hệ thống giá trị cho tình yêu quê hương đất nước Đây là một nội dung mang tính tổng quát và rất khó để đo lường.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả học tập có sự khác biệt giữa từng cá nhân, do đó, các nhà nghiên cứu cần xác định chính xác các điều kiện liên quan đến các phương pháp học tập khác nhau.

Cần phân biệt giữa học tập và sự thích nghi cảm giác khi môi trường thay đổi, như thích nghi trong bóng tối hoặc với nhiệt độ Học tập không phải là kết quả của các phản ứng sinh học bẩm sinh, mà là kết quả của các hoạt động trước đó giúp biến đổi hành vi trở nên vững chắc và hợp lý hơn.

Quá trình học tập thường có những đặc điểm sau:

Việc học cần phải có đối tượng xác định và không thể thực hiện một cách chung chung Điều này có nghĩa là quá trình học phải gắn liền với một đối tượng cụ thể, trong một điều kiện và thời gian nhất định, bao gồm việc xác định rõ ràng nội dung học và thời điểm học.

Học tập gắn liền với các hoạt động cụ thể, giúp biến đổi hành vi chứ không chỉ dừng lại ở việc nhận thức những điều chưa biết Quá trình học tập tạo ra một chất mới trong phương thức hoạt động, mở rộng vốn kinh nghiệm cá nhân.

Theo mục đích của hoạt động việc học tập có thể là chủ định hoặc không chủ định

Học không chủ định là quá trình học tập diễn ra một cách tự nhiên và ngẫu nhiên, không có mục tiêu cụ thể từ trước Điều này có thể hiểu là "đi một ngày đàng, học một sàng khôn", nghĩa là trong mỗi trải nghiệm hàng ngày, chúng ta đều có thể tiếp thu kiến thức mới một cách tự nhiên.

Cách học này mang lại cảm giác thoải mái nhưng thường không hiệu quả, với những nhận thức mới thường rời rạc và thiếu hệ thống Chỉ những kiến thức liên quan đến nhu cầu và hứng thú mới được ghi nhớ, trong khi những thông tin khác dễ dàng bị lãng quên Tuy nhiên, phương pháp học này vẫn có giá trị nhất định, đặc biệt trong các hoạt động thực tiễn và hòa mình vào cộng đồng xã hội.

Học có chủ định là quá trình tiếp thu tri thức với mục đích rõ ràng, nhằm phát triển năng lực và trí tuệ con người Phương pháp này tập trung vào việc đạt được các kỹ năng và kỹ xảo cụ thể, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo trong hoạt động học tập.

STRESS

Chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp với quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng nhưng hỗn độn Cuộc sống tại đô thị trở nên đông đúc, ồn ào và ô nhiễm, đặt ra nhiều thách thức trong khi nguồn lực lại có hạn Chúng ta thường cảm thấy thiếu thời gian và điều kiện để hoàn thành công việc xã hội và gia đình Những bất trắc và chướng ngại luôn hiện hữu khiến chúng ta cảm thấy áp lực Nhiều lúc, chúng ta không đủ nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu cơ bản và thường tự hỏi liệu có ai không trải qua stress như mình Vậy stress thực sự là gì và liệu cuộc sống không có stress có dễ chịu hơn không?

Nhiều trạng thái bệnh lý và rối loạn tâm lý có tác động tiêu cực đến sức khỏe, dẫn đến tệ nạn xã hội, tội phạm và thậm chí tử vong Một trong những nguyên nhân chính được nhắc đến là stress.

Ngày nay, thuật ngữ "stress" xuất hiện phổ biến trong văn bản khoa học và đời sống hàng ngày, nhưng ý nghĩa thực sự của nó vẫn còn mơ hồ Nhà tâm lý học nổi tiếng Hans Selye đã có những nghiên cứu sâu sắc về khái niệm này.

Stress có thể được so sánh với thuyết tương đối của Einstein, là một khái niệm khoa học được nhiều người nhắc đến nhưng lại ít người hiểu rõ Có nhiều quan điểm khác nhau về stress, nhưng theo cách hiểu thông thường, stress được xem là áp lực từ những yếu tố xung quanh hay tác động đến chúng ta Nhiều sinh viên thường than phiền về tình trạng này.

