Sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Định nghĩa sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Đến nay chưa có một định nghĩa chính xác về hàng thủ công mỹ nghệ, có thể hiểu nôm na đây là mặt hàng truyền thống của dân tộc, là loại hàng dịch vụ được sản xuất chủ yếu ở nông thôn Loại hàng hóa được làm chủ yếu bằng tay với nguyên liệu tre, nứa, gỗ, đất sét… Với các loại nguyên liệu đó kết hợp với bàn tay khéo léo của người Việt Nam, nó trở thành những tác phẩm nghệ thuật đa dạng và phong phú về chủng loại sản phẩm như hàng gốm sứ, sơn mài, mây tre đan… Nó được truyền từ đời này sang đời khác, có sự thay đổi và phát triển theo nhu cầu cuộc sống.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm rất độc đáo ở Việt Nam, cái độc đáo không phải chỉ vì giá trị của sản phẩm mà nó còn mang đậm bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam- một dân tộc đã có bề dày hơn 4000 năm lịch sử Đây là điểm khác biệt giữa các sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam với sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nước trên thế giới Từ những hình ảnh rất thực tế, đời thường ở các vùng quê Việt Nam như hình ảnh một cậu bé đang chăn trâu, thổi sáo… đến những hình tượng trong dân gian Dưới con mắt tinh tế, sáng tạo, kết hợp với đôi bàn tay khéo léo và tài ba của các nghệ nhân mà hình ảnh trong cuộc sống đời thường được đưa vào trong tác phẩm, nó không chỉ chứa đựng công sức của người làm ra nó mà nó còn chứa đựng cả một nền văn hóa Việt Nam.
Phân loại sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Theo cách phân chia của Hiệp hội hàng Thủ công mỹ nghệ Việt Nam, ngành hàng này hiện nay bao gồm 12 tiểu ngành và các nhóm cơ bản sau đây:
Bảng 1.1 : Các nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ
11 Các tác phẩm nghệ thuật
Nguồn: Hiệp hội thủ công mỹ nghệ Việt Nam, 2009Trong đó, bốn nhóm hàng mây tre, gỗ mỹ nghệ, gốm sứ và dệt thêu chiếm ưu thế với kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 90% tổng kim ngạch hàng thủ công Việc sản xuất các sản phẩm thủ công chủ yếu dựa trên một hệ thống gồm 2017 làng nghề trên khắp cả nước, một số lớn tập trung ở các tỉnh phía Bắc( Hiệp hội thủ công mỹ nghệ Việt Nam- VIETCRAFT, 2009).
Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ
Khác với sản xuất công nghiệp, trong sản xuất tiểu thủ công, lao động chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ, người nghệ nhân Sản phẩm làm ra vừa có giá trị sử dụng nhưng lại vừa mang dấu ấn bàn tay tài hoa của người thợ và phong vị độc đáo của một miền quê nào đó Cũng chính vì vậy mà hàm lượng văn hoá ở các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được đánh giá cao hơn nhiều so với hàng công nghiệp sản xuất hàng loạt Ngay từ khi phát hiện ra các sản phẩm trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ, thế giới đã biết đến một nền văn hoá Việt Nam qua những sản phẩm phản ánh sinh động và sâu sắc nền văn hoá, tư tưởng và xã hội thời đại Hùng Vương Cho đến nay, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm tính văn hoá như gốm Bát Tràng, hay bộ chén đĩa, cốc sứ cao cấp có hình hoa văn Châu Á, mang đậm nét văn hoá Việt Nam như chim lạc, thần kim quy, hoa sen…đã được xuất khẩu rộng rãi ra khắp thế giới, người ta đã có thể tìm hiểu phần nào văn hoá của Việt Nam.
Có thể nói đặc tính này là điềm thu hút mạnh mẽ đối với khách hàng nhất là khách quốc tế, nó tạo nên một ưu thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ nghệ và được coi như món quà lưu niệm đặc biệt trong mỗi chuyến du lịch của du khách nước ngoài Khách du lịch khi đến thăm Việt Nam không thể không mang theo về nước một món đồ thủ công mỹ nghệ, cho dù ở nước họ có thể sản xuất ra nhưng sẽ không thể mang hồn bản sắc văn hoá của Việt Nam Sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là hàng hoá đơn thuần mà trở thành sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng của nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam. b) Tính mỹ thuật
Sản phẩm mang tính mỹ thuật cao, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ là một tác phẩm nghệ thuật, vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ Nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, nơi công sở… Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật Khác với các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc, hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị cao ở phương diện nghệ thuật sáng tạo thì chỉ được sản xuất bằng công nghệ mang tính thủ công, chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ Chính đặc điểm này đã đem lại sự quý hiếm cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Nhờ đó, tại các hội chợ quốc tế như EXPO, hội chợ ở New York (Mỹ), Milan (Ý) …hàng thủ công mỹ nghệ đã gây được sự chú ý của khách háng nước ngoài bởi sự tinh xảo trong các đường nét hoa văn trạm trổ trên các sản phẩm, hay những kiểu dáng mẫu mã độc đáo Mặc dù nguyên liệu rất đơn giản có khi chỉ là một hòn đá, xơ dừa…qua bàn tay tài hoa của các nghệ nhân đã trở thành các tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. c) Tính đa dạng
Tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ thể hiện ở phương thức, nguyên liệu làm nên sản phẩm đó và chính nét văn hoá trong sản phẩm Nguyên liệu làm nên sản phẩm có thể là gạch, đất, cói, dây chuối, xơ dừa…mỗi loại sẽ tạo nên một sản phẩm thủ công mỹ nghệ với những sắc thái khác nhau, cho người sử dụng có những cảm nhận khác nhau về sản phẩm Là một đôi dép đi trong nhà, nhưng dép làm bằng cói đã quá cũ đối với người tiêu dùng nên hiện nay, các nghệ nhân sử dụng chất liệu dây chuối, tạo cảm giác rất mới lạ, vừa có màu vàng ngà của chuối vừa có mầu mốc tự nhiên của thân chuối…Bên cạnh đó, tính đa dạng còn được thể hiện qua những nét văn hoá trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ bởi vì mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều mang những nét văn hoá đặc trưng của từng vùng, từng thời đại sản xuất ra chúng Chính vì vậy trên thị trường có rất nhiều loại sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mỗi loại đều có sự khác biệt rõ rệt, không đồng nhất Cũng là đồ gốm sứ nhưng người ta vẫn có thể thấy đâu là gốm Việt Nam, gốm Nhật Bản, gốm Trung quốc… d) Tính thủ công
Có thể cảm nhận ngay tính thủ công qua tên gọi của sản phẩm thủ công mỹ nghệ Tính chất thủ công thể hiện ở công nghệ sản xuất, các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo và sáng tạo nghệ thuật Chính đặc tính này tạo nên sự khác biệt giữa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và những sản phẩm công nghiệp hiện đại được sản xuất hàng loạt và ngày nay, cho dù không sánh kịp tính ích dụng của các sản phẩm này nhưng sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn gây được sự yêu thích của người tiêu dùng.
Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Định nghĩa hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán Sự trao đổi mua bán hàng hóa là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt của từng quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá thiết bị công nghệ cao Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức và bên trong và bên ngoài đất nước Với mục đích thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế xã hội, thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa trong nước phát triển, và từng bước nâng cao đời sống nhân dân
Từ các khái niệm về thủ công mỹ nghệ và hoạt động xuất khẩu đã phân tích ở trên, có thể định nghĩa được xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là gì? Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là việc bán các mặt hàng thủ công mang đậm nét văn hoá dân tộc ra thị trường nước ngoài hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho người nước ngoài ở lãnh thổ Việt Nam, dùng tiền tệ để thanh toán Với mục tiêu là khai thác lợi thế của đất nước, tăng thu ngoại tệ để phục vụ nhập khẩu, giải quyết công ăn việc làm và góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác hàng hoá khác ở chỗ nó vừa có thể sử dụng vừa có thể là vật trang trí, làm đẹp cho nhà cửa, văn phòng hay cũng có thể là đồ lưu niệm hấp dẫn trong mỗi chuyến du lịch của khách quốc tế Chính vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ có thể được xuất khẩu ra nước ngoài theo hai phương thức sau:
- Xuất khẩu tại chỗ: khi khách du lịch đến từ nước ngoài vào Việt Nam và mua hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Việt Nam Với xu hướng phát triển của du lịch như hiện nay, hình thức xuất khẩu này sẽ góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hàng năm.
- Xuất khẩu ra nước ngoài: là hình thức các doanh nghiệp bán hàng thủ công mỹ nghệ cho các đối tác nước ngoài bằng cách mang hàng sang tận nơi bằng các phương tiện vận tải khác nhau và phải chịu sự ràng buộc của một số thủ tục xuất khẩu nhất định.
Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đối với nền kinh tế quốc dân và đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
Đối với nền kinh tế quốc dân
a) Giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động
- Tạo việc làm cho người lao động
Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 2,27% Trong đó khu vực thành thị là 3,6%, khu vực nông thôn là 1,71% (năm 2010 các tỷ lệ tương ứng là: 2,88%, 4,29%, 2,30%)
Sở dĩ tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta đang ngày càng giảm xuống, một phần là nhờ những ngành nghề xuất khẩu như thủ công mỹ nghệ đã thu hút lượng lao động lớn, đặc biệt là ở vùng nông thôn Tình trạng thiếu việc làm của nước ta hiện nay tập trung chủ yếu ở nông thôn, diện tích đất canh tác bình quân ngày càng thu hẹp,còn dưới 0,1ha /người, nên số lượng lao động dư thừa và nhàn rỗi ở nông thôn rất cao Chỉ trong thời gian mùa vụ mới huy động 100% lực lượng lao động còn trong thời gian nông nhàn, chỉ sử dụng khoảng 25% (VIETCRAFT, 2010).Vào những thời gian đó, người nông dân thường làm một số nghề phụ để tăng thu nhập hoặc họ có xu hướng bỏ ra các thành phố với hy vọng tìm được một công việc tạm bợ Như vậy, thủ công mỹ nghệ phát triển ở các vùng nông thôn sẽ giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động nghèo, lao động nông nghiệp thiếu ruộng đất và những người bán thất nghiệp.
Theo Hiệp hội thủ công mỹ nghệ Việt Nam (VIETCRAFT), năm 2010 cả nước có khoảng 2017 làng nghề với nhiều loại hình sản xuất như hộ gia đình, tổ sản xuất, tổ hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân,… Ngành hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam đã đào tạo việc làm cho hơn 1,35 triệu người; trong đó, 342 nghìn người đan tre trúc và song mây, 233 nghìn làm dệt thảm, chiếu đan lát, 129 nghìn thợ dệt thêu, với 60% trong số lao động đó là nữ.
Nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa phương mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác Ví dụ :theo số liệu của VIETCRAFT năm 2009, làng gốm bát tràng ngoài việc giải quyết việc làm cho gần 2430 lao động của xã, còn giải quyết thêm việc làm cho khoảng 5500 đến 6000 lao động của các khu vực lân cận đến làm thuê Hoặc như theo trang thông tin điện tử của tỉnh Thái Bình, tính đến năm 2008 ở huyện Quỳnh Phụ nhóm dệt chiếu cói mỗi năm cung ứng cho thị trường hơn 2 triệu lá chiếu các loại, giải quyết việc làm cho 7000 lao động, nghề đan mây tre từ 7 xã ban đầu đến nay lan rộn ra tới 21 xã, tạo việc làm ổn định cho 6800 lao động.
Từ kinh nghiệm thực tiễn đã tính toán cho thấy cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 đến
4000 lao động chủ yếu là lao động tại các làng nghề nông thôn, trong đó có lao đông nông nhàn tại chỗ và các vùng lân cận (trong khi đó chế biến hạt điều thì 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu chỉ thu hút được 400 lao động) (VIETRADE, 2007)
- Cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Ngoài việc được coi là động lực gián tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn Ở nơi nào có ngành nghề phát triển thì nơi đó thu nhập cao và mức sống cao hơn các vùng thuần nông Nếu so sánh với mức thu nhập lao động nông nghiệp thì thu nhập của lao động ngành nghề cao hơn khoảng 2 đến 4 lần, đặc biệt là so với chi phí lao động và diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm
2010, lao động nông nghiệp chiếm đến 48,2% lao động cả nước, nhưng chỉ chiếm 20,6% GDP, trong khi đó lao động các ngành phi công nghiệp chiến chỉ 51,8% nhưng đã tạo ra đến gần 80% GDP Bình quân thu nhập của 1 lao động trong hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp là 500.000- 600.000 đồng/tháng, ở hộ kiêm nghề từ 190.000- 240.000 đồng/tháng, trong khi đó ở hộ lao động thuần nông chỉ có khoảng 70.000-100.000 đồng/người/tháng( VIETRADE, 2006) Có những làng nghề có thu nhập cao như làng gốm Bát Tràng: mức thu nhập của các hộ thấp cũng đạt từ 10-20 triệu/năm Thu nhập từ nghề gốm sứ Bát Tràng chiếm tới 86% tổng thu nhập của toàn xã Vì vậy, thu nhập của các làng nghề truyền thống đã tạo ra sự thay đổi khá lớn trong cơ cấu thu nhập của họ gia đình và của địa phương.
Sự phát triển ổn định của làng nghề tạo ra nguồn hàng ổn định đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này Từ đó tạo ra sự thuận lợi trong kinh doanh, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao thu nhập và mức sống cho người lao động.
