Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại.
Trang 1YẾU TỐ PHI LÝ TRONG SÁNG TÁC CỦA FRANZ KAFKA VÀ HARUKI MURAKAMI NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN ĐẠI, HẬU HIỆN ĐẠI
Ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 9 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÝ LUẬN VĂN HỌC
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Trang 2LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận án
công bốtrong bất kỳcông trình nào khác
trong luận án là trung thực Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được Tôi xin cam đoan đây là côngtrình nghiên cứu của riêng tôi, các sốliệu nêu
Nguyễn Thị Nga
Trang 3MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1 Tình hình nghiên cứu về vấn đề phi lý trong sáng tác của Franz Kafka 6
1.2 Tình hình nghiên cứu về yếu tố phi lý trong sáng tác của Haruki Murakami 17
Chương 2 YẾU TỐ PHI LÍ TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI - HẬU HIỆN ĐẠI 30
2.1 Khái lược về phi lí trong triết học và trong văn học 30
2.2 Khái lược về văn học hiện đại và hậu hiện đại 37
2.3 Về khái niệm “tâm thức hiện đại và hậu hiện đại” 46
2.4 Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka dưới góc nhìn văn học hiện đại 47
2.5 Yếu tố phi lý trong sáng tác của Haruki Murakami nhìn từ góc nhìn văn học hậu hiện đại 53
CHƯƠNG 3 SỰ DẤN THÂN TRONG THẾ GIỚI PHI LÝ CỦA FRANZ KAFKA VÀ SỰ KHÁM PHÁ CÁI TÔI BẢN THỂ CỦA MURAKAMI 69
3.1 Dấn thân trong thế giới phi lý qua sáng tác của Franz Kafka 69
3.2 Sự khám phá cái tôi bản thể trong thế giới phi lý của Murakami 86
CHƯƠNG 4 NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN ĐẶC TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA FRANZ KAFKA VÀ HARUKI MURAKAMI 113
4.1 Nghệ thuật mô tả cái vắng mặt của Franz Kafka 113
4.2 Thủ pháp nghịch dị - phi lý trong sáng tác của Franz Kafka 117
4.3 Thủ pháp phân mảnh trong sáng tác của Haruki Murakami 121
4.4 Thủ pháp huyền thoại hóa không gian - thời gian trong sáng tác của Haruki Murakami 130
KẾT LUẬN 144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
Trang 4MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
1.1 Cuộc chuyển đổi từ hệ hình tư duy tiền hiện đại sang hiện đại là một
bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đó là khi con người nhận ra trí năng
có thể bất lực trước đời sống và mọi sự lí giải của con người có nguy cơ chống lại đời sống Tư duy duy lí cùng với triết học tự nhiên đã tỏ ra bất lực trong việc trả lời những vấn đề của con người khi bước vào thời kỳ hiện đại trong đó có vấn
đề phi lý Triết học tự nhiên sau rất nhiều thành tựu đã từng bước nhường chỗ cho triết học nhân sinh
Franz Kafka là nhà văn lớn mở đầu và tiêu biểu cho dòng văn học phi lý, người mở đường cho chủ nghĩa hiện đại trong văn học.Từng bước trong hành trình khám phá cái phi lý trong tác phẩm của Đôxtôiepxki, qua các sáng tác của
mình, Kafka đã trở thành người đưa cái phi lý làm đối tượng nhận thức của văn học Nếu cái phi lý trong triết học đã được các triết gia khẳng định qua những
khái niệm và phạm trù trừu tượng thì cái phi lý trong văn học lại được Kafka cảm nhận bằng những thân phận vô vọng của các nhân vật, với những nỗ lực đối đầu với những bất khả tri về thế giới
1.2 Nếu đầu thế kỷ XX trong văn học thế giới có Franz Kafka là người
mở đường cho chủ nghĩa hiện đại, thì đầu thế kỷ XXI, Haruki Murakami đã xuất hiện như một nhà văn tiêu biểu của văn học hậu hiện đại Từ lâu, Haruki Muakami đã trở thành một thần tượng văn hóa đại chúng, cách này hay cách khác, ông chính là hình vóc của văn chương thế kỷ 21, một hiện tượng của văn
học Nhật Bản
Con người trong thế giới nghệ thuật của Murakami luôn đối diện với sự
cô đơn, sự hoài nghi tuyệt vọng, bị chi phối bởi bản năng sống và bản năng chết trong hành trình tìm kiếm bản ngã đích thực của mình trước nhiều khả thể Nếu con người trong sáng tác của Kafka cô đơn lạc lõng trước những mê cung quyền lực vô hình, họ bị cuốn vào guồng quay chóng mặt của xã hội hiện
Trang 5đại dần dần đánh mất bản sắc của mình trở thành cái bóng mờ trong sự vật lộn của kiếp nhân sinh; họ lo âu, tuyệt vọng và bất lực khi sống trong một thế giới phi lí thì con người trong sáng tác Murakami luôn cố đi tìm cái bản thể nguyên
sơ, toàn vẹn trong nỗi cô đơn vô tận giữa không gian và thời gian Họ luôn khao khát tìm kiếm câu trả lời cho cái tôi đích thực, cái bản ngã của chính con người mình trong một thế giới hậu hiện đại đầy rẫy sự phi lý Đó chính là cuộc săn đuổi, khám phá “con người bên trong con người”, những mặt còn khuất tối, mặt thật của chính mình trong thế giới tiềm thức, vô thức của con người
1.3 Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Franz Kafka và Haruki
Murakami như những đối tượng riêng biệt, nhưng nghiên cứu so sánh thế giới của hai nhà văn để tìm ra những tương đồng và khác biệt thì đến nay chưa có ai
thực hiện một các có hệ thống Việc chúng tôi lựa chọn Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại làm đối tượng nghiên cứu sẽ mở ra khả năng khám phá những đặc điểm của
chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn học, qua đó cho ta thấy sự vận động của tư duy nghệ thuật từ hiện đại sang hậu hiện đại, những tiếp biến và sáng tạo của quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật của một nhà văn tiêu biểu của văn học Phương Tây và phương Đông
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu so sánh yếu tố phi lý trong sáng tác của hai nhà văn đại diện cho hai hệ hình tư duy nghệ thuật này, một mặt sẽ cho thấy cái nhìn đặc thù của từng nghệ sỹ trong những giới hạn của tinh thần hiện đại, hậu hiện đại mà họ đại diện; mặt khác chỉ ra những yếu tố mang tính quá trình của các kiểu tư duy nghệ thuật trong lịch sử nhân loại
2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu là “Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại”
Trang 6Với mục đích tìm hiểu Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka và Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại”, chúng tôi xác định phạm vi
nghiên cứu đề tài là các sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami được
dịch ở Việt Nam Về Sáng tác của Kafka, bao gồm: Franz kafka - Tuyển tập tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2003; trong đó chúng tôi chú trọng nhất vào các tác phẩm: Vụ án ( Phùng Văn Tửu dịch); Lâu đài ( Trương Đăng Dung dịch), Hóa thân ( Đức Tài dịch)
Về sáng tác của Murakami, gồm có: Rừng Na-uy; Kafka bên bờ biển; Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời; Người tình Sputnik; Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Ngầm; Nhảy nhảy nhảy; IQ84; Biên niên ký chim vặn dây cót; Những người đàn ông không có đàn bà, Tôi nói gì khi chạy bộ
Khảo sát toàn bộ các tác phẩm trên, cho phép chúng tôi chỉ ra Yếu tố phi
lý trong tiểu thuyết của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại đồng thời qua đó làm nổi bật được sự tương đồng và khác biệt
trong tư duy nghệ thuật của 2 nhà văn này
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về vấn đề “Yếu tố phi lý trong tiểu thuyết của Franz Kafka và Haruki Murakami nhìn từ tâm thức hiện đại, hậu hiện đại” để tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa tư duy nghệ thuật
của hai nhà văn tiêu biểu của văn học hiện đại sang văn học hậu hiện đại và cũng
là sự tiếp biến giữa hai nền tư tưởng văn học phương Tây và phương Đông
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:
- Trình bày tổng quan chung về vấn đề nghiên cứu
- Yếu tố phi lý trong triết học và trong văn học
- Sự dấn thân trong thế giới phi lý qua sáng tác của F Kafka và sự khám phá cái tôi bản thể trong thế giới phi lý qua sáng tác của Haruki Murakami
Trang 7- Những phương thức thể hiện đặc trưng trong sáng tác của F Kafka và H Murakami
4 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án đã vận dụng triết học hiện sinh, lý thuyết văn học hiện đại, hậu hiện đại, lý thuyết văn học so sánh Bên cạnh đó, những vấn đề mà chúng tôi đặt
ra trong luận án này còn được nghiên cứu theo lý thuyết thi pháp học, lý thuyết
về cấu trúc, lý thuyết hệ hình, lý thuyết về type và motif, lý thuyết biểu tượng
Để thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó căn bản nhất là các phương pháp sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đặt các tác phẩm của hai tác giả Franz Kafka và Haruki Murakami trong tương quan xem xét để chỉ ra sự khác biệt của yếu tố phi lý trong sáng tác của họ
Phương thức phản ánh nghệ thuật của 2 nhà văn này thông qua những đặc điểm của mỗi nhà văn trong cái nhìn về thế giới của họ
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích chi tiết để đánh giá về những biểu hiện của yếu tố phi lý được hai tác giả thể hiện
5 Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đưa ra một cách tiếp cận về phương diện nội dung tác phẩm của Franz Kafka và Haruki Murakami: cách tiếp cận dựa trên Yếu tố phi lí trong sáng tác của trong sáng tác của hai nhà văn tiêu biểu cho văn học hiện đại và hậu hiện đại
- Luận án hệ thống hóa và so sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong thế giới nghệ thuật của hai nhà văn, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa hai nền văn hóa Đông - Tây Trên cơ sở đó, làm nổi rõ tài năng nghệ thuật độc đáo của Franz Kafka và Haruki Murakami
- Luận án chỉ ra sự vận động trong tư duy tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại Qua đó, cho thấy sự kế thừa và cách tân truyền thống trong sáng tác của hai nhà văn tiêu biểu cho hai nền văn hóa Đông - Tây