Nhiều người đang trải qua tình trạng căng thẳng do áp lực từ công việc và cuộc sống, như học sinh lo lắng về bài làm dở và thiếu thời gian, hay cha mẹ lo lắng về con cái Các bác sĩ cũng cảm thấy áp lực do tình trạng quá tải tại bệnh viện Trong những tình huống này, thuật ngữ "stress" có thể được thay thế bằng "sức ép" hoặc "căng thẳng" mà không làm thay đổi ý nghĩa.

Theo từ điển Webster, "Stress là sự căng thẳng, sức ép tác động lên một cơ thể, có xu hướng gây căng thẳng hoặc làm biến dạng nó."

Stress thường được hiểu là trạng thái tiêu cực, gây lo lắng và đau khổ mà mọi người muốn tránh Tuy nhiên, cũng có những trải nghiệm mang lại cảm giác khoái cảm và hài lòng, như sự hồi hộp khi chứng kiến những pha bóng đẹp mắt, niềm vui khi cầu thủ yêu thích ghi bàn, hay sự thỏa mãn khi theo dõi màn trình diễn của các siêu sao nghệ thuật.

Stress, được gọi là "Niềm vui của stress", có thể mang lại những khía cạnh tích cực như nâng cao ngưỡng cảm giác và thúc đẩy sự sáng tạo Nó giúp cải thiện nhận thức và ứng xử, đồng thời là động lực cho sự phát triển nhân cách và thăng tiến trong sự nghiệp Tuy nhiên, mối quan hệ giữa stress như một động lực và sự thăng tiến không phải lúc nào cũng đơn giản.

Mô hình Yerkes-Dodson cho thấy rằng sự thăng tiến trong hiệu suất tăng lên khi động lực gia tăng đến một mức tối ưu, không phải tối đa Khi vượt quá ngưỡng tối ưu này, hiệu suất sẽ bắt đầu suy giảm Đặc biệt, trong tình huống căng thẳng quá mức, hiệu suất có thể trở nên kém hơn so với những người không có động lực.

Con người chỉ có thể thăng tiến và đạt được thành công khi có một động lực và sự thức tỉnh tối thiểu Quá ít stress có thể gây hại không kém gì quá nhiều stress, vì cuộc sống không có stress đồng nghĩa với việc không có điều gì để lo lắng hay cố gắng vượt qua Thiếu mục tiêu và thử thách sẽ làm cho cuộc sống trở nên tẻ nhạt và thiếu hứng thú Do đó, stress thực sự là một phần không thể tách rời khỏi cuộc sống của chúng ta.

Mỗi người đều phải đối mặt với thách thức từ nhu cầu cá nhân và hoàn cảnh sống xung quanh Stress là phản ứng tự nhiên của con người trước những kích thích làm rối loạn trạng thái bình thường, đôi khi vượt quá khả năng đối phó của chúng ta.

Thái độ đối với stress không phải là loại bỏ hoàn toàn, mà là điều chỉnh và kiềm chế stress để đạt được mức kích thích tối ưu.

Selye (1974) từng nói rằng "trạng thái hoàn toàn không có stress là sự chết" Chúng ta cần tránh những căng thẳng cực đoan có thể làm rối loạn chức năng cơ thể và ảnh hưởng đến nhân cách, nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị để đối mặt với những stress tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày.

W Cannon, 1932, là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ stress Ông đưa ra ý niệm về " nội cân bằng" tức là xu hướng của mọi sinh vật duy trì một môi trường bên trong ổn định, chống lại những ảnh hưởng làm biến dạng do những lực lượng bên ngoài Nói cách khác là cơ thể luôn cố gắng duy trì sự cân bằng khi có stress

Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1996), stress được định nghĩa là tổng thể các rối loạn tâm lý xảy ra đột ngột, do nhiều nguyên nhân như sốc, xúc động, và quá tải.

Trong tài liệu khoa học hiện nay, thường có ba cách định nghĩa khác nhau như sau:

STRESS NGHEÀ NGHIEÄP (SNN)

Chúng ta đang trải qua quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và gia nhập tổ chức thương mại thế giới, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức mới Sự đầu tư mạnh mẽ từ quốc tế vào Việt Nam đồng thời yêu cầu chúng ta phải nỗ lực vươn ra toàn cầu Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hội nhập cạnh tranh khốc liệt, tư duy, lối sống và phong cách làm việc của người lao động đang có sự thay đổi sâu sắc, dẫn đến nhiều căng thẳng và stress.