Ngoài ra việc khôi phục và sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn kéo theo nhiều ngành khác phát triển nhất là ngành du lịch và các ngành dịch vụ có liên quan Sản xuất thủ công mỹ nghệ và du lịch là hai nhân tố có tác động hai chiều.Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn là một nét hấp dẫn rất quan trọng và ấn tượng đối với khách du lịch nhất khách du lịch văn hoá Các sản phẩm càng đa dạng phong phú càng có tác dụng thu hút mạnh mẽ du khách tới tham quan, qua đó các dịch vụ về du lịch phát triển đồng thời hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cũng được các nước bạn biết đến nhiều hơn, đây chính là một biểu hiện của hình thức xuất khẩu tại chỗ Ngược lại, nếu du lịch phát triển, có nhiều khách du lịch đến tham quan tại các làng nghề, sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ được biết đến nhiều hơn, được quảng bá nhiều hơn, đó cũng là một hình thức giới thiệu sản phẩm củaViệt Nam ra nước ngoài Từ đó ta có thể mở rộng quan hệ kinh doanh và có thể tăng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ. b) Tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước
Với điều kiện khí hậu, đất đai Việt Nam rất thuận lợi cho một số cây nhiệt đới phát triển như gỗ, mây tre, nứa, dừa , ngoài ra Việt Nam còn có một số loại đất đặc biệt dùng trong sản xuất gốm, sứ Việc khai thác nguồn tài nguyên này để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu giúp chúng ta sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên được thiên nhiên ưu đãi Đó là gỗ, tre, nứa, trúc, mây, giang, lá nón, bông, đay, cói, sợi dứa, vỏ dừa, vỏ ốc, vỏ trứng thậm chí là đất sét, đất bùn. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có giá trị gia tăng cao vì nguyên liệu đầu vào cho sản xuất chủ yếu được sử dụng từ những nguyên liệu sẵn có trong trong tự nhiên như cây cối, thậm chí cả những vật dụng thừa trong sinh hoạt (vỏ dừa, vỏ trứng ), hầu như không tốn chi phí mua nguyên liệu bởi nó là nguyên liệu có sẵn Đây là một thế mạnh lớn, góp phần không nhỏ trong quá trình sản xuất Vì vậy, chúng ta cần phải biết tận dụng khai thác một cách triệt để và có hiệu quả nhất. Nhưng khai thác được chưa đủ, mà còn phải khai thác có hiệu quả Cần phải có những biện pháp bảo quản tốt nguồn nguyên liệu này ngay từ khi bắt tay vào sản xuất cho đến khi sản phẩm đến được tay người tiêu dùng Bởi lẽ, đa phần nguồn nguyên liệu cung cấp cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đều có nguồn gốc thực vật (trừ hàng gốm, sứ) nên rất dễ bị ẩm mốc, mối mọt Thêm vào đó, khí hậu nóng ẩm của nước ta cũng ảnh hưởng phần nào chất lượng và tuổi đời của sản phẩm.
Về những nguyên liệu thô chưa sử dụng được ngay, cần qua một số khâu chế biến gia công như nguyên liệu cung cấp cho sản phẩm gốm sứ, cần có kế hoạch khai thác hợp lý tránh tình trạng khai thác bừa bãi, chế biến thủ công… vừa gây thất thoát tài nguyên, lại vừa khai thác cả những loại tài nguyên không đồng nhất, kém chất lượng Những yếu kém của loại nguyên liệu này là do khai thác không đúng kỹ thuật, khai thác bừa bãi Do đó, nguyên liệu, phụ liệu cho sản xuất gốm sứ hiện nay còn rất thô sơ, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cho các cơ sở sản xuất Để nguồn nguyên liệu nói trên sử dụng có hiệu quả, chúng ta cần có sự quan tâm đầu tư vốn, trang thiết bị hiện đại cho việc nghiên cứu, tiến hành khai thác chế biến sản xuất. c) Tăng thu ngoại tệ cho đất nước
Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta trong mấy năm gần đây đã mang lại cho nước ta nguồn ngoại tệ lớn, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Cụ thể, Cục Xúc tiến Thương mại vừa cho biết, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong năm 2010 chạm ngưỡng 1,5 tỷ USD, tăng 170% so với năm 2009 Đây là nguồn thu ngoại tệ to lớn thực thu về cho đất nước từ nguồn nguyên liệu rẻ tiền có sẵn trong tự nhiên và từ lực lượng lao động nhàn rỗi ở các vùng nông thôn nước ta.
So với một số mặt hàng khác như may mặc, gỗ và giày da do nguyên liệu đều phải nhập khẩu từ nước ngoài nên giá trị gia tăng chủ yếu là chi phí gia công và khấu hao máy móc thiết bị, cho nên giá trị thực thu ngoại tệ mang về cho đất nước chỉ chiếm một tỷ trọng từ 5 – 20% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu (Bộ Công Thương, 2009) Nhưng đối với các hàng thủ công mỹ nghệ do sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước đặc biệt là các nguồn nguyên vật liệu, đuợc thu lượm từ phế liệu và thứ liệu của nông lâm sản, mang lại hiệu quả từ thực thu giá trị ngoại tệ rất cao Có những mặt hàng thủ công mỹ nghệ hầu như đạt 100% giá trị xuất khẩu, còn lại cũng đạt trên 80% giá trị kim ngạch, đồng thời xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn giúp xã hội thu hồi một bộ phận chất thải nông nhiệp sau chế biến và thu hoạch, đã biến phế liệu trở thành những sản phẩm xuất khẩu, góp phần tích cực cho việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đất nước (Bộ Công Thương, 2009).
Nhờ có nguồn vốn đó, các làng nghề truyền thống Việt Nam có điều kiện đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề và kỹ thuật cao cho ngành thủ công mỹ nghệ. d) Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng hiện đại hoá
Đối với các doanh nghiệp và làng nghề xuất khẩu
Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra, có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của họ không chỉ được khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước ngoài Hơn nữa, nó tạo ra nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ, qua đó nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, nâng cấp máy móc, thiết bị phục vụ cho quá trình xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu này dẫn đến sự cạnh tranh, theo dõi lẫn nhau giữa các đơn vị tham gia xuất khẩu trong và ngoài nước Chính vì vậy, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao chất lượng hàng hoá, tìm mọi cách để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào hay tiết kiệm nguồn lực.Đồng thời, nó giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động và tăng thêm thu nhập, ổn định đời sống cho người lao động và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Môi trường pháp lý
Luật pháp cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu Bất kì doanh nghiệp nào muốn kinh doanh xuất khẩu muốn tồn tại và phát triển lâu dài thì phải tuân thủ pháp luật, không những pháp luật của nước mình mà còn tuân thủ luật pháp nước nhập khẩu
Một môi trường pháp lý thuận lợi, với hệ thống luật hoàn thiện sẽ giúp các cơ sở và doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tổ chức sản xuất và kinh doanh, tránh được những khó khăn và thiệt hại không đáng có Cụ thể, hệ thống pháp luật giản đơn sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và công sức cho các thủ tục đăng kí kinh doanh, thuê mặt bằng sản xuất, nhượng quyền sản xuất, xuất khẩu hàng… Từ đó có thể nhanh chóng nắm bắt được cơ hội đang sẵn có trên thị trường. Một ví dụ thực tế là việc Tổng cục hải quan Việt nam cho phép các doanh nghiệp có thể thực hiện kê khai hải quan từ xa, trong đó, các doanh nghiệp đóng vai trò là người chủ động trong việc kê khai các hàng hóa được xuất khẩu vào hệ thống mạng, chứ không phải là các cán bộ Hải quan như trước đây Các cán bộ Hải quan chỉ giữ trọng trách kiểm tra và thực hiện việc thông quan cho các bộ hồ sơ hợp lệ Bằng cách làm này, doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí và thời gian đi lại, còn các cán bộ được giảm tải về khối lượng công việc Tính chính xác và hợp lệ của các bộ hồ sơ hải quan được nâng cao do trải qua hai lần kiểm tra kĩ càng (từ phía doanh nghiệp khai báo và kiểm tra của cán bộ Hải quan) Mọi thông tin liên quan đến quy trình xuất khẩu sẽ do hệ thống máy tính thực hiện một cách tự động, đảm bảo tính chính xác và nhanh chóng, hạn chế tích cực tình trạnh tham ô nhận hối lộ Hệ thống pháp luật chặt chẽ còn bảo vệ các doanh nghiệp khỏi những rủi ro trong quá trình kinh doanh b) Chính sách về thuế quan và công cụ phi thuế quan
Hệ thống thuế quan cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu thông qua thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất hàng hoá phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài Nếu như thuế nhập nguyên vật liệu quá cao sẽ làm chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành hàng hoá xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá, giảm lợi nhuận cho nhà xuất khẩu, và như vậy làm giảm lượng xuất khẩu và ngược lại.
Các công cụ phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu cũng gây khó khăn rất lớn cho hoạt động xuất khẩu.
Vì những ảnh hưởng đó, để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ thường miễm thuế xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu đối với những mặt hàng có lợi thế sản xuất Chính phủ thường áp dụng hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá mà sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu dùng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam chịu sự tác động của nhiều nhân tố, những nhân tố này có sự biên đổi trong từng thời kỳ và tác động theo chiều hướng khác nhau Chúng có thể là những nhân tố thúc đẩy nhưng ngược lại cũng có thể là nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản xuất Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi làng nghề do có những đặc điểm khác nhau về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa nên sự tác động của các nhân tố này là không giống nhau Có thể hiểu một cách khái quát chúng bao gồm các nhân tố sau: a) Nguồn nhân lực
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất của sản xuất hàng hóa Dù là ngành sử dụng máy móc, công nghệ cao thì vai trò của người lao động luôn chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong các khâu của một quy trình sản xuất Trong khi đó, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là ngành nghề thủ công, các khâu sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào sự khéo léo của bàn tay con người Do đó, nguồn lao động dồi dào, lành nghề luôn là lợi thế rất lớn cho việc sản xuất ra những sản phẩm thủ công, tác động tích cực đến việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sản xuất Tại các làng nghề, nguồn nhân lực chính là các nghệ nhân, những người thợ thủ công, và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh Những nghệ nhân là người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đồng thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm tính truyền thống Có được nguồn nhân lực có tay nghề và trình độ cao sẽ là một yếu tố thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ. b) Nguồn vốn Đây là nguồn lực vật chất rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Nhiệm vụ chủ yếu nhất của nguồn vốn là đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở vật chật và kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ Vì vậy phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc rất lớn vào các nguồn vốn huy động được Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh doanh đều rất nhỏ bé, chủ yếu là vốn tự có nên đã làm hạn chế việc tăng trưởng sản xuất Ngày nay, sự phát triển của thị trường luôn đòi hỏi lượng vốn rất lớn để đáp ứng các nhu cầu của thị trường.
Vì vậy rất cần sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía nhà nước, đặc biệt là việc đề ra những chính sách phù hợp với đặc đIểm sản xuất của các làng nghề truyền thống để có thể đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất và xuất khẩu. c) Nguồn nguyên vật liệu
Trong những giai đoạn trước đây, nguồn nguyên vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và phát triển của các cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ hay các làng nghề truyền thống Song hiện nay, vấn đề này trở nên không quan trọng đối với sự phát triển của các làng nghề bởi sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện giao thông và các phương tiện kỹ thuật Tuy nhiên, vấn đề về khối lượng, chất lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn nguyên liệu này vẫn có những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng và giá thành sản phẩm Nếu có được nguồn nguyên vật liệu ổn định sẽ dẫn đến sản xuất cũng ổn định, các nhà xuất khẩu sẽ có nguồn hàng thường xuyên hơn, tạo uy tín cho doanh nghiệp. d) Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Trong điều kiện hiện nay, khi mà giao lưu thương mại mang tính toàn cầu hoá thì việc ứng dụng khoa học công nghệ mới có ý nghĩa quyết định, có tác động trực tiếp tới sự đảm bảo và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Nhận thức được điều đó, nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ đã đẩy mạnh việc áp dụng kỹ thuật và đổi mới công nghệ, cải tiện phương pháp sản xuất để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và ổn định cho ngành. Tuy nhiên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật không phải là hoàn toàn mà vẫn phải giữ nét văn hoá và truyền thống cốt yếu trong mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ. e) Kết cấu hạ tầng
Bao gồm hệ thống các đường giao thông, điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông Thực tế cho thấy rõ, sản xuất thủ công mỹ nghệ chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có kết cấu hạ tầng đảm bảo và đồng bộ Đây là yếu tố có tác dụng tạo điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các cơ sở sản xuất, tạo tiền đề khai thác và phát huy tiềm năng sẵn có của các làng nghề Sự phát triển của yếu tố này sẽ đảm bảo vận chuyển và cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, đồng thời làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường Hệ thống thông tin liên lạc bưu chính viễn thông giúp doanh nghiệp nắm bắt các thông tin thị trường để có những ứng xử kịp thời.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
Trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá thì việc tiếp thị, tìm đẩu ra cho các sản phẩm là hết sức quan trọng và chức năng này thuộc về các hoạt động Marketing Hoạt động này bao gồm: nghiên cứu thị trường, xác định thị phần, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm và nhiệm vụ chính của nó là quảng bá sản phẩm cho doanh nghiệp…Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian cũng như là chi phí thực hiện.Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có một hướng đi đúng đắn để điều phối hoạt động này một cách hiệu quả nhất mà các sản phẩm của mình ngày càng được biết đến nhiều hơn, được người sử dụng ưa chuộng và tin dùng. b) Hoạt động tạo mẫu và chất lượng sản phẩm
Mẫu mã, chất lượng hàng hóa nói chung và sản phẩm thủ công mỹ nghệ nói riêng luôn là yếu tố tạo sự cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường Sản phẩm có nhiều chủng loại sẽ tạo cơ hội để người mua có lựa chọn tối ưu và có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại khác Việc thiết kế sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng tại thị trường nhập khẩu được coi là bước thành công ban đầu của doanh nghiệp, ngược lại, nếu công tác này không tốt doanh nghiệp sẽ chịu tổn thất lớn do không tiêu thụ được sản phẩm đã sản xuất ra. c) Giá cả cạnh tranh
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, giá cả là yếu tố quan trọng được các doanh nghiệp sử dụng để có thể bán được sản phẩm của mình, loại bỏ các đối thủ khác Giá cả là yếu tố quan trọng được các nhà nhập khẩu nước ngoài quan tâm khi mua hàng Chất lượng như nhau nhưng giá thành thấp hơn sẽ có khả năng bán được hàng cao hơn Hiện nay nhiều nhà sản xuất đang tìm cách nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất và cắt giảm những khoản chi phí không cần thiết Những nỗ lực này của nhà sản xuất nhằm mục đích hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng koaij của những nhà sản xuất khác Do đó, có thể nói giá cả cũng là một trong những yếu tố chính tác động đến việc có thể xuất khẩu một mặt hàng nào đó là rất lớn.
MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 18 1 Vài nét cơ bản về đất nước Nhật Bản
Dân số
Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng
128 triệu người năm 2010 (Wikipedia, 2010) Vùng Tokyo, bao gồm thủ đô Tokyo và một vài quận xung quanh là trung tâm thủ phủ lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống Dân cư Nhật Bản phân bố không đồng đều trong cả nước. Dân cư tập trung đông nhất ở Vành đai Thái Bình Dương Có một số lý do giải thích tại sao mật độ dân cư ở Nhật Bản lại quá chênh lệch như vậy Chỉ có 15% đất đai phù hợp cho việc xây dựng, vì vậy các khu dân cư chỉ giới hạn trong những khu vực tương đối nhỏ hẹp Đất nông nghiệp cũng thiếu, do đó việc canh tác tập trung ở một vài đồng bằng ven biển Ngoài ra, khí hậu là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phân bố dân cư, vì miền Đông và miền Nam ấm áp và thích hợp cho việc định cư Các miền này còn tiện lợi cho quan hệ thương mại với các nước khác trong vùng Thái Bình Dương và vì vậy cũng là các vùng công nghiệp nổi tiếng.