Trang 86 Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, chúng tôi dự kiến triển khai luận án thành 4 chương với những nội dung chính yếu sau:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Chương 2: Yếu tố phi lý trong văn học hiện đại - hậu hiện đại
Chương 3: Sự dấn thân trong thế giới phi lý qua sáng tác của F.Kaffka và
sự khám phá cái tôi bản thể trong thế giới phi lý qua sáng tác của Haruki Murakami
Chương 4: Những phương thức thể hiện đặc trưng trong sáng tác của F Kafka và H Murakami
Trang 9CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu về vấn đề phi lý trong sáng tác của Franz Kafka
1.1.1 Tình hình nghiên cứu về vấn đề phi lý trong sáng tác của Franz Kafka trên Thế giới
Từng được suy tôn là “Bậc thầy của văn học hiện đại chủ nghĩa” và là người
"làm thay đổi diện mạo của tiểu thuyết đầu thế kỷ XX", nên Franz Kafka được xem như một trong những tên tuổi kỳ vĩ trên văn đàn quốc tế, và dĩ nhiên các tác phẩm của ông đã trở thành đối tượng nghiên cứu cho rất nhiều công trình khoa học ở trên thế giới
Và cho đến thời điểm hiện tại, sáng tác của Kafka vẫn có khả năng mở nhiều ý tưởng cho các nhà phê bình, nghiên cứu trên toàn cầu
Nhận xét về giá trị của các tác phẩm của Kafka, tháng 6/1924, trên báo Nhân dân của Tiệp Khắc, tác giả Mileena Jesenka đã viết: “Những cuốn sách của ông đã để
lại một ấn tượng về thế giới hoàn chỉnh đến nỗi người ta không thể thêm vào đó một chữ nào" [66, 645] và “Ông đã viết những cuốn sách có ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi Chứng thực, trần trụi và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi có tính biểu tượng, chúng đầy sự khô cằn và là cảm quan của một người nhìn thế giới một cách rõ ràng, qua đây đã cho ta thấy được tính thời sự cũng như sức ảnh hưởng của Kafka đối với cuộc đấu tranh chống lại những thế lực tàn bạo đang tấn công và hủy hoại con người [66, 647]
Mặc dầu chỉ khám phá tác phẩm của Kafka trên phương diện nội dung những những nhận xét này rất đáng quý nhằm khẳng định được giá trị to lớn của những tác phẩm mà Kafka để lại cho nhân loại
Vốn dĩ là người chẳng màng đến hư danh, trước khi mất Franz Kafka để lại chúc thư ủy thác cho bạn mình là Max Brod đốt tất cả những sáng tác mà ông chưa hoàn tất và ưng ý; nhưng may mắn thay Max Brod đã không giữ lời hứa, sau khi
Trang 10Kafka qua đời, những sáng tác của ông đã được in thành sách cũng là lúc thế chiến thứ hai nổ ra, và Kafka được xem như “một phát hiện” đối với thế giới phương Tây,
sự tiên cảm của ông về thế giới giờ đây không còn viễn vông, huyền thoại nữa Trải qua những biến động dữ dội của lịch sử cũng như đối diện với những mất mát đau thương, con người chợt bừng ngộ nhận ra rằng: “Thế giới đã bắt đầu giống như thế giới của Kafka” đúng như lời Michel Remon đã nói: "Thế giới bắt đầu gặp gỡ F.Kafka và định ngữ K rời bỏ lĩnh vực văn chương để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày" [73, 907] Cũng từ đây, lịch sử nghiên cứu về Franz Kafka chính thức được hình thành, giới phê bình phương Tây đã dấy lên một làn sóng nghiên cứu về Kafka
Thế chiến thứ hai khép lại, Kafka vẫn được xem như là một hiện tượng độc đáo với thế giới phương Tây bởi sự tiên cảm của Kafka đối với số phận bi đát của con người Người ta đau đớn hiểu ra rằng cái phi lý mà Kafka tiên cảm trước đó cũng như những nỗi đau mà ông nếm trải trong cuộc đời không còn là tiểu thuyết nữa mà
là sự thật về cuộc đời Những tác phẩm của ông tiếp tục trở thành đối tượng nghiên
cứu cho hàng nghìn tác giả Viết về tài năng của Kafka, trong công trình "Viết về nghệ thuật", Berton Brecht - nhà viết kịch đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng của Đức
đã có những nhận định rất chính xác và thỏa đáng rằng: " Người ta tìm thấy ở ông ta, đằng sau những hóa trang rất kỳ cục, những linh cảm về những điều mà vào thời kỳ những cuốn sách của ông xuất hiện thường chỉ có một vài người nhận thấy được mà thôi” [74, 908]
Cùng nội dung đó, trong tập Tiểu luận bàn về nghệ thuật tiểu thuyết: Thời đại nghi ngờ, Nathalie Saraute trong bài:"Chân dung người lạ mặt" đã cho rằng Kafka
là thiên tài của thời đại chúng ta, là tiên tri báo trước kỉ nguyên của "con người phi lý", "con người không có sự sống"
Không chỉ các nhà phê bình phương Tây, mà một vài nhà phê bình Mác xít cũng đánh giá rất cao về Kafka, họ đã xem ông như thần tượng của thời đại
Tại đại hội Quốc tế Liblice, Kafka được đánh giá rất cao với vai trò là một bậc tiền bối, là người mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại: “cùng với M.Proust, J.Joyce,
Trang 11Kafka là người đã khai tử cho tiểu thuyết truyền thống của thế kỷ XIX - tiểu sử nhân vật, tính cách, hoàn cảnh, với những hoạt động xã hội và thời gian ba chiều và mở đầu cho một thời đại tiểu thuyết mới” [74, 938]
Tiếp tục quan điểm của các nhà lý luận trên, trong "Trò chuyện về nghệ thuật kết cấu", tiểu thuyết gia Milan Kundera khi nói về lối kể chuyện bằng chiêm bao chủ
nghĩa hiện đại đã viết "Các tiểu thuyết của Kafka là sự hợp nhất không có kẽ hở giữa giấc mơ và thực tại và là cái nhìn sáng suốt về thế giới hiện đại, sự tưởng tượng bị ngủ quên trong thế kỷ XIX được Kafka thình lình đánh thức dậy, và ông đã thành công trong việc mà những nhà siêu thực sau ông đã cố nhưng không thực sự làm được: trộn lẫn giữa cái mơ và cái thực” [73,105]
Nhận định trên của M.Kundera đã chứng tỏ tác giả đã phát hiện ra được đặc trưng bản chất của thế giới nghệ thuật của Kafka là sự kết hợp tuyệt vời giữa cái siêu thực và cái bình thường trên cơ sở của một trí tưởng tượng phong phú, qua đó đánh giá Kafka là một nhà văn đã mang đến những khám phá vĩ đại, mở ra một hướng đi mới cho lịch sử tiểu thuyết thế giới
A.Karelski trong bài viết "Về sáng tác của Kafka" đã đánh giá rất cao về ông,
nhìn thấy "Hiệu quả đặc biệt của Kafka là tất cả đều rõ ràng, không có gì khó hiểu",
và “tính phi logic, tính rời rạc, tính phi lý quá quắt, đầy phẫn khích của nội dung chính là cuộc cách mạng thầm lặng của Kafka” [71,101]
Tiếp theo, Nathalie Sarraute trong tập tiểu luận Thời đại nghi ngờ đã cho rằng:
“Kafka là thiên tài của thời đại chúng ta K là nhà tiên tri báo trước kỷ nguyên của con người phi lý, con người không có sự sống Cũng từ đây, Sarraute đã khích lệ
“con người phải theo gót Kafka đi tìm những miền chưa khám phá để phát hiện con người phi lý trong thời đại ngày nay”…
Trong Tiểu thuyết hiện đại, Dorothy Brewster&Min Angus Burrell đã
đưa ra những lý giải kỳ lạ về Kafka: “Đó là một thế giới có hàng rào vây kín, thiếu không khí, âm thầm, nham hiểm Những truyện của Kafka đều nghẹt thở
Trang 12và vô lý như những cơn ác mộng Đôi khi chúng có giọng hài hước bí hiểm của mộng mị [16, 215]
Đánh giá tổng quan về thế giới nghệ thuật của Kafka, nhà lí luận người Áo E.Fischer trong một bài viết về Kafka đã phát biểu: “Toàn bộ các sáng tác của Kafka
là “hình thức hợp nhất của hai yếu tố đối nghịch: Chủ nghĩa cực đoan của thơ trữ tình
và phong cách phóng sự khách quan” [40, 85] và “Không có nhà văn nào thể hiện cái tiêu cực này, sự tha hóa tổng thể của con người bằng ngôn từ một cách sinh động tương tự Tôi cho rằng cái cảm xúc mãnh liệt này, độ chính xác này về sự khủng khiếp liên quan chặt chẽ nhất với sự quá tải của các tiêu cực tính chất một chiều, với chủ nghĩa chủ quan” [40, 185]
Với nhận định này của E.Fischer, chứng tỏ tác giả đã nhìn thấy trong thế giới nghệ thuật của Kafka tính chất tiêu cực, sự tha hóa của con người, đồng thời khẳng định khả năng tái hiện hiện thực của nhà văn bằng tiếng nói nghệ thuật độc đáo
Nhắc đến các công trình nghiên cứu về Kafka không thể không kể đến E.M.Meletinxki, người đã dành rất nhiều công sức và tâm huyết nghiên cứu về sáng
tác của ông qua tác phẩm Thi pháp của huyền thoại Đây là một công trình nghiên
cứu rất đồ sộ đã chứng tỏ M.Meletinxki đã có một cái nhìn thấu suốt về thế giới huyền thoại của Kafka trên rất nhiều phương diện Ông cho rằng: “Thế giới nghệ thuật của nhà văn là “sự biến cải siêu tưởng thế giới đời thường” [91, 472]
Ngoài những công trình nghiên cứu đã nêu trên, cũng cần phải kể đến các nhà nghiên cứu Việt Nam ở nước ngoài như: Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Thị Hoài, Jennifer Tran, Khả Tri.v.v đã dành khá nhiều công sức và tâm huyết của mình để đọc, nghiên cứu và dịch các công trình nghiên cứu về Kafka sang Tiếng Việt
Riêng đối với Hoàng Ngọc Tuấn, ông đã xem Kafka như một người rất quan trọng trong việc đổi mới lịch sử tiểu thuyết; còn tác giả Nguyễn Quốc Trụ lại tìm thấy điểm gặp gỡ giữa Kafka và Chékhov trong việc cùng khám phá những bí mật của thế giới - những bí mật nằm trong thế giới của mỗi con người
Trang 13Với Jennifer Tran lại xuất phát từ cái nhìn thần học, tôn giáo đã khẳng định tác phẩm của Kafka là hành động của một niềm tin của con người Do Thái v.v
Như vậy, qua sự tổng hợp các ý kiến xung quanh vấn đề nghiên cứu về Franz Kafka ở trên thế giới, trong phạm vi khảo sát của chúng tôi đã nhận thấy: Các công trình nghiên cứu về Kafka là tương đối nhiều, mỗi bài viết thể hiện một quan điểm và được nhìn dưới một góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung chủ yếu khai thác các tác phẩm của Kafka dưới góc độ: giá trị phản ánh hiện thực, và tính chất huyền thoại Một số bài viết đã đề cập đến vấn đề phi lý nhưng mới chỉ dừng lại ở việc điểm qua chứ chưa đi vào phân tích một cách cụ thể và có hệ thống Mặc dầu vậy, những công trình nghiên cứu trên về Kafka đều góp thêm những căn cứ quý báu để khẳng định tầm vóc của Kafka trong lịch sử văn học, đồng thời gợi mở hướng tiếp cận cho chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về các sáng tác của nhà văn tiêu biểu này
1.1.2 Tình hình nghiên cứu sáng tác của Franz Kafka ở Việt Nam
