1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

(Luận văn) khoảng cách thông tin trên báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính tại việt nam

108 3 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khoảng Cách Thông Tin Trên Báo Cáo Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính Tại Việt Nam
Tác giả Tạ Duy Khánh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thu Hiền
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
Năm xuất bản 2015
Thành phố TP. HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 2,25 MB

Cấu trúc

  • 1. Sự cần thiết của đề tài (10)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu (12)
  • 3. Câu hỏi nghiên cứu (12)
  • 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (12)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (13)
  • 6. Ý nghĩa của đề tài (13)
  • 7. Kết cấu của luận văn (14)
  • CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (15)
    • 1.1 Các nghiên cứu nước ngoài (15)
      • 1.1.1 Các nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT dạng ngắn (15)
      • 1.1.2 Các nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT theo SAS 58 (18)
      • 1.1.3 Các nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT theo ISA 700 (21)
    • 1.2 Các nghiên cứu trong nước (23)
    • 1.3 Nhận xét về các nghiên cứu trước và xác định vấn đề cần nghiên cứu (25)
      • 1.3.1 Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài (25)
      • 1.3.2 Đối với các công trình nghiên cứu trong nước (26)
      • 1.3.3 Các phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng (27)
      • 1.3.4 Xác định vấn đề cần nghiên cứu (27)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT (30)
    • 2.2 Lý thuyết về khoảng cách thông tin trên BCKT (37)
      • 2.2.1 Khái niệm khoảng cách thông tin trên BCKT (37)
      • 2.2.2 Cơ sở lý thuyết giải thích khoảng cách thông tin trên BCKT (38)
        • 2.2.2.1 Lý thuyết truyền thông (38)
        • 2.2.2.2 Lý thuyết hồi ứng của người đọc (40)
    • 2.3 Tổng kết những vấn đề tập trung khoảng cách thông tin trên BCKT từ các nghiên cứu trước (41)
  • CHƯƠNG 3 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU (46)
    • 3.1 Thiết kế nghiên cứu và mô hình nghiên cứu (46)
      • 3.1.1 Thiết kế nghiên cứu (46)
      • 3.1.2 Mô hình nghiên cứu (47)
    • 3.2 Nghiên cứu chính thức (49)
      • 3.2.1 Phương pháp chọn mẫu (49)
      • 3.2.2 Kích thước mẫu (49)
      • 3.2.3 Xây dựng bảng câu hỏi khảo sát (50)
      • 3.2.4 Thiết kế thang đo cho bảng câu hỏi (54)
  • CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (56)
    • 4.1 Mô tả mẫu nghiên cứu (56)
    • 4.2 Kết quả nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam (56)
      • 4.2.5 Khoảng cách thông tin liên quan đến việc giải thích các thuật ngữ trên (63)
    • 4.3 Đánh giá trực trạng khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam (68)
  • CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (73)
    • 5.1 Kết luận về thực trạng khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam (73)
    • 5.2 Các kiến nghị nhằm thu hẹp khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt (73)
      • 5.2.1 Thực hiện công tác giáo dục, tuyên truyền kiến thức về kiểm toán đối với người sử dụng BCKT (73)
      • 5.2.2 Giải thích rõ trách nhiệm của Ban Giám đốc và KTV trên BCKT (74)
      • 5.2.3 Nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm toán (74)
      • 5.2.4 Giải thích rõ các thuật ngữ trên BCKT (76)
    • 5.3 Hạn chế của đề tài và đề xuất cho hướng nghiên cứu tiếp theo (77)
      • 5.3.1 Hạn chế của đề tài (77)
      • 5.3.2 Hướng nghiên cứu tiếp theo (78)
  • Phụ lục (23)

Nội dung

Sự cần thiết của đề tài

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, báo cáo tài chính (BCTC) trở thành nguồn thông tin thiết yếu cho nhiều đối tượng, hỗ trợ công tác quản lý từ vi mô đến vĩ mô Trong khi BCTC cung cấp cái nhìn về thực trạng tài chính và hoạt động của doanh nghiệp, báo cáo kiểm toán (BCKT) lại tạo dựng lòng tin cho người đọc về tính chính xác của những thông tin đó BCKT không chỉ làm cho thông tin tài chính trở nên minh bạch hơn mà còn đảm bảo tính trung thực và hợp lý, từ đó nâng cao sự tin tưởng của người sử dụng vào BCTC của các công ty được kiểm toán.

BCKT truyền đạt kết quả kiểm toán cho nhiều đối tượng sử dụng BCTC, nhưng hiệu quả của việc truyền đạt này phụ thuộc vào khả năng hiểu biết của họ về thông tin trong BCKT.

Để thông tin trên BCKT trở nên hữu ích và cần thiết, các đối tượng sử dụng cần hiểu rõ nội dung mà KTV truyền tải Sự khác biệt trong cách hiểu giữa KTV và người sử dụng có thể dẫn đến hiểu lầm, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, phân bổ nguồn lực, và gây ra tranh chấp không cần thiết Điều này đặt ra câu hỏi về sự đồng nhất trong cách hiểu thông tin trên BCKT giữa KTV và các nhóm người sử dụng.

Khoảng cách thông tin trên báo cáo kiểm toán (BCKT) phản ánh sự khác biệt giữa mong muốn và hiểu biết của người sử dụng với thông tin được KTV truyền đạt (Mock và cộng sự, 2013) Nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu vấn đề này ở các quốc gia khác nhau và vào những thời điểm khác nhau.

Nghiên cứu chỉ ra rằng có sự bất đồng giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo kiểm toán (BCKT) về nhận thức thông tin Người dùng thường đặt ra những kỳ vọng không thực tế về nhiệm vụ và trách nhiệm của KTV, mà thực tế thuộc về nhà quản lý Các nghiên cứu của Bailey và cộng sự (1983), Anderson và cộng sự (1998), Kelly và Mohrweis (1989), Best và cộng sự (2001), cùng Gold và cộng sự (2009, 2012) đã chỉ ra những vấn đề này.

Nghiên cứu của Muylder và cộng sự (2012) chỉ ra rằng có sự khác biệt trong nhận thức giữa người sử dụng và các kiểm toán viên (KTV) về vai trò của báo cáo kiểm toán (BCKT) trong việc hỗ trợ ra quyết định Các nghiên cứu trước đó của Hatherly và cộng sự (1991), Gray và cộng sự (2011), cùng Asare và Wright cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của BCKT trong quá trình ra quyết định của người sử dụng.

Năm 2012, việc đánh giá báo cáo tài chính (BCTC) không có gian lận trọng yếu đã được nhấn mạnh bởi Hatherly và cộng sự (1991) cùng Gray và cộng sự (2011) Người sử dụng thường có xu hướng đánh giá cao hơn mức độ tin tưởng vào báo cáo kiểm toán (BCKT) về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị, hiệu quả quản lý, hiệu quả đầu tư và khả năng đạt được các mục tiêu chiến lược (Asare và Wright, 2011).

Giữa các kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT) tồn tại sự khác biệt trong nhận thức về khả năng phát hiện gian lận trên báo cáo tài chính của KTV (Low, 1984).

Miller và các cộng sự (1993) cùng với Asare và Wright (2012) đã chỉ ra sự bất đồng trong việc giải thích các thuật ngữ trong báo cáo, bao gồm đảm bảo hợp lý, phản ánh trung thực và hợp lý, kiểm tra chọn mẫu và mức trọng yếu (Gray và các cộng sự, 2011).

Asare và Wright, 2012; Muylder và cộng sự, 2012)

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, Báo cáo kiểm toán (BCKT) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường vốn Tuy nhiên, nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, đặc biệt là sau khi hệ thống Công bố thông tin (CMKiT) mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 Do đó, việc kiểm tra sự khác biệt trong cách hiểu của các bên liên quan về thông điệp trên BCKT và đưa ra các kiến nghị cần thiết để thu hẹp khoảng cách này là rất cần thiết Đây chính là lý do tôi lựa chọn đề tài “Khoảng cách thông tin trên Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính tại Việt Nam” cho luận văn thạc sĩ của mình.

Nghiên cứu này sẽ đóng góp vào việc làm phong phú lý thuyết và thực tiễn về báo cáo kinh tế tài chính (BCKT) cũng như khoảng cách thông tin liên quan đến BCKT, đặc biệt trong bối cảnh thực tế tại Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của bài viết là đánh giá mức độ tồn tại của khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) tại Việt Nam Từ đó, bài viết đưa ra một số gợi ý nhằm loại bỏ hoặc thu hẹp khoảng cách này, với mục đích nâng cao vai trò và giá trị của BCKT trong việc cung cấp thông tin chính xác và minh bạch cho các bên liên quan.

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về khoảng cách thông tin trên BCKT

- Khảo sát, kiểm định, đánh giá thực trạng và xác định các vấn đề tập trung khoảng cách thông tin trên BCKT

- Đề xuất những định hướng nhằm thu hẹp khoảng cách thông tin trên BCKT để nâng cao vai trò và giá trị của BCKT.

Câu hỏi nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu đã nêu ra như trên, các câu hỏi nghiên cứu đặt ra cần giải quyết đó là:

1) Câu hỏi 1: Có sự tồn tại của khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam hiện nay không?

2) Câu hỏi 2: Khoảng cách thông tin trên BCKT tồn tại ở những vấn đề nào?

3) Câu hỏi 3: Giải pháp thu hẹp khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam hiện nay?

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào khoảng cách thông tin trên BCKT, cụ thể là sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và nhóm người sử dụng về các thông tin được truyền tải trên BCKT.

Nghiên cứu này tập trung vào nhận thức của các kỹ thuật viên (KTV) và người sử dụng báo cáo kinh tế (BCKT) tại khu vực Tp.HCM, không mở rộng khảo sát đến các tỉnh thành khác Đối tượng người sử dụng BCKT trong nghiên cứu bao gồm nhân viên tín dụng ngân hàng và nhân viên môi giới tại các công ty chứng khoán.

Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2014, các văn bản pháp lý trong và ngoài nước mà tác giả tham khảo đã được ban hành chính thức Số liệu khảo sát của tác giả được thu thập từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2014.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, cụ thể:

Bài viết này sử dụng phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích các nghiên cứu trước đây liên quan đến khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) nhằm tìm hiểu cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu.