Nhật Bản được coi là đất nước đứng đầu về dân số già Tuổi thọ trung bình của nữ giới là 85,59 và 78,64 đối với nam Tốc độ già hoá của dân số Nhật Bản nhanh hơn rất nhiều so với các quốc gia Tây Âu và Hoa Kỳ, tỷ trọng dân số 65 tuổi trở lên trong dân số từ 7,1% năm 1970 lên 14,1% năm 1994 và theo dự báo đến năm
2014, dân số cao tuổi sẽ chiếm 25% tổng dân số, nghĩa là cứ 4 người dân Nhật sẽ có
1 người từ 65 tuổi trở lên (Phương Linh, 2009).
Nguồn tài nguyên
Do ảnh hưởng của khí hậu và thời tiết phức tạp, đặc biệt là bị bao quanh bởi hơn 186 núi lửa đang hoạt động nên Nhật Bản có rất ít tài nguyên thiên nhiên Các khoáng sản như quặng sắt, đồng đỏ, kẽm, chì và bạc, và các tài nguyên năng lượng quan trọng như dầu mỏ và than đều phải nhập khẩu Cũng chính vì thế mà người nông dân gặp rất nhiều khó khăn, bởi vậy quốc gia này chỉ trồng cấy được một số cây trồng như lúa gạo, nên khoảng một nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Khoa học và công nghệ
Tuy là một quốc gia rất khan hiếm tài nguyên thiên nhiên nhưng mà NhậtBản luôn là một quốc gia đứng đầu thế giới về khoa học công nghệ Gần 700.000 nhà nghiên cứu, gần 130 tỉ USD của ngân sách nhà nước đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển Nhật Bản cũng là một trong những nước có những phát minh lớn, quan trọng trong các lĩnh vực điện tử, ô tô, máy móc, robot công nghiệp,quang học, hóa chất, chất bán dẫn và kim loại Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ngành khoa học robot, đây là quốc gia sở hữu hơn nửa (402.200 trong tổng742.500) số robot cho công nghiệp sản xuất Nhật Bản đã phát minh ra QRIO,ASIMO và Aibo (Wikipedia, 2010) Nhật Bản cũng là nhà sản xuất ô tô lớn nhất trên thế giới và là quê hương của 6 trong tổng số 15 nhà sản xuất ô tô lớn nhất toàn cầu cũng như 7 trong số 20 nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất thế giới.
Kinh tế
GDP năm 2010 của Nhật Bản là 5474,2 tỷ đô-la Mỹ (Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, 2010), mặc dù phải gánh chịu hậu quả của đợt sóng thần nhưng Nhật Bản vẫn được coi là nền kinh tế lớn, đứng thứ 3 thế giới Quốc gia này là thành viên của tổ chức liên hiệp quốc, G8, G4 và APEC, Nhật Bản là đất nước đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng Đây là đất nước xuất khẩu lớn thứ 4 thế giới và là nước nhập khẩu đứng thứ 6 thế giới Thị trường xuất khẩu chính của Nhật Bản là: Hoa Kỳ (tỷ lệ 22,7%), Trung Quốc (13,1%), Hàn Quốc(7,8%), Đài Bắc thuộc Trung Quốc (7,4%), Hong Kong của Trung Quốc (6,3%)(Wikipedia, 2008) Những mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật Bản là máy móc,thiết bị, chất đốt, thực phẩm (đặc biệt là thịt bò), các nguyên liệu dệt may…
Đặc điểm thị hiếu tiêu dùng của người dân Nhật Bản
Đa số người Nhật Bản thuộc tầng lớp trung lưu, thị hiếu tiêu dùng của họ bắt nguồn từ truyền thống văn hoá và điều kiện kinh tế, nhìn chung họ có độ thẩm mỹ cao, tinh tế do có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại hàng hóa dịch vụ trong và ngoài nước Chung quy lại, xu hướng tiêu dùng của họ có những đặc điểm chính sau đây:
1.2.2.1 Đòi hỏi cao về chất lượng, nguồn gốc sản phẩm
Chính tỉ lệ gia tăng “dân số già” đã tác động đến nhiều mặt trong đời sống xã hội, nhất là tập quán mua sắm của người Nhật Vì thế, người Nhật hiện nay kỹ tính hơn, thích sản phẩm có độ tinh tế cao, khắt khe trong chất lượng hàng hóa Ngoài ra, người Nhật còn đặc biệt quan tâm đến quy trình sản xuất, chất liệu của sản phẩm cũng như nghệ nhân tạo ra sản phẩm đó Họ rất coi trọng nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa Do đó, các doanh nghiệp sản xuất thủ công mỹ nghệ của Việt Nam phải chứng minh rõ nguồn hàng của mình từ nhãn mác, các quy trình sản xuất cũng như sản phẩm chủ yếu làm từ nguyên liệu chủ yếu nào.
1.2.2.2 Ưa chuộng sự đa dạng, sáng tạo và màu sắc của sản phẩm
Hàng hóa có mẫu mã càng đa dạng, phong phú mới thu hút được nhiều sự chú ý của người Nhật Bản Người Nhật ưa thích được lựa chọn nhiều kiểu dáng trong cùng một loại hàng để chọn ra sản phẩm ưng ý nhất Hiện nay, hơn 50% mua hàng trong các siêu thị nhỏ được gọi là “Mom and Pob” Vào một siêu thị của Nhật mới hình dung được tính đa dạng của sản phẩm đã phổ biến đến mức nào Ví dụ, một mặt hàng gội đầu nhưng bạn không thể đếm xuể được các chủng loại: khác nhau do thành phần, màu sắc, hương thơm Bởi vậy nhãn hiệu hàng có kèm theo những thông tin hướng dẫn tiêu dùng rất quan trọng để đưa sản phẩm của doanh nghiệp đó tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng Nhật Bản Tuy vậy, họ lại thường chỉ mua sản phẩm với số lượng ít vì không gian chỗ ở của họ tương đối nhỏ và đẻ tiện thay đổi cho phù hợp với mẫu mã mới Người Nhật quan niệm màu hạnh phúc là màu đỏ và trắng Con số may mắn là 3, 5, 7 Số xui xẻo là số 4 & số 8; đặc biệt là tâm lý của người Nhật là không thích màu sắc mang sắc thái tôn giáo, những đồ thủ công mỹ nghệ có kích thước, trọng lượng quá lớn.
Người Nhật là những người sáng tạo, họ không phải là những kẻ bắt chước.
Sự khác biệt lớn giữa đóng gói và thiết kế sản phẩm của người Nhật và phương Tây là việc dồn năng lượng và đem hơi thở cuộc sống vào sản phẩm và cách đóng gói của người Nhật Việc đóng gói của phương Tây cũng như ở Việt Nam được thể hiện rất hạn chế, đơn giản chỉ là việc gói sản phẩm trong những tấm vải bạt hoặc các thùng hàng Trong khi đó, thiết kế của người Nhật lại sống động hơn, có hồn và có nhiều năng lượng hơn Việc đóng gói sản phẩm của người Nhật không chỉ đơn giản là để gói sản phẩm, mà mỗi gói hàng còn có cái hồn riêng của nó Dễ dàng có thể nói rằng hầu hết việc đóng gói và thiết kế sản phẩm được lấy ý tưởng từ thiên nhiên và các đồ vật xinh đẹp Thực tế, người Nhật đã thêm thắt những yếu tố rất nhỏ như mặt, mũi, miệng cười vào sản phẩm để làm cho chúng trở lên “kawaii” hơn (“kawaii” có nghĩa là “dễ thương” trong tiếng Nhật) Những con vật cuốn hút, những nhân vật đáng yêu và những khuôn mặt cười được thêm vào sản phẩm nhất định sẽ giúp công ty bán chạy hơn, và những nhân vật dễ thương nhất định sẽ thu hút khách hàng mua sản phẩm nhiều hơn.
1.2.2.3 Có tính nhạy cảm cao a) Nhạy cảm về giá tiêu dùng hàng ngày
Người tiêu dùng Nhật Bản không chỉ yêu cầu hàng chất lượng cao, bao bì đảm bảo, dịch vụ bán hàng và hậu mãi, mà còn muốn mua hàng với giá cả hợp lý Sau khi hứng chịu hậu quả trực tiếp của trận động đất, người tiêu dùng nước này cảm thấy rằng việc tự nguyện hạn chế chi tiêu là một việc cần làm Các cửa hiệu đóng cửa sớm hơn để tiết kiệm năng lượng; các cửa hàng tiện ích hạn chế bán một số mặt hàng thiết yếu để cố gẳng đảm bảo số lượng người mua được những thứ họ cần sẽ nhiều hơn Tuy nhiên, họ vẫn có thể trả tiền cho những sản phẩm sáng tạo, chất lượng tốt, mang tính thời thượng cao Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cần phải quan tâm hơn đến giá trị sử dụng của sản phẩm để tăng lượng tiêu thụ. b) Nhạy cảm về thời tiết
Sở thích của người Nhật thay đổi nhanh chóng theo mùa, Sản phẩm thủ công mỹ nghệ phải được thiết kế có màu sắc hài hòa với thiên nhiên Chẳng hạn, mùa xuân dùng những sản phẩm mềm mại, màu sắc nhẹ nhàng; mùa hè dùng gam màu mạnh Mỗi sản phẩm chỉ có thời gian tiêu thụ trong một thời gian nhất định Do đó sản phẩm tiêu thụ tại Nhật có thời vụ ngắn, người tiêu dùng đòi hỏi rất khắt khe về thời hạn giao hàng.
1.2.2.4 Đảm bảo vấn đề môi trường sinh thái
Nước Nhật phải đối đầu với tình trạng ô nhiễm hết sức nghiêm trọng Mặc dù
Bộ luật Môi trường công bố năm 1967 đã làm giảm thiểu đi rõ rệt các bệnh có nguồn gốc từ các nhà máy (như bệnh hen suyễn do khí thải của công nghiệp lọc dầu, bệnh Mizumata do ô nhiễm thủy ngân, bệnh Itai-Itai do ô nhiễm cadmium ) nhưng đến nay vẫn chưa thể khắc phục được ô nhiễm từ các đám mây quang hóa, từ thủy triều đỏ (do sinh vật phù du phát triển quá mạnh khi tiếp nhận nhiều N và P trong nước thải) dẫn đến làm hạn chế sản lượng hải sản, các ô nhiễm do mưa acid gây thiệt hại cho mùa màng Vì vậy, người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm nhiều đến vấn đề sử dụng các loại sản phẩm thân thiện với môi trường Các cửa hàng và doanh nghiệp đang loại bỏ việc đóng gói quá đáng, các vỏ sản phẩm được thu hồi và tái chế Và các sản phẩm dùng một lần ngày càng ít được ưa chuộng hơn.
Hệ thống kênh phân phối của Nhật Bản
Hệ thống phân phối sản phẩm của Nhật bao gồm các khâu, các mối quan hệ giữa các nhà sản xuất (nhà xuất khẩu), các công ty thương mại, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ (cửa hàng bách hoá, siêu thị, các cửa hàng tiện dụng, các cửa hàng bán lẻ chuyên doanh, các trung tâm buôn bán ở các khu phố có nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc các dịch vụ bán hàng qua hệ thống thông tin, truyền hình phục vụ tận địa chỉ người tiêu dùng).
1.2.3.1 Cửa hàng bán lẻ và hệ thống phân phối
Những cửa hàng bán lẻ quy mô nhỏ, nằm ở các vùng đông dân cư và kinh doanh nhiều loại mặt hàng là kênh phân phối chính trên thị trường Nhật Bản Vì diện tích sinh hoạt hạn chế nên người Nhật còn thường đi chợ mua sắm rất thường xuyên Ngoài ra, còn có các cửa hàng bách hoá lớn và các siêu thị cũng làm nhiệm vụ kinh doanh bán lẻ Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh của các cửa hàng siêu thị lớn ở Nhật Bản không cao do thiếu tính linh hoạt, nền kinh tế và chi tiêu tiêu dùng giảm sút. Ở Nhật Bản, các nhà bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà Doanh số của loại bán hàng này không lớn lắm, nhưng đang tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây Trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật, từ khi hàng được sản xuất ra đến khi giao đến các cửa hàng bán lẻ tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian, nhiều hơn so với các nước công nghiệp phát triển khác.
Hiện nay, Nhật có khoảng hơn 430.000 cơ sở bán buôn, cứ trung bình khoảng 34 cơ sở bán buôn cho 10.000 dân cư Nếu tính quan hệ từ nhà sản xuất đến người bán lẻ, thì trung bình có 2,21 nhà bán buôn nằm giữa người bán lẻ và nhà sản xuất, cao gấp 2 lần so với con số 0,73 ở Pháp và 1 ở Mỹ (Thế giới bán lẻ, 2011) Do đó, một hàng hoá ở Nhật thường phải trải qua nhiều tầng nấc trung gian và phải đi một quãng đường dài hơn Trong hệ thống phân phối, các nhà buôn rất quan trọng vì họ có quan hệ mật thiết với các nhà bán lẻ. Đặc điểm rất độc đáo trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản là sự tồn tại của hệ thống duy trì giá bán lẻ của nhà sản xuất kiểm soát giá bán lẻ thông qua các chính sách chiết khấu hoa hồng và mua lại hàng hoá Đối với chính sách mua lại hàng hoá, khác với châu Âu và Mỹ (người mua phải gánh chịu mọi rủi ro về sản phẩm trong phạm vi khu vực phân phối; chỉ những hàng hoá bị khuyết tật mới được trả lại), tại Nhật Bản người tiêu dùng có thể trả lại các loại hàng hoá như may mặc, sách báo và dược phẩm Tất nhiên, hàng hoá đó phải còn nguyên mác, dán tem Đối với chính sách chiết khấu hoa hồng, Nhật Bản thực hiện nhiều loại chiết khấu và được chiết khấu thường xuyên, chứ không chỉ chiết khấu vào lúc thanh toán tiền hàng như ở châu Âu.
1.2.3.2 Luôn có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối
Hệ thống phân phối hàng hóa Nhật Bản có sự cấu kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối theo vòng khép kín, nhất là những hệ thống cửa hàng chuyên môn hóa chỉ kinh doanh một loại hàng nhất định.