Không chỉ nổi tiếng trên thế giới mà ngay cả ở Việt Nam, Franz Kafka cũng thu hút được sự quan tâm đông đảo những nhà phê bình, nghiên cứu
Tính đến nay, sẽ là rất khó khăn cho việc tổng kết và đưa ra con số cụ thể bao nhiêu bài viết và công trình lựa chọn sáng tác của Franz Kafka làm đối tượng nghiên cứu Đứng trước sự phong phú của nguồn tư liệu khảo sát, chúng tôi điểm lại những ý kiến có đề cập ít nhiều đến vấn đề phi lý và có tính gợi mở trong việc chỉ ra những biểu hiện cụ thể của yếu tố phi lý trong sáng tác của nhà văn Kafka
Ở Việt Nam, sáng tác của Kafka được giới thiệu sớm nhất trong đời sống văn học miền Nam khi chiến tranh đang diễn ra ác liệt Trải qua gần 60 năm, có thể thấy dấu ấn của Kafka có những lúc đậm nhạt khác nhau do sự chi phối của điều kiện tiếp nhận nhưng sáng tác của ông vẫn không ngừng hiện diện trong đời sống văn học Việt Nam, qua dịch thuật, giảng dạy, nghiên cứu - phê bình và qua sáng tạo văn học
Thời gian đầu Kafka được nhắc rải rác ở các công trình nghiên cứu của các nhà lý luận, phê bình ở miền Nam trước năm 1975 Khởi đầu cho sự tiếp nhận sáng tác của Kafka có thể kể đến quan điểm của tác giả Trần Triệu Luật khi giới thiệu với
Trang 14bạn đọc cuốn: “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học” của Phạm Công Thiện, Trần Triệu Luật đã thể hiện thái độ không đồng tình với Phạm Công Thiện và đặt câu hỏi:
“Tại sao lại trình bày Kafka như ý thức cô đơn, cô lập trong khi Huguenin lại như là ý thức của sự khắc khoải mà không thể trái ngược lại” [84, 57]
Tổng kết tình hình dịch thuật, giới thiệu văn học phương Tây hiện đại tại miền Nam việt Nam trước 1975, Hoàng Nhân trong “Nhận định văn học phương Tây hiện đại” cho rằng việc truyền bá sáng tác của Kafka cùng các nhà văn phương Tây hiện đại là vì “một số thiên lệch với dụng ý chính trị, thương mại về các trào lưu phản động, suy đồi nhằm phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới” [115, 16]
Bình luận về cách tiếp nhận “Toà lâu đài” của Doãn Quốc Sỹ trong “Văn học và tiểu thuyết”, Lê Đình Kỵ đánh giá “cách giải thích của Doãn Quốc Sỹ không phải hoàn toàn không có cơ sở, nhưng nó quá hẹp, quá riêng tư khi gắn liền
nó với sự cách biệt tình phụ tử lại vừa quá rộng, quá xa khi muốn biến lâu đài kia thành “thượng đế” [69, 133]
Không chỉ tiếp nhận sáng tác của Kafka ở miền Nam mà sáng tác của ông còn được tiếp nhận ở Miền Bắc, đầu tiên có thể kể đến công trình nghiên cứu tác giả Đỗ
Đức Hiểu Với chuyên luận "Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa" Đổ Đức Hiểu
một mặt thừa nhận vai trò tiên phong của F.Kafka đối với văn học hiện sinh cũng như những yếu tố hiện thực, có tính chất tố cáo một chế độ quan liêu, một chế độ nhà nước nghẹt thở đầy áp bức Mặt khác ông phê phán những yếu tố siêu hình về thân phận con người tràn ngập trong tác phẩm, lấn át cả một số yếu tố hiện thực Ông viết:
“sáng tác của Kafka có tính chất tố cáo một chế độ quan liêu khủng khiếp, một chế độ nhà nước nghẹt thở, đầy áp bức và ngạo nghễ”, và “một sự phản kháng tiêu cực mơ
hồ, bất lực và tuyệt vọng, không thể là một tấm gương cách mạng” [56, 86]
Hoàng Trinh trong công trình "Phương Tây - Văn học và con người" đã
nghiên cứu một số nhà văn phương Tây trước vấn đề "thân phận con người" và Kafka là tác giả được nói tới đầu tiên Trong khi phân tích để chỉ ra những đặc trưng của Kafka với việc phản ánh hiện thực, tác giả cho rằng những tư liệu rút ra từ hiện
Trang 15thực khi vào tác phẩm của Kafka "đã biến dạng thành một thế giới mờ ảo", quái
dị, bay lơ lửng ở trên những cơ sở thực tế của nó, thực đã pha trộn với mộng và nhiều lúc bị mộng lấn át
Bước sang thời kỳ đổi mới, nghiên cứu về Kafka được mở rộng hơn với
sự đóng góp tích cực của Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Lê Huy Bắc, Phùng Văn Tửu, Đỗ Ngoạn, Nguyễn Văn Dân, Với những chuẩn thẩm mỹ mới, việc nhìn nhận Kafka đã có chiều hướng tích cực và thỏa đáng hơn trước, về cơ bản những vấn đề nghệ thuật và nội dung trong sáng tác của Franz Kafka được nghiên cứu một cách chuyên sâu và chủ yếu tập trung xoay quanh ba mảng đề tài: tính huyền thoại, tính phi lý và sự tha hóa
Nhắc tới những công trình nghiên cứu về Franz Kafka, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào - người từng được xem là một “chuyên gia về Kafka” ở Việt Nam, đã dành rất nhiều thời gian, tâm huyết của của mình để nghiên cứu về tác
giả mà bà rất yêu quý Trong bài viết “Franz Kafka”, in trong Franz Kafka - tuyển tập tác phẩm, tác giả Đặng Anh Đào đã có một cái nhìn tương đối toàn
diện về nội dung xã hội và thân phận con người trong sáng tác của Kafka Tác giả viết “Cho đến nửa sau thế kỷ XX, bóng dáng Kafka vẫn trùm xuống thế giới hiện đại, đặc biệt khi người ta có những thể nghiệm khủng khiếp về cái phi lý của cuộc đời” [74, 936]
Mặc dầu chưa đặt ra vấn đề mô tả và đánh giá tổng quan tác phẩm của
Kafka, nhưng qua việc khảo sát lần lượt các tác phẩm của ông như: Biến dạng (Hóa thân), Vụ án và Nước Mỹ, Đặng Anh Đào đã cho ta thấy được bức tranh
xã hội cũng như thân phận con người cùng với những điều phi lý mà họ đã trải nghiệm Bên cạnh đó, tác giả đã cung cấp một số thông tin quan trọng về một số thủ pháp nghệ thuật mang tính đột phá của Kafka về thể loại tiểu thuyết và đã phân tích nó một cách chi tiết, kỹ lưỡng
Với cái nhìn khái quát, đa diện, trong bài Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung đã có những nhận định sắc sảo về
Trang 16Kafka - người mở đường cho văn học hiện đại: “Franz Kafka là nhà văn lớn đầu thế kỷ XX đã cảm nhận sâu sắc về trạng thái tồn tại của con người hiện đại, và
đã thể hiện bản chất thời đại của mình một cách độc đáo, mở ra những khả năng mới cho tư duy tiểu thuyết Các tác phẩm của Franz Kafka là những lý giải những ấn tượng nghiệt ngã về thế giới phi lý, về sự tha hóa của con người trong vòng vây của những thiết chế quyền lực vô hình” [74, 939] Với công trình nghiên cứu này, tác giả Trương Đăng Dung đã tinh tế khi phát hiện ra: Đối tượng trung tâm của thế giới nghệ thuật của Kafka là sự tha hóa, nỗi lo âu, sự lưu đày
và cái chết Trong thế giới của Kafka, con người thật cô đơn xa lạ giữa một thế giới đầy rẫy sự mờ ám, phi lý Sau khi phân tích một cách thấu đáo về các nhân
vật trong tác phẩm Nước Mĩ, Hóa thân, Lâu đài, Trương Đăng Dung đã đi đến
nhận định: “Franz Kafka đã thấy rõ được nguyên nhân bị “lưu đày” của con người trong thế giới hiện đại: trong mê cung của những thiết chế mờ ám và phi
lý được bày đặt ra như những cái bẫy, con người bị tước mất khả năng tìm hiểu
và thiết lập quan hệ với thế giới một cách bình thường, vì con người không phải
là chủ mà là nạn nhân của thế giới!” [74, 944]
Nghiên cứu về tác phẩm của Kafka không thể không nhắc tới cuốn: Nghệ thuật Phran-dơ Kafka của tác giả Lê Huy Bắc Trong công trình này tác giả đã
tập hợp một cách hệ thống những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của ngòi bút Kafka cũng như khẳng định vị trí của Kafka đối với nền văn học hiện đại “Kafka
là người khai sinh ra thi pháp mới của kỷ nguyên hiện đại” [74, 974], và “Mảng hiện thực được Kafka khai sinh này là mảng hư ảo của nhân vật vắng mặt, bao gồm: kẻ độc tài, kẻ quan liêu, kẻ hối lộ tham nhũng Có thể các nhân vật này đã từng được khắc họa trong tác phẩm của những nhà văn trước Kafka nhưng không giống với bất kỳ ai trước đó lẫn sau này Kafka không tái dựng cụ thể trong tác phẩm, ngay cả cái tên chúng cũng không có, nhưng chỉ cần qua thái độ
và cảm xúc tâm lý của các nhân vật có liên quan đến họ thì người đọc sẽ thấy ngay sức mạnh quyền uy của họ lớn đến nhường nào [11, 124]
Trang 17Bàn về cái phi lý trong sáng tác của Kafka, hai tác giả Nguyễn Quốc Trịnh
và Đoàn Thị Việt Nga cũng đã có những phát hiện rất đáng quý Trong tiểu luận
“Cái nghịch dị của hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của Kafka” tác giả
Nguyễn Quốc Trịnh đã chỉ ra rằng: F.Kafka xây dựng nên những hình tượng nhân vật chứa đựng những ám ảnh về thân phận con người cô đơn, lạc loài phải sống kiếp lưu đày ngay trong không gian sống của mình Số phận nhân vật chứa đựng những cái phi lý, cái không thể giải quyết bằng lý trí Cũng với tinh thần trên, tác giả Đoàn Thị Việt Nga đã phát biểu rằng: “Franz Kafka là một trong những nhà văn hiện đại xuất sắc nhất của thế kỷ XX, và là một hiện tượng mà sự lặp lại sẽ trở thành vô vị Sáng tác của Kafka nói chung, truyện ngắn nói riêng thể hiện sự thay đổi về phương thức phản ánh hiện thực, đó là tiếp cận hiện thực theo hướng huyền thoại hóa, xây dựng một thế giới nghệ thuật đầy phi lý” [111, 1]
Trong rất nhiều công trình nghiên cứu về Kafka, chúng tôi rất chú ý đến
bài viết Kafka với cuộc chiến chống phi lý của tác giả Nguyễn Văn Dân đăng
trong cuốn: Franz Kafka - Tuyển tập tác phẩm, xuất bản năm 2003 Ở bài viết
này, Nguyễn Văn Dân đã tập trung chủ yếu vào việc phân tích tính chất phi lý trong các tác phẩm của Kafka xét dưới góc độ xã hội và đi đến khẳng định cái mới của Kafka trong bối cảnh đương thời là việc nhà văn đã khai phá cái phi lý
của cuộc đời Ông viết: “Ở ông, cái phi lý trở thành một đối tượng để nhận thức,
nó không phải đơn thuần chỉ là một hiện tượng xã hội, nó liên quan thậm chí chi phối vận mệnh của con người, mà muốn tồn tại con người phải luôn luôn đấu tranh để loại trừ nó Chính vì vậy cái phi lý của Kafka là cái phi lý bi kịch Khi thì cái phi lý ấy nằm ngay trong bản chất sinh tồn, điều này ta có thể nghiệm
thấy trong các truyện ngắn Hang ổ, Vô địch, Nhịn ăn, Hóa thân” và : “Trong
tác phẩm của mình, Kafka dường như cũng chứng minh rằng bản chất của sự sinh tồn chính là nỗi bất an, chí ít là sự sinh tồn của con người đầu thế kỷ XX Nỗi bất an đeo đẳng con người mà suốt đời con người không thể nào thoát được