SNN gây ra nhiều hậu quả tiêu cực đối với sức khỏe thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động Các số liệu thống kê ban đầu từ một số bệnh viện trong 5 năm cho thấy tỷ lệ cao người làm việc tại đây bị giảm cân, và hầu như không ai có thể tăng cân trở lại Ngoài ra, tỷ lệ mắc các bệnh dạ dày và suy nhược thần kinh cũng rất cao trong số những người làm việc ở khoa y học hạt nhân.

X-quang đã chết ngay trong thời gian đương nhiệm Tình trạng kiệt sức của nhân viên y tế liên quan đến mức độ căng thẳng của công việc, đặc biệt liên quan đến việc phải đối mặt với tình trạng bệnh tật hiểm nghèo và cái chết của người bệnh Ngay cả những người nhiệt tình nhất bản lĩnh nhất cũng không tránh khỏi những stress cảm xúc dẫn đến chứng kiệt sức

Kiệt sức do lao động là một hội chứng mệt mỏi cảm xúc, đặc biệt phổ biến trong ngành y tế, khiến nhân viên mất nhiệt huyết, trở nên lãnh cảm với bệnh nhân và thậm chí mất đi tính người Tình trạng này cũng xuất hiện ở nhiều công sở, đặc biệt là tại các cơ quan nước ngoài, nơi mà phương châm làm việc là hoàn thành công việc thay vì chỉ hết giờ Dù có mức lương cao hơn nhiều so với công việc trong nước, nhiều người vẫn chọn quay về tìm việc khác sau một thời gian Áp lực công việc cùng với sự hạn chế trong giao lưu và môi trường làm việc cô đơn tạo ra gánh nặng tâm lý, dẫn đến phản ứng né tránh stress.

7.1 SNN không phải là vấn đề riêng của người lao động

SNN không chỉ là vấn đề cá nhân của người lao động mà còn liên quan đến tổ chức, cơ quan hay xí nghiệp Những rắc rối trong cuộc sống cá nhân và gia đình có thể ảnh hưởng đến môi trường làm việc, và ngược lại, tình hình tại nơi làm việc cũng có thể tác động đến cuộc sống gia đình của họ.

SNN có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến cả cơ quan xí nghiệp và người lao động Đối với cơ quan xí nghiệp, SNN làm phá hỏng nề nếp kỷ luật, giảm năng suất và lợi nhuận, đồng thời làm suy giảm uy tín trên thị trường Còn đối với người lao động, hậu quả thể hiện ở sức khỏe kém, tinh thần sa sút và ứng xử không hợp lý.

Về sức khoẻ thì ít trực tiếp đến tình trạng bệnh tật nào đó nhưng sức khỏe lại bị sa sút một cách lặng lẽ âm thầm

Tình trạng sa sút tinh thần thường xuất hiện khi cảm thấy không được thỏa mãn trong công việc, dẫn đến những cảm xúc tiêu cực về tập thể và cơ quan xí nghiệp Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hành vi mà còn tác động đến lối sống của cá nhân trong xã hội.

SNN cần các giải pháp từ cả cơ quan xí nghiệp lẫn cá nhân, vì nếu chỉ tập trung hỗ trợ người lao động, sẽ dẫn đến việc đổ lỗi cho họ và coi đây chỉ là vấn đề cá nhân Để giúp người lao động vượt qua khủng hoảng, cần có các can thiệp và thay đổi từ tổ chức, từ đó các chiến lược ứng phó cá nhân mới phát huy hiệu quả.

SNN, hay stress nghề nghiệp, thường được định nghĩa là kết quả của những đặc điểm công việc có thể gây ra mối đe dọa cho cá nhân Mối đe dọa này có thể xuất phát từ yêu cầu công việc quá cao hoặc từ việc không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người lao động.

- Tình trạng quá tải việc làm (thời gian quá dài, cường độ nặng, caêng thaúng cao )

- Thiếu hụt cung ứng như tiền lương, đãi ngộ, nhu cầu thăng tiến, phát triển nghề nghiệp

Theo Terry Belhr và John Newman (1978), SNN là sự tương tác giữa điều kiện lao động và đặc điểm của người lao động, dẫn đến sự thay đổi trong các chức năng tâm lý hoặc sinh lý Nói cách khác, SNN xảy ra khi yêu cầu lao động vượt quá khả năng ứng phó của người lao động.