Sự cấu kết này thể hiện như sau: các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn và các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ, thực hiện chế độ định giá bán lẻ, chiết khấu hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, chế độ các nhà sản xuất sẵn sàng mua lại hàng hóa nếu không bán được và các nhà bán lẻ chỉ kinh doanh những mặt hàng đó do các nhà bán buôn và các nhà sản xuất giao Điều này cũng có nghĩa là không khuyến khích các nhà bán lẻ bán các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, hoặc có nghĩa là hạn chế bán sản phẩm cho các khách hàng ở nước ngoài ở địa bàn đã định.
Trong hệ thống phân phối của Nhật Bản còn tồn tại song song hệ thống nhập khẩu Theo đó, bất cứ một công ty nào cũng có thể nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào từ nước ngoài song song với các tổng đại lý nhập khẩu Tuy nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng, bảo dưỡng, bảo hành của hệ thống nhập khẩu song song không tốt vì các tổng đại lý nhập khẩu từ chối chăm sóc các sản phẩm được nhập khẩu theo hệ thống nhập khẩu song song.
Mặc dù hệ thống phân phối hàng hóa của Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, tạo mối quan hệ kinh doanh lâu dài và ổn định giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ nhưng đồng thời cũng bộc lộ một số nhược điểm như: hệ thống phân phối hàng hóa khép kín qua nhiều tầng nấc làm cho giá hàng hóa tăng giá khi tới tay người tiêu dùng Giá bán lẻ của Nhật Bản trung bình cao hơn ở Mỹ là 48%, ở Anh là 55%; không kích thích các cửa hàng bán lẻ nỗ lực cải tiến nâng cao hiệu quả kinh doanh, hạ giá sản phẩm; duy trì số lượng cửa hàng bán lẻ đông đảo không hiệu quả; không minh bạch về định giá sản phẩm; hạn chế sự thâm nhập thị trường Nhật Bản của các công ty nước ngoài.
Mặt khác, các quan chức Nhật Bản đang cần sự ủng hộ chính trị của các nhà bán lẻ thì lên tiếng ủng hộ duy trì hệ thống phân phối cũ vì hệ thống này đã được hình thành trong một thời gian dài, đã kết hợp được các khía cạnh về văn hóa, kinh tế, xã hội của người Nhật Bản vì với mật độ dân cư đông đúc, các cửa hàng bán lẻ sẽ là điểm mua sắm ưa thích, không phải lái xe đến các vùng ngoại ô xa xôi, nơi có các siêu thị lớn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG
MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
2.1 CÁC CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI HÀNGTHỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM
Hệ thống điều tiết nhập khẩu của Nhật Bản
Trong số các công cụ thương mại của sự điều tiết nhà nước về nhập khẩu được áp dụng tại Nhật Bản thì hệ thống thuế quan đóng vai trò quan trọng Cũng giống như nhiều nước phát triển khác, mức thuế nhập khẩu của Nhật Bản phụ thuộc vào mức độ gia công của hàng hóa Thuế quan Nhật Bản hiện nay có bốn loại thuế suất: thuế suất chung, thuế suất GATT/WTO (Hiệp định chung về mậu dịch và thuế quan), thuế suất ưu đãi và thuế suất tạm thời Thuế suất tạm thời được xác lập căn cứ vào tình hình cụ thuể của mặt hàng nhất định trên thị trường và tình hình nền kinh tế Nhật Bản nói chung Thuế suất ưu đãi được thực hiện với những nước kém phát triển nhất theo bảng phân loại của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc (UNCTAD) Hệ thống ưu đãi chung (GSP) chiếm vị trí quan trọng trong ngoại thương Nhật Bản Hiện nay thuế suất ưu đãi được áp dụng đối với việc nhập khẩu từ 155 nước đang phát triển và 25 vùng lãnh thổ Những ưu đãi GSP chiếm 5% hàng nhập khẩu vào Nhật Bản và 10% hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển( Hải quan Nhật Bản, 2010)
Bảng 2.1: Thuế nhập khẩu của Nhật Bản đối với hàng thủ công mỹ nghệ của những nước thuộc WTO và GSP Đơn vị: %
Mặt hàng Thuế suất đối với những nước thuộc WTO
Thuế suất đối với những nước thuộc GSP Đồ gỗ mỹ nghệ 7,5 0
Hàng mây tre, liễu gai, thảm 7,9 4,74 Đồ trang sức 5,2 4,74
Nguồn:Hải quan Nhật Bản, 2012Như vậy, qua những mức thuế trên, ta có thể thấy được việc hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được miễn thuế là một lợi thế rất lớn Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh với hàng cùng loại với những nước chịu mức thuế theo quy định của WTO và GSP.
2.1.1.2 Hệ thống phi thuế quan
- Hệ thống hạn ngạch thuế quan: Theo hệ thống này, các hàng hóa phải nộp thuế nhập khẩu theo mức thuế suất đầu tiên trong phạm vi khối lượng nhập khẩu nhất định, sau đó sẽ phải chịu thuế quan theo mức thuế suất cao hơn Hạn ngạch thuế quan (tức là số hàng hóa phải chịu thuế quan theo mức thuế suất ban đầu) được văn phòng bộ trưởng xác lập hàng năm.
- Hạn ngạch nhập khẩu: được áp dụng với 77 mặt hàng trong đó 54 mặt hàng nằm trong danh mục phân biệt của GATT, 23 mặt hàng còn lại thuộc nhóm các sản phẩm chính của ngành nông nghiệp Nhật Bản.
- Kênh độc quyền nhà nước: việc nhập khẩu do các doanh nghiệp nhà nước hoặc các tổ chức được nhà nước ủy quyền thực hiện Mục tiêu của sự độc quyền này là sự ổn định hàng hóa cung ứng cho người tiêu dùng, kiểm soát nhập khẩu nhằm hỗ trợ cho nhà sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng.
- Hệ thống cấp phép nhập khẩu: hiện tại hầu hết các mặt hàng được nhập khẩu tự do mà không cần phải xin phép Một số mặt hàng nhập khẩu cần sự phê chuẩn của bộ trưởng Bộ công nghiêp và thương mại, ghi trong giấy thông báo nhập khẩu Thông báo này ghi rõ: (1) 66 mặt hàng hạn chế nhập khẩu cần hạn ngạch nhập khẩu, (2) các hàng hóa sản xuất ở các quốc giâ mà cần phải có sự đồng ý cho phép nhập khẩu trước khi nhập khẩu, hay những hàng hóa vận chuyển đén từ những nước này.
Các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Nhật Bản đối với hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
công mỹ nghệ Việt Nam
Nhật Bản không có quy định hạn chế gì đặc biệt đối với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhập khẩu Tuy nhiên, đây là loại hàng có nhiều chủng loại, với mục đích sử dụng khác nhau và được làm từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau nên theo nguyên tắc cơ bản thì tùy thuộc loại nguyên liệu và mục đích sử dụng sẽ áp dụng luật riêng Chẳng hạn như:
Với mặt hàng làm từ nguyên liệu là thực vật như mây, tre, rơm rạ, gỗ … thì phải có kiểm dịch thực vật trước khi cho phép nhật khẩu vào Nhật Bản
Với mặt hàng làm từ nguyên liệu da động vật hoang dã và từ các loại thực vật quý hiếm sẽ áp dụng theo các quy định trong điều ước Washington Đặc biệt các sản phẩm túi xách làm bằng da còn áp dụng quy định luật chống thông tin sai lệch về hàng hóa, luật thông tin chất lượng sản phẩm dùng trong gia đình, luật sở hữu trí tuệ về mẫu mã và quyền sản xuất riêng.
Với mặt hàng làm với mục đích sử dụng là dụng cụ liên quan trực tiếp đến thực phẩm của người như dụng cụ đồ ăn bằng gốm sứ, hàng mây tre đan, bát đũa… còn phải kiểm tra theo “ Luật vệ sinh an toàn thực phẩm”.
Ngoài những quy định trên, khi xuất khẩu, người xuất khẩu còn phải chú ý đến nhiều yếu tố khác và tùy từng trường hợp, phải thông báo ngay cho người nhập khẩu biết về quy trình sản xuất, tình trạng và vật liệu dùng để làm bao bì, tên thuốc khử trùng… để người nhập khẩu có đủ tài liệu cung cấp cho cơ quan kiểm dịch khi nhập khẩu.
Trong hiệp định SPS (hiệp định về biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm) của VJEPA (Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản), có quy định về biện pháp vệ sinh và kiểm dịch và cách thức giải quyết thắc mắc của đối tác về vấn đề này Mỗi nước sẽ chỉ định một tiểu ban có khả năng trả lời tất cả các yêu cầu hợp lý từ bên kia về biện pháp SPS và cung cấp các thông tin liên quan trong điều kiện thích hợp Tiểu ban sẽ bao gồm các quan chức chính phủ phụ trách về các biện phápSPS của các bên và sẽ họp tại địa điểm và thời gian do các bên nhất trí Ngoài ra,trong trường hợp cần thiết, tiểu ban này có thể thành lập các nhóm công tác kỹ thuật tạm thời với tư cách là các cơ quan chức năng liên quan tới một lĩnh vực cụ thể của biện pháp SPS Nhật Bản luôn là thị trường có yêu cầu về an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật khắt khe Trong khi đó những nhà sản xuất Việt Nam lại chưa đạt đến những tiêu chuẩn mà Nhật Bản mong muốn Do đó, Nhật Bản còn e ngại khi nhập khẩu những hàng hóa liên quan đến động thực vật từ Việt Nam KhiVJEPA có hiệu lực, các tiểu ban này sẽ đi vào hoạt động, và các doanh nghiệp nhập khẩu Nhật Bản sẽ yên tâm hơn trong vấn đề kiểm dịch, từ đó, họ sẽ quan tâm hơn đến những chủng loại hàng hóa này của Việt Nam Những mặt hàng thủ công mỹ nghệ có công dụng khác nhau, nhưng có thể thấy, mặt hàng này thường sử dụng làm đồ dùng trong gia đình nên việc kiểm tra độ an toàn của sản phẩm được coi trọng.
Từ những quy định này của VJEPA, nhà nhập khẩu Nhật Bản sẽ mạnh dạn tiếp cận và đặt mua sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT
Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
Thị trường Nhật Bản được coi là một trong ba thị trường mục tiêu của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam Nhóm mặt hàng thủ công xuất khẩu chính vào thị trường này bao gồm hàng gốm sứ, các sản phẩm làm từ mây, tre, đan Ngoài ra, còn có các mặt hàng khác như sơn mài, các mặt hàng trạm trổ từ kim loại,đá… nhưng số lượng không lớn.
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng mây,tre, cói, thảm và đồ gốm sứ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản giai đoạn 2007-2011 Đơn vị: Triệu USD
Mây, tre, cói và thảm Gốm sứ
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam, 2007-2011 Sản phẩm được làm từ mây, tre, cói và thảm được đánh giá là mặt hàng có lợi thế nhất của Việt Nam khi xuất khẩu sang Nhật Bản Đây là loại sản phẩm không phải qua kiểm dịch và các tiêu chuẩn về môi trường cũng không khắt khe như Châu Âu và Châu Mỹ Chủ yếu là đĩa, chậu, ghế… với màu sắc đẹp, bóng, không mốc mọt, cùng với sự tăng cường phối hợp các nguyên liệu khác như kim loại mày để tăng được vẻ đẹp và tính hiện đại của sản phẩm Vì vậy, lượng kim ngạch xuất khẩu của mây, tre, cói và thảm tăng nhanh và liên tục, chiếm một tỷ trọng lớn Ví dụ như năm 2007, lượng kim ngạch hàng mây tre sang Nhật là
25506 triệu USD, chiếm tỷ trọng 10,34% Sang tới năm 2011 tốc độ tăng trưởng đã đạt tới 14,47% với số lượng kim ngạch là 29118 triệu USD Chắc chắn đây sẽ một trong những mặt hàng chính cần đẩy mạnh hơn nữa của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Bên cạnh mặt hàng mây tre, gốm sứ cũng được đánh giá là mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu sang Nhật Bản Khối lượng kim ngạch cũng tăng đều qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn xấp xỉ mặt hàng mây, tre Gần đây, Nhật Bản nhập khẩu đồ gốm sứ từ Châu á tăng nhanh do mức giá rẻ và công nghệ sản xuất được chuyển giao từNhật Bản sang cho phép các nhà sản xuất Châu á cung cấp sản phẩm gần gũi hơn với người Nhật Bản.Vì vậy, mặt hàng gốm sứ Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm cùng loại của các nước khác, đặt biệt là Trung Quốc- vốn nổi tiếng với gốm Quảng Châu Đây là vấn đề mà ngành thủ công mỹ nghệ của ViệtNam cần lưu ý khi đưa ra các giải pháp để thúc đẩy hàng thủ công mỹ nghệ vàoNhật Bản
NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ SANG NHẬT BẢN 33 1 Thuận lợi
Nguồn nhân lực dồi dào, chi phí nhân công rẻ
Nguồn nhân lực cho ngành thủ công mỹ nghệ bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ công, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh Những người nghệ nhân đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đồng thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang tính truyền thống Hiện nay ở các làng nghề Việt Nam, vẫn còn có rất nhiều nghệ nhân có tâm huyết với nghề,muốn giữ gìn và phát triển nghề Bên cạnh đó còn có một lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường Theo số liệu của Tổng cục thống kê, dân số Việt Nam trên 87 triệu người vào năm 2011,trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2011 của cả nước là 51,39 triệu người, tăng 1,97% so với năm 2010 So với các quốc gia trên thế giới cũng như trong khu vực, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có “dân số vàng” Do đặc điểm sản xuất của nghề này là sử dụng lao động thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên bản thân nó có khả năng thu hút được nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên hay dưới độ tuổi lao động, trẻ em … tham gia Thời gian sử dụng của lao động trong nông nghiệp chỉ vào khoảng 75% Vì vậy, thời gian nông nhàn để tận dụng vào nghề phụ là rất lớn,không kể lao động nông thôn thường xuyên làm nghề thủ công Hiện nay, các làng nghề đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, góp phần giảm tỷ lệ thấp nghiệp và cải thiện đời sống của người dân.
Bên cạnh đó, yếu tố tiền lương rẻ cũng đóng góp vào sự phát triển nhanh của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam Theo số liệu của Cục xúc tiến thương mại, hiện nay mức tiền lương trong ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam dù đã được điều chỉnh tăng theo chính sách khuyến khích của Nhà nước, nhưng vẫn đang ở mức thấp so với các nước khác trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan.