Có nỗi bất an nào ám ảnh sâu sắc hơn nỗi bất an của con vật đào hang trong
Trang 18truyện ngắn Hang ổ? Có nỗi bất an nào mang tính bi kịch hơn nỗi bất an của Joef K trong Vụ án? Có nỗi bất an nào mang tính khám phá xã hội hơn nỗi bất
an của K trong Lâu đài? và, cùng với đề tài về cái phi lý, việc đưa nỗi bất an
vào văn học của Kafka đã mở đường cho một số trào lưu văn học mới sau này: văn học hiện sinh chủ nghĩa và kịch phi lý” [74, 8]
Như vậy, với việc phân tích một cách cụ thể những biểu hiện về cái phi lý trong một số tác phẩm của Kafka, Nguyễn Văn Dân đã có cái nhìn tổng quan về thế giới nghệ thuật của nhà văn xuất sắc này, đồng thời đã chỉ ra vai trò tiên phong, mở đường của Kafka trong trào lưu văn học phi lý
Không chỉ hấp dẫn, và thu hút sự chú ý đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác của Franz Kafka đã trở thành đề tài nghiên cứu của các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các báo cáo khoa học trong nước Trong đó phải kể đến
Lê Thanh Nga (2008), Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Franz Kafka, Luận án tiến sỹ, Học viện khoa học xã hội; Nguyễn Thị Thu Hà (2013), Quyền lực trong tiểu thuyết của Franz Kafka, Luận văn thạc sĩ ,Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia; Đỗ Thị Yến (2015), Khám phá cái phi lý trong tiểu thuyết “Lâu đài”của Franz Kafka, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm 2; Phạm Hồng Dương (2016) Con người lưu đày trong sáng tác của F.Kafka nhìn từ tâm thức hiện sinh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm 2.v.v Đây là những gợi ý quý báu cho luận án của chúng tôi
Ngoài những công trình nghiên cứu, những luận án, luận văn trên, một sự
kiện đáng quan tâm là vào tháng 4 năm 2018, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo
Quốc tế “Kafka ở Việt Nam và châu Á - Kafka in Vietnam and Asia” Hội thảo
đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu, giới chuyên môn tham dự Phát biểu khai mạc hội thảo, GS.TS Nguyễn Văn Kim nhấn mạnh: “Các tác phẩm của Kafka được cho là mang tính dự báo cáo về các sự kiện của nhân loại, cũng như đưa ra những quy luật phổ quát của thế giới chính trị và xã hội, những điểm đại đồng xuất hiện ở mọi quốc gia Kafka vô tình trở thành nhà văn hiện sinh chủ nghĩa,
Trang 19về phương diện nghệ thuật và thi pháp văn xuôi nói riêng, ông đã tự tìm đến với chủ nghĩa biểu hiện Chính lối nghĩ, cách nhìn, cách thể hiện của chủ nghĩa biểu hiện đã giúp người đọc qua gần thế kỷ qua nhận ra những sự thật phi lý của cuộc sống: sự biến mất và bỏ rơi con người, nỗi lo âu định mệnh, những vụ án giết người không xét xử, những lâu đài quyền lực xa xôi, không thể tiếp cận đang đè
nặng mọi kiếp người”.Với việc chia Hội thảo làm 4 tiểu ban: Tiểu ban 1:“Kafka
ở châu Á” làm rõ vị trí và tầm ảnh hưởng của văn học Kafka đối với nền văn học
của các nước: Thái Lan, Singapor, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản); Tiểu
ban 2 : “Kafka và những chân trời khác”: phân tích về nghệ thuật kể chuyện và
tư tưởng Kafka trong các tác phẩm tiêu biểu của ông như: “Vụ án”, “Hóa thân”, “Nước Mỹ”, qua đó đưa ra những nhận định lý giải việc tại sao văn học
Kafka trở nên đặc biệt và gây được ảnh hưởng với các nền văn học khác; Tiểu
ban 3 :“Nghiên cứu và giảng dạy Kafka”: đặt ra những vấn đề quan trọng trong
việc đưa Franz Kafka vào chương trình giảng dạy cho sinh viên ngành ngữ văn)
và Tiểu ban 4 : “Kafka với văn học Việt Nam”: làm rõ những ảnh hưởng của văn
học Kafka đối với văn học Việt Nam trong 2 giai đoạn đương đại và hiện đại; những dấu ấn và vị trí của Kafka đối với công chúng Việt Nam), hội thảo đã góp phần làm rõ hơn thân thế, sự nghiệp, tư tưởng cũng như những ảnh hưởng của
Từ phạm vi tư liệu mà chúng tôi có được đã cho thấy, các công trình nghiên cứu đã nói trên, từ góc độ này hay góc độ khác cũng đã đề cập đến giá trị
nội dung và nghệ thuật, và có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến yếu tố phi lý trong tác phẩm của Kafka, tuy nhiên để phân tích một cách thấu đáo, có
tính hệ thống và đặt trong sự đối sánh với các tác giả khác thì chưa có Tuy vậy, tất cả những công trình nghiên cứu thực sự có giá trị khai mở, nó vừa là những
cứ liệu quan trọng, vừa gợi mở cho chúng tôi tìm đến đề tài "Yếu tố phi lý trong sáng tác của Franz Kafka trong sự đối sánh với Haruki Murakami - nhà văn xuất
chúng của nền văn học hậu hiện đại
Trang 201.2 Tình hình nghiên cứu về yếu tố phi lý trong sáng tác của Haruki Murakami
1.2.1 Tình hình nghiên cứu yếu tố phi lý trong tiểu thuyết Haruki Murakami trên thế giới
Bởi được xem là “một trong những tiểu thuyết gia thế kỷ XX quan trọng nhất của Nhật Bản” nên Haruki Murakami ngày càng chiếm được sự yêu mến của độc giả Chỉ với từ khóa “Haruki Murakami” chúng ta có thể tìm thấy hơn 5.000.000 kết quả trên google
Có thể khái quát các xu hướng nghiên cứu trên thế giới về tiểu thuyết Murakami theo các phương diện như: Giọng điệu, thể loại ngôn ngữ, kiểu nhân vật; Nghệ thuật hậu hiện đai; Liên văn bản, và Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
Trước hết, là nhóm tác giả nghiên cứu về các phương diện như: giọng
điệu, thể loại ngôn ngữ, kiểu nhân vật với các tên tuổi nổi bật: Yoshio Iwamoto, Matthew C.Strecher.v.v
Trong bài: Haruki Murakami - một giọng điệu hậu hiện đại Nhật Bản, đăng trên tạp chí Ngày nay, mùa xuân năm 1993, Yoshio Iwamoto đã chỉ ra
những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại in đậm trong tác phẩm của Murakami Bài viết được chia làm 3 phần tương ứng với 3 nội dung cụ thể: Phần một là phần giới thuyết và dẫn nhập về chủ nghĩa hậu hiện đại, và vấn đề tiếp nhận lý thuyết hậu hiện đại ở Nhật Bản Phần thứ hai, tác giả đề cập đến những
biểu hiện của chủ nghĩa hiện đại trong tác phẩm Cuộc săn cừu hoang trên các
phương diện: đề tài, thể loại, cấu trúc, nhân vật Phần cuối cùng của bài viết tác giả đã tìm hiểu tác phẩm này thông qua biểu tượng “cừu”
Mặc dù bài báo đã rất có giá trị trong thời điểm hiện tại, đem lại những gợi mở quan trọng trong việc nghiên cứu về sáng tác của Murakami, song chưa
đề cập đến những dấu hiệu khác thể hiện yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết của ông mà mới chỉ dừng lại ở việc chứng minh yếu tố hiện đại từ mối quan hệ giữa văn chương thuần túy và văn chương bình dân
Trang 21Tiếp theo, là bài viết của tác giả Matthew C.Strecher - giảng viên nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa và văn học Nhật Bản tại trường Đại học Montana với
tiêu đề: Đằng sau“văn chương thuần túy: Sự mô phỏng, hình thức và yếu tố hiện
đại trong tiểu thuyết của Haruki Murakami, đăng trên tạp chí Châu Á, năm
1998 Bài báo được trình bày qua 6 phần: Cấu trúc mang tính công thức, Cấu trúc công thức của Murakami, Tính chất bạo lực và trữ tình, Từ phiêu lưu đến lãng mạn, Sự sinh tồn và tình dục Với những phân tích và dẫn chứng giàu sức thuyết phục, tác giả bài báo đã nhấn mạnh rằng: Murakami được xem là biểu tượng của văn chương Nhật Bản đương đại và có sức lan tỏa mạnh mẽ không chỉ
ở Nhật Bản mà còn cả ở Mỹ Số lượng đề tài nghiên cứu về sáng tác của nhà văn này ngày càng gia tăng rõ rệt, thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới chuyên môn phê bình văn học
Không chỉ nghiên cứu tác phẩm của Murakami dưới góc độ ngôn ngữ, giọng điệu, nhân vật; các nhà nghiên cứu thế giới còn khai thác tiểu thuyết của ông dưới góc nhìn liên văn bản Đi theo hướng nghiên cứu này có các tác giả như: Naomi Matsuoka, Brian Seemann.v.v
Trong bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học so sánh, 30.4 (1993), Haruki Murakami và Raymond Carver: phong cảnh Hoa Kỳ, (“Murakami
Haruki and Raymond Carver: The American Scene”, Comparative Literature Studies 30.4 (1993): 423 - 38), Naomi Matsuoka đã quan tâm mối liên hệ giữa sáng tác của Haruki Murakami và Raymond Carver Matsuoka thừa nhận những giọng điệu phóng túng trong tiểu thuyết của Murakami và Carver là biểu hiện của ngôn ngữ bị hạn định trong việc mô tả các đối tượng cụ thể, nhấn mạnh sự khước từ biểu lộ xúc cảm Vận dụng các lý thuyết về triết học hiện sinh, tác giả Matsuoka đã kết luận rằng các nhân vật chính trong thế giới nghệ thuật của Murakami đã tri nhận về con người, về thế giới thông qua những sự phản ánh tự thân về những mối bất hòa của xã hội
Trang 22Cũng theo hướng nghiên cứu này còn có tập tiểu luận Kết nối hiện sinh:
Sự ảnh hưởng của Raymond Carver đối với Haruki Murakami của Brian
Seemann - Giảng viên trường Đại học Wichita State, Hoa Kỳ, người đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của cây bút truyện ngắn Raymond Caver đến tiểu thuyết củaHaruki Murakami từ góc nhìn lý thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre Ông cho rằng, Murakami đã tạo dựng tên tuổi của mình với tư cách là tiểu thuyết gia, nhưng trong truyện ngắn, nhà văn này lại có nhiều điểm tương đồng với khuôn mẫu hiện sinh trong sáng tác của Carver
Không chỉ phân tích tác phẩm của Murakami dưới nhìn góc nhìn liên văn bản; và các phương diện giọng điệu, ngôn ngữ, nhân vật, kết cấu, mà các nhà nghiên cứu thế giới còn vận dụng những đặc điểm của chủ nghĩa huyền ảo để phân tích lý giải một cách thấu đáo về các tác phẩm của Murakami Tiêu biểu là của tác giả Matthew C.Schetrer và Morten Oddvik
Năm 1999, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản đăng tải bài báo Chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo và sự nhận diện tiểu thuyết Haruki Murakami của tác giả Matthew