Tổn thất kinh tế do stress và điều kiện thiếu an toàn vệ sinh lao động là rất lớn, ảnh hưởng từ cá nhân, gia đình đến xã hội Tại Hoa Kỳ, hàng trăm ngàn công nhân chết mỗi năm do bệnh liên quan đến stress, hàng triệu ngày công bị mất do tai nạn lao động Greenwool (1980) ước tính tổn thất lên tới 19,7 tỷ USD mỗi năm chỉ riêng trong lĩnh vực quản trị Chi phí gián tiếp như huấn luyện lại cho người lao động cũng đáng kể, trong khi ở Việt Nam, chỉ số tử vong và chấn thương do tai nạn lao động được ghi nhận, nhưng thống kê về bệnh nghề nghiệp và stress còn thiếu sót Số ngày nghỉ việc hàng năm chiếm không dưới 5%, với hơn 30% công nhân nghỉ việc hoặc than phiền về stress Những chi phí để giải quyết hậu quả từ stress là rất lớn.

Những tổn thất được quy ra tiền bạc đã rất lớn nhưng cũng chưa phải là hậu quả nghiêm trọng nhất của stress

Người lao động thường dành 1/2 cuộc đời cho công việc, ngoài thời gian nghỉ ngơi Để đáp ứng nhu cầu tài chính, nhiều người phải làm thêm giờ, dẫn đến đánh giá không đầy đủ về tổn thất Điều kiện lao động như vậy ảnh hưởng lớn đến lối sống và sức khỏe của người lao động.

Những hậu quả dĩ nhiên là có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hầu hết các phương diện của cuộc sống

Stress có thể dẫn đến ba hậu quả tiêu cực chính: rối loạn tâm lý, rối loạn sinh lý và lệch lạc ứng xử.

* Các rối nhiễu tâm lý

Các rối nhiễu tâm lý thể hiện một mối liên hệ chặt chẽ với các điều kiện lao động nghề nghiệp Sau đây là những diễn biến điển hình:

1 Lo hãi, căng thẳng, dễ cáu gắt;

2 Hụt hẫng, tức giận, oán hận;

3 Quá nhạy cảm trong cảm xúc, hiếu động;

4 Dồn nén các cảm xúc;

5 Giao tiếp kém hiệu quả;

6 Co mình lại, trầm nhược;

7 Cảm giác bị xa lánh, bị ghét bỏ, cô đơn;

8 Buồn chán, không toại nguyện, bất mãn;

9 Mệt mỏi tinh thần ê chề, trí lực giảm sút;

11 Thiếu tự chủ, kém sáng tạo;

Hậu quả dễ thấy nhất là không toại nguyện nghề nghiệp

Người lao động cảm thấy ít động cơ thúc đẩy làm việc, ít động cơ để hoàn thành công việc, chán nản không muốn tiếp tục công việc

Lo lắng, căng thẳng, tức giận và oán hận là những cảm xúc thường gặp trong môi trường làm việc Nhiều người cảm thấy áp lực nghề nghiệp quá lớn, dẫn đến tâm lý xa cách và trầm cảm Họ có thể mất tự tin và không muốn thay đổi, dù thực tế vẫn có khả năng phát triển Ngược lại, một số người không nỗ lực vì họ tin rằng mình không thể tự lực trong công việc Các triệu chứng tiêu cực này xuất hiện ở những giai đoạn khác nhau và khác nhau tùy từng cá nhân Hiện nay, nghiên cứu động cơ làm việc đang hướng tới việc kết hợp các yếu tố con người và hệ thống để đạt được sự cân bằng tốt hơn giữa yêu cầu nghề nghiệp và sự hài lòng trong công việc.

Một số triệu chứng thực thể chính do stress gây ra tạm liệt kê nhử sau:

- Tăng nhịp tim, tăng huyết áp;

- Bệnh đường tiêu hóa: loét dạ dày, tá tràng;

- Mệt mỏi thể xác, rã rời chân tay;

Ngoài ra sress còn để lại di chứng mạn tính chuyển thành các bệnh nghề nghiệp, các chứng vô sinh, giảm hưng phấn tình dục

Stress có thể xuất phát từ môi trường làm việc không an toàn và ô nhiễm Nghiên cứu đã chỉ ra rằng có tới 10 bệnh tật hoặc chấn thương liên quan đến điều kiện lao động.