Bảng 2.5: Mức lương trung bình của một số nước trong khu vực Đông Nam Á năm 2007
Nước Tiền lương trung bình
Nguồn: VIETTRADE, 2007 Theo đó, mức lương trung bình của người lao động Việt Nam chỉ ở mức 0,4 USD/ giờ, thấp hơn so với Trung Quốc 0,2 USD/ giờ và Malaysia là 0,925USD/giờ. Đây được coi là một lợi thế lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được nguồn lực này để giảm chi phí sản xuất, mức giá hàng thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh; từ đó thu hút được một lượng khách hàng mới và mở rộng được thị phần của ngành hàng Không những vậy, nó còn mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp Nhật Bản khi họ mua được sản phẩm với giá rẻ trong điều kiện kinh tế thế giới còn khó khăn, đặc biệt là thảm họa sóng thần vừa rồi gây thiệt hại nặng nề về vật chất, càng khiến họ trở nên chi tiêu tiết kiệm và cân nhắc kĩ càng hơn khi hợp tác kinh doanh.
2.3.1.2 Cơ chế chính sách của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Hiện nay, ngành thủ công mỹ nghệ là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam , được Chính phủ xem xét như một phương thức hữu hiệu để xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở vùng nông thôn Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, thể chế, thông tư…nhằm hỗ trợ ngành thủ công mỹ nghệ phát triển, từ khâu cung cấp nguyên liệu thô và đất đai đến khuyến khích đầu tư và xúc tiến thương mại Theo đó, gồm những đặc điểm chính sau đây:
Nhà nước sẽ khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và thông qua những chính sách bảo vệ lợi ích hợp pháp cho hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng thủ công nông thôn, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, thu hút nguồn lao động và góp phần tạo công ăn việc làm ở nông thôn, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn và thúc đẩy các giá trị văn hóa của dân tộc.
Nhà nước khuyến khích việc tự nguyện thành lập các hiệp hội của những nghề khác nhau hay ở những địa phương khác nhau, nhằm hỗ trợ thực tế cho sự phát triển của các cơ sở kinh doanh hàng thủ công, phản ánh được tâm tư và nguyện vọng của họ, đóng góp ý kiến cho các cơ quan Nhà nước trong việc soạn thảo những cơ chế, chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn.
Nhà nước sẽ cung cấp vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng (đường xá, cung cấp điện nước, đảm bảo về môi trường), kho bãi, nhà xưởng cho các đối tượng dân cư tham gia sản xuất và kinh doanh hàng thủ công ở nông thôn; trợ cấp kinh phí đào tạo xúc tiến thương mại cho sản xuất, kinh doanh nông thôn và cho các cơ sở kinh doanh hàng thủ công Mục tiêu của hoạt động này là nhằm duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm và tăng nguồn thu nhập cho người lao động
Việc thiết lập cơ sở cho ngành thủ công nông thôn sử dụng các phần đất không có tranh chấp và ổn định sẽ liên quan đến vấn đề sử dụng đất do Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xác nhận Đồng thời, các cơ sở của ngành thủ công nông thông sẽ được thuê đất đai ở mức thấp nhất và được miễn không phải trả phí thuê đất trong 03 năm nếu họ di dời các nhà máy của mình khỏi khu vực dân cư.
Các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương sẽ bố trí cơ cấu của chính họ theo những yêu cầu phát triển thương mại của vùng nông thôn, nhằm quy hoạch và lập kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu thô từ nông nghiệp và lâm nghiệp, đảm bảo các nguồn cung phong phú cho những ngành nghề sản xuất ở nông thôn Bất kỳ cơ sở nào ở nông thông muốn khau thác nguyên liệu thô là các nguồn khoáng sản sẽ được ưu tiên cấp phép sử dụng và khai thác theo các quy định của pháp luật Họ cũng sẽ được hưởng sự miễn hoặc giảm thuế dành cho các nguồn tài nguyên theo quy định của Nhà nước.
Các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp sẽ tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh hàng thủ công nông thôn tiếp cận kịp thời thông tin về thị trường, giá cả, chi tiết kỹ thuật và tiêu chuẩn của sản phẩm theo các yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
Cơ sở kinh doanh hàng thủ công nông thôn có thể liên doanh và hợp tác với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước về hoạt động sản xuất và bán sản phẩm. Đồng thời, được giảm 50% hoặc nhiều hơn về phí thuê mặt bằng khi tham gia trưng bày tại hội trợ và triển lãm sản phẩm trong nước.
Bộ Thương mại sẽ trực tiếp điều hành các thương vụ ở nước ngoài khai thác thị trường của nước chủ nhà, giới thiệu họ với các cơ sở kinh doanh hàng thủ công nông thôn Trong khi đó, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ tổ chức, hướng dẫn và cung cấp những quỹ cần thiết trong kế hoạch hàng năm dành cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng thiết kế và sử dụng các nguồn nguyên liệu thô trong nước, chỉ dẫn áp dụng các công nghệ thích hợp nhằm nâng cao năng suất lao động; giảm chi phí, đa dạng sản phẩm, tăng giá trị thẩm mỹ và sự tinh xảo của sản phẩm do các làng nghề sản xuất Đồng thời, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý rác thải, chấm dứt tình trạng ô nhiễm môi trường do các ngành nghề ở nông thôn gây ra. Đối với lao động, sẽ có sự ưu tiên dành cho đào tạo và sử dụng người lao động là thành viên của những hộ gia đình có đất đai thuộc diện quy hoạch của Nhà nước phục vụ cho công tác phát triển ngành nghề nông thôn và người lao động địa phương. Đối với đào tạo, bản thân người thợ thủ công có thể tổ chức truyền nghề của mình và thu phí từ những học viên theo nguyên tắc hai bên cùng thỏa thuận và hoạt động này được miễn thuế Thợ thủ công, hợp tác xã, tổ chức và các hiệp hội sẽ được khuyến khích thực hiện việc truyền nghề và các khóa đào tạo cho người lao động. Các trường đào tạo nghề của Nhà nước sẽ ưu tiên cho hoạt đào tạo nghề của các cơ sở kinh doanh hàng thủ công nông thôn; mỗi huyện có thể thiết lập một trung tâm đào tạo nghề, đặc biệt là nghề truyền thống ở địa phương Chính phủ sẽ hỗ trợ200.000đ/ học viên/tháng trong suốt thời gian đào tạo
Bảng 2.6 : Một số quy định, thông tư của Đảng và Nhà nước ban hành về sự phát triển của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Quyết định số 132/2000/QĐ/TTG ngày 24.11.2000 về các chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn Thủ Tướng
Quyết định số 132/2000/QĐ- TTG ngày 07.09.2001 về Cơ chế tài chính thực hiện các chương trình phát triển giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng cho ngành Thủy sản và cơ sở hạ tần cho các làng nghề thủ công.
Thông tư số 79/2001/TT- BTC ngày 28.09.2001 hướng dẫn về các cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng cho ngành Thủy sản và cơ sở hạ tần cho các làng nghề thủ công.
Công văn số 670/BNN- TCBC ngày 26.03.2003 hướng dẫn về đào tạo, phát triển các nghề thủ công nông thôn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09.06.2004 về khuyến khích các ngành ở nông thôn Chính phủ
Thông tư số 65/2004/TTL/BTC-BLDTBXH ngày 02.07.2004 hướng dẫn về hỗ trợ đào tạo nghề thủ công ở các vùng nông thôn.
Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội Quyết định số 184/2004/QĐ-TTG ngày 22.10.2004 về sử dụng tín dụng dành cho phát triển của Nhà nước để nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các làng nghề cho giai đoạn 2006-2010.
Thông tư số 03/2005/TT-BCN ngày 23.6.2005 hướng dẫn về hoạt động khuyến khích các ngành thủ công nông thôn Bộ Công nghiệp
Quyết định số 910 QĐ/BNN-CB ngày 31.03.2006 về kế hoạch phát triển nghề thủ công nông thông đến năm 2010.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07.07.2006 về phát triển ngành thủ công nông thôn Chính phủ
Nhu cầu tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ của Nhật Bản ngày càng tăng
càng tăng Ông Hiroyuk Moribe, Trưởng văn phòng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội cho biết hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam rất đa dạng và phong phú, được người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng Sở dĩ hàngViệt Nam luôn có ưu thế tại đất nước "mặt trời mọc" vì giữa hai nước có những điểm tương đồng về văn hoá và địa lý Do mức sống cao nên người Nhật không đòi hỏi các sản phẩm nhất thiết phải có độ bền lâu năm Sản phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất lượng tốt, mẫu mã bắt mắt, phong phú và tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Bên cạnh đó, “sản phẩm xanh” cũng được người tiêu dùngNhật Bản rất quan tâm, đó là những sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ, không ảnh hưởng tới sức khỏe con người và bảo vệ môi trường Đặc biệt, người Nhật rất thích tặng quà vào các dịp lễ, tết trong năm; họ thích những món quà nhỏ xinh, mang đậm nét truyền thống để tặng cho những người thân yêu của mình nên nhu cầu về mặt hàng thủ công mỹ nghệ khá cao Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan NhậtBản, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 2,9 tỷ USD hàng thủ công mỹ nghệ từ các nước Trong đó, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chiếm hơn 20-30% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Nhật Đây chính là một lợi thế lớn màViệt Nam cần tận dụng để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản.
Quan hệ Việt –Nhật đang trở nên gắn bó và bền vững
Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập mối quan hệ thương mại từ tháng
9 năm 1973, nhưng thực sự phát triển vững chắc kể từ sau năm 1992, bằng sự kiện Nhật viện trợ chính thức (ODA) cho Việt Nam Các chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo hai nước và việc mở rộng giao lưu giữa cán bộ, ngành, địa phương của hai bên được duy trì thường xuyên, góp phần từng bước hoàn thiện khuôn khổ quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản Từ năm 2009, quan hệ Việt –Nhật được xác định là: “Quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á
Sau gần 40 năm, hai nước đã đàm phán và kí kết nhiều hiệp định, thỏa thuận như: Hiệp định Hàng không (5/1994), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (9/1995),
Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ (8/2006) (Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, 2010)… Đặc biệt, Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA) kí ngày 25.12.2008 đã nâng quan hệ hai nước lên một tầm cao mới Hiệp định này là một thỏa thuận song phương mang tính toàn diện bao gồm nhiều lĩnh vực như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư… Hiệp định sẽ khuyến khích hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai nước, qua đó phát huy hiệu quả các tiềm năng và lợi thế của mỗi nước trong mối tương quan chung với nền kinh tế khu vực cũng như thế giới.
Trước những cố gắng của cả hai bên và những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, rõ ràng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ còn phát triển tốt đẹp hơn nữa trong tương lai.
Chi phí đầu tư cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thấp
Hiện nay, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ được thực hiện chủ yếu trong các hộ gia đình, hợp tác xã với quy mô nhỏ lẻ, cho nên tận dụng được diện tích nơi ở làm khu sản xuất Vì vậy, chi phí xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng là không lớn.Ngoài ra, hầu hết các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là làm từ bàn tay thủ công của người thợ, hoặc các loại công cụ truyền thống, thô sơ nên cũng hạn chế được phần nào chi phí đầu tư cho máy móc, trang thiết bị Do đó, việc cắt giảm được nhiều loại chi phí là một trong những yếu tố làm cho giá thành sản phẩm rẻ hơn, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ mạnh ở các nước khác như: Trung Quốc, Malaysia hay bản thân các sản phẩm thủ công mỹ nghệ nội địa Nhật Bản.
Khó khăn
Qua những nghiên cứu gần đây cho thấy hầu hết các làng nghề thủ công truyền thống ở nước ta đều gặp phải những khó khăn như: thiếu mặt bằng sản xuất, sự lạc hậu về thiết bị và công nghệ, thiếu vốn, sản xuất riêng lẻ theo vụ mùa, trình độ quản lý kinh doanh yếu, thiếu thông tin về thị trường… kể cả thị trường truyền thống lẫn thị trường tiềm năng, và đặc biệt kém phát triển về thiết kế cải tiến mẫu mã, tạo dáng sản phẩm, chất lượng không đảm bảo những yêu cầu khắt khe của người tiêu dùng Nhật Bản nên sức cạnh tranh kém so với những đối thủ mạnh như Trung Quốc Những bức xúc như vậy đã và đang ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến sự phát triển sản xuất ngành hàng này mà còn ảnh hưởng tới giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc và bảo tồn phát triển ngành nghề truyền thống.
2.3.2.1 Vốn đầu tư cho sản xuất và mặt bằng, cơ sở hạ tầng
Rất ít hộ và cơ sở sản xuất tiếp cận được với các nguồn tín dụng của ngân hàng hoặc các tổ chức cho vay vốn bởi thủ tục rườm rà, điều kiện thế chấp Phần lớn các hộ, các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn trầm trọng để đầu tư sản xuất và thường dựa vào vốn tự có hoặc đi vay người thân Do đó, số lượng sản phẩm còn ở quy mô nhỏ, hạn chế vì dựa vào sức người là chủ yếu Cơ sở sản xuất, nhà xưởng nghèo nàn, phân tán, mang tính chất hộ gia đình Ngoài những kỹ thuật truyền thống, bí quyết nghề được lưu truyền còn hầu hết công nghệ, trang thiết bị sản xuất còn thô sơ, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động còn thấp Mặt khác, trong những năm trước đây, tỷ suất lợi nhận của một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ mang lại khá cao, nhưng người dân lại đầu tư vào những hoạt động như xây cửa hiệu, mở rộng gia công hàng hóa, chứ không chịu đầu tư theo chiều sâu là đổi mới công nghệ, nghiên cứu mẫu mã mới, tìm kiếm mở rộng thị trường… Do đó, các cơ sở đang gặp khó khăn chung là năng lực sản xuất nhỏ, thiếu tính dây chuyền công nghệ nên không thể đáp ứng được những hợp đồng lớn, thời hạn nhanh Trong khi đó, quy mô đơn đặt hàng của người Nhật thường rất lớn và chính xác về thời gian giao hàng nên nhiều khi chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội một cách đáng tiếc Đây sẽ là vấn đề hết sức khó khăn cho việc mở rộng và tăng cường thâm nhập hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản
2.3.2.2 Nguyên liệu phục vụ cho sản xuất ngày càng khan hiếm
Là một đất nước có khí hậu nhiệt đới, nhiều đồi núi; có thể tự hào rằng ViệtNam có một nguồn nguyên vật liệu tại chỗ (mây, tre, cói ) dồi dào, có khả năng đáp ứng tới 90-95% nhu cầu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Hầu hết ở địa phương nào cũng có nguồn nguyên liệu cung cấp cho sản xuất, phần nhập khẩu gần như không đáng kể Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng nguồn nguyên vật liệu này đang ngày một khan hiếm do quy mô và tốc độ tăng trưởng của ngành thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng nhanh, tỷ lệ thuận với nạn chặt phá rừng bừa bãi Một ví dụ điển hình cho thực trạng này là sự thiếu hụt trầm trọng nguồn nguyên liệu mây phục vụ cho sản xuất hàng mây tre đan Theo Bộ CôngThương, mặc dù chưa có số liệu thống kê đầy đủ về số lượng nguồn tài nguyên mây, Việt Nam có 6 chi với 30 loài song, mây trong tự nhiên phân bố ở nhiều nơi, tập trung chủ yếu ở 3 vùng: Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Miền Trung – Nam Trung
Bộ Trong nhiều năm qua, do sự khai thác nguyên liệu thô một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch nên nguồn nguyên liệu tự nhiêu này của Việt Nam đã cạn kiệt Tại nhiều vùng nguồn nghiên liệu này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng như: Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái (Hoàng Châu, 2010)… Giá bán của chúng vì thế cũng tăng nhanh Giá mây đã tăng lên gấp 3 lần trong 3 năm trở lại đây từ 7000 VND/cây lên đến 17000VND/ cây (Hoàng Châu, 2010), khiến cho chi phí sản xuất cũng tăng lên nhiều Ở một số nơi, do lượng mây giảm sút khiến cho người trồng sử dụng các loại phân bón hóa học để rút ngắn thời gian tăng trường của cây, trồng nhiều hơn, nhanh hơn, thu lãi nhiều hơn Tuy nhiên, điều đó lại làm giảm sự mềm dẻo của cây, sợi mây ròn và dễ gẫy hơn Điều này làm giảm chất lượng của sản phẩm, gây khó khăn cho sản xuất, cũng như là làm giảm uy tín thương hiệu thủ công mỹ nghệ Việt Nam đối với thế giới.