C.Schetrer xuất bản ngày 25.2 Trong bài viết này, Matthew C.Schetrer đã quan tâm đến Haruki Murakami trong việc đã sử dụng những kỹ thuật viết của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo để giải mã sự “phân rã bản sắc cá nhân” của con người, trong xã hội Nhật Bản những năm 1960 Nhà nghiên cứu này cho rằng, đặc biệt, với kiểu nhân vật nổi loạn, Murakami đã thể hiện trạng thái con người vỡ mộng, hoang mang, bất lực tuyệt đối trong bối cảnh Nhật Bản hậu chiến tranh
Bên cạnh đó, phải kể đến chuyên luận Haruki Murakami và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo - Một cách nhìn về tinh thần Nhật Bản hiện đại
(Murakami Haruki and Haruki and Magical Realism - Alook at the Psyche oh Modern Japan) của Morten Oddvik, Đại học Waseda, Tokyo, Japan xuất bản năm 2002 Trong chuyên luận này, tác giả đã nghiên cứu một cách công phu, nghiêm túc và đi đến kết luận: qua những sáng tác của mình, Murakami đã khơi dậy những vấn đề của một nước Nhật hiện đại, nơi đụng độ của các nền văn hóa,
Trang 23của các thang bậc giá trị đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng bản sắc tập thể Murakami sử dụng các biểu tượng cùng lối viết hiện thực huyền ảo để xây dựng các nhân vật trong trạng thái kiếm tìm “bản sắc cốt lõi”, các “hộp đen” Nhân vật phải tồn tại trong một thế giới vượt không gian và thời gian Và điều đáng ghi nhận nhất của bài báo là ở việc tác giả Morten Oddvik đã khái quát được tâm thức của con người trong xã hội hiện đại trong tiểu thuyết của Murakami chính
là sự cô đơn bản thể
Sáng tác của H.Murakami không chỉ thu hút sự quan tâm của văn nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu phê bình văn học, mà đã trở thành đề tài nghiên cứu của các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các báo cáo khoa học ở nước ngoài Trong phạm vi khảo sát của chúng tôi, có một số công trình nghiên cứu nổi bật như sau:
Jacob Clements, (2019), Murakami Haruki’s Short Fiction and the Japanese Consumer Society, University of Northern Iowa; Francissca Xaveria, (2019) Constructed Reality Depicted in Haruki Murakami& Kafka on the Shore, Universitas Sanata Dharma; Autumn Alexander Skeen, (2015),The literary manifestations of Murakami Haruskis transformation from underground to Kafka on the shore, Calitornia State University; Dominguez Hills; Srikanth, V.K (2015), Parallel narratives & alternate worlds in Murakami’s novels, City
University of Hong Kong, CityU Institutional Repository; Burcu Tufekcioglu,
(2019), An exploration of space in Murakami’s The wind-up bird chronicle and after dark, Kadir Has University School of Graduate Studies; Halle Nicole, (2019), Studies In Craft And Content: The Literature Of Haruki Murakami, University of Arizona, Tucson, USA; Yun Kweon Jeong, (2016), Murakami- ego: collective culpability and selective retention, Department of Fine Arts
University of Louisville Louisville, Kentucky
Bên cạnh những công trình nghiên cứu ấy, chúng tôi đặc biệt quan tâm
đến đề tài sau: Ecem Yucel, (2018), The Fantastic Path Toward Self: Magical Realism and Identity in Haruki Murakami’s A Wild Sheep Chase and Kafka
Trang 24on the Shore Điểm nổi bật của luận án này là ở chỗ, tác giả đã nghiên cứu mối
quan hệ giữa chủ nghĩa hiện thực huyền diệu và tìm kiếm danh tính trong hai
cuốn tiểu thuyết Cuộc săn cừu hoang và Kafka bên bờ biển của Haruki
Murakami, từ đó tìm hiểu cách thức và lý do Murakami sử dụng chủ nghĩa hiện thực huyền diệu như một con đường hiệu quả để dẫn dắt các nhân vật chính trong cuộc tìm kiếm danh tính cá nhân của họ trong thế giới hư cấu của nhà văn Cũng trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã khám phá hành trình của Murakami trong việc tìm kiếm bản sắc cá nhân và cách Murakami sử dụng chủ nghĩa hiện thực kỳ diệu trong hai cuốn tiểu thuyết này như một phương tiện để đạt đến tiềm thức, và thể hiện cốt lõi bản sắc cá nhân Từ đó khẳng định vị thế của Murakami trên văn đàn thế giới
Qua những công trình nghiên cứu về sáng tác của Murakami đã kể trên, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của Muraki ngày càng hấp dẫn đối với giới nghiên cứu, phê bình trên toàn thế giới Tuy nhiên vẫn chưa có hướng nghiên
cứu nào làm nổi bật được Yếu tố phi lí trong sáng tác của ông một cách có hệ
thống trong việc đối sánh với nhà văn khác Đây quả thực vẫn còn là một khoảng đất trống để các nhà nghiên cứu trên thế giới tiếp tục khám phá
1.2.2 Tình hình nghiên cứu yếu tố phi lý trong sáng tác Haruki Murakami ở Việt Nam
Không chỉ hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu văn học trên thế giới, Murakami còn tạo được sự chú ý đặc biệt với các nhà nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam Tính đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về Murakami trên rất nhiều góc độ như: bút pháp, đề tài, thể loại v.v
Trước hết, xét về góc độ đề tài chúng tôi rất quan tâm đến các bài viết của các tác giả Nhật Chiêu, Cao Việt Dũng
Với sự kiện ngày 17/3/2007, công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam kết hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tổ chức hội thảo về tác phẩm của Haruki Murakami và Yoshimoto Banana tại Hà Nội đã đánh dấu một bước
Trang 25chuyển lớn trên con đường nghiên cứu về các tác phẩm của nhà văn tiêu biểu này Đầu tiên có thể kể đến đánh giá của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu:"Tiểu thuyết Haruka Murakami với tinh thần tự do và tưởng tượng, được kể với một bút pháp sống động và đam mê như nghìn lẻ một đêm của thời kỳ hiện đại"
Cũng tại hội thảo này, tác giả Cao Việt Dũng đã trình bày quan điểm của mình về bút pháp yếu tố bí ẩn trong sáng tác của Murakami Đó là sự bí
ẩn tạo nên sự kết nối nội tại trong thế giới tiểu thuyết của nhà văn, những cái
bí ẩn không được giải thích, từ chối giải thích Ông xem Murakami chính là nhà thư ký trung thành của thời đại Những huyền thoại trong các trang sách của ông có thể gọi là "huyền thoại của thời hậu hiện đại"
Không chỉ khám phá về phương diện đề tài, những tác phẩm của Murakami còn được tác giả nghiên cứu dưới góc độ thể loại Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là tác giả Trần Tiễn Cao Đăng Trong bài giới thiệu tác
phẩm Biên niên ký chim vặn dây cót và phỏng vấn độc giả Việt Nam, tác giả
này đã nêu ra những câu hỏi xoáy sâu vào những vấn đề tiểu thuyết Haruki Murakami như: quan niệm nhà văn về chiến tranh, về cái ác, về sự đan xen giữa văn học thuần túy và văn học đại chúng cũng như một số nét đặc trưng trở đi trở lại trong tác phẩm của ông, như nỗi ám ảnh kỳ lạ về cái chết Tác phẩm của ông dường như cái gọi là sự tiếp biến văn hóa giữa các khu vực khác nhau trên thế giới trong thời hậu hiện đại Điều đáng quan tâm nhất của bài phỏng vấn này có lẽ nằm ở câu trả lời của Haruki Murakami: "Cái tôi muốn mô tả trong tác phẩm của tôi là những con người" Vậy là thân phận con người đã trở thành nỗi ám ảnh trong những sáng tác của nhà văn
Một trong những bài viết đáng chú ý trong nhóm nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài là bài viết của Nguyễn Thị Bích Thủy - Nguyễn Thị Nhã
Trúc: Murakami và sự xóa nhòa ranh giới văn học thuần túy và văn học đại chúng nhật Bản, Bài viết đã tìm hiểu nghệ thuật xóa nhòa lằn ranh giữa hiện
thực và siêu hiện thực dưới dạng hiện thực chủ quan gắn với phạm trù vô thức của cá nhân của mỗi nhân vật trong tiểu thuyết của Murakami, đồng thời đi
Trang 26vào phân tích nghệ thuật xóa nhòa ranh giới ấy trong mối tương quan của hiện thực và siêu thực ở tầng sâu vô thức tập thể
Tiếp theo, có thể kể đến tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân trong bài viết sự
tái sinh của motif folklore trong Biên niên ký chim vặn dây cót của Murakami
(Hội thảo văn học hậu hiện đại, lý thuyết và thực tiễn, 2013), thông qua việc phân tích sự tái sinh của các môtif về dịch chuyển không gian và các motif khác như "thế giới khác trong giấc mơ", "chim tiên tri", "đèn thần", "sứ giả trao kỷ vật" để đi đến kết luận: "đúng như tinh thần chính của hậu hiện đại với các đặc tính phá vỡ cấu trúc bền vững, phá vỡ trật tự thời gian, tạo nên một
mê cung hỗn độn và tràn lên nó đầy rẫy những hoang tưởng"
Nhắc đến các công trình nghiên cứu về Murakami, không thể không nhắc tới những khám phá về thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Murakami
của tác giả Trần Thị Tố Loan với bài viết Kiểu con người đa ngã trong tiểu
thuyết Người tình Sputnik của Haruki Murakami, in trong cuốn Văn học hậu hiện đại- Diễn giải và tiếp nhận(Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia 2011)
Trong bài viết này tác giả đã tập trung nhận diện con người đặc trưng của hậu hiện đại như sau: "Người tình Sputnikđã diễn tả một cách tinh tế cảm thức của thời đại con người không tin vào đại tự sự mà họ đi tìm những mảnh vỡ của chính mình Mỗi mảnh vỡ ấy chính là một phần trong cái tôi đa ngã của họ"
và “Haruki Murakami, với những tác phẩm sâu sắc, đã lặng lẽ hòa vào dòng văn học mới bằng cảm thức của thời đại con người hoang mang trước sự đổ
vỡ của các đại tự sự Haruki Murakami qua các kiệt tác của mình đã không làm được việc đáng chán là gom nhặt các mảnh vỡ hiện thực để xây dựng một hình ảnh ngụy tạo về thế giới hoàn hảo như con người mong muốn nhìn thấy
mà ông chấp nhận thế giới là hỗn mang như vốn có Và nhân vật của Haruki Murakami đã được đặt trong thế giới chông chênh ấy Trong cõi hỗn loạn xô
bồ của đời sống, họ phải dằn vặt, suy nghĩ, trăn trở nhiều khi tìm đến cái chết
để giữ được bản ngã của mình” [79, 482]
Trang 27Năm 2011, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội cho xuất bản cuốn Những cây bút kiệt xuất trong nền văn học Nhật Bản hiện đại do Nguyễn Tuấn