- Các bệnh phổi nghề nghiệp;

- Các chấn thương cơ xương;

- Các ung thư nghề nghiệp;

- Các thương tổ do chấn thương nghề nghiệp;

- Các chứng nhiễm độc thần kinh;

- Mất thính lực do tiếng ồn;

- Các rối nhiễu tâm lí

Nhu cầu cải thiện điều kiện lao động là vấn đề rất bức xúc hiện nay/

* Các kiểu ứng xử của SNN

Có nhiều triệu chứng ứng xử phản ánh SNN mà một số biểu hieọn deó thaỏy nhử:

- Chần chừ, né tránh công việc;

- Năng suất, hiệu quả giảm;

- Lạm dụng rượu, ma tuý;

- Tăng số lần an dưỡng, chữa bệnh;

- Ăn quá nhiều như để trả thù, béo phì;

- Ăn ít, như muốn co mình lại cùng với trầm nhược;

- Mất cảm giác ngon miệng, trọng lượng giảm nhanh;

- Tăng hành vi nguy hiểm, lái xe ẩu, đánh bạc;

- Hung bạo, phá hoại của công, ăn cắp, gây rối;

- Quan hệ xấu với gia đình, bạn bè;

- Tự sát hoặc mưu toan tự sát;

- Phá hoại phương tiện hành nghề

LAO ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN KỸ THUẬT MỚI

TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN

Có ba loại tiêu chuẩn:

Tốc độ đáp ứng là khoảng thời gian cần thiết để thực hiện một nhiệm vụ điều khiển, bắt đầu từ khi nhận tín hiệu cho đến khi công việc điều khiển được hoàn thành.

- Về độ tin cậy: Đó là mức xác suất của sự hoàn thành công việc một cách hợp lý

Mức căng thẳng tâm sinh lý có thể xuất phát từ sự phức tạp của công việc và điều kiện làm việc, bên cạnh đó, căng thẳng cảm xúc cũng đóng vai trò quan trọng Thông thường, hai dạng căng thẳng này thường kết hợp với nhau, tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe tâm lý của người lao động.

Để tối ưu hóa công tác hợp lý hóa và đảm bảo năng suất, an toàn, sức khỏe và tiện nghi cho người điều khiển, việc xác định chế độ làm việc là vô cùng quan trọng Có thể đề xuất bốn chế độ làm việc phù hợp nhằm đáp ứng các yêu cầu này.

Chế độ đào tạo rèn luyện được thiết kế để phát triển, củng cố và hoàn thiện các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cần thiết cho từng giai đoạn và loại hoạt động, với mục tiêu đạt tiêu chuẩn ngày càng cao và vững chắc hơn.

Chế độ lao động tối thiểu trong hệ thống tự động cao giúp giảm gánh nặng thông tin và yêu cầu hành động điều chỉnh, mang lại tiện nghi tốt Tuy nhiên, tình trạng này có thể dẫn đến cảm giác kém tỉnh táo, dễ buồn ngủ và chậm phản ứng, gây nguy hiểm trong các tình huống bất ngờ.

Chế độ lao động tối ưu yêu cầu môi trường làm việc tiện nghi và máy móc đảm bảo, với bối cảnh quen thuộc và yêu cầu phù hợp với kỹ năng của người lao động Căng thẳng tâm lý thấp giúp duy trì khả năng làm việc lâu dài, giảm thiểu nhầm lẫn và gián đoạn, từ đó nâng cao năng suất và độ tin cậy trong công việc Người điều khiển có thể thực hiện các nhiệm vụ điều chỉnh khi các thông số ở mức bình thường, đồng thời chế độ này đảm bảo người lao động được đào tạo và rèn luyện tốt.

Chế độ lao động cực hạn đòi hỏi người điều khiển phải có ý thức, trí tuệ, ý chí và cảm xúc cao Trong những tình huống phức tạp và bất ngờ, họ cần có khả năng tự điều khiển vững chắc, không hốt hoảng, và nhanh chóng đánh giá tình hình để đưa ra quyết định chính xác Kỹ năng chuyên môn tốt, sự sáng tạo, cùng với chế độ học tập và rèn luyện sức khỏe thể chất và tinh thần là rất cần thiết, kèm theo trách nhiệm và ý chí cao.

Các yêu cầu này thường khó đạt được đối với nhiều người lao động, vì vậy việc thiết lập chế độ này cần được thực hiện một cách cẩn thận nhằm tránh các sự cố không an toàn.