Bài viết sử dụng phương pháp định lượng, kế thừa từ các nghiên cứu quốc tế để xác định nội dung và cách đo lường khoảng cách thông tin trên BCKT Qua đó, tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam.

- Sử dụng phương pháp tổng hợp, suy luận để kiến nghị một số định hướng nhằm thu hẹp khoảng cách thông tin trên BCKT.

Ý nghĩa của đề tài

Nghiên cứu này cung cấp thêm lý thuyết về khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) tại Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, nơi trước đây chưa có nghiên cứu tương tự được thực hiện.

Nghiên cứu này đã tổng hợp và phát triển một mô hình nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến khoảng cách thông tin trên Báo cáo tài chính (BCKT) Mô hình này có giá trị tham khảo tích cực cho các nghiên cứu định lượng tiếp theo trong cùng chủ đề.

Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin quý giá cho các cơ quan nhà nước, tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp và những người làm trong lĩnh vực kiểm toán, giúp họ có cái nhìn tổng quan và định hướng nâng cao giá trị của thông tin trên Báo cáo tài chính (BCKT).

Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Mục lục, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày gồm 5 Chương:

- Chương 1: Giới thiệu tổng quan về vấn đề nghiên cứu

- Chương 2: Cơ sở lý thuyết

- Chương 3: Thiết kế nghiên cứu

- Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Chapter 5: Conclusion and Recommendations This section summarizes the key findings and offers suggestions for future research It emphasizes the importance of the study and its implications for the field, encouraging further exploration and development of the topic.

GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các nghiên cứu nước ngoài

Kể từ khi ra đời vào năm 1856, báo cáo kiểm toán (BCKT) đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và cải tiến để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội Trong mỗi giai đoạn, các nghiên cứu toàn cầu đã được thực hiện để xác định sự tồn tại của khoảng cách thông tin trong BCKT Mặc dù BCKT ở giai đoạn sau có sự hoàn thiện hơn so với giai đoạn trước, nhưng các nghiên cứu vẫn chỉ ra rằng khoảng cách thông tin vẫn tồn tại trong các báo cáo ở từng giai đoạn.

1.1.1 Các nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT dạng ngắn

Năm 1974, AICPA đã chỉ định Ủy ban Cohen để điều tra sự tồn tại của khoảng cách mong đợi tại Hoa Kỳ Ủy ban kết luận rằng khoảng cách này thực sự tồn tại và chỉ ra một số thiếu sót trong các báo cáo kiểm toán dạng ngắn Cụ thể, Ủy ban cho rằng báo cáo gây nhầm lẫn về trách nhiệm của nhà quản lý và kiểm toán viên, không làm rõ các mục tiêu và hạn chế cơ bản của kiểm toán, dẫn đến việc người sử dụng nhầm lẫn giữa các báo cáo kiểm toán và tình hình tài chính thực tế Hơn nữa, các thuật ngữ trong báo cáo dễ bị hiểu sai, như "trình bày hợp lý" Do đó, Ủy ban đã kêu gọi cải thiện các báo cáo kiểm toán và loại bỏ hoặc thay đổi những thuật ngữ khó hiểu.

Sau cuộc điều tra của Ủy ban Cohen, nhiều nghiên cứu khác đã được thực hiện bởi các tác giả khác, trong đó có một số nghiên cứu nổi bật.

Vào năm 1983 tại Hoa Kỳ, Bailey và cộng sự đã nghiên cứu sự khác biệt trong nhận thức về thông điệp trên báo cáo kiểm toán (BCKT) khi thay đổi từ ngữ diễn giải Họ phát hiện rằng những thay đổi từ ngữ ảnh hưởng đến cách người đọc hiểu thông điệp Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy người dùng có kiến thức về kiểm toán thường đặt ít trách nhiệm hơn cho kiểm toán viên so với những người có ít kiến thức.

Low (1984) đã tiến hành khảo sát với nhóm KTV và các nhà phân tích để đánh giá nhận thức của họ về tầm quan trọng của BCKT chấp nhận toàn phần Kết quả cho thấy cả KTV và các nhà phân tích tài chính đều cho rằng BCKT cung cấp ít thông tin về sự ổn định tài chính của công ty, đồng thời có quan điểm khác nhau về độ tin cậy và chính xác của thông tin tài chính trong BCTC được kiểm toán Cả hai nhóm cũng đồng ý rằng KTV không cung cấp thông tin về hiệu quả quản lý và phát hiện ra các gian lận trọng yếu Dựa trên các kết quả này, tác giả đề xuất rằng các BCKT dạng ngắn nên được thay thế bằng báo cáo dài hơn để cung cấp nhiều thông tin hơn về bản chất và mục đích của kiểm toán.

McEnroe và Martens (2001) đã tiến hành so sánh nhận thức của các kiểm toán viên (KTV) và nhà đầu tư về trách nhiệm của KTV trong mối liên hệ với các chức năng chứng thực của kiểm toán Nghiên cứu cho thấy nhà đầu tư có những kỳ vọng cao hơn so với KTV đối với các khía cạnh bảo đảm của kiểm toán trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

+ Mỗi khoản mục quan trọng đối với các nhà đầu tư và các chủ nợ đã được báo cáo hay trình bày trong các BCTC

+ Các KTV đã thực hiện chức năng "cơ quan giám sát của công chúng" cho các chủ nợ, các cổ đông của công ty được kiểm toán

+ Hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty đã được kiểm toán có hiệu quả

Các báo cáo tài chính (BCTC) hiện nay đã không còn gặp phải sai sót do gian lận từ phía nhà quản lý Việc này giúp tăng cường độ tin cậy và minh bạch trong thông tin tài chính, đồng thời nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong mắt các nhà đầu tư và đối tác.

+ Các BCTC không còn có sai sót nhằm che giấu hành vi gian lận của nhân viên

+ Không có hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện bởi công ty được kiểm toán

Nghiên cứu của Best và cộng sự (2001) đã chỉ ra sự tồn tại của khoảng cách thông tin trong BCKT dạng ngắn tại Singapore, thông qua việc phân tích sự khác biệt giữa mong đợi của người sử dụng BCKT, bao gồm nhân viên ngân hàng và nhà đầu tư, với nhận thức của kiểm toán viên (KTV) về vai trò của mình Kết quả nghiên cứu cho thấy có một khoảng cách thông tin rõ rệt, đặc biệt liên quan đến mức độ và bản chất trách nhiệm của KTV trong một số vấn đề cụ thể.

+ KTV có trách nhiệm phát hiện tất cả gian lận

+ KTV chịu trách nhiệm duy trì sổ sách kế toán

+ KTV chịu trách nhiệm trong việc ngăn ngừa hành vi gian lận

+ KTV thực hiện đánh giá trong việc lựa chọn thủ tục kiểm toán

+ KTV chịu trách nhiệm về tính hữu hiệu và hiệu quả của hệ thống KSNB

+ KTV đồng ý với các chính sách kế toán được sử dụng trong BCTC

+ BCTC phản ánh trung thực và hợp lý

+ Đơn vị không có gian lận

+ BCTC đã được kiểm toán là hữu ích trong việc giám sát hoạt động của đơn vị

Kết quả nghiên cứu cho thấy có một khoảng cách thông tin rõ rệt giữa báo cáo kiểm toán (BCKT) dạng ngắn và người sử dụng, xuất phát từ sự khác biệt trong nhận thức về ngôn ngữ, trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và vai trò của kiểm toán Để thu hẹp khoảng cách này, các nghiên cứu khuyến nghị chuyển đổi BCKT dạng ngắn sang dạng dài, hạn chế sử dụng các thuật ngữ khó hiểu như “trình bày hợp lý” và bổ sung phần mô tả rõ ràng về bản chất, vai trò và chức năng của kiểm toán.

1.1.2 Các nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT theo SAS 58 Để đáp ứng lại đề nghị của Ủy ban Cohen về việc cải thiện BCKT hiện có, năm 1988, AICPA đã ban hành SAS 58 – “Reporting on Audited Financial Statements” (“Báo cáo về báo cáo tài chính đã được kiểm toán”) quy định một BCKT dạng dài gồm ba đoạn, bao gồm một đoạn giới thiệu rõ ràng đặt ra trách nhiệm tương đối của nhà quản lý và KTV, cũng như đoạn phạm vi mô tả bản chất và hạn chế của kiểm toán, và đoạn trình bày ý kiến kiểm toán Các nghiên cứu lại tiếp tục được thực hiện nhằm đánh giá xem khoảng cách thông tin có còn tồn tại khi áp dụng BCKT chuẩn ba đoạn hay không Một số kết quả nghiên cứu cho thấy rằng mặc dù BCKT đã được thay đổi theo chiều hướng tiến bộ hơn nhưng khoảng cách thông tin vẫn còn tồn tại trên báo cáo

Kelly và Mohrweis (1989) đã kiểm tra tác động của BCKT chuẩn theo SAS

Nghiên cứu này đánh giá nhận thức của người sử dụng về thông điệp trong báo cáo, tập trung vào nhân viên ngân hàng và nhà đầu tư Mục tiêu là kiểm tra xem sự thay đổi trong cách diễn đạt của báo cáo có cải thiện tính dễ hiểu và làm rõ trách nhiệm của kiểm toán viên hay không.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tính dễ hiểu của báo cáo tài chính đã được cải thiện đáng kể Tuy nhiên, việc thay đổi từ ngữ không ảnh hưởng đến nhận thức của nhà đầu tư về mức độ trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) Các nhân viên ngân hàng cho rằng trách nhiệm của KTV trong báo cáo tài chính mới thấp hơn so với báo cáo dạng ngắn Cả nhân viên ngân hàng và nhà đầu tư đều đồng thuận rằng nhà quản lý là người chịu trách nhiệm trong việc trình bày và công bố thông tin trên báo cáo tài chính.

Hatherly và cộng sự (1991) đã khảo sát 140 học viên MBA tại Đại học Edinburgh để đánh giá hiệu quả của báo cáo kiểm toán mới (theo SAS 58) so với báo cáo hình thức ngắn tại Anh Kết quả cho thấy BCKT mới giúp người đọc hiểu rõ hơn về kiểm toán và vai trò của kiểm toán viên, đồng thời làm thay đổi nhận thức của họ về các vấn đề liên quan.