Khanh biên soạn và giới thiệu Tác giả đã dành hẳn 40 trang để giới thiệu về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Haruki Murakami Lý giải về sức hút của tác phẩm Murakami với công chúng, Nguyễn Tuấn Khanh cho rằng
đó chính là nhờ “sức sáng tạo của Murakami thực phong phú, đa dạng và mỗi tác phẩm của ông là một tìm tòi, khám phá mới về thế giới, nó chứa đựng tính toàn cầu sâu sắc, có lẽ bởi thế mà tác phẩm nào của Murakami cũng có sức hút mạnh mẽ” [70, 401] và “Murakami đã viết ra một thứ văn soi rọi những vấn nạn của thế giới hậu hiện đại, vạch rõ sự khủng hoảng của nước Nhật kể
từ cuối thời kỳ hậu chiến Phong cách văn chương của Murakami tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa phương tây, nhưng sâu xa nó vẫn nói về Nhật Bản và vai trò nước Nhật trong xã hội toàn cầu hậu hiện đại” [70, 440]
Ngoài ra có thể kể đến các bài viết của các tác giả như: Ngô Viết Hoàn, Phạm Văn Học, Lê Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Anh Dân v.v Mặc dầu, dưới các góc nhìn khác nhau, phương pháp nghiên cứu khác nhau nhưng họ gặp gỡ ở chỗ cùng đề cập đến vấn đề nỗi cô đơn bản thể trong sáng tác của Murakami
Cụ thể là tác giả Ngô Viết Hoàn đã tiếp nhận tiểu thuyết Murakami ở phương
diện Chủ nghĩa dấn thân trong tiểu thuyết Biên niên ký chim vặn dây cót, sau
khi phân tích một cách cụ thể về các nhân vật trong tác phẩm này, tác giả Ngô Viết Dũng đã nhận định: mục đích của của chủ thể trong dấn thân trong các thế giới của hình sắc và tạp niệm để đốn ngộ về chính thể và tha nhân thông qua cách kể chuyện đa tầng bậc Còn tác giả Phạm Văn Học trong tác phẩm
Nỗi u buồn trong Rừng Na - uy lại nhận xét: nhân vật tất tả ngược xuôi đi tìm
bản ngã giữa biển người mênh mông Nhưng rồi chính sự cô đơn trong tâm hồn đã đưa bản ngã đến gần tha nhân hơn Bản ngã cô đơn phân mảnh cực đoan trong không gian văn hóa Nhật Bản hậu hiện đại
Cũng với tinh thần trên, tác giả Nguyễn Anh Dân đã quan tâm đến sự Tìm kiếm bản thể đích thực và giải phẫu tinh thần Nhật Bản hậu hiện đại trong tác
Trang 28phẩm của Huraki Murakami Với việc phân tích cụ thể thấu đáo một số tác phẩm
của Murakami, tác giả đã đi đến nhận định: tinh thần Nhật Bản hậu hiện đại nằm ngay ở cảm thức về sự phi lý, về nỗi cô đơn và kiếm tìm bản thể
Năm 2013, Khoa Ngữ văn - Bộ môn Văn học nước ngoài của Trường đại học Sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội thảo về Murakami, tại hội thảo này đã
có rất nhiều bài báo cáo được trình bày dưới các góc độ khác nhau, điều này
càng khẳng định thêm sức hấp dẫn của Murakami đối với các nhà nghiên cứu
Ngoài ra, chúng tôi cũng tiếp nhận thêm những bài viết trên mạng Internet (các website, diễn đàn văn học) để có thêm tư liệu cho việc thực hiện
luận án Chẳng hạn như trong bài viết: Hệ thống biểu tượng và Bức họa phi lý
và phản quang xã hội trong “Biên niên ký chim vặn dây cót” của Nguyễn
Anh Dân Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra hệ thống biểu tượng trong tác phẩm khá đa dạng từ vật thể đến con người và nhận định rằng: “Đó hoàn toàn
có thể là một trò chơi biểu tượng của Murakami, đây không phải là một tác phẩm dễ giải mã khi mà nó ngồn ngộn những hệ thống ký hiệu quy ước của cá nhân - những biểu tượng của tác giả”
Sáng tác của Haruki Murakami đã trở thành đề tài nghiên cứu của các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các báo cáo khoa học Trong đó phải kể đến
các công trình Luận án tiến sỹ của các tác giả như: Luận án Yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Haruki Murakami của tác giả Lê Thị Diễm Hằng: Sự
khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki
Murakami của tác giả Lê Quang Hưng; Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Văn Bằng: Con người bản năng trong tiểu thuyết rừng Na-uy của Haruki Murakami; Kiểu nhân vật cô đơn trong một số tiểu thuyết của Yoshimoto Banana và Haruki Murakami của Hoàng Thị Hiền Lê; Yếu tố huyền ảo trong sáng tác của Haruki Murakami của Nguyễn Anh Dân 2010; Tư tưởng Biên niên lý chim vặn dây cót của Haruki Murakami từ góc nhìn mỹ học thiền của tác giả Ngô Viết Hoàn.v.v
Trang 29Ngoài ra sáng tác của Haruki Murakami cũng đã được nhiều tác giả lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu trong nhiều đề tài khoa học, các khóa luận,
luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên cao học như: Thực và ảo trong truyện ngắn của Haruki Murakami của Trần Thị Yến Minh; Vấn đề tình dục qua tiểu thuyết “Người đẹp say ngủ” (Kawabata) và “Rừng Nauy” (Haruki Murakami) (2008) của Đỗ Minh Phương; Con người bản năng trong tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami (2009) của Nguyễn Văn Bằng; Cái chết trong Rừng Nauy (2009) của Nguyễn Thị Mai; Bi kịch con người hậu hiện đại trong Rừng Nauy và Biên niên kí chim vặn dây cót của Haruki Murakami (2010) của Vũ Thị Hồng Nhung; Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của Haruki Murakami (2010) của Hà Thị Lĩnh; Thế giới nhân vật trong Kafka bên bờ biển của Haruki Murakami (2011) của Nguyễn Thi Ý Lan; Bút pháp hiện thực và huyền ảo trong tiểu thuyết của Haruki Murakami (qua Kafka bên
bờ biển, Biên niên kí chim vặn dây cót và xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới) (2011) của Trần Thị Bích; Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Haruki Murakami (2011) của Trần Thị Thạch Hà; Thủ pháp dòng ý thức trong tiểu thuyết Biên niên kí chim vặn dây cót của Haruki Murakami (2011) của Hồ Minh Thông; Nghệ thuật kết cấu trong tiểu thuyết của Haruki Murakami (2012) của Lê Thị Thanh
Trong các công trình trên, chúng tôi rất quan tâm đến Luận án tiến sỹ
Yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Haruki Murakami của tác giả Lê Thị
Diễm Hằng Với kết cấu 4 chương dày dặn (Chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu; Chương 2 Trạng thái hậu hiện đại và cảm quan về con người trong tiểu thuyết của Haruki Murakami; Chương 3 Trần thuật hỗn hợp trong tiểu thuyết Haruki Murakami; Chương 4 Liên văn bản trong tiểu thuyết Haruki Murakami); Luận án đã soi sáng các yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết Murkami, đồng thời khái quát sự vận động của tư duy tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết hậu hiện đại, với những đặc trưng của nó; tác giả Luận án
đã có những nhận định rất sắc sảo: “Với Murakami, thế giới đầy những điều
Trang 30bất thường và phi lý chính là động lực để con người tìm về bản thể chính mình Phản ánh được cái cảm thức hoang mang của con người ngày hôm nay Viết về những mảnh vỡ của hiện thực bằng lối trần thuật hỗn hợp và liên văn bản độc đáo, Haruki Murakami đã thực sự đi vào địa hạt của văn chương hậu hiện đại” [50, 2]
Nguyễn Văn Bằng trong Luận văn thạc sỹ Con người bản năng trong tiểu thuyết rừng Na-uy của Haruki Murakami (2009), đã chú ý đến kiểu con
người bản năng và hành trình tìm kiếm con người bản năng qua tác phẩm
Rừng Na - uy Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã nhìn thấy “sự kết
tinh tài năng sáng tạo của tác giả trong việc khám phá và thể hiện chiều sâu bản thể của con người trong hành trình tìm kiếm bản đích thực Trong hành trình đó, bản năng con người, đó là con người thân phận gắn với nỗi cô đơn, con người bản năng - vô thức với dục tính và bi kịch của thân phận con người gắn với cái chết” Trong khi phân tích các khía cạnh con người bản năng, tác giả luận văn cũng đã chú ý đến nghệ thuật thể hiện kiểu con người này trong
đó những kỹ thuật thuộc về văn chương hậu hiện đại như sử dụng lối biểu tượng, thủ pháp dòng ý thức, phân rã cốt truyện và hiện tượng đứt gãy trong dòng ý thức nhân vật
Đặc biệt với Luận án tiến sĩ “Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami (2018) của tác giả Trần
Quang Hưng, đã thực sự khai mở cho chúng tôi rất nhiều trong việc lựa chọn
đề tài nghiên cứu Điểm nổi bật của luận án là đã chỉ ra những khác biệt về yếu tố hậu hiện đại trong tác phẩm của H.Murakami và Hồ Anh Thái ở các phương diện thân phận con người và phương thức thể hiện tác phẩm Nếu ở
Hồ Anh Thái, ông thường phản ánh chân dung con người trong sự va đập với hiện thực của cuộc sống đương đại đầy hỗn độn, giả dối, thiếu vắng chuẩn mực, hỗn tạp và bát nháo như một cái “nhà cười” khổng lồ bằng kiểu con người đặc trưng đó là con người tha hóa, thì ở Murakami, ông phản ánh chân dung con người với khát vọng khám phá những sâu thẳm bên trong con người
Trang 31để có được sự phân tích sâu sắc tâm hồn con người ở nhiều góc cạnh khác nhau Cả hai nhà văn cũng đã cùng xây dựng kiểu con người hành trình trong sáng tác của mình nhưng con người với hành trình kiếm tìm trong những sáng tác của Hồ Anh Thái chủ yếu đi tìm giá trị, ý nghĩa của cuộc sống và đánh giá những con người khác ở thực tại khách quan, trong môi trường, trong hoàn cảnh xã hội họ đang tồn tại Còn những con người với hành trình kiếm tiềm của Murakami lại đang cố đi tìm cái bản thể nguyên sơ toàn vẹn Các nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái thường để lại một ấn tượng lạc quan cho người đọc Còn với con người kiếm tìm trong sáng tác của Murakami trên chặng đường truy tầm cái tôi đã để lại nỗi ám ảnh ưu tư khắc khoải cho câu trả lời về bản thể trong thế giới hỗn mang này Về phương thức thể hiện: Cách triển khai cốt truyện mảnh vỡ của Murakami trong một tác phẩm phức tạp hơn nhiều so với Hồ Anh Thái Đặc biệt hình thức phân mảnh cốt truyện theo kiểu mê cung xoay vần hay nhiều tuyến truyện song song cùng triển khai tạo hiệu ứng domino là một kĩ thuật viết rất khó của Murakami Ở nghệ thuật mờ hóa nhân vật, ở mỗi nhà văn lại có những cái hay riêng Hồ Anh Thái mờ hóa nhân vật bằng sự tối giản về lai lịch, ngoại hình, đời sống nội tâm Murakami lại có cách để thực hiện triệt để hơn nữa việc tẩy trắng nhân vật Sắc màu văn hóa trong những trang văn của Hồ Anh Thái mang đậm dấu ấn của tư tưởng văn hóa phương Đông trong sự pha trộn với văn hóa dân gian Trong khi đó nghiên cứu sáng tác Haruki Murakami có sự lai ghép về văn hóa Đông Tây hết sức rõ rệt Nếu ở những trang văn của Hồ Anh Thái nhân sinh quan Phật giáo đóng vai trò quan trọng, dấu ấn của triết học Phật giáo in đậm sâu sắc, thì ở Murakami lại thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn triết học Phật giáo tâm linh với hiện sinh, phân tâm học phương Tây và cả cảm thức phi lý trong sáng tác của F.Kafka