ĐỘ TIN CẬY Ở NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN

Độ tin cậy là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hệ thống N-M-MT tự động cao, đảm bảo rằng hệ thống thực hiện các chức năng với chất lượng đã định trong điều kiện và khoảng thời gian cụ thể.

Độ tin cậy luôn có xác suất nhỏ hơn 1 và phụ thuộc vào khả năng đo lường Nó phải được xem xét trong toàn bộ hệ thống, bao gồm cả con người và máy móc, với trách nhiệm chung của cả hai Ngành thiết kế kỹ thuật và chế tạo cần đảm bảo máy móc hoạt động hiệu quả, trong khi các ngành tổ chức hợp lý hóa và bảo hộ lao động phải tạo điều kiện làm việc thuận lợi Ngành tâm sinh lý cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trạng thái tâm lý tốt cho người lao động, nhằm đạt được xác suất tin cậy cao nhất cho toàn bộ hệ thống.

3.2 Đánh giá độ tin cậy Độ tin cậy cần đánh giá qua các yếu tố

- Biến đổi tổng quát của mức xác suất trong thực hiện nhiệm vụ đối với yêu cầu về số lượng, chất lượng và thời gian hoàn thành

Mức từ chối nhiệm vụ phản ánh khả năng hoàn thành công việc cần thiết, được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỷ lệ thời gian không đạt yêu cầu (quá nhanh hoặc quá chậm) và tỷ lệ từ chối khả năng phục hồi hay điều chỉnh sai lầm sự cố (kịp thời hay không).

Mức độ và tính chất nghiêm trọng của sự từ chối thể hiện về sinh lý có thể dẫn đến những biến đổi rõ rệt trong trạng thái cơ thể, ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng lao động tạm thời, gây ra mệt mỏi và xúc cảm mạnh Về mặt tâm lý, sự từ chối này làm giảm khả năng xử lý thông tin và đáp ứng, dẫn đến cảm giác sai lệch, đánh giá nhầm lẫn và xử lý không thích hợp Ngoài ra, về thể lực, nó còn gây ra mất khả năng làm việc, gặp khó khăn trong các hoạt động thể chất và thậm chí có thể dẫn đến tình trạng kiệt sức.

Tất nhiên khi xét những chỉ tiêu này thì phải so sánh với mức trung bình chung (normal) của cộng đồng của từng loại lao động

3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy

Các yếu tố chủ quan bao gồm đặc điểm cá nhân như tâm sinh lý, cơ địa, khí chất và tâm trạng; trình độ kinh nghiệm và kỹ năng; cùng với động cơ tư tưởng, khả năng thích nghi và sức chịu đựng.

Khách quan, vấn đề có thể liên quan đến máy móc và phương tiện, chẳng hạn như thông tin quá tải hoặc đơn điệu Điều này cũng phụ thuộc vào chế độ kiểm tra, theo dõi, dự bị và thay thế, cũng như cách thức vận hành.

Điều kiện lao động, bao gồm vị trí tư thế làm việc, khí hậu, chất độc hại và ô nhiễm, có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và hiệu suất làm việc của nhân viên.

3.4 Các biện pháp đảm bảo độ tin cậy

- Có chương trình, kế hoạch hợp lý (tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn và tinh thần, tư tưởng)

- Máy móc được thiết kế phù hợp yêu cầu ecgônômi

Để đảm bảo chuẩn mực cao nhất cho các chỉ tiêu quan trọng, thời gian dự trù cần phải vượt quá thực tế cần thiết Gánh nặng tiếp thu và xử lý thông tin không nên vượt quá 75% khả năng của người lao động Thời gian tập trung chú ý tối ưu là khoảng 20 phút, và số lượng tín hiệu tiếp nhận đồng thời cần phải trong giới hạn khả năng ghi nhớ của người lao động.

- Có chế độ kiểm tra theo dõi trạng thái sức khoẻ và trạng thái tâm sinh lý của người lao động

- Thực hiện chế độ nghỉ ngơi hợp lý, tránh mọi nguyên nhân gây caêng thaúng thoâng tin

- Đảm bảo không khí tập thể lành mạnh

IV YÊU CẦU TÂM SINH LÝ VỀ THIẾT KẾ BỐ TRÍ HỆ THỐNG MÁY ĐIỀU KHIỂN TỰ ĐỘNG

Ngày đăng: 03/11/2023, 21:46

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w