Việc thiếu nguyên liệu, đặc biệt với ngành mây, tre đan đã được báo động từ lâu nhưng đến nay Đảng và Nhà nước vẫn chưa có một chương trình hay kế hoạch nào khả quan để giải quyết khó khăn đó Mặc dù một số tỉnh cũng đã hướng dẫn và cấp cây giống cho nông dân song chưa đạt được nguồn nguyên liệu chuẩn cho sản xuất Một số doanh nghiệp đã xây dựng nhiều dự án trồng mây trên diện rộng song đều tắc về vốn và gần như không nhận được bất kỳ sự ủng hộ hay quan tâm nào từ các cơ quan chức năng Vì vậy, nhiều đơn vị đã phải nhập khẩu nguyên liệu với mức thuế 10% giá trị lô hàng Theo số liệu từ Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, năm
2009 các làng nghề phải nhập khẩu khoảng 50% nguyên liệu sản xuất, riêng mặt hàng gỗ phải nhập khẩu 80% nguyên liệu Hoặc như vải có chất lượng dùng cho ngành thêu hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn dẫn tới tình trạng chi phí cho nguyên liệu thô chiếm đến 60-80% chi phí sản xuất.
2.3.2.3 Trình độ khoa học- công nghệ còn yếu kém
Công nghệ cổ truyền dựa trên kỹ thuật sản xuất thủ công tinh xảo và dụng cụ lao động thủ công khá thô sơ do người thợ tự chế ra Hiện nay, nền kinh tế thị trường và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới công nghệ kỹ thuật trong các làng nghề Một số cơ sở đã trang bị được thiết bị hiện đại ở một số khâu cần thiết Ví dụ như ngành sản xuất đồ gỗ đã được trang bị những máy đa năng (cưa, đục, bào) làm rút ngắn thời gian sản xuất, ngành dệt nhờ áp dụng máy móc, thiết bị vào sản xuất mà công nghệ dệt vải với nhiều hoa văn phức tạp, đa dạng, khổ rộng đã thay thế cho công nghệ dệt cổ truyền khổ hẹp, hoa văn đơn giản. Ở Bát Tràng, công nghệ nung sản phẩm gốm sứ bằng lò tuy-nen (dùng nhiên liệu gas và điện) đã thay thế cho lò hộp và lò bầu (dùng than và củi), công nghệ nhào luyện đất bằng máy đã thay cho công nghệ thủ công
Tuy nhiên, nhìn chung, việc đổi mới công nghệ ở các làng nghề chưa được thực hiện một cách hệ thống, chưa cơ bản Chỉ một số làng nghề được trang bị nhiều máy móc hiện đại hơn nhưng chưa được gọi là đầy đủ Điều đáng buồn ở đây là năng lực ứng dụng khoa học kỹ thuật của người dân vẫn còn kém Trong các làng nghề, những người thợ kỹ thuật chuyên nghiên cứu, sáng tạo mẫu mã còn ít ỏi do không có một trường lớp đầo tạo cơ bản nào mà chủ yếu là tự học Tất cả những điều này làm hạn chế sự phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 42 1 Những thành tựu đạt được
Những tồn tại và nguyên nhân
2.4.2.1 Những tồn tại, hạn chế cần khắc phục a) Hoạt động nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại
Hàng hóa của Việt Nam sở dĩ chưa được biết đến nhiều ở thị trường Nhật Bản là do khả năng tiếp cận thị trường còn yếu Doanh nghiệp Việt Nam quen bán những gì mình có sẵn mà chưa tìm ra sản phẩm phù hợp nhu cầu công tác xúc tiến thương mại nhìn chung là vẫn còn nhỏ lẻ và chưa đồng bộ Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản tương đối ổn định, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia Nhật Bản, nếu xét về tính bổ sung lẫn nhau của cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của hai nước, thì tỷ trọng còn khá nhỏ bé so với tiềm năng, và trên thực tế Việt Nam mới chỉ là bạn hàng nhỏ của Nhật Bản.
Các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Việt Nam còn đầu tư quá ít cho nghiên cứu thị trường Mặc dù Nhật Bản là một thị trường lớn, đầy tiềm năng nhưng rất khó tiếp cận bởi nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nắm bắt được đặc trưng, văn hóa của thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng nước này Hệ quả của việc này là rất nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam không có những công dụng rõ nét và chưa hướng tới thị trường cụ thể Ngoài ra, hoạt động xây dựng thương hiệu của hàng hóa Việt Nam tại Nhật Bản còn chưa thực sự được quan tâm thích đáng Công tác liên kết ngành hàng giữa các hiệp hội của Việt Nam với các hiệp hội của Nhật Bản còn yếu kém.
Ngoài ra, hệ thống phân phối Nhật Bản vẫn còn xa lạ với nhiều doanh nghiệp Việt Nam Các nhà sản xuất đã quen với phong cách bán hàng thụ động, chờ đợi các đơn đặt hàng và cung cấp những gì mà đối tác yêu cầu Chính vì vậy mà nhiều khi hàng Việt Nam được đặt dưới tên của các nhà phân phối hoặc các công ty thương mại Các doanh nghiệp Việt Nam chưa dám tự mình khám phá và sử dụng phân phối như một thứ vũ khí cạnh tranh Trong các hình thức phân phối là sử dụng các công ty thương mại, hợp đồng đại lý nhập khẩu, bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ lớn, thành lập văn phòng bán hàng… thì đại đa số doanh nghiệp Việt Nam thường sử dụng các công ty thương mại Các công ty này có ưu điểm là quan hệ rộng, nắm bắt kịp thời yêu cầu của thị trường nhưng hàng hóa đi qua đây phải trải qua một kênh phân phối nhiều tầng và kết quả là giá bán bị nâng dần lên.
Như vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong tình hình hiện nay là cần tiến hành nghiên cứu thị trường Nhật Bản, tham gia các triển lãm tại Việt Nam và Nhật Bản b) Giá bán của hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường Nhật Bản
Giá của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản có một số bất lợi, không đảm bảo tính cạnh tranh về giá So với hàng cùng chủng loại, cùng chất lượng của các nước Châu Á khác, đặc biệt so với mức giá của đối thủ cạnh tranh chính là Trung Quốc thì hàng Việt Nam được đánh giá là có mức giá cao hơn Giá bán phải luôn thỏa mã hai tiêu chuẩn: một là phải bù đắp được chi phí và có lãi, hai là phải đảm bảo được tính cạnh tranh để sản phẩm có thể tiêu thụ được Tuy nhiên, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản so với hàng thủ công của các quốc gia trong khu vực thường cao hơn 10% và cao hơn 15% so với hàng của Trung Quốc (Hiệp hội làng nghề thủ cô Nguyên nhân là do hàng Việt Nam phải chịu nhiều chi phí thêm ngoài sản xuất như chi phí quản lý, các dịch bụ hỗ trợ, chi phí vận tải… Trong khi mặt hàng này cồng kềnh, trị giá lại không lớn nên chi phí vận tải chiếm tỷ trọng lớn trong giá xuất khẩu hàng hóa Do đó mà sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quố tế một phần nào cũng bị giảm xuống. c) Chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Nhật Bản là một nước phát triển vì vậy những yêu cầu về chất lượng trên thị trường là rất cao Hơn nữa, người tiêu dùng Nhật Bản rất khó tính, khắt khe trong việc lựa chọn sản phẩm, chỉ một sai phạm nhỏ cũng có thể làm họ không hài lòng, và chuyển sang mua sản phẩm của hãng khác Trong khi thực tế những năm qua cho thấy, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất sang thị trường Nhật chưa có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng, nhiều trường hợp hàng bị trả lại vì lý do chất lượng. Một số mặt hàng song mây như bàn, ghế… khi xuất sang Nhật vào thời tiết khô hanh, lạnh đã bị cong vênh, nứt nẻ, hoặc có trường hợp sản phẩm trong quá trình vận chuyển do không được bảo quản tốt nên bị tróc lớp, trầy… Những vấn đề này ảnh hưởng không tốt đến chất lượng của sản phẩm, làm chất lượng giảm sút Như vậy, chỉ có một số rất ít những doanh nghiệp Việt Nam có sản phẩm đạt tiêu chuẩn cả về chất lượng, mẫu mã so với nhu cầu thị trường Hơn nữa, theo nhận định của các chuyên gia Nhật Bản thì chất lượng của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam có tính bền vững chưa cao Một số doanh nghiệp chỉ chú trọng chất lượng của những lô hàng ban đầu, những lô hàng tiếp theo thì chất lượng không được như ban đầu Điều này cho thấy công tác quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức Điều này lý giải vì sao các doanh nghiệp Nhật hay cử các chuyên gia của nước họ sang Việt Nam để kiểm tra chất lượng trước khi xuất hàng Trong khi đó, người Nhật lại đề cao chữ tín trong kinh doanh Nếu doanh nghiệp để mất lòng tin dù chỉ là một lần thì rất khó có thể lấy lại được khách hàng Hơn thế nữa, người Nhật hay có thói quen làm ăn thông qua giới thiệu, họ rất đề cao những doanh nghiệp được các doanh nghiệp hay cá nhân có uy tín ở Nhật Bản giới thiệu. d) Mẫu mã, thiết kế kiểu dáng
Những năm trước đây, hàng thủ công mỹ nghệ đã gây ra cơn sốt tại thị trường Nhật Bản Nhưng hiện nay rất nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đều có chung nhận xét rằng xuất khẩu vào thị trường Nhật đang ngày càng khó khăn Đã có không ít doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm đúng mức tới việc nghiên cứu kỹ nhu cầu , thị hiếu tiêu dùng trong thời gian tới, cũng như chưa quan tâm đến việc thiết kế sản phẩm để sản phẩm ngày càng mới lạ và có sức hấp dẫn Hơn nữa, thị hiếu về mẫu mã, kiểu dáng của người Nhật thay đổi theo mùa Họ không thích sủa dụng một kiểu dáng quá lâu và việc yếu kém về thay đổi trong thiết kế kiểu dáng dễ gây cho người tiêu dùng Nhật cảm giác nhàm chán
Nguồn cung mẫu thiết kế từ các nhà thiết kế chuyên nghiệp hầu như không có, cho dù trong thực tế, các nhà khoa học, mỹ thuật rất cần đến nhà sản xuất để chuyển những đề tài nghiên cứu của họ từ bàn giấy, phòng thí nghiệm thành sản phẩm thương mại Và ngược lại các nhà sản xuất cũng rất cần các nhà khoa học, mỹ thuật đưa công nghệ, sáng tác mẫu mã mới cho sản phẩm Nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự hợp tác chặt chẽ và lâu dài giữa các bên Điều này khiến cho sự đa dạng của sản phẩm đang trở nên khó khăn, không tránh được có những lúc trùng lặp, đơn điệu. e) Khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đối với các đối thủ cạnh tranh
Cạnh tranh với hàng thủ công truyền thống của Nhật Bản
Như nhiều nước châu Á khác, Nhật Bản cũng có các mặt hàng thủ công mỹ nghệ có lịch sử hàng trăm năm Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Nhật bao gồm đồ gốm sứ, búp bê kokeshi bằng gỗ, hàng thủ công bằng rơm rạ, hàng tre đan… Sản phẩm có nhiều nhất được bày bán khắp nơi trong cả nước là đồ gốm sứ Các địa phương dùng nguyên liệu là đất sét tại chỗ để sản xuất ra bát ăn cơm, chén uống trà, đĩa và nhiều loại đồ đựng khác nhau Sự khéo tay truyền thống của Nhật được phản ánh ở nghệ thuật tạo dáng tinh tế cùng kỹ thuật, nguyên liệu tạo nên nhiều sản phẩm độc đáo khác nhau như gốm Imari, gốm Arita, gốm Seto…
Cạnh tranh với hàng thủ công mỹ nghệ của các nước khác
Trên thị trường Nhật Bản, hàng thủ công mỹ nghệ của ta phải cạnh tranh với rất nhiều đối thủ, đặc biệt là các sản phẩm của Trung Quốc và các nước châu Á khác.
So với Trung Quốc- một nước có lực lượng lao động lớn và rẻ, và cũng có nguồn nguyên liêu sẵn có, hơn nữa sản phẩm thủ công của họ rất độc đáo, tinh xảo, chủng loại, mẫu mã đa đạng, phong phú Trung Quốc sẵn sàng sản xuất sản phẩm hàng loạt với mức giá cạnh tranh nên chỉ riêng mặt hàng đồ gỗ là nước xuất khẩu lớn nhất vào Nhật Bản, chiếm 41,1% thị phần Trong khi đó nguồn gỗ Việt Nam còn hạn chế về số lượng và chất lượng, phải nhập khẩu 80% nguyên liệu khiến giá thành sản phẩm tăng cao, giảm sức cạnh tranh Hay như một số nước châu Á khác như Đài Loan, Thái Lan thì lượng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản cũng tương đương với Việt Nam Hoặc đối với các mặt hàng mang tính quy trình công nghệ cao, hiện đại thì ta không thể so sánh được với hàng hóa của các nước châu Âu, châu Mỹ như là Bỉ, Đức, Ý…Hàng gia dụng với phong cách hiện đại, cổ điển với giá cả hợp lý đã khiến lượng xuất khẩu của Ý vào Nhật ngày càng tăng mạnh Sản phẩm của Đức tuy có giá cao nhưng chất lượng tốt, mẫu mã hoàn hảo với những tên tuổi các nhà sản xuất quà tặng và đồ trang trí nổi tiếng khắp châu Âu.