Trang 32Tiểu kết chương 1
Là hai nhà văn lớn tiêu biểu cho văn học hiện đại, hậu hiện đại, sức lan toả của F Kafka và H Murakami ngày càng sâu rộng trên thế giới Có thể thấy ảnh hưởng của F Kafka đối với các nền văn học tuỳ theo từng thời kỳ, trong bối cảnh lịch sử, xã hội khác nhau mà có sự khác nhau ở từng khu vực của thế giới Nếu các nhà văn phương Tây đón nhận tác phẩm của F Kfka sớm hơn thì ở các nước Đông Âu điều đó xảy ra muộn hơn, chỉ sau đại chiến thế giới thứ hai, khi triết học hiện sinh và chủ nghĩa hiện sinh lan rộng thì ảnh hưởng của Kafka mới thực sự mạnh mẽ
H Murakami xuất hiện vào thế kỷ mà thế giới không chỉ giống với thế giới của Kafka mà còn vượt xa thế giới của Kafka, khi nhà văn sống thường trực với những nỗi hoài nghi về tồn tại người, những khắc khoải khôn nguôi
về tình yêu hạnh phúc trong một thế giới mà trí năng đang bộc lộ những giới hạn chưa từng thấy, Murakami đã mang đến một thế giới nghệ thuật mang màu sắc hậu hiện đại Không phải ngẫu nhiên các sáng tác của ông đã nhanh chóng gây được tiếng vang và được tiếp nhận không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài với những ý kiến tương đồng, khác biệt
Nhìn chung những công trình nghiên cứu trên đã phần nào đề cập đến được một số yếu tố thể hiện tinh thần hiện đại và hậu hiện đại trong sáng tác của hai nhà văn Franz Kafka và Haruki Murakami Đây là những tư liệu quan trọng để chúng tôi tham khảo, có thể vận dụng trong việc nghiên cứu Luận án của mình.Tuy nhiên các bài viết, tham luận, những công trình nghiên cứu trên đều tập trung vào nghiên cứu độc lập một tác giả qua khảo sát một số tác
phẩm nhất định Chưa có công trình nào khảo sát Yếu tố phi lí trong sáng tác của Franz Kafka và Haruki Murakami trong một hệ thống có sự so sánh đối
chiếu để tìm ra sự tương đồng và khác biệt trên tinh thần của hiện đại và hậu hiện đại Đây chính là vấn đề đang bị bỏ ngỏ mà tác giả luận án mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu trên cơ sở kế thừa và phát triển kết quả đã có
Hy vọng rằng chúng tôi sẽ cung cấp một cái nhìn đa diện về phong cách tiểu thuyết của Franz Kafka và Haruki Murakami, đem lại nhiều kiến giải mới
mẻ để chúng ta có thể hiểu sâu hơn về tác giả tiêu biểu của nền văn học hậu hiện đại này
Trang 33Chương 2 YẾU TỐ PHI LÍ TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI - HẬU HIỆN ĐẠI
2.1 Khái lược về phi lí trong triết học và trong văn học
2.1.1 Yếu tố phi lý trong triết học
Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, thế giới đã phải chứng kiến sự khủng hoảng của triết học tự nhiên, tiếp đó là sự thay đổi về mọi mặt đời sống của con người trong hai cuộc thế chiến Nền khoa học kỹ thuật phát triển một mặt giúp con người cải thiện chất lượng của đời sống nhưng mặt khác nó bộc
lộ những mặt trái khi chống lại sự tồn tại của con người Trong bối cảnh ấy, hơn bao giờ hết con người đã nhận ra sự mong manh, nhỏ bé của mình trước một thế giới ngày càng bí ẩn Triết học hiện sinh ra đời đã đưa con người trở lại với con người, thức tỉnh họ trỗi dậy, bỏ cách sống cũ để tiến tới một cuộc sống nhân vị , có ý thức tự do, biết khẳng định mình trong thế giới
Với những phạm trù tự do, lo âu, buồn nôn, tha hóa, dấn thân., đặc biệt
là phạm trù “phi lí”, triết học hiện sinh đã chỉ ra những giới hạn của kiếp người, giúp con người có thể trả lời những câu hỏi “tôi là ai?, tại sao tôi lại xuất hiện trên cõi đời này? con người sẽ về đâu trong một thế giới đầy cạm bẫy,
và luôn bị chi phối bởi những bàn tay vô hình?” Từ những ưu tư mang tính thức tỉnh này, triết học hiện sinh đã cổ vũ con người vươn lên chống lại sự phi
lý, giành thế chủ động trong những lựa chọn
Xuất hiện từ thời cổ đại, khái niệm về “cái phi lý” đã được các nhà triết học Hy Lạp như Zenon và Aristote đã áp dụng phương pháp luận dựa vào giả thiết phi lý (hay còn gọi là phương pháp ngụy biện cho suy lý logic) Bàn về khái niệm “cái phi lý”, từ điển triết học đã định nghĩa:“cái phi lí” là cái không thể hiểu biết được đối với lí tính và tư duy, không thể diễn đạt bằng những khái niệm logic” Như vậy, khái niệm về “cái phi lí” trong triết học là một sự khái quát lại những điều chúng ta cảm nhận qua trực giác, đó là việc thừa nhận sự
Trang 34đầu hàng của trí tuệ, sự bất lực của nhận thức đối với những gì chưa biết nhưng lại hiện hữu hàng ngày trước mắt con người chúng ta
Theo Nguyễn Văn Dân trong cuốn Văn học phi lí, “cái phi lí được giải thích trên phương diện lôgic học là những gì tồn tại trái với quy tắc lôgic, còn trên trên bình diện lý luận nhận thức là tất cả những gì chống lại năng lực nhận
thức, chống lại lý trí, không thể giải thích bằng tư duy, đều được coi là phi lý
Như vậy cái phi lý là cái phản lý tính [23, 15]
Tiếp nối các nhà triết học, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình tiểu luận văn học ở thế kỉ XX cũng đã tuyên bố sự phá sản của lí trí Các tác phẩm văn học của chủ nghĩa biểu hiện và chủ nghĩa siêu thực đã mô tả cái thế giới bí hiểm phi lí tính để chống lại sự thống trị của lí trí máy móc Nhà triết học kiêm nhà văn người Tây Ba Nha Miguel de Unamuno tuyên bố: “Tôi không chấp nhận lí trí, tôi chống lại nó”
Một bước phát triển đặc biệt của khái niệm triết học về “cái phi lí” là giai đoạn chủ nghĩa hiện sinh Người có vai trò đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện sinh là nhà triết học thần học người Đan Mạch, Soren Kierkegaard (1813-
1885), với tác phẩm nổi tiếng Hoặc là Hoặc là xuất bản năm 1842 Giới nghiên
cứu triết học cho rằng tác phẩm này có vị trí quan trọng trong sự nghiệp của S
Kierkegaard và tương tự như tác phẩm Hiện tượng học tinh thần trong sự nghiệp của G.W.F.Hegel Tác phẩm Hoặc là Hoặc là của S Kierkegaard, bàn
đến khối mâu thuẫn lớn của ông trước thế giới liên quan đến những lựa chọn hiện sinh của con người, tính chất nước đôi của các tình thế tồn tại, những
nghịch lí của nhận thức và của tồn tại
Nội dung triết học của Kierkegaard đối lập hoàn toàn với nội dung triết học truyền thống triết học Châu Âu cũng như thế giới Đặc biệt, ông cố tình lấy việc phê phán chủ nghĩa lý tính của Hegel làm phương diện quan trọng trong triết học của mình Nếu như Hegel đã từng cho rằng mọi biểu hiện của cuộc sống đều quy về cái chung (như trật tự hay luân lý xã hội) và sự tồn tại của con
Trang 35người không nên tách khỏi cái chung đó thì ngược lại, ông xem mọi sự tồn tại bên ngoài cá nhân đều là sự tồn tại phi cá tính, nó làm mơ hồ mối quan hệ giữa con người và thế giới
Khái niệm về cái phi lý này được các nhà triết học hiện sinh như J P Sartre (1905-1980), A.Camus (1913 - 1960) phát triển thêm một bước, nghiêng
về tính chủ quan của nhận thức Trong quan niệm của hai nhà đại diện cho chủ nghĩa hiện sinh Pháp thế kỉ XX là J.P.Sartre và A.Camus thì cái phi lý trở thành khái niệm chủ chốt của chủ nghĩa hiện sinh Trong học thuyết của Sartre, cái phi lý trở thành một phạm trù nòng cốt, phổ biến tinh thần lên toàn bộ các khái niệm khác xoay quanh nó, và ông quan niệm rằng“ cái phi lý chỉ nảy sinh trên
sự bất đồng giữa tồn tại và lý tính” [23, 19] Nhưng nếu như các nhà phi lý tính trước đó hoặc chỉ mới thừa nhận sự khốn cùng của trí tuệ, hoặc chỉ làm phát lộ một mặt nào đó của thực tại phi lý quanh ta, còn Sartre thì lại tuyên bố rằng
“toàn bộ cái thực tại nhân bản là một thực tại phi lý” Trong luận thuyết của Sartre, cái phi lý là vấn đề bao trùm và thấm nhuần trong mọi khái niệm khác
mà ông đề cập đến Theo tác giả của Buồn nôn - thì quan niệm cái phi lý xuất
hiện do có sự bất đồng giữa lý tính với thực tại nhân bản, chính thực tại này là phi lý, là một thực tại của vật “tự nó” Có ý thức nhân bản - vật vì nó - can thiệp vào trong vật tự nó nhưng chúng bất khả năng giao tiếp với nhau Đây “là thực thể thứ ba của cái phi lý: phi lý của khả năng không thể giao tiếp giữa cái phi lý tự nó với cái phi lý “vì nó”.[23; 19]
Đến Camus thì tư tưởng về cái phi lý đã trở thành nỗi ám ảnh trong suốt cuộc đời của ông, nó làm thành đề tài trọng tâm của các tiểu luận triết học và thấm đẫm trong các tác phẩm văn học của ông Khác với Sartre, Camus không bắt đầu cái phi lý từ thế giới thực tại cũng như từ ý thức của con người Ông tuyên bố rằng cả thế giới thực tại lẫn lí tính của con người đều không phải là
phi lý, mà “phi lý chỉ nảy sinh từ sự bất hòa hợp giữa khát vọng của lí tính
muốn tìm hiểu thế giới với cái thực tại u tối khó hiểu của thế giới đó, tức là sự
Trang 36tuyệt giao giữa khát vọng lí tính với thực tại u tối Từ sự bất hòa hợp giữa hai
phạm trù nảy sinh và cái cảm giác về sự phi lý” [23, 20]
Như vậy, với tư cách là một khái niệm triết học, cái phi lý đã có một lịch
sử phát triển lâu dài, từ thời Hy Lạp cổ đại với Aristote, Zenon, qua thế kỷ XVI với Bacon (Anh), đến thế kỷ XX với nhà triết học Đan Mạch Kierkegaard Thế kỷ XX, “thế kỷ của những biến động lịch sử” đã tạo mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển và hoàn thiện ý thức, quan niệm về cái phi lý, để rồi cái phi lý bước vào văn học với các tác giả: Jasper, Camus, F Kafka, Ionesco, S.Beckett