KTV đóng vai trò trung thực và khách quan trong việc sử dụng các xét đoán và chính sách kế toán Các nhà quản lý chịu trách nhiệm về báo cáo tài chính (BCTC) của doanh nghiệp, không phải KTV.

Mặc dù BCKT mới không thay đổi nhận thức của người đọc trong một số lĩnh vực, nhưng nó vẫn khẳng định rằng KTV hài lòng với BCTC của công ty, không có gian lận xảy ra, KTV cung cấp thêm độ tin cậy cho BCTC, công ty được quản lý tốt và sổ sách kế toán được lưu giữ một cách thích hợp.

Các nghiên cứu trong nước

Sau nhiều vụ bê bối liên quan đến kiểm toán, việc nâng cao chất lượng kiểm toán và báo cáo tài chính (BCTC) đã thu hút sự chú ý đáng kể tại Việt Nam Nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu về báo cáo kiểm toán, trong đó có những nghiên cứu tiêu biểu được nhấn mạnh.

Vào năm 2010, nghiên cứu thạc sỹ của Nguyễn Văn Hương đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tác giả đã hệ thống hóa lý luận liên quan đến việc ban hành và hướng dẫn các chuẩn mực kiểm toán trong và ngoài nước, tập trung vào quy trình soạn thảo và phát hành báo cáo tài chính.

BCKT Tác giả đã phân tích thực trạng soạn thảo và phát hành BCKT của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BCKT.

Năm 2010, ở cấp độ thạc sỹ, có nghiên cứu của Võ Thị Như Nguyệt với đề tài

Bài viết "Đánh giá chuẩn mực kiểm toán Việt Nam về báo cáo kiểm toán và một số kiến nghị liên quan" trình bày quá trình hình thành và phát triển chuẩn mực báo cáo kiểm toán (BCKT) trên thế giới và hiện trạng chuẩn mực tại Việt Nam Tác giả đánh giá thực tế việc hiểu và sử dụng BCKT ở Việt Nam, từ đó phân tích mức độ cần cải thiện của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Các kiến nghị được đưa ra bao gồm: thiết lập quy định pháp lý về xử phạt vi phạm chuẩn mực, tách biệt trách nhiệm giữa Ban giám đốc và Kiểm toán viên (KTV), chỉnh sửa phạm vi kiểm toán, giải thích rõ thuật ngữ “đảm bảo hợp lý” theo VSA 700, và hoàn thiện các quy định cụ thể cho từng loại ý kiến của KTV trên BCKT.

Năm 2013, Phan Thanh Trúc đã thực hiện nghiên cứu thạc sỹ về "Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi của xã hội về chất lượng kiểm toán tại Việt Nam" Nghiên cứu này hệ thống hóa các khái niệm liên quan đến chất lượng kiểm toán và khoảng cách mong đợi của xã hội, làm rõ mối quan hệ giữa chúng Tác giả đã phân tích và đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam thông qua khảo sát thực nghiệm, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm giảm thiểu khoảng cách mong đợi và nâng cao chất lượng kiểm toán trong nước.

Năm 2012, Vũ Hữu Đức và Võ Thị Như Nguyệt đã công bố bài viết “Khoảng cách thông tin trên báo cáo kiểm toán – Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam” trên tạp chí khoa học của Đại học Mở Tp.HCM Nghiên cứu này đánh giá sự khác biệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo kiểm toán (BCKT), bao gồm nhân viên tín dụng ngân hàng và nhà đầu tư Kết quả cho thấy vẫn tồn tại sự khác biệt trong nhận thức về vai trò của BCKT trong đánh giá rủi ro kinh doanh, độ tin cậy của BCKT, và cách giải thích các thuật ngữ trên BCKT.

“đảm bảo hợp lý”, “chọn mẫu”, “mức trọng yếu”.

Nhận xét về các nghiên cứu trước và xác định vấn đề cần nghiên cứu

Tóm lại, qua việc tổng quan các nghiên cứu liên quan đến nội dung dự kiến của luận văn, tác giả đã nhận diện được những vấn đề đã được giải quyết cũng như những hạn chế và tồn tại còn tồn tại trong các nghiên cứu trước đó.

1.3.1 Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Theo thời gian, các nghiên cứu toàn cầu đã được cải thiện về nội dung và ý nghĩa nhờ vào việc kế thừa các nghiên cứu trước đó, dẫn đến việc đưa ra các kết luận có giá trị và cơ sở minh chứng vững chắc hơn Nhìn chung, các nghiên cứu trước và sau ở nước ngoài đều có những đặc điểm nổi bật.

1) Các nghiên cứu gắn liền với nền kinh tế phát triển, tiếp cận theo hướng gắn kết với sự phát triển của BCKT, mang tính lịch sử với cách thức thực hiện xuyên suốt qua thời gian từ quá khứ đến hiện tại, qua không gian với các nghiên cứu được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau

2) Hầu hết các nghiên cứu trước là những khởi xướng về việc đưa ra một số vấn đề mà khoảng cách thông tin trên BCKT thường tập trung ở vấn đề đó, tạo tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo Trong những nghiên cứu đầu tiên, chủ yếu xem xét các nhóm vấn đề một cách chung chung, chưa có sự phân nhóm các vấn đề

Càng về sau, các nghiên cứu tiếp theo đã xem xét biểu hiện của khoảng cách thông tin trên BCKT ở những vấn đề rõ ràng và cụ thể hơn

3) Các nghiên cứu sau kế thừa kết quả của những nghiên cứu trước, những vấn đề mà khoảng cách thông tin thường tập trung vào ở những nghiên cứu sau có tính mới hơn cũng như những lý luận và bằng chứng được các tác giả đưa ra có tính thuyết phục cao hơn, khắc phục dần những hạn chế của các nghiên cứu trước tot nghiep do wn load thyj uyi pl aluan van full moi nhat z z vbhtj mk gmail.com Luan van retey thac si cdeg jg hg

4) Nhiều nghiên cứu có các kết quả khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau

Nghiên cứu về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và nhà quản lý đối với báo cáo tài chính (BCTC) đã cho ra những kết quả trái ngược Kelly và Mohrweis (1989) nhận định rằng người sử dụng báo cáo tài chính theo SAS 58 thường gán trách nhiệm nhiều hơn cho KTV Ngược lại, nghiên cứu của Hatherly và cộng sự (1991) lại cho thấy người sử dụng nhận thức rằng nhà quản lý mới là người chịu trách nhiệm chính đối với BCTC, không phải KTV.

1.3.2 Đối với các công trình nghiên cứu trong nước

Các nghiên cứu trong nước về BCKT và khoảng cách thông tin đã được tác giả tổng hợp đầy đủ trong quá trình tổng quan tài liệu Tóm lại, những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa BCKT và khoảng cách thông tin, từ đó giúp nâng cao hiểu biết về lĩnh vực này.

Các nghiên cứu của Nguyễn Văn Hương (2010) và Võ Thị Như Nguyệt (2010) chủ yếu tập trung vào chất lượng thông tin trên BCKT và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng này tại Việt Nam Phan Thanh Trúc (2013) đã đánh giá sự khác biệt trong nhận thức của KTV và người sử dụng BCKT về kiểm toán BCTC, nhưng nghiên cứu này chỉ nằm trong bối cảnh khoảng cách mong đợi kiểm toán Nghiên cứu của Vũ Hữu Đức và Võ Thị Như Nguyệt (2012) tìm hiểu khoảng cách thông tin trên BCKT, tuy nhiên, nghiên cứu dựa trên mô hình của Asare và cộng sự (2009) chưa khái quát đầy đủ các vấn đề liên quan đến khoảng cách thông tin Thêm vào đó, nghiên cứu này được thực hiện trước khi CMKiT mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, khiến kết quả không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại.

1.3.3 Các phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng

Trong nghiên cứu này, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng bao gồm phương pháp định lượng thông qua thống kê mô tả và dữ liệu điều tra Để đánh giá sự khác biệt trong nhận thức giữa nhóm KTV và nhóm người sử dụng BCKT về thông tin trên báo cáo, các phương pháp kiểm định như T-Test và ANOVA đã được sử dụng.

Các nghiên cứu khảo sát thường áp dụng bảng câu hỏi để đánh giá nhận thức của đối tượng về những vấn đề chính như trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và nhà quản lý, vai trò và mức độ tin tưởng vào báo cáo kiểm toán (BCKT), khả năng phát hiện gian lận trọng yếu trong báo cáo tài chính (BCTC), cùng với ý nghĩa của các thuật ngữ trong BCKT Thang đo đánh giá thường sử dụng là Likert với 5 hoặc 7 mức độ từ "Rất không đồng ý" đến "Rất đồng ý" hoặc từ "Rất không quan trọng" đến "Rất quan trọng", và một số vấn đề còn áp dụng thang đo tỷ lệ.

1.3.4 Xác định vấn đề cần nghiên cứu

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) tại Việt Nam, nhưng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện sau khi Chế độ kế toán mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 Hầu hết các nghiên cứu hiện tại chưa đưa ra mô hình cụ thể nào để giải quyết đầy đủ các vấn đề liên quan đến khoảng cách thông tin, như nhận thức về trách nhiệm của kiểm toán viên và nhà quản lý, cũng như sự bất đồng trong việc giải thích các thuật ngữ trên BCKT Điều này tạo ra một khe hổng trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khoảng cách thông tin trên BCKT Nghiên cứu này nhằm xem xét sự tồn tại của khoảng cách thông tin trên BCKT ở Việt Nam và xác định các vấn đề mà nó tập trung vào.

Trong chương này, tác giả đã tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến báo cáo tài chính (BCKT) và khoảng cách thông tin trong BCKT Bên cạnh đó, tác giả cũng đã khái quát các nghiên cứu đã được thực hiện trên thế giới và tại Việt Nam về khoảng cách thông tin trong BCKT.

Tác giả đã đánh giá và tổng hợp các ưu điểm và hạn chế của những nghiên cứu trước về khoảng cách thông tin trên BCKT Dựa trên những kết quả này, tác giả sẽ áp dụng và điều chỉnh cho phù hợp với môi trường Việt Nam, nơi có nền kinh tế đang phát triển và những đặc điểm văn hóa khác biệt so với các quốc gia khác, nhằm xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu hiệu quả.