Tuy nhiên, trong thị trường Nhật Bản, có nhiều xu hướng tiêu dùng khác nhau. Tầng lớp thượng lưu sẽ quan tâm đến những sản phẩm cao cấp, còn giới trẻ và những gia đình trung lưu lại có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm có giá vừa phải, kiểu dáng đa dạng, bắt mắt Nếu biết tận dụng những ưu thế của mình kết hợp với việc nắm bắt được thị hiếu, sở thích của người Nhật, sử dụng các biện pháp xúc tiến thương mại, chi phí giá… thì hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vẫn có cơ hội tạo cho mình chỗ đứng riêng, cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của các nước khác
2.4.2.2 Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế a) Nguyên nhân khách quan
Thị trường Nhật Bản yêu cầu cao, khắt khe
Thị trường Nhật Bản là một thị trường khó tính, họ đòi hỏi cao về nhiều mặt như chất lượng, thời gian xuất khẩu, thủ tục xuất khẩu… Những vấn đề này thường phức tạp và gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận và tìm hiểu thị trường Nhật Mặc dù nhà nước đã có những biện pháp hỗ trợ thông tin cần thiết; tuy nhiên chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là với các doanh nghiệp vủa và nhỏ trong quá trình tìm hiểu thông tin thị trường Hiện nay, chủ yếu là các doanh nghiệp vẫn phải tự tìm hiểu, tự liên hệ với các khách hàng, đối tác nên nhiều khi thông tin tiếp cận được chưa mang tính chính xác, hiệu quả cao.
Hệ thống phân phối hàng hóa phức tạp
Như đã phân tích ở chương một, hệ thống phân phối hàng hóa ở Nhật khá phức tạp Sự tìm hiểu tường tận hoạt động cũng như lựa chọn được kênh phân phối hợp lý, hiệu quả luôn là những trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn thâm nhập vào thị trường này.
Công tác xúc tiến hỗ trợ, xúc tiến thương mại của Việt Nam
Công tác này chưa được tiến hành một cách mạnh mẽ và hiệu quả Các hoạt động cung cấp thông tin, trợ giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm trong nước và trên thị trường Nhật Bản, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam sang khảo sát thị trường Nhật …của các Bộ, ngành có liên quan chưa đáp ứng được các nhu cầu của doanh nghiệp Các hoạt động quảng bá thương hiệu Việt Nam của chính phủ và thương hiệu riêng của các doanh nghiệp chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 50 3.1 MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN, ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM 50 3.1.1 Mục tiêu phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ
Định hướng phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015 50 3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG
Trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam, vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn luôn được coi trọng, và đây là chiến lược hàng đầu trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Trong đó, phát triển ngành nghề nông thôn, đặc biệt là hoạt động sản xuất ở các làng nghề luôn được quan tâm đặc biệt Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vừa phê duyệt Đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giai đoạn 2010-2015 Theo đó, mục tiêu phấn đấu đến hết năm 2015, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ đạt mức 1,6 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm ngành mây, tre, lá đạt mức 530 triệu USD, chiếm tỷ trọng 33%; nhóm ngành gốm sứ đạt 480 triệu USD, chiếm tỷ trọng 30%. Đồng thời Bộ nông nghiệp và phát triển Nông thông cũng đưa ra các giải pháp thực hiện cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trên Nội dung được tóm gọn như sau:
Về nguyên liệu, tập trung xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu ổn định và bền vững, theo hướng ưu tiên phát triển các vùng chuyên canh tập trung kết hợp với các mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình, nhằm giải quyết hài hòa ổn định vùng nguyên liệu và tăng thu nhập cho các hộ gia đình ở vùng nông thôn.
Về chế biến, chú trọng phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống với công nghệ có vốn đầu tư thấp, thu hồi nhanh, tiết kiệm nguyên liệu và có khả năng tạo thêm nhiều việc làm.
Về nguồn nhân lực, cần đào tạo nguồn nhân lực nhằm phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị gia tăng cao, sản phẩm có tính sáng tạo Có cơ chế chính sách khuyến khích nghệ nhân đào tạo nghề và truyền nghề; chú trọng phát triển đội ngũ các thợ giỏi tại các trường, viện thiết kế.
Về xúc tiến thương mại, sẽ chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu, nâng cao chất lượng và hiệu quả tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại ở nước ngoài (nghiên cứu, khảo sát thị trường, tham gia hội chợ, giao dịch thương mại, tổ chức hội nghị khách hàng…), nhất là đối với các thị trường lớn và nhiều tiềm năng đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Nga…
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG
MỸ NGHỆ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
Một số giải pháp đối với doanh nghiệp
Để khắc phục những khó khăn tồn tại từng bước mở rộng và duy trì thị trường (nhất là thị trường Nhật Bản), tăng khả năng xuất khẩu, tạo được uy tín đối với bạn hàng nước ngoài và hoàn thành tốt các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra, các doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp sau
3.2.1.1 Nâng cao hiệu quả của việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu - thị trường đầy tiềm năng Nhật Bản
Do Nhật Bản là một thị trường hết sức cạnh tranh vì lượng hàng hóa nhập khẩu rất nhiều nên doanh nghiệp cần nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường để có thể thâm nhập thị trường một cách hiệu quả.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, nó cho phép doanh nghiệp đánh giá được quy mô và tiềm năng thị trường xuất khẩu và là cơ sở để lựa chọn thị trường xuất khẩu tốt nhất. Để làm tốt việc này, các doanh nghiệp cần phải tổ chức củng cố lại phòng điều tra nghiên cứu thị trường, tổng hợp tin tức và xử lý thông tin để đưa ra định hướng và quyết định kinh doanh đúng đắn, kịp thời, chính xác và hiệu quả cao.Trong việc nghiên cứu các thông tin thị trường, phương pháp nghiên cứu phổ biến hiện nay là nghiên cứu tài liệu Phương pháp này tuy đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của nhiều doanh nghiệp nhưng độ tin cậy không cao, hơn nữa thông tin lại không cập nhật Vì vậy, các doanh nghiệp nên chuyển hướng khai thác các nguồn thông tin khác bằng nhiều phương pháp hiện đại khác như: tìm kiếm thông tin qua mạng Internet, qua các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO. Để tăng cường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý:
- Nghiên cứu chính sách ngoại thương của Nhật Bản về tính ổn định, mức độ tác động, sự can thiệp của Chính phủ Nhật Bản đối với các vấn đề: chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách hỗ trợ
- Xác định và dự báo mức độ nhu cầu hàng hoá trên thị trường thế giới. Trong đó cần chú ý một số vấn đề sau đây:
+ Xác định tiềm năng của thị trường Nhật Bản về những mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang cần nhập khẩu qua số liệu thống kê, thăm dò ý kiến khách hàng, bán sản phẩm thử nghiệm.
+ Xác định yêu cầu cụ thể của thị trường Nhật Bản về các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam như: kiểu dáng, mẫu mã, tiêu chuẩn, chất lượng, những quy định về xuất nhập khẩu, phương thức bán hàng để có những thay đổi linh hoạt cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện thị trường Nhật Bản.
- Nghiên cứu và cập nhập những nhu cầu mới phát sinh của thị trường Nhật Bản để có thể mở rộng hoạt động kinh doanh trong nhiều lĩnh vực mới nếu được Nhà nước cho phép.
- Nghiên cứu tiềm năng bán hàng của các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường Nhật Bản Phân tích các kênh bán hàng, giá cả, mẫu mã, quảng cáo…để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh Từ đó, đưa ra những kết luận bổ ích cho việc xâm nhập thị trường Nhật Bản ngày càng dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nghiên cứu về sự biến động nhu cầu đối với hàng thủ công mỹ nghệ và những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động đó để có chính sách xuất khẩu phù hợp Thông thường có thể thấy các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động nhu cầu này bao gồm:
- Nhân tố có tính chu kỳ làm dung lượng thị trường biến đổi như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, tính chất thời vụ trong sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hoá.
- Nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường : sự tiến bộ của khoa học công nghệ, tập quán tiêu dùng, các hàng hoá thay thế…
- Nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường: sự đầu cơ, chiến tranh, hạn hán, bão lụt, các xung đột chính trị xã hội…
Ngoài ra, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu các yếu tố môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường kinh tế, môi trường văn hoá và môi trường cạnh tranh Do sản phẩm thủ công mỹ nghệ không thuộc nhóm các nhu yếu phẩm nên chỉ ở những nước có nền kinh tế tương đối phát triển như Nhật Bản, người tiêu dùng mới quan tâm đến các sản phẩm mang tính nghệ thuật trang trí Tuy nhiên, ở mỗi nước, đặc điểm về văn hoá, lối sống, thị hiếu người tiêu dùng lại rất khác nhau nên doanh nghiệp cần nghiên cứu, nắm bắt được đặc điểm của thị truờng Nhật Bản khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường rất
“kén chọn” này Ngoài yêu cầu về chất lượng, các doanh nghiệp sản xuất cần đặc biệt chú ý đến việc tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nét đặc trưng về văn hoá của người tiêu dùng Nhật Bản Chẳng hạn như đồ gốm sứ, người Nhật đánh giá cao đồ gốm sứ mang phong cách châu Á với màu trắng, hoa văn đơn giản, kiểu dáng cổ chứ không ưa chuộng màu sắc sặc sỡ, kiểu dáng hiện đại khoáng đạt. Đặc biệt, cần tìm hiểu rõ tình hình cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản để xem xét khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp Do năng lực cạnh tranh chưa cao, các doanh nghiệp Việt Nam có thể lựa chọn thâm nhập vào các thị trường ngách (niche market), là những thị trường, nhóm khách hàng hoặc sản phẩm có nhu cầu mà các doanh nghiệp lớn không để ý tới để khai thác triệt để, bán được nhiều hàng hơn, tăng lợi nhuận Sau đó, doanh nghiệp cần nghiên kỹ cứu môi trường bên trong để xem xét khả năng sản xuất sản phẩm của mình: khả năng cung ứng nguyên liệu, nguồn nhân công, khả năng tài chính Từ đó, xây dựng kế hoạch xuất khẩu sao cho tận dụng được tối đa các nguồn lực của mình.
3.2.1.2 Xây dựng chính sách giá như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu
Từ trước đến nay, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thường chỉ lựa chọn chính sách giá phù hợp với giá trên thị trường chứ chưa sử dụng nó như một công cụ cạnh tranh Điều này khiến cho giá xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào sự biến động của thị trường xuất khẩu, đôi khi không đem lại doanh thu và lợi nhuận tối ưu cho doanh nghiệp. Để xây dựng một chính sách giá hiệu quả, trước hết doanh nghiệp cần căn cứ vào mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, xâm nhập thị trường, tập trung xuất khẩu số lượng lớn hay mở rộng và chiếm lĩnh thị trường Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là xâm nhập thị trường, doanh nghiệp nên bán với giá hợp lý để hấp dẫn thu hút khách hàng Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là doanh thu và lợi nhuận, doanh nghiệp cần tính toán sao cho sản phẩm được bán với giá có lợi nhất để thu lợi nhuận tối ưu Đồng thời, đối với từng loại sản phẩm, doanh nghiệp cũng nên có chính sách giá thích hợp Với những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế, chúng ta có thể xuất khẩu với giá cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh Với những sản phẩm tương tự sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, giá xuất khẩu phải ngang bằng thậm chí thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh mới có thể tiêu thụ được do khả năng cạnh tranh của chúng ta kém hơn họ.
3.2.1.3 Lựa chọn tham gia hội chợ triển lãm quốc tế về hàng thủ công mỹ nghệ phù hợp
Trong các hình thức để thông tin tới khách hàng về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp như: quảng cáo, tham dự hội chợ triển lãm, xúc tiến bán hàng, quan hệ với công chúng các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Việt Nam thường lựa chọn hình thức tham gia hội chợ triển lãm Thông qua các kỳ hội chợ như vậy, các doanh nghiệp có thể thông tin kịp thời cho đông đảo khách hàng để họ nhận diện được sản phẩm của doanh nghiệp Đồng thời tìm hiểu sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, và nhất là ký kết các hợp đồng xuất khẩu, tìm bạn hàng mới Tuy nhiên, với điều kiện hạn chế về kinh phí, việc tham dự hội chợ triển lãm đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là rất tốn kém mà lại chỉ diễn ra trong thời gian ngắn
Doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nên tham gia các hội chợ quốc tế về hàng thủ công mỹ nghệ được tổ chức định kỳ hàng năm ở Nhật Đây là những hội chợ có uy tín, tập trung đầy đủ các nhà cung ứng hàng thủ công mỹ nghệ lớn và các nhà trung gian mua bán hàng có uy tín trên thế giới Đối với mỗi hội chợ triển lãm,doanh nghiệp cần xác định mục tiêu của mình khi tham gia và chuẩn bị thật chu đáo cho hội chợ triển lãm đó Trong thời buổi cạnh tranh cao, việc chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp Hiện nay lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, hơn nữa lại có nhiều người Nhật đang sống và làm việc tại Việt Nam nên việc tăng cường tiếp thị tại chỗ qua các cửa hàng bán lưu niệm tại những điểm du lịch hoặc cửa khẩu cũng là một biện pháp tốt tạo tiếng vang cho sản phẩm.
Một số giải pháp về phía các Ngành, các hiệp hội và các làng nghề thủ công mỹ nghệ
3.2.2.1 Thành lập các hiệp hội cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Ở nước ta, các doanh nghiệp, các đơn vị xuất khẩu chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh kém nên khi tham gia vào thị trường quốc tế thường bị động, phụ thuộc vào thị trường, thị phần nhỏ bé, không ổn định và thường bị ép giá Vì vậy, trong thời gian qua, để khắc phục yếu điểm trên, nhiều hiệp hội đã được thành lập, tập hợp các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành nghề, cùng mặt hàng như Hiệp hội hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, Hiệp hội các làng nghề…
Các hiệp hội này sẽ quy tụ các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong cả nước, các cơ sở sản xuất ở các địa phương, các làng nghề cùng tham gia Hiệp hội sẽ là nơi để các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau giải quyết những khó khăn vướng mắc, học hỏi lẫn nhau, đề ra chiến lược hoạt động chung, đồng thời tìm các biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam Từ đó, đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang thị trường nước ngoài, không qua trung gian để tăng thu lợi nhuận.