2.1.2 Yếu tố phi lí trong văn học
Nếu trong triết học quan niệm cái phi lý là con đẻ của tính bất khả tri của
lý tính thì trong văn học các nhà văn vẫn cố gắng nhận thức cái phi lý qua thế giới nghệ thuật của mình Chính vì vậy, họ sôi sục kiếm tìm, bằng mọi nẻo và
bằng mọi cách Họ lục tung huyền thoại, đảo trái hiện thực, lột trần giấc mơ, nhập thân vào ảo giác Dường như họ muốn trải nghiệm hết thảy cho dù nhiều lúc nó đưa đến những cảm nhận kì lạ và khôi hài Thế nhưng rốt cuộc họ vẫn chỉ nhận được một vấn đề hoàn toàn phản lí tính Cái phi lý của văn học chính
là cái lộ dần trong quá trình tìm kiếm đó Nó hiện lên để thay thế cho cái phi lý triết luận đang lẩn khuất, đang hòa tan hay nói theo kiểu Camus là đang khéo léo “ phủ nhận mình” Cái phi lý văn học bởi thế nó vô cùng sinh động và phong phú, nó không chịu cô đặc trong những mệnh đề, nó phát triển theo một
quá trình Trong cuốn “Văn học phi lí”, Nguyễn Văn Dân đã khẳng định: “khái
niệm văn học phi lý trong văn học được dùng để chỉ loại hình văn học phi lý có nhiệm vụ nhận thức và mô tả cái hiện thực vô nghĩa, phi lôgic, phi lý tính, trái với năng lực nhận thức của con người” [23, 23] Như vậy, cái phi lí trong văn học trước hết là cái phi lý thể hiện bằng hình tượng cụ thể, là cái được rút ra từ những nỗ lực lí giải cái hiện thực vô nghĩa, phi lý tính, phi logic, trái ngược với nhận thức của con người So với khái niệm phi lý trong triết học thì khái niệm
Trang 37phi lý ở đây có hai điều cần lưu tâm: Thứ nhất là tính hình tượng, kéo theo nó
là những thủ pháp biểu hiện đặc thù mà nhiều khi không đơn giản chỉ là vấn đề trò chơi hình thức Thứ hai là sự nỗ lực lí giải, kiếm tìm của con người trước hiện thực cuộc sống Chính cái nỗ lực đó làm cho cái phi lý trong văn học được nói đến như một hiện thực mở, hiện thực mời gọi sự khám phá của chúng ta Nghĩa là nó không nhất nhất là một hiện thực được cố định trong tiêu chí của các định nghĩa hay khái niệm mà biến thái uyển chuyển linh hoạt và đa dạng hơn Sự kết hợp giữa đặc tính hình tượng của nghệ thuật và đặc tính khám phá
lý giải cuộc sống của triết học, đã làm cho thế giới phi lý trong văn học không thể xem như là sự trùng khít với thế giới phi lý trong thực tại Thế giới phi lý trong văn học là thế giới của mỗi chủ thể sáng tạo Có bao nhiêu chủ thể sáng tạo, khám phá cái phi lý thì có bấy nhiêu thế giới phi lý trong văn học hình thành Có khi là sự phi lý của nhận thức, có khi là sự phi lý của bản thể, có khi
là sự phi lý từ nội cảm, có khi là sự phi lý của thực tại bên ngoài, có khi là trạng thái sống của con người nhưng có khi là sự kiện phi lý thường nhật Nếu cái phi lý trong triết học là cái đã được các triết gia khẳng định thông qua vô số khái niệm và phạm trù trừu tượng thì cái phi lý trong văn học lại được các nhà văn cảm nhận sau những hành trình vô vọng của mỗi thân phận, mỗi hoàn cảnh giữa cuộc đời Đó là cái phi lý qua sự trải nghiệm trực tiếp của hình tượng
“Cái phi lý” trong văn học cũng không đơn thuần là “cái phi lý” phản lý tính trong quá trình nhận thức, tư duy Trên thế giới các nhà văn như Fr Rabelais, J.Swift, L.Carroll, “đều được sáng tác tuân theo một logic chung gọi
là logic huyễn tưởng” [23, 25] Với thủ pháp huyễn tưởng phi lý các nhà văn đã
xây dựng một thế giới hoang tưởng, riêng biệt, xa lạ Họ tiếp cận hiện thực bằng bút pháp châm biếm hài hước và thủ pháp ẩn dụ, ngoa dụ… Riêng với E.Ionesco (1909 - 1994), ông chính là người mở đường cho dòng kịch phi lí, các tác phẩm của ông thường có nội dung xoay quanh việc phản ánh sự tha hóa của con người, xã hội là một cõi thế giới hư vô, rời rạc
Trang 38Có thể thấy trong văn học thế giới, cái phi lý đã được khám phá theo suốt chiều dài lịch sử, từ thần thoại đến những bi kịch về thân phận con người trong tác phẩm của W.Shakespeare, đến sự đề cao tinh thần phi lí trong tác phẩm của F.Dostoevsky; cho đến các tác phẩm của F.Kafka, A.Camus, E.Ionesco, S.Beckett và phong trào kịch phi lý sau đó; và các nhà văn hậu hiện đại mà tiêu biểu là Haruki Murakami lại tiếp tục lặng lẽ khám phá về vấn đề phi lí, khám phá những điều bí ẩn về con người, thế giới trong tác phẩm của mình
Trước Kafka, cái phi lí đã xuất hiện trong thần thoại Hi Lạp với cái đẹp của chất thơ phong phú và trí tưởng tượng dồi dào cùng những hạt nhân triết lí
đã có một sức hấp dẫn vĩnh viễn, ảnh hưởng lên văn hóa, nghệ thuật phương Tây mọi thời đại Đây là điểm tựa đầu tiên cho thủ pháp huyền thoại hóa trong các tác phẩm văn học hiện đại - một thủ pháp rất phổ biến trong sáng tác của F Kafka, A Camus, những nhà văn đã theo đuổi đề tài cái phi lý
Cái phi lý trong văn học không phải là sao chép máy móc cái phi lý trong triết học Nếu triết học, quan niệm cái phi lý là con đẻ của "tính bất khả tri của
lý tính" thì qua thực tiễn sáng tác của mình các nhà văn vẫn cố gắng nhận thức cái phi lý E Ionesco - một đại diện tiêu biểu của văn học phi lý đã công nhận rằng cái phi lý là sự tồn tại vô nghĩa của con người, là sự suy giảm giá trị mọi
lý tưởng của con người, thường nhận thấy được trong thế giới hiện đại Do vậy, khái niệm phi lý trong văn học được dùng để chỉ "cái hiện thực vô nghĩa, phi lôgic, phi lý tính, trái với năng lực nhận thức của con người" Và loại hình văn học lấy cái phi lý làm đối tượng chủ yếu của nghệ thuật biểu hiện được gọi
là văn học phi lý
Kế thừa và phát triển những quan điểm của triết học các nhà văn thường xem xét cái phi lý ở hai khía cạnh: Cái không hợp lý, trái lôgic trong đời sống
và nhận thức bi đát về thân phận con người (bao gồm sự tồn tại vô nghĩa và ở
sự đối lập giữa khát vọng và hiện thực ) Khi đi vào sáng tác cụ thể, các khía
Trang 39cạnh đó lại được các nhà văn xử lý ở những mức độ khác nhau để phục vụ cho một ý đồ, tư tưởng nghệ thuật nhất định
Cái phi lý thực tế luôn tồn tại trong đời sống của con người Nhận thức
về nó là nhu cầu chính đáng và các nhà triết học, các nhà văn là những người tự nguyện gánh lấy trách nhiệm ấy Hai nguồn chính tạo ra loại hình văn học phi
lý là triết học và mỹ học, nguồn thứ ba không kém phần quan trọng chính là nguồn lịch sử - xã hội cụ thể
Chúng ta đều biết rằng thế giới quan của người nghệ sĩ chịu sự chi phối rất lớn của hiện thực khách quan Nguồn gốc của cái phi lý trong văn học chính
là cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị, tư tưởng cuối thế kỷ XVIII đầu thế
kỷ XIX mà cái tác động đầu tiên đến tư tưởng nhà văn là "cuộc khủng hoảng về thân phận con người" Chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX mang trong nó một khối mâu thuẫn lớn Ở mặt tích cực nó thúc đẩy kinh tế phát triển Mặt khác nó làm tha hóa con người, làm suy giảm đời sống tinh thần của họ đến mức trầm trọng
Sự thất bại của Công xã Pari càng làm gay gắt thêm các mâu thuẫn xã hội và đẩy các trí thức đến chỗ bị quan tiêu cực Phản ứng phủ định đối với xã hội đương thời xuất hiện như một hệ quả tất yếu Các trí thức nhận thấy một điều phi lý là trong khi sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phong phú, tiện lợi bao nhiêu thì khả năng giao tiếp và các mối quan hệ đạo lý - nhân văn lại càng bị gián đoạn bấy nhiêu Phản ứng phủ định này được thể hiện rõ nhất, sinh động nhất qua văn học trong đó có văn học phi lý Chứng kiến nếm trải những mâu thuẫn xã hội nặng nề, bị khủng hoảng tinh thần khát khao tìm đường giải thoát và rơi vào bế tắc con người nhận ra rõ hơn cái phi lý: Biết mình đang trong môi trường phi lý nhưng cũng biết chẳng thể nào thay đổi cái phi lý ấy nên đành phải chung sống với nó Văn học phi lý phải chăng là phản ứng mãnh liệt nhất - trước sự mù lòa của con người, là câu hỏi nhân văn mang sắc thái: buồn rầu về tình trạng hiện sinh đầy rẫy tham vọng, ảo vọng và
Trang 40cuồng vọng? Đến bao giờ loài người thôi biến động quay cuồng vì những thảm họa do chính mình gây ra?
Những sáng tác của Dostoevsky đề cập đến nhiều hoàn cảnh sản sinh ra
cái phi lý Đó là hoàn cảnh mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm (Tội ác và trừng phạt), giữa lòng nhân từ và cái xấu xa (Những kẻ tủi nhục), giữa cái thiện và cái ác (Thằng ngốc) giữa tư tưởng vô chính phủ và ý thức lương tâm (Anh em nhà Karamazop)
Dostoevsky có thể là nhà văn đầu tiên nói tới cái phi lý nhưng không phải
là nhà văn đầu tiên của văn học phi lý vì ông không lấy nó làm đối tượng trung tâm, làm nguyên tắc thẩm mỹ Đến Kafka thì sự việc hoàn toàn khác hẳn “Ở ông cái phi trở thành một đối tượng nhận thức Nó không phải đơn thuần chỉ là một hiện tượng xã hội, mà có liên quan thậm chí chi phối đến vận mệnh của con người, mà muốn tồn tại, con người phải luôn luôn đấu tranh để loại trừ chính nó” [117, 7]
2.2 Khái lược về văn học hiện đại và hậu hiện đại
2.2.1 Khái lược về văn học hiện đại
Về phương diện lịch sử, thời kỳ hiện đại đánh dấu một kỷ nguyên tương đối dài trong lịch sử thế giới bắt đầu từ thời Phục Hưng, kéo dài gần một thiên niên kỷ, cho đến giữa thế kỷ hai mươi Nghĩa là từ thời đại Trung Cổ chấm dứt cho đến những năm đầu thập niên 1950 đều thuộc về thời kỳ hiện đại Theo Oden, “thời kỳ Ánh Sáng chính là thời kỳ khai sinh của giai đoạn hiện đại trong lịch sử trí thức Nó bắt đầu từ cuộc cách mạng Pháp, 1789, và chấm dứt năm 1989, mốc điểm đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh bằng sự sụp đổ bức tường ngăn chia Đông và Tây Berlin” [116, 149-150] Một số khác cho rằng thời kỳ hiện đại bắt đầu từ năm 1750 và chấm dứt sau đệ nhị thế chiến Tuy có khác biệt trong việc sắp xếp thời gian, xu hướng chung đều đồng
ý rằng: thời kỳ hiện đại gắn liền với giai đoạn Ánh Sáng tại Châu Âu