Bài viết sẽ tổng hợp các nghiên cứu hiện có để khám phá các cơ sở lý luận và lý thuyết liên quan đến báo cáo tài chính (BCKT) nói chung, cũng như phân tích khoảng cách thông tin trong BCKT một cách chi tiết.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Lý thuyết về khoảng cách thông tin trên BCKT

Khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) đã được nghiên cứu nhiều, không chỉ như một lĩnh vực riêng mà còn trong bối cảnh rộng hơn là khoảng cách mong đợi kiểm toán Theo bản tham khảo của Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo Quốc tế (IAASB) năm 2011, khoảng cách mong đợi được định nghĩa là “sự khác biệt giữa những gì người dùng mong đợi từ kiểm toán viên (KTV) và dịch vụ kiểm toán BCKT, và thực tế những gì KTV thực hiện và dịch vụ kiểm toán BCKT cung cấp” (IAASB 2011, 7; Porter).

Khoảng cách giữa kỳ vọng của xã hội và khả năng thực tế của kiểm toán viên (KTV) trong việc phát hiện gian lận trên báo cáo tài chính (BCTC) phần lớn xuất phát từ những hiểu lầm về trách nhiệm của họ Điều này liên quan đến cách mà KTV thông tin về các phát hiện của mình đến người sử dụng báo cáo kiểm toán (IAASB 2011).

Mặc dù IAASB không sử dụng thuật ngữ “khoảng cách thông tin”

Khoảng cách thông tin trong báo cáo kiểm toán (BCKT) phản ánh sự khác biệt giữa mong đợi và hiểu biết của người sử dụng so với những gì được truyền đạt bởi kiểm toán viên (KTV) Theo IAASB (2011), cách thức KTV thông tin các phát hiện thông qua ngôn ngữ rập khuôn có thể tạo ra một khoảng cách nhận thức, dẫn đến sự không rõ ràng về những gì cần làm và những gì thực sự được thực hiện Mock và cộng sự (2013) đã định nghĩa "khoảng cách thông tin" là sự khác biệt giữa mong muốn của người sử dụng và thông tin được cung cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo Do đó, hiệu quả truyền thông trong quá trình kiểm toán của KTV thông qua BCKT là rất quan trọng để giảm thiểu khoảng cách này.

2.2.2 Cơ sở lý thuyết giải thích khoảng cách thông tin trên BCKT 2.2.2.1 Lý thuyết truyền thông

Lý thuyết truyền thông (Communication Theory) giải thích những nguyên nhân có thể của khoảng cách thông tin (Hronsky, 1998; Maijoor và cộng sự, 2002;

Theo Mock và cộng sự (2013), việc áp dụng các chiến lược truyền thông hiệu quả là rất quan trọng (Hasan và cộng sự, 2003) Fiske (1990) đã chỉ ra rằng lý thuyết truyền thông chia thành hai trường phái chính: trường phái quá trình và trường phái ký hiệu.

Mô hình truyền thông của trường phái quá trình chủ yếu xuất phát từ mô hình tuyến tính cơ bản của Shannon và Weaver (1949), tập trung vào việc truyền đạt thông tin Quá trình này dựa trên mô hình tuyến tính, nhấn mạnh dòng chảy thông tin từ nguồn đến kênh truyền tin Trong bối cảnh này, nguồn thông tin là KTV và kênh truyền tin là BCKT, theo Fiske (1990).

Hình 2.1: Mô hình quá trình truyền thông của Shannon và Weaver áp dụng cho BCKT

Sau khi hoàn tất kiểm toán, KTV sẽ thông báo các phát hiện và đánh giá của mình qua báo cáo kiểm toán (BCKT) Người sử dụng BCKT sẽ giải mã thông tin này theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến những đánh giá khác nhau về giá trị của báo cáo tài chính (BCTC) Những đánh giá này có thể kích thích các hành vi phản ứng tiếp theo, như quyết định hoặc hành động Trong mối quan hệ với khoảng cách thông tin trên BCKT, mô hình truyền thông cho thấy rằng BCKT có thể không truyền tải đầy đủ thông điệp mà KTV muốn gửi gắm Điều này xảy ra khi có sự "nhiễu thông tin" trong quá trình mã hóa hoặc giải mã, dẫn đến việc ý nghĩa của thông tin không được hiểu đúng như mong đợi Do đó, ý nghĩa của thông tin trong BCKT chủ yếu nằm trong chính các thông tin đó, không phải là sản phẩm của phán đoán hay giải thích bị ảnh hưởng bởi ngữ cảnh của KTV và người sử dụng.

Một hạn chế của trường phái quá trình trong lý thuyết truyền thông là không thể giải thích đầy đủ ảnh hưởng của các yếu tố ngữ cảnh đến cách hiểu khác nhau của người đọc về cùng một thông tin (Mock và cộng sự, 2013) Trường phái ký hiệu giải quyết vấn đề này bằng cách nhấn mạnh sự tương tác giữa người đọc, tin nhắn và ngữ cảnh trong việc tạo ra ý nghĩa Ý nghĩa không chỉ nằm trong bản thân tin nhắn mà còn được hình thành qua sự tương tác của con người với tin nhắn đó, cho thấy vai trò chủ động hơn của người nhận trong mô hình truyền thông (Mock và cộng sự, 2013).

Hình 2.2: Mô hình truyền thông của trường phái ký hiệu áp dụng cho BCKT

Áp dụng mô hình ký hiệu của truyền thông vào kiểm toán, các kiểm toán viên (KTV) là người phát đi thông tin, trong khi người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) là người đọc Các ý kiến trên BCKT liên quan đến độ tin cậy của thông tin và sự phù hợp với thực tế doanh nghiệp Ý nghĩa của BCKT được hình thành qua tương tác giữa các yếu tố trong mô hình Người đọc cần tương tác với thông tin, và kinh nghiệm, kiến thức, cũng như thái độ của họ sẽ tạo ra những ý nghĩa khác nhau từ cùng một thông điệp, dẫn đến sự tồn tại của khoảng cách thông tin trên BCKT.

2.2.2.2 Lý thuyết hồi ứng của người đọc

Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng và marketing, thông tin quảng cáo tương tác với kiến thức, kỳ vọng, cảm xúc và động cơ của người đọc, dẫn đến việc cùng một thông tin có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau.

Trong lĩnh vực tư pháp, các thẩm phán thường có cách diễn giải khác nhau về cùng một quy định, điều này có thể do hiểu lầm hoặc động cơ cá nhân Theo lý thuyết hồi ứng của người đọc, người tiếp nhận thông tin không chỉ thụ động mà còn chủ động giải thích dựa trên kiến thức và động cơ của họ Do đó, cùng một văn bản có thể được hiểu khác nhau giữa các người đọc Áp dụng lý thuyết này vào kiểm toán, thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) có thể bị hiểu sai do ngôn ngữ mơ hồ và khó hiểu, cùng với việc các bên liên quan không đọc BCKT một cách thụ động mà suy diễn nhiều ý nghĩa khác nhau dựa trên hoàn cảnh và tâm lý của họ.

Tổng kết những vấn đề tập trung khoảng cách thông tin trên BCKT từ các nghiên cứu trước

Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy có sự khác biệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng kết quả kiểm toán về thông điệp trên báo cáo tài chính (BCKT), dẫn đến khoảng cách thông tin Sự khác biệt này chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính: thứ nhất, sự khác biệt trong nhận thức về vai trò và hạn chế của kiểm toán; thứ hai, bất đồng trong cách giải thích các thuật ngữ kỹ thuật trên BCKT giữa KTV và người sử dụng.

Nhà quản lý đơn vị kiểm toán chịu trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC), trong khi kiểm toán viên (KTV) chỉ đưa ra ý kiến về tính hợp lệ của BCTC, dựa trên các khía cạnh trọng yếu và sự phù hợp với khuôn khổ lập và trình bày BCTC áp dụng (IFAC).

Nghiên cứu chỉ ra rằng sự khác biệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT) xuất phát từ việc người sử dụng không hiểu rõ vai trò và hạn chế của kiểm toán Cụ thể, những khác biệt này thể hiện ở bốn vấn đề chính: (1) trách nhiệm của KTV và nhà quản lý, (2) vai trò của BCKT, (3) mức độ tin tưởng vào BCKT, và (4) khả năng phát hiện gian lận trọng yếu trên báo cáo tài chính.

 Trách nhiệm của KTV và nhà quản lý đơn vị đƣợc kiểm toán:

Nhiều nghiên cứu của các tác giả như Bailey và cộng sự (1983), Anderson và cộng sự (1998), Kelly và Mohrweis (1989), Best và cộng sự (2001), Gold và cộng sự (2009, 2012), và Muylder và cộng sự (2012) đã chỉ ra rằng các kiểm toán viên (KTV) hiểu rõ vai trò của họ chỉ là cung cấp sự đảm bảo cho báo cáo tài chính (BCTC) Trong khi đó, trách nhiệm lập và trình bày BCTC thuộc về nhà quản lý của đơn vị Tuy nhiên, người sử dụng báo cáo kiểm toán vẫn tin rằng trách nhiệm này thuộc về KTV.

KTV Người dùng có thể có những kỳ vọng không thực tế về nhiệm vụ và trách nhiệm của KTV liên quan đến trách nhiệm của nhà quản lý

 Vai trò của BCKT trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các quyết định:

BCKT đã được công nhận là một yếu tố quan trọng trong việc hỗ trợ quyết định của nhà đầu tư Nghiên cứu của Viện CFA Hoa Kỳ năm 2010 cho thấy 72% người tham gia cho rằng BCKT có vai trò thiết yếu trong phân tích và ra quyết định đầu tư, với 46% cho biết BCKT đặc biệt quan trọng Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng nhận thức về tầm quan trọng của BCKT không đồng nhất giữa các KTV và người sử dụng, cũng như giữa các nhóm người dùng khác nhau.

 Vai trò của BCKT trong việc đánh giá rằng BCTC không có gian lận trọng yếu:

Khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên (KTV) có trách nhiệm đảm bảo rằng báo cáo tài chính (BCTC) không chứa sai phạm trọng yếu do gian lận hoặc sai sót Tuy nhiên, do những hạn chế vốn có của quy trình kiểm toán, luôn tồn tại rủi ro không thể tránh khỏi rằng một số sai phạm quan trọng có thể không được phát hiện.

Nghiên cứu chỉ ra rằng người sử dụng thường tin rằng các kiểm toán viên đã thực hiện kiểm tra toàn diện để phát hiện hành vi gian lận, dẫn đến việc không có vấn đề gian lận nào khi ban hành báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần (Hatherly và cộng sự, 1991; Gray và cộng sự, 2011).

 Mức độ tin tưởng của BCKT:

 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị:

Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng người sử dụng tin tưởng vào việc KTV đã kiểm tra kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến khả năng hoạt động liên tục Họ coi báo cáo kiểm toán là một sự khẳng định về khả năng tồn tại của đơn vị trong tương lai Tuy nhiên, KTV chỉ tập trung vào việc phân tích dòng tiền và các dữ liệu tài chính quan trọng để xác định khả năng thanh toán của công ty trong năm tới, mà không đánh giá công tác quản lý, mô hình kinh doanh hay chất lượng sản phẩm của công ty (Gray và cộng sự, 2011).

Mức độ tin tưởng của Báo cáo kiểm toán (BCKT) phản ánh hiệu quả trong công tác quản lý và đầu tư của đơn vị, đồng thời cho thấy khả năng đạt được các mục tiêu chiến lược của đơn vị.

Các CMKiT chỉ ra rằng BCKT không có mục đích chứng minh hiệu quả quản lý công ty Dù công ty quản lý tốt hay kém, miễn là BCTC được trình bày trung thực và hợp lý, công ty vẫn có thể nhận BCKT Điều này cũng tương tự đối với chất lượng đầu tư và khả năng đạt được các mục tiêu chiến lược.

Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng BCKT không phản ánh chất lượng quản lý hay hiệu quả đầu tư của công ty (Gray và cộng sự, 2011) Tuy nhiên, Asare và Wright đã có những quan điểm khác về vấn đề này.

BCKT năm 2012 đã nâng cao sự tin tưởng của người sử dụng vào công tác quản lý của công ty, đảm bảo tính hợp lý của các khoản đầu tư và hỗ trợ việc hoàn thành các mục tiêu chiến lược so với KTV.

 Khả năng KTV đã phát hiện ra gian lận trọng yếu trên BCTC:

Một vấn đề quan trọng là sự khác biệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng về kiến thức, kỹ năng và năng lực của KTV trong việc phát hiện hành vi gian lận trọng yếu trên báo cáo tài chính (BCTC) Nghiên cứu của các tác giả như Low (1984), Miller và cộng sự (1993), Asare và Wright đã chỉ ra rằng sự khác biệt này có thể ảnh hưởng đến độ tin cậy của BCTC và quyết định của người sử dụng.

(2012) b) Bất đồng trong giải thích các thuật ngữ kỹ thuật đƣợc sử dụng trên BCKT giữa KTV và người sử dụng:

Việc sử dụng nhiều thuật ngữ kỹ thuật trong báo cáo kiểm toán (BCKT) đã tạo ra sự khác biệt trong cách hiểu các thông điệp giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng Nhiều người dùng thường xuyên hiểu sai các thuật ngữ như "đảm bảo hợp lý", "phản ánh trung thực và hợp lý", "kiểm tra chọn mẫu", và "mức trọng yếu" (Gray và cộng sự, 2011; Asare và Wright, 2012; Muylder và cộng sự, 2012).

Chương này đã giới thiệu các lý thuyết liên quan đến BCKT, đồng thời nêu rõ lịch sử hình thành và phát triển của BCKT cũng như khoảng cách thông tin trên BCKT Tác giả cũng đã hệ thống hóa phương pháp kiểm tra sự tồn tại của khoảng cách thông tin trên BCKT từ các tác giả quốc tế.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu và mô hình nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích định lượng, bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu nghiên cứu Tiếp theo, nghiên cứu sẽ tìm hiểu và tổng hợp các lý thuyết liên quan đến khoảng cách thông tin trên BCKT, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu ban đầu.

Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu

(Nguồn: tác giả tự phân tích)

Xác định mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu cơ sở lý thuyết

- Lý thuyết về khoảng cách thông tin trên BCKT

Xây dựng mô hình nghiên cứu và bảng câu hỏi khảo sát

Nghiên cứu chính thức bằng phương pháp nghiên cứu định lượng

- Thu thập dữ liệu thông qua bảng câu hỏi

+ Thống kê mô tả + Kiểm định sự khác biệt: phân tích ANOVA, phân tích post-hoc

The conclusion and recommendations for graduation can be downloaded from the latest thesis available at vbhtj mk gmail.com, focusing on the master's thesis.

Giai đoạn tiếp theo là thiết kế và gửi bảng câu hỏi khảo sát để thu thập thông tin phản hồi Dữ liệu từ phiếu khảo sát sẽ được nhập vào phần mềm SPSS 18.0 và Excel 2013 để xử lý Sau đó, dữ liệu sẽ được kiểm tra, mã hóa và làm sạch, trước khi tiến hành các bước phân tích tiếp theo.

- Thống kê mô tả: mô tả các thuộc tính của nhóm mẫu nghiên cứu

Thống kê mô tả và phân tích ANOVA, cùng với phân tích post-hoc (LSD), được sử dụng để kiểm tra sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm đối tượng khảo sát Mục tiêu là xác định mức độ tồn tại của khoảng cách thông tin trên báo cáo kiểm toán (BCKT) tại Việt Nam.

Cuối cùng là kết luận và đưa ra các kiến nghị

Dựa trên các học thuyết và nghiên cứu liên quan, đề tài nghiên cứu này tổng hợp thành mô hình nghiên cứu về sự tồn tại của khoảng cách thông tin trên BCKT Các biến được lựa chọn từ các nghiên cứu trước đây sẽ là cơ sở để xây dựng các biến quan sát dưới dạng câu hỏi trong bảng câu hỏi nghiên cứu của đề tài.

Hình 3.2: Mô hình nghiên cứu

(Nguồn: tác giả tổng hợp dựa trên những nghiên cứu của các tác giả trên thế giới)

 Các giả thuyết nghiên cứu:

Sau khi xác định mục tiêu và đối tượng nghiên cứu, tác giả đã dựa trên cơ sở tổng quan tài liệu để đưa ra năm giả thuyết nghiên cứu.

(1) Giả thuyết H 1 : Không có sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng BCKT về trách nhiệm của KTV và nhà quản lý

(2) Giả thuyết H 2 : Không có sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng BCKT về vai trò của BCKT

SỰ TỒN TẠI CỦA KHOẢNG CÁCH THÔNG TIN TRÊN BCKT

(Tồn tại sự khác biệt trong nhận thức về các thông tin được truyền tải trên BCKT)

Sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng về trách nhiệm của KTV và nhà quản lý

Sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng về vai trò của BCKT

Sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng về mức độ tin tưởng của BCKT

Sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng về khả năng KTV đã phát hiện ra gian lận trọng yếu trên BCTC

Sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng về việc giải thích các thuật ngữ kỹ thuật trên báo cáo tốt nghiệp là vấn đề cần được chú trọng Việc hiểu rõ các thuật ngữ này không chỉ giúp người sử dụng nắm bắt thông tin chính xác mà còn nâng cao chất lượng báo cáo Do đó, cần có sự giao tiếp hiệu quả giữa KTV và người sử dụng để đảm bảo thông tin được truyền đạt một cách rõ ràng và dễ hiểu.

(3) Giả thuyết H 3 : Không có sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng BCKT về mức độ tin tưởng của BCKT

Giả thuyết H4 đề xuất rằng không tồn tại sự khác biệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT) về khả năng của KTV trong việc phát hiện gian lận trọng yếu trên báo cáo tài chính.

Giả thuyết H5 đề xuất rằng không tồn tại sự khác biệt trong cách hiểu giữa kỹ thuật viên (KTV) và người sử dụng báo cáo kết quả (BCKT) về việc giải thích các thuật ngữ kỹ thuật được sử dụng trong BCKT Điều này cho thấy rằng cả hai nhóm này có thể đồng nhất trong việc tiếp nhận và diễn giải thông tin kỹ thuật, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong việc áp dụng các thuật ngữ trong thực tế.

Nghiên cứu chính thức

Nghiên cứu này tập trung vào ba nhóm đối tượng khảo sát: (1) nhóm KTV, những người cung cấp thông tin trên BCKT; (2) cán bộ tín dụng ngân hàng; và (3) nhân viên môi giới chứng khoán, đại diện cho những người thường xuyên sử dụng BCKT (Gold và cộng sự, 2009; Asare và cộng sự, 2012; Muylder và cộng sự, 2012) Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu phi xác suất với hình thức chọn ngẫu nhiên thuận lợi đã được áp dụng nhằm dễ dàng tiếp cận người trả lời và tiết kiệm thời gian, chi phí thu thập thông tin Các bảng khảo sát được gửi qua hai hình thức: thư điện tử với liên kết đến bảng câu hỏi trên Google Document và khảo sát trực tiếp thông qua sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp.

Phụ lục 7: Danh sách các đối tƣợng khảo sát

Kích thước mẫu nghiên cứu phụ thuộc vào mục tiêu và mối quan hệ dữ liệu mà nhà nghiên cứu muốn thiết lập (Kumar, 2005) Mẫu lớn hơn thường mang lại độ chính xác cao hơn, nhưng quyết định kích thước mẫu còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố tài chính và thời gian của nhà nghiên cứu Do giới hạn về tài chính và thời gian, kích thước mẫu dự kiến cho đề tài này sẽ được xác định ở mức tối thiểu cần thiết, với con số ban đầu là 150 Việc xác định kích thước mẫu phù hợp vẫn còn tranh cãi, với nhiều quan điểm khác nhau; một số nhà nghiên cứu không chỉ định số lượng cụ thể mà đưa ra tỷ lệ giữa số mẫu và số tham số cần ước lượng Đối với phân tích nhân tố, kích thước mẫu cũng phụ thuộc vào số lượng biến được đưa vào phân tích.

Gorsuch (1983) cho rằng số lượng mẫu cần gấp 5 lần so với số lượng biến Trong khi Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005) cho rằng tỷ lệ đó là 4 hay 5

Trong nghiên cứu này, có tổng cộng 30 tham số (biến quan sát) cần phân tích, do đó, số mẫu tối thiểu cần thiết là 120 (30 x 4) Với số lượng mẫu 150, nghiên cứu này được coi là hợp lý và chấp nhận được.

3.2.3 Xây dựng bảng câu hỏi khảo sát

The survey questionnaire was developed by referencing and building upon relevant content from significant global studies, including the research conducted by Best et al (2001), which explored the audit expectation gap in Singapore, and Gold et al (2009), which examined financial statement users' perceptions.

IAASB's ISA 700 Unqualified Auditor's Report in Germany and the Netherlands);

Asare và cộng sự, 2012 (Investors', Auditors', and Lenders' Understanding of the

Message Conveyed by the Standard Audit Report on the Financial Statements);

Muylder và cộng sự, 2012 (The Expectations Gap: Two Remedies Investigated);

In 2012, Gold and colleagues examined the ISA 700 Auditor’s Report and its impact on the audit expectation gap, focusing on the significance of additional explanations To tailor the content for Vietnam, experts were interviewed to refine the questions posed The investigation questions were crafted based on a sample of the fully accepted financial statements, guided by the VSA No 700, which outlines the formation of audit opinions and the auditor's report on financial statements This regulation was issued alongside Circular No 214/2012/TT-BTC by the Ministry of Finance, effective from January 1, 2014.

Phụ lục 8: Danh sách các chuyên gia phỏng vấn

Phụ lục 9: Bảng câu hỏi khảo sát về khoảng cách thông tin trên BCKT

Nội dung khảo sát gồm hai phần:

Phần 1 của bài viết tập trung vào nhân khẩu học, cung cấp thông tin cá nhân, nghề nghiệp và chi tiết về đơn vị công tác của những người tham gia khảo sát.

Phần 2 của bài khảo sát bao gồm 30 câu hỏi nhằm đánh giá sự hiểu biết của người tham gia về 5 vấn đề chính liên quan đến khoảng cách thông tin trên Bản cân đối kế toán (BCKT) Các biến được sử dụng trong khảo sát được diễn đạt và kế thừa từ các nghiên cứu của các tác giả quốc tế.

 Các biến về trách nhiệm của KTV:

Câu hỏi Nghiên cứu kế thừa

3 1 KTV chịu trách nhiệm lập và trình bày BCTC của công ty được kiểm toán

Best và cộng sự, 2001; Gold và cộng sự, 2009; Muylder và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

4 2 KTV chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của BCTC được kiểm toán

6 3 KTV chịu trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên BCTC được kiểm toán

8 4 KTV chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty được kiểm toán

9 Best và cộng sự, 2001; Gold và cộng sự, 2009; Gold và cộng sự, 2012

10 5 KTV chịu trách nhiệm phát hiện và báo cáo tất cả các sai sót của công ty được kiểm toán

12 6 KTV có trách nhiệm phát hiện tất cả gian lận trong công ty được kiểm toán

13 Best và cộng sự, 2001; Gold và cộng sự, 2009; Muylder và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

14 7 KTV chịu trách nhiệm trong việc ngăn ngừa hành vi gian lận ở công ty được kiểm toán

15 Best và cộng sự, 2001; Gold và cộng sự, 2009; Muylder và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

 Các biến về trách nhiệm của Ban Giám đốc:

Câu hỏi nghiên cứu về kế thừa tốt nghiệp và luận văn thạc sĩ mới nhất có thể được tải xuống qua email Hãy liên hệ qua gmail.com để nhận tài liệu đầy đủ và chi tiết.

16 8 Ban Giám đốc chịu trách nhiệm lập và trình bày BCTC của đơn vị

17 Best và cộng sự, 2001; Gold và cộng sự, 2009; Muylder và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

18 9 Ban Giám đốc chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của BCTC của đơn vị

19 Best và cộng sự, 2001; Gold và cộng sự, 2009; Muylder và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

20 10 Ban Giám đốc chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị

21 Gold và cộng sự, 2009; Gold và cộng sự,

11 Ban Giám đốc chịu trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện các hành vi gian lận trong đơn vị

Gold và cộng sự, 2009; Muylder và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

 Các biến về vai trò của BCKT:

Câu hỏi Nghiên cứu kế thừa

12 Tầm quan trọng của BCKT trong các quyết định đầu tư/cho vay

Best và cộng sự, 2001; Asare và cộng sự,

13 Tầm quan trọng của BCKT trong việc giám sát hoạt động của đơn vị

14 Tầm quan trọng của BCKT trong việc đánh giá BCTC không có gian lận trọng yếu

 Các biến về mức độ tin tưởng của BCKT:

Câu hỏi Nghiên cứu kế thừa

15 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng tồn tại và phát triển của đơn vị

Muylder và cộng sự, 2012; Asare và cộng sự, 2012

16 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị có hiệu quả

17 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng đơn vị được quản lý tốt

Best và cộng sự, 2001; Asare và cộng sự,

18 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng đầu tư vào đơn vị là tốt

19 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng đơn vị đạt được các mục tiêu chiến lược

Các biến liên quan đến khả năng của kiểm toán viên trong việc phát hiện gian lận đóng vai trò quan trọng trong quá trình kiểm toán Sự hiểu biết và kỹ năng của họ có thể ảnh hưởng đến hiệu quả phát hiện các hành vi gian lận trong doanh nghiệp Việc áp dụng các phương pháp và công cụ hiện đại cũng góp phần nâng cao khả năng này.

Câu hỏi Nghiên cứu kế thừa

20 Theo Anh/Chị, KTV có thể phát hiện các gian lận trọng yếu trên BCTC hay không?

 Các biến về ý nghĩa của các thuật ngữ trên BCKT:

Câu hỏi Nghiên cứu kế thừa

21 Thuật ngữ “đảm bảo hợp lý” thể hiện rằng BCTC không còn có bất kỳ sai sót nào

Asare và cộng sự, 2012; Muylder và cộng sự, 2012

22 Thuật ngữ “đảm bảo hợp lý” thể hiện rằng BCTC không còn có bất kỳ sai sót trọng yếu nào

Best và cộng sự, 2001; Asare và cộng sự, 2012; Gold và cộng sự, 2012

23 Thuật ngữ “phản ánh trung thực và hợp lý” trên BCKT thể hiện các nghiệp vụ kế toán được ghi nhận đúng về bản chất kinh tế

24 Thuật ngữ “phản ánh trung thực và hợp lý” trên BCKT thể hiện rằng BCTC tuân thủ các chuẩn mực, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan

25 Thuật ngữ “bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp” trên BCKT thể hiện kiểm toán viên đã kiểm tra tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong đơn vị

26 Thuật ngữ “bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp” trên BCKT thể hiện KTV có thể kiểm tra chọn mẫu trong quá trình kiểm toán

27 Nếu KTV kiểm tra chọn mẫu, đối với khoản mục doanh thu, Anh/Chị nghĩ KTV thường sẽ kiểm tra bao nhiêu phần trăm (%) các nghiệp vụ bán hàng

28 Nếu KTV kiểm tra chọn mẫu, đối với khoản mục doanh thu, Anh/Chị nghĩ KTV nên kiểm tra bao nhiêu phần trăm (%) các nghiệp vụ bán hàng

29 Anh/Chị nghĩ rằng KTV thực tế sử dụng bao nhiêu phần trăm (%) lợi nhuận trước thuế để xác định mức trọng yếu

Asare và cộng sự, 2012 tot nghiep do wn load thyj uyi pl aluan van full moi nhat z z vbhtj mk gmail.com Luan van retey thac si cdeg jg hg

30 Anh/Chị nghĩ rằng KTV nên sử dụng bao nhiêu phần trăm (%) lợi nhuận trước thuế để xác định mức trọng yếu

3.2.4 Thiết kế thang đo cho bảng câu hỏi

Câu trả lời cho câu hỏi khảo sát được sử dụng hai loại thang đo:

- Thang đo Likert 5 điểm bắt đầu từ (1) “Hoàn toàn không đồng ý” đến (5)

Trong khảo sát, các câu hỏi được phân loại theo mức độ quan trọng và tin tưởng Đối với trách nhiệm của KTV và Ban Giám đốc, mức độ đồng ý được đánh giá từ “Hoàn toàn đồng ý” đến “Không đồng ý” Về vai trò của BCKT, mức độ quan trọng được xác định từ “Không quan trọng” đến “Rất quan trọng” Đối với mức độ tin tưởng vào BCKT, người tham gia khảo sát có thể chọn từ “Không tin tưởng” đến “Rất tin tưởng” Cuối cùng, khả năng của KTV trong việc phát hiện gian lận được đánh giá từ “Hoàn toàn không thể” đến “Phát hiện tất cả”.

Thang đo cấp tỉ lệ điểm từ 1% đến 100% được sử dụng để đánh giá các câu hỏi liên quan đến kiểm tra chọn mẫu và mức trọng yếu trên báo cáo kiểm toán.

Trong chương này, tác giả trình bày chi tiết về các phương pháp và quy trình nghiên cứu của luận văn Bắt đầu với việc xây dựng khung nghiên cứu, tác giả sơ đồ hóa quy trình thực hiện nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là phương pháp định lượng, bao gồm thống kê mô tả, phân tích ANOVA và phân tích post-hoc (LSD) để kiểm định các giả thuyết Cuối cùng, tác giả mô tả quy trình nghiên cứu chính, bao gồm cơ sở xây dựng mô hình nghiên cứu và thang đo cho mô hình.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Mô tả mẫu nghiên cứu

Kết quả khảo sát cho thấy, trong 149 mẫu nghiên cứu có 40 KTV, 57 nhân viên tín dụng ngân hàng và 52 nhân viên môi giới chứng khoán

Biểu đồ 4.1: Thống kê đối tƣợng khảo sát

Kết quả nghiên cứu về khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam

Tác giả đã phát triển một mô hình nghiên cứu và tiến hành khảo sát thực tế với ba nhóm đối tượng khác nhau, sử dụng công cụ thống kê SPSS để kiểm định Kết quả nghiên cứu sẽ chỉ ra mức độ tồn tại của khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính tại Việt Nam.

4.2.1 Khoảng cách thông tin liên quan đến vấn đề trách nhiệm của KTV và nhà quản lý

Bảng 4.1 thể hiện kết quả thống kê mô tả và phân tích ANOVA về sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm đối với trách nhiệm của KTV và nhà quản lý, với giả định rằng không có sự khác biệt giữa các nhóm trong 11 nội dung khảo sát Tiếp theo, bảng 4.2 trình bày kết quả phân tích post-hoc (LSD) nhằm làm rõ sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm.

Kiểm toán viên, nhân viên tín dụng và nhân viên môi giới chứng khoán là những nghề nghiệp hấp dẫn trong lĩnh vực tài chính Nếu bạn đang tìm kiếm thông tin về luận văn thạc sĩ hoặc tài liệu học tập, hãy tải xuống các tài liệu mới nhất để hỗ trợ quá trình nghiên cứu của bạn Để nhận thêm thông tin, vui lòng liên hệ qua email vbhtjmk@gmail.com.

Bảng 4.1: Thống kê mô tả và phân tích ANOVA sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về trách nhiệm của

KTV và nhà quản lý

(*), (**) khác biệt đáng kể với p-value lần lượt ở mức 0.05 và 0.01

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

NV môi giới chứng khoán

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

1 KTV chịu trách nhiệm lập và trình bày BCTC 1.85

2 KTV chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của BCTC

3 KTV chịu trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên BCTC

4 KTV chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ **

5 KTV chịu trách nhiệm phát hiện và báo cáo tất cả các sai sót **

6 KTV có trách nhiệm phát hiện tất cả gian lận ** 1.98

7 KTV chịu trách nhiệm trong việc ngăn ngừa hành vi gian lận **

8 BGĐ chịu trách nhiệm lập và trình bày BCTC 4.03

9 BGĐ chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của BCTC

10 BGĐ chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ **

11 BGĐ chịu trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện các hành vi gian lận **

Bảng 4.2 Phân tích post-hoc (LSD) sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về trách nhiệm của KTV và nhà quản lý

Các nhóm KTV, nhân viên tín dụng và nhân viên môi giới chứng khoán không đồng ý rằng KTV chịu trách nhiệm lập và trình bày BCTC, với điểm trung bình 1.97 Họ cũng không cho rằng KTV chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của BCTC (điểm trung bình 2.17) Ngược lại, tất cả đều nhất trí rằng trách nhiệm này thuộc về nhà quản lý của đơn vị, với điểm trung bình lần lượt là 3.86 và 3.68 KTV chỉ có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của BCTC, với điểm trung bình 3.95.

Có sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) đối với hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, với p-value = 0.000 Điểm trung bình của nhóm KTV là 2.10, thấp hơn đáng kể so với nhóm nhân viên tín dụng (3.84) và nhóm môi giới chứng khoán (3.73), cả hai đều có p-value = 0.000.

Câu hỏi Nhóm tham gia (I)

4 KTV chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ

Kiểm toán viên NV tín dụng - 1.742** 0.000

NV tín dụng NV chứng khoán 0.111 0.348

5 KTV chịu trách nhiệm phát hiện và báo cáo tất cả các sai sót

Kiểm toán viên NV tín dụng - 1.685** 0.000

NV tín dụng NV chứng khoán 0.014 0.921

6 KTV có trách nhiệm phát hiện tất cả gian lận

Kiểm toán viên NV tín dụng - 1.885** 0.000

NV tín dụng NV chứng khoán 0.360* 0.031

7 KTV chịu trách nhiệm trong việc ngăn ngừa hành vi gian lận

Kiểm toán viên NV tín dụng - 1.173** 0.000

NV tín dụng NV chứng khoán - 0.372 0.068

10 BGĐ chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ

Kiểm toán viên NV tín dụng 1.371** 0.000

NV tín dụng NV chứng khoán 0.154 0.192

11 BGĐ chịu trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện các hành vi gian lận

Kiểm toán viên NV tín dụng 1.520** 0.000

Các nhóm có quan điểm khác nhau về trách nhiệm của Ban Giám đốc đối với hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ, với p-value = 0.000 Kế toán viên (KTV) đồng ý cao với quan điểm này, đạt điểm trung bình 3.78, trong khi nhóm môi giới chứng khoán chỉ đạt 2.25 (p-value = 0.000) và nhóm nhân viên tín dụng 2.40 (p-value = 0.000) Không có sự khác biệt thống kê giữa hai nhóm người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT) Điều này cho thấy KTV tin rằng nhà quản lý phải chịu trách nhiệm về hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ, trong khi người sử dụng lại cho rằng trách nhiệm thuộc về KTV.

Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức về trách nhiệm ngăn ngừa gian lận giữa các nhóm đối tượng Các KTV không đồng ý rằng họ phải chịu trách nhiệm về vấn đề này, với điểm trung bình là 2.30, thấp hơn so với nhóm môi giới chứng khoán (3.85) và nhóm nhân viên tín dụng (3.47), với p-value đều là 0.000 Ngược lại, KTV cho rằng nhà quản lý phải chịu trách nhiệm, với điểm trung bình 3.63, cao hơn đáng kể so với nhóm nhân viên tín dụng (2.11) và nhóm môi giới chứng khoán (2.29), cũng với p-value 0.000 Tuy nhiên, giữa hai nhóm người sử dụng không có sự khác biệt trong nhận thức về trách nhiệm này.

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức về trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện và báo cáo sai sót, với điểm trung bình của KTV chỉ đạt 2.17, thấp hơn so với nhóm nhân viên tín dụng (3.86) và nhóm môi giới chứng khoán (3.85), đều có p-value = 0.000 Tương tự, KTV cũng thể hiện mức độ đồng ý thấp trong việc phát hiện gian lận, chỉ đạt 1.98, khác biệt đáng kể so với nhân viên tín dụng (3.86) và môi giới chứng khoán (3.50), với p-value = 0.000 Đặc biệt, nhóm nhân viên tín dụng có xu hướng quy trách nhiệm cho KTV cao hơn so với nhóm môi giới chứng khoán, với p-value = 0.031.

4.2.2 Khoảng cách thông tin liên quan đến vấn đề vai trò của BCKT tot nghiep do wn load thyj uyi pl aluan van full moi nhat z z vbhtj mk gmail.com Luan van retey thac si cdeg jg hg

Bảng 4.3: Thống kê mô tả và phân tích ANOVA sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về vai trò của BCKT

(*), (**) khác biệt đáng kể với p-value lần lượt ở mức 0.05 và 0.01

Bảng 4.4: Phân tích post-hoc (LSD) sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về vai trò của BCKT

(*), (**) khác biệt đáng kể với p-value lần lượt ở mức 0.05 và 0.01

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

NV môi giới chứng khoán

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

12 Tầm quan trọng của BCKT trong các quyết định đầu tư/cho vay

13 Tầm quan trọng của BCKT trong việc giám sát hoạt động của đơn vị **

14 Tầm quan trọng của BCKT trong việc đánh giá BCTC không có gian lận trọng yếu

13 Tầm quan trọng của BCKT trong việc giám sát hoạt động của đơn vị

Kiểm toán viên NV tín dụng - 0.976** 0.000

NV tín dụng NV chứng khoán 0.334 0.143

Kết quả thống kê mô tả và phân tích ANOVA cho thấy sự khác biệt trong nhận thức về vai trò của BCKT giữa các nhóm, với giả định rằng không có sự khác biệt giữa các nhóm đối với ba nội dung khảo sát Bảng 4.3 trình bày các kết quả này, trong khi Bảng 4.4 cung cấp kết quả phân tích post-hoc (LSD) nhằm xác định sự khác biệt cụ thể trong nhận thức giữa các nhóm.

Các nhóm đối tượng khảo sát đều đồng ý rằng báo cáo kiểm toán (BCKT) đóng vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư và cho vay, với điểm trung bình lần lượt là 3.73 và 3.83, không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (p-value > 0.05) Tuy nhiên, có sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng, với p = 0.000 Nhân viên tín dụng và môi giới chứng khoán đánh giá cao vai trò của BCKT trong giám sát hoạt động, với điểm trung bình 3.53 và 3.19, trong khi KTV chỉ đạt 2.55 (p-value lần lượt là 0.000 và 0.011) Sự chênh lệch giữa KTV và nhân viên tín dụng lớn hơn so với giữa KTV và nhân viên môi giới chứng khoán.

4.2.3 Khoảng cách thông tin liên quan đến vấn đề mức độ tin tưởng của BCKT

Bảng 4.5 trình bày kết quả thống kê mô tả và phân tích ANOVA về sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về mức độ tin tưởng của BCKT, với giả định không có sự khác biệt giữa các nhóm Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể (p-value > 0.05), và các nhóm khảo sát đều đánh giá mức độ tin tưởng của BCKT thấp, với điểm trung bình lần lượt là 2.92, 2.98, 2.95, 2.89 và 2.51 Mặc dù người tham gia công nhận vai trò quan trọng của BCKT trong hỗ trợ quyết định đầu tư và đánh giá BCTC không có gian lận, nhưng họ vẫn thiếu niềm tin vào hiệu quả kinh doanh mà BCKT cung cấp Điều này cho thấy BCKT được xem là quan trọng hơn trong việc đánh giá rủi ro thông tin so với rủi ro kinh doanh.

Bảng 4.5: Thống kê mô tả và phân tích ANOVA sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về mức độ tin tưởng của

(*), (**) khác biệt đáng kể với p-value lần lượt ở mức 0.05 và 0.01

Bảng 4.6: Thống kê mô tả và phân tích ANOVA sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về khả năng KTV có thể phát hiện gian lận

(*), (**) khác biệt đáng kể với p-value lần lượt ở mức 0.05 và 0.01

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

NV môi giới chứng khoán

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

15 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng tồn tại và phát triển của đơn vị

16 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị có hiệu quả

17 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng đơn vị được quản lý tốt

18 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng đầu tư vào đơn vị là tốt 2.68

19 Mức độ tin tưởng của BCKT cung cấp về khả năng đơn vị đạt được các mục tiêu chiến lược

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

NV môi giới chứng khoán

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

Trung bình (Độ lệch chuẩn)

20 Theo Anh/Chị, KTV có thể phát hiện các gian lận trọng yếu trên BCTC hay không? **

4.2.4 Khoảng cách thông tin liên quan đến vấn đề khả năng KTV có thể phát hiện gian lận

Bảng 4.7: Phân tích post-hoc (LSD) sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về khả năng KTV có thể phát hiện gian lận

(*), (**) khác biệt đáng kể với p-value lần lượt ở mức 0.05 và 0.01

Kết quả thống kê mô tả và phân tích ANOVA cho thấy sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về khả năng KTV phát hiện gian lận, với giả định không có sự khác biệt giữa các nhóm Bảng 4.7 trình bày kết quả phân tích post-hoc (LSD), cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức giữa các nhóm đối tượng (p-value = 0.000), với điểm trung bình của nhóm.

KTV có mức độ tin tưởng cao hơn về khả năng phát hiện gian lận của mình với điểm số 3.60, so với nhóm nhân viên tín dụng 2.81 (p-value = 0.000) và nhân viên môi giới chứng khoán 2.77 (p-value = 0.000) Không có sự khác biệt thống kê giữa hai đối tượng người sử dụng, cho thấy KTV tự tin hơn trong khả năng này so với người dùng BCKT.

4.2.5 Khoảng cách thông tin liên quan đến việc giải thích các thuật ngữ trên BCKT

Bảng 4.8 trình bày kết quả thống kê mô tả và phân tích ANOVA về sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm đối với ý nghĩa các thuật ngữ trên BCKT, với giả định không có sự khác biệt giữa các nhóm đối với 10 nội dung khảo sát Bảng 4.9 cung cấp kết quả phân tích post-hoc (LSD) để làm rõ sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm.

20 Theo Anh/Chị, KTV có thể phát hiện các gian lận trọng yếu trên BCTC hay không?

Kiểm toán viên NV tín dụng - 0.793** 0.000

Đánh giá trực trạng khoảng cách thông tin trên BCKT tại Việt Nam

Kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn tồn tại khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) liên quan đến bốn vấn đề chính: trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và nhà quản lý, vai trò của BCKT, khả năng phát hiện gian lận của KTV, và việc giải thích các thuật ngữ trong BCKT Đặc biệt, chỉ có một vấn đề là mức độ tin tưởng vào BCKT không có sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm đối tượng khảo sát.

 Đánh giá về khoảng cách thông tin liên quan đến trách nhiệm của KTV và nhà quản lý:

Ban Giám đốc có trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC), trong khi KTV chỉ đưa ra ý kiến xác nhận về tính trung thực và hợp lý của thông tin Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại khoảng cách thông tin giữa KTV và Ban Giám đốc liên quan đến một số nội dung cụ thể.

Người sử dụng thường cho rằng kiểm toán viên (KTV) phải chịu trách nhiệm về hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, trong khi KTV lại cho rằng trách nhiệm này thuộc về Ban Giám đốc Sự kỳ vọng này từ người sử dụng là không hợp lý, vì theo CMKiT VSA 315, KTV chỉ có nhiệm vụ tìm hiểu về kiểm soát nội bộ liên quan đến cuộc kiểm toán khi xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu Trong quá trình đánh giá rủi ro, KTV cần xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ để thiết kế các thủ tục kiểm toán phù hợp, nhưng không nhằm mục đích đưa ra ý kiến về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.

Người sử dụng BCKT cho rằng KTV cần có trách nhiệm trong việc ngăn ngừa gian lận, nhưng theo quy định của CMKiT VSA 240, trách nhiệm này thuộc về Ban quản trị và Ban Giám đốc của đơn vị kiểm toán Hơn nữa, các nhân viên tín dụng và môi giới chứng khoán kỳ vọng KTV phải phát hiện và báo cáo tất cả gian lận và sai sót, kể cả những sai sót không trọng yếu Tuy nhiên, mong đợi này là không hợp lý, vì KTV chỉ có trách nhiệm đảm bảo rằng BCTC không còn sai sót trọng yếu về tổng thể.

Khoảng cách thông tin vẫn tồn tại ở một số vấn đề nêu trên, theo tác giả nguyên nhân có thể là do:

Báo cáo kiểm toán (BCKT) chưa thể hiện rõ ràng trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và nhà quản lý trong việc đảm bảo hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ Cần làm rõ vai trò và trách nhiệm của KTV trong việc ngăn ngừa, phát hiện và báo cáo các hành vi gian lận cũng như sai sót.

Người sử dụng thường đặt ra kỳ vọng cao đối với công việc kiểm toán của các KTV mà chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, bản chất và những hạn chế vốn có của quy trình kiểm toán.

 Đánh giá về khoảng cách thông tin liên quan đến vai trò của BCKT:

Các nhóm đối tượng khảo sát đều nhất trí rằng báo cáo kiểm toán (BCKT) đóng vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư và cho vay, cũng như trong việc đánh giá báo cáo tài chính (BCTC) không có gian lận trọng yếu Tuy nhiên, nhóm nhân viên tín dụng và môi giới chứng khoán đánh giá cao vai trò của BCKT trong giám sát hoạt động của đơn vị, cao hơn so với nhóm kiểm toán viên (KTV) Điều này cho thấy sự kỳ vọng chưa hợp lý từ người sử dụng BCKT, bởi vì nhiệm vụ của KTV chỉ là đảm bảo tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC BCKT không cung cấp thông tin về giám sát hoạt động, mà những thông tin này có thể được tìm thấy trong các báo cáo khác, như báo cáo hoạt động của Ban kiểm soát Sự nhận thức này cho thấy người sử dụng chưa hiểu rõ vai trò và bản chất của kiểm toán BCTC.

 Đánh giá về khoảng cách thông tin liên quan đến mức độ tin tưởng của của BCKT:

Khoảng cách thông tin trong việc đánh giá vai trò của báo cáo tài chính (BCKT) là một vấn đề quan trọng Mặc dù các nhóm đánh giá nhận thức được rằng BCKT hỗ trợ cho quyết định đầu tư và cho vay, họ lại thiếu niềm tin vào khả năng của BCKT trong việc phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Điều này là hợp lý, vì hiệu quả hoạt động trong tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh, nguồn lực và khả năng cạnh tranh, trong khi thông tin từ BCKT không thể đảm bảo được những yếu tố này.

 Đánh giá về khoảng cách thông tin liên quan đến khả năng KTV có thể phát hiện gian lận:

Khoảng cách thông tin giữa KTV và người sử dụng vẫn tồn tại, với KTV thể hiện sự tự tin cao hơn về khả năng phát hiện gian lận Sự tự tin này có thể xuất phát từ việc KTV hiểu rõ công việc của mình Tuy nhiên, hàng loạt vụ tai tiếng toàn cầu như Worldcom, Enron và các vụ việc tại Việt Nam như Bông Bạch Tuyết, Bibica đã làm giảm niềm tin của người sử dụng vào khả năng phát hiện gian lận của KTV.

 Đánh giá về khoảng cách thông tin liên quan đến việc giải thích các thuật ngữ trên BCKT:

Khoảng cách thông tin vẫn tồn tại do sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về ý nghĩa của các thuật ngữ trên báo cáo tài chính như "đảm bảo hợp lý", "phản ánh trung thực và hợp lý", tỷ lệ kiểm tra chọn mẫu và mức trọng yếu.

Người sử dụng thường hiểu nhầm rằng "đảm bảo hợp lý" do KTV cung cấp có nghĩa là BCTC hoàn toàn không có sai sót, dù là không trọng yếu Tuy nhiên, theo quy định của CMKiT 200, "đảm bảo hợp lý" chỉ đạt được khi KTV đã thu thập đủ bằng chứng kiểm toán phù hợp, nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức chấp nhận được Điều này có nghĩa là sự đảm bảo hợp lý không phải là sự đảm bảo tuyệt đối, vì luôn tồn tại những hạn chế của quá trình kiểm toán Do đó, KTV không thể cung cấp sự đảm bảo tuyệt đối như mong đợi của người sử dụng.

Các nhóm tham gia đều nhất trí rằng thuật ngữ “trình bày trung thực và hợp lý” phản ánh đúng bản chất kinh tế của các nghiệp vụ kế toán và BCTC tuân thủ các chuẩn mực, chế độ kế toán cùng quy định liên quan Tuy nhiên, nhóm kiểm toán viên (KTV) thể hiện mức độ đồng ý cao hơn so với người sử dụng, cho thấy rằng người sử dụng chưa hoàn toàn tin tưởng vào nghề nghiệp kiểm toán và KTV.

Người sử dụng mong muốn tỷ lệ mẫu mà KTV kiểm tra cao hơn so với đánh giá hiện tại của KTV Tuy nhiên, họ cũng yêu cầu mức trọng yếu cao hơn, dẫn đến mâu thuẫn vì khi trọng yếu tăng, số lượng mẫu kiểm tra sẽ giảm Điều này cho thấy người sử dụng có thể hiểu sai về thuật ngữ “trọng yếu” trong báo cáo kiểm toán.

Chương này trình bày kết quả nghiên cứu từ việc xử lý và phân tích dữ liệu thu thập Đầu tiên, phần mô tả mẫu cung cấp cái nhìn tổng quát về số lượng và tỷ lệ từng nhóm đối tượng khảo sát Tiếp theo, phân tích ANOVA được thực hiện để kiểm định sự khác biệt trong nhận thức giữa các nhóm về các nhân tố ảnh hưởng đến khoảng cách thông tin trên BCKT Cuối cùng, phân tích post-hoc (LSD) được áp dụng để xác định sự khác biệt trong nhận thức cụ thể giữa các nhóm đối tượng khảo sát.

Nghiên cứu chỉ ra rằng vẫn tồn tại khoảng cách thông tin trên báo cáo tài chính (BCKT) liên quan đến bốn vấn đề chính: trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và nhà quản lý, vai trò của BCKT, khả năng phát hiện gian lận của KTV, và việc giải thích các thuật ngữ trong BCKT Đặc biệt, chỉ có vấn đề mức độ tin tưởng vào BCKT là nhận thức của các nhóm khảo sát không có sự khác biệt.

Ngày đăng: 02/11/2023, 08:15

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w