Thông qua hoạt động của mình, các hiệp hội này sẽ giúp đỡ các doanh nghiệp về vốn, tiếp cận nguồn thông tin nhanh, chính xác, đề ra chiến lược sản xuất, kinh doanh và chiến lược giá cho toàn ngành, tăng vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế Điều đáng tiếc là việc thành lập những hiệp hội cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu còn khá ít và chưa thực sự hiệu quả.
3.2.2.2 Giải pháp về thị trường
Cần có các hoạt động thiết thực như: tổ chức các đoàn khảo sát thị trường Nhật Bản, tổ chức giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Nhật thông qua các hội trợ triển lãm, mở các phòng giới thiệu sản phẩm, cung cấp các thông tin về thị trường Nhật Bản như các đặc điểm về kinh tế xã hội, quy định pháp luật, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan tại các thị trường này cho các doanh nghiệp Bộ thương mại Việt Nam đã tổ chức một số hội chợ và có một số hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ xuất khẩu sang Nhật Bản như tổ chức showroom trưng bày hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Tokyo, Nhật Bản; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hội chợ EXPO được tổ chức hàng năm, hỗ trợ 50% kin phí tham gia hội chợ cho các doanh nghiệp…Tuy vậy, các doanh nghiệp hiện nay đang rất cần những sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả hơn nữa từ phía các Bộ ngành liên quan trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản: a) Cung cấp kịp thời những thông tin liên quan đến hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang Nhật Bản
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì những thông tin về lĩnh vực thủ công mỹ nghệ tại thị trường Nhật Bản phải được xây dựng thành hệ thống, giúp các doanh nghiệp nắm bắt, phân tích và ra quyết định Hiện nay, tại thị trường Nhật Bản có rất nhiều các nhà xuất khẩu của các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaisia… tham gia trên thị trường này với mẫu mã vô cùng đa dạng phong phú và đang là đối thủ cạnh tranh manh mẽ của Việt Nam Để có thể điều hành tốt quá trình xuất khẩu đòi hỏi phải có thông tin về các thông số xuất khẩu, thị trường, đối thủ cạnh tranh nhưng hoạt động này ở Việt Nam vẫn chưa có hiệu quả, do vậy cần có hướng giải quyêt như sau:
+ Thiết lập một mạng thông tin cơ bản giữa cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế nhất là cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá như Tổng cục hải quan, Bộ thương mại, ngân hàng, Uỷ ban vật giá, Tổng cục thống kê các cơ quan Trung ương, địa phương, cơ quan Thường vụ tại Nhật Bản.
+ Thành lập trung tâm thông tin ngành thủ công mỹ nghệ với các chức năng thu thập, xử lý thông tin cho các doanh nghiệp về xu hướng mới, dự báo về cung cầu, các thông tin về mẫu mốt, kỹ thuật công nghiệp mới Tổ chức các hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn, đồng thời tổ chức những trung tâm thông tinvề tình hình sản xuất kinh doanh và tận dụng tối đa khả năng sản xuất và những cơ hội có được. b) Trợ giúp các công ty trong việc tìm đối tác xuất khẩu sang Nhật Bản
Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường Nhật Bản, các cơ quan, Bộ ngành còn có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tiếp cận với đối tác Nhật Bản nâng cao hiệu quả của công việc tham gia hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp cần có sẵn các danh mục đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm và ký kết hợp đồng.
Các cơ quan đại diện tại nước ngoài còn có nhiệm vụ tiếp cận thị trường, tìm kiếm khách hàng, đơn hàng sản xuất Đặc biệt, giúp các đơn vị trong ngành thủ công mỹ nghệ có điều kiện thâm nhập nhanh vào thị trường Nhật Bản Ngoài ra, cần liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản để giúp đỡ các doanh nghiệp trong vấn để xin giấy phép chất lượng.
3.2.2.3 Chính sách đối với nghệ nhân a) Có chính sách lâu dài về phương hướng đào tạo, duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề
Hiện nay số thợ thủ công lành nghề của chúng ta có thể nói là không thiếu, song số thợ có tay nghề giỏi, các nghệ nhân thì còn rất ít và trong tương lai con số này có nguy cơ giảm xuống đáng kể do tuổi tác và bỏ nghề.
Thực trạng trên là do việc hỗ trợ đào tạo truyền nghề cho lớp trẻ trong thời gian qua không được quan tâm thích đáng Chủ yếu việc đào tạo thợ trong các làng nghề truyền thống của ta từ trước đến nay vẫn được thực hiện theo lối truyền nghề trực tiếp, các thế hệ sau tự quan sát, học hỏi người đi trước Ưu điểm của loại hình dạy nghề này là kinh phí đào tạo thường thấp và trong thời gian học nghề người học viên vẫn tạo ra được sản phẩm Tuy nhiên nhược điểm là đa số học viên chỉ được học kỹ thuật làm ra sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà không tiếp thu được giá trị nghệ thuật, tính thẩm mỹ của từng sản phẩm Đồng thời người học cũng thường đi theo lối mòn của người đi trước nên khó có được sự sáng tạo trong qua trình sản xuất
Vì vậy các hiệp hội làng nghề cần có các biện pháp thiết thực, kịp thời để giúp đỡ các làng nghề truyền thống trong việc đào tạo tay nghề cho lớp trẻ cũng như giúp đỡ các nghệ nhân trong việc truyền nghề như mở một số trường mỹ thuật, hoặc các khoa mỹ thuật thực hành để đào tạo thợ thủ công theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu Bên cạnh đó, còn có sự hỗ trợ của Nhà nước từ Quỹ hỗ trợ việc làm để các cơ sở sản xuất tự tổ chức việc đào tạo nghề Khuyến khích các nghệ nhân giỏi đào tạo những nghệ nhân nối nghiệp mình bằng cách cấp bằng khen hoặc trao Huy chương “Vì sự nghiệp phát triển ngành nghề truyền thống” kèm theo một khoản tiền thưởng xứng đáng.
Mặt khác, Nhà nước cũng như các Bộ ngành, hiệp hội làng nghề cần có những chính sách hỗ trợ để nâng cao đời sống người thợ Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhiều người thợ thủ công mỹ nghệ có tay nghề giỏi bỏ việc làm để làm những việc khác có thu nhập cao hơn Số thợ còn lại chưa thật an tâm với nghề, vì theo họ, lao động của mình chưa được quan tâm đúng mức, mức thu nhập còn thấp và không nhận được những hỗ trợ của chính sách quốc gia Do vậy, cần có chính sách trợ giá cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ, giúp người lao động cải thiện đời sống để yên tâm bám nghề, nâng cao tay nghề Đồng thời các Bộ ngành và hiệp hội làng nghề cần phối hợp với các đơn vị xuất khẩu nghiên cứu hạn chế bớt các khâu trung gian để người thợ không bị cắt xén phần thu nhập của mình thì họ mới có thể tận tâm tận lực với công việc Có chính sách khuyến khích nâng đỡ các nghệ nhân, người có tay nghề cao về tinh thần và vật chất để họ có điều kiện sáng tác, chế tạo các sản phẩm mới nhằm bảo tồn và làm chuẩn mực cho lớp trẻ học tập và nâng cao kiến thức tay nghề
Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho các nghệ nhân, thợ giỏi ở các làng nghề có cơ hội gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, tiến hành tổ chức cho họ đi tham quan thực tế các Hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ Quốc tế, các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ lớn trên thế giới Để từ đó, các nghệ nhân Việt Nam có cơ hội tìm hiểu xu hướng cũng như thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. c) Tổ chức thi tay nghề, phong danh hiệu nghệ nhân theo định kỳ
Hàng năm nên tổ chức thi tay nghề, thi sáng tác mẫu, qua đó sẽ khuyến khích cổ vũ người thợ tự rèn luyện nâng cao tay nghề, làm cơ sở tôn vinh các nghệ nhân, thợ giỏi, vô hình sẽ tạo ra một không khí làm việc nỗ lực, nghiêm túc trong nghề.
Một số giải pháp về phía Nhà nước
Như chúng ta đã biết, doanh nghiệp dù kinh doanh trên bất cứ lĩnh vực nào cũng đều chịu sự định hướng, chỉ đạo giám sát của các cấp quản lý vĩ mô Sự chỉ đạo này có thể tích cực (thúc đẩy) cũng có thể tiêu cực (kìm hãm) đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Quản lý vĩ mô đối với hoạt động xuất nhập khẩu có thể thấy trên các mặt: hệ thống thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách tài chính, chính sách khuyến khích xuất khẩu Trong thời gian trước mắt, để khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, Nhà nước nên xem xét và giải quyết các vấn đề sau:
3.2.3.1 Hoàn thiện các chính sách về xuất nhập khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Mặc dù cơ chế mới làm cho vấn đề thủ tục xuất nhập khẩu đã thuận tiện và đơn giản hơn nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thủ tục phiền hà cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp: việc miễn thu lệ phí hải quan đối với hàng xuất khẩu vẫn chưa được thực hiện, doanh nghiệp xuất hàng vào ngày thứ bẩy, chủ nhật hoặc ngày lễ phải làm đơn xin làm thủ tục ngoài giờ gây khó khăn, tốn nhiều thời gian của doanh nghiệp Nhà nước cần nhanh chóng phối hợp với Tổng cục Hải quan để nhanh chóng giải quyết những vướng mắc trên, tạo hành lang thông thoáng, thuận tiện nhất có thể cho doanh nghiệp xuất khẩu
Nhiều đơn vị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn gặp khó khăn do qui định của Chính phủ về thời gian nhập nguyên liệu và xuất thành phẩm Theo qui định này, nếu trễ thời hạn 3 tháng, doanh nghiệp phải đóng thuế bằng 40% giá trị lô hàng nhập Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp thường mất một tuần để làm thủ tục lấy hàng và nhiều khi không thể tổ chức sản xuất ngay lập tức số nguyên liệu đã nhập Kết quả là doanh nghiệp chưa kịp xuất khẩu đã phải chịu thuế
Bên cạnh đó, dựa trên cơ sở văn bản Nhà nước cũng nên xem xét việc ưu tiên hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu áp dụng chế độ “luồng xanh” (miễn kiểm hoá, tự chịu trách nhiệm) bởi đây là nhóm hàng làm bằng phương pháp thủ công, chất lượng hàng rất dễ bị ảnh hưởng trong quá trình kiểm hoá Tổng cục Hải quan cũng cần có biện pháp thông thoáng khi kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu có uy tín, vì hàng thủ công mỹ nghệ rất cồng kềnh, nhưng giá trị thực ra không nhiều.
Về chính sách thuế, theo một số chuyên gia kinh tế thì biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vừa đơn giản, vừa phức tạp và mức thuế suất đối với một số mặt hàng chưa hợp lý Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được Nhà nước khuyến khích sản xuất và xuất khẩu nhưng vẫn áp dụng mức thuế 5% khi xuất khẩu là chưa hợp lý, Nhà nước cần xem xét giảm mức thuế này xuống còn 0%, đồng thời giải quyết nhanh chóng việc hoàn thuế nhập khẩu nguyên liệu cho nhà sản xuất
Ngoài ra, do đặc điểm nguyên liệu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường phải đi mua dưới dạng thu gom, số lượng rất nhỏ, giá trị thấp nhưng ngành thuế đòi hỏi một cách máy móc phải có bảng kê chi tiết nguyên liệu đầu vào Nếu không đơn giản hoá thì vô hình trung sẽ hợp thức hoá những tiêu cực cho một số thủ tục không cần thiết. a) Xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là hai nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quản kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu Do vậy, vấn đề quan trọng ở đây là Chính phủ cần có những biện pháp để ổn định giá cả hàng hóa, ổn định trị giá đồng nội tệ, phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển Bên cạnh đó,Chính phủ nên xem xét việc áp dụng chính sách tỷ giá cao đối với mặt hàng khuyến khích như hàng thủ công mỹ nghệ nhằm tăng thu lợi nhuận, khuyến khích các doanh nghiệp làm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. b) Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, tín dụng
Khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay là cơ chế và thanh toán, vay vốn qua ngân hàng Phần lớn cơ sở vật chất của nhiều doanh nghiệp đều nghèo nàn không thể thế chấp trong vay vốn để kinh doanh, dẫn đến chậm trễ trong thanh toán, thiệt hại cho doanh nghiệp và cả người lao động.
Vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng, tín dụng, thanh toán để tạo điều kiện dễ dàng cho cả phía Việt Nam lẫn bạn hàng nước ngoài giao dịch, thanh toán một cách nhanh chóng Đặc biệt, các ngân hàng cần mở rộng nhiều hình thức thanh toán ở nhiều địa điểm khác nhau, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp c) Tăng cường trợ cấp v à khuyến khích xuất khẩu
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ nằm trong danh sách nhóm hàng khuyến khích xuất khẩu và quan trọng của nước ta trong thời gian tới Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa xã hội lớn lao, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân ở vùng nông thôn Tuy nhiên hiện nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam lại kém ưu thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu do giá xuất khẩu cao hơn so với giá của các đối thủ cạnh tranh do giá thành sản xuất của chúng ta còn cao và trong thời gian ngắn chưa có biện pháp cắt giảm ngay Do đó, Nhà nước cần có chính sách trợ giá cho hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ để tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngoài hình thức trợ giá xuất khẩu, Chính phủ có thể khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thông qua hình thức thưởng xuất khẩu cho doanh nghiệp đạt được kim ngạch cao trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp xuất được sản phẩm mới hoặc doanh nghiệp thâm nhập được thị trường mới Số tiền thưởng xuất khẩu có thể được tính bằng một tỷ lệ % trên kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của doanh nghiệp hoặc là một số tiền nhất định được trích ra từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ xuất khẩu còn nhiều hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh nên rất cần đến sự giúp đỡ của Chính phủ, và dưới hình thức trực tiếp lẫn gián tiếp. d) Giảm bớt tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ nhằm mục đích giảm giá thành
Hàng thủ công mỹ nghệ thường là hàng cồng kềnh, giá trị không cao nên cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho mặt hàng này như:
- Hàng thủ công mỹ nghệ được vận chuyển từ nơi sản xuất đến các cảng khẩu trên tất cả các phương tiện đều được hỗ trợ 30 – 50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành Nhà nước hỗ trợ thông qua việc công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm.
- Giảm 50% theo biểu giá hiện hành cho tất cả các chi phí, lệ phí tại các cảng khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu (từ việc lưu kho lưu bãi, gửi hàng, lệ phí cảng khẩu, thủ tục phí )
- Giảm 50% theo biểu giá cước hiện nay tiền cước phí bưu phí là hàng mẫu hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài hoặc hàng mẫu tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài.