1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN: Cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay pdf

96 920 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 96
Dung lượng 920,83 KB

Nội dung

Ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện lực lượng sản xuất hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng một chế độ sở hữu mà trong đó, công hữu là chủ đạo; đồng thời thực hiện chế

Trang 1

TIỂU LUẬN:

Cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội

và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam

hiện nay

Trang 2

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra năm tiêu chí để xác định bản chất của chủ

nghĩa xã hội Đó là: giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, thủ tiêu chế độ bóc lột, xoá bỏ sự phân hoá giàu – nghèo để cuối cùng, đạt đến đích cùng nhau giàu có Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể không thực hiện năm tiêu chí này trong mối quan hệ hữu cơ của chúng Đó là kết luận mà tác giả rút

ra khi luận giải mối quan hệ này trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Nhân loại đã bước vào những năm cuối của thập kỷ đầu thế kỷ XXI với những thuận lợi và triển vọng tốt đẹp, nhưng cũng có không ít thách thức và trở ngại cần phải vượt qua

Thế giới mà chúng ta đang sống đã có những đổi thay nhanh chóng và đứng trước hàng loạt vấn đề nan giải mang tính toàn cầu phải giải quyết, như tình trạng đói nghèo, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, các cuộc xung đột khu vực,…

Những diễn biến và thay đổi mau lẹ của thế giới đang đòi hỏi các nhà nuớc phải có cách nhìn nhận mới về vai trò của mình, đưa ra được các chủ trương và giải pháp đúng, hoạt động có hiệu quả, bảo đảm ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội bền vững

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta hết sức chú trọng nhiệm vụ xây dựng, tăng cường và kiện toàn Nhà nuớc, đồng thời khẳng định rõ chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, xứng đáng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Để thực hiện tốt vai trò của nhà nước ở Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, vẫn cần phải tiếp tục làm rõ chủ nghĩa xã hội là gì? xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? Trong chúng ta, rất nhiều nhà khoa học vẫn còn đặt ra vấn đề này và đó không phải

là vô cớ Vì vậy, làm rõ vấn đề chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào trong giai đoạn hiện nay vẫn luôn là vấn đề trọng đại về mặt lý luận, có quan

hệ đến cách hiểu, phương thức nắm bắt bản chất của chủ nghĩa xã hội và con đường

Trang 3

phát triển xã hội chủ nghĩa, đến tiền đồ và vận mệnh của chủ nghĩa xã hội

Chúng ta có thể định nghĩa bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng lực lượng sản

xuất, phát triển lực lượng sản xuất, thủ tiêu chế độ bóc lột; xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo để cuối cùng, đạt đến đích cùng nhau giàu có

Quan điểm này không phải mới, nhưng nó là sự khái quát khoa học tiến trình phát triển thực tiễn và nhận thức trong hơn hai mươi năm đổi mới ở Việt Nam Ý nghĩa của sự khái quát đó chính là câu trả lời cho vấn đề lý luận cơ bản hàng đầu: chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào trong giai đoạn hiện nay, đồng thời mang lại cho chúng ta một vũ khí tư tưởng có hiệu lực để tiếp tục giữ vững

và “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(1)

Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, khái quát lại có năm tiêu chí ngắn gọn mà sâu sắc, có lôgíc chặt chẽ, gắn liền với nhau thành một chỉnh thể hữu cơ để vạch rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội

Thực vậy, nếu chúng ta nói giải phóng lực lượng sản xuất mà lại chỉ đơn thuần coi giải phóng lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất là bản chất của chủ nghĩa xã hội, không nói gì đến ba nội dung sau thì như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa

sẽ không khác gì so với xã hội tư bản chủ nghĩa, sẽ không có một ranh giới rõ ràng

so với quan điểm “hữu khuynh” Trong định nghĩa bản chất chủ nghĩa xã hội, cần phải nói đến tiêu chuẩn về lực lượng sản xuất, nhưng cũng cần phải thấy rằng, tiêu chuẩn về lực lượng sản xuất không phải là tiêu chí căn bản để phân biệt sự khác nhau giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa Hơn nữa, do nhiều nguyên nhân lịch sử và hiện thực, một số nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới đã đạt tới trình

độ phát triển cao về lực lượng sản xuất Vì vậy, phải gắn liền việc giải phóng lực

lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất với việc xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo để cuối cùng, tiến tới tất cả cùng giàu có Chỉ có như vậy, mới thể

hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội

Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta chỉ nói tới ba nội dung sau mà không nói giải phóng lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất thì về hình thức, dẫu đã có sự phân biệt về ranh giới giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với mọi chế độ bóc lột, trong đó

có cả chủ nghĩa tư bản, nhưng lại không thể phân biệt được với quan điểm sai lầm

Trang 4

“tả khuynh” trước đây chỉ đơn thuần xuấtphát từ quan hệ sản xuất để xác định tính chất của chủ nghĩa xã hội, tách rời với thực trạng của lực lượng sản xuất, vượt qua các giai đoạn phát triển tất yếu của chủ nghĩa xã hội Kết quả cuối cùng vẫn không đạt tới mục tiêu tất cả cùng giàu có, mà chỉ có thể tạo ra một cuộc sống theo chủ nghĩa bình quân và tất cả cùng nghèo Rõ ràng, điều đó là trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội Năm nội dung cấu thành bản chất chủ nghĩa xã hội, nếu đi sâu phân tích, có thể thấy, giải phóng lực lượng sản xuất là cốt để phát triển sản xuất, phát triển sản xuất là cốt

để xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo, cũng có nghĩa là muốn xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo phải có điều kiện căn bản là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất Như vậy, chủ nghĩa xã hội muốn đạt được mục tiêu cuối cùng là tất cả mọi người dân đều giàu có thì xét đến cùng, phải phát triển lực lượng sản

xuất, không thể đơn thuần dựa vào việc thay đổi quan hệ sản xuất Hai nội dung này

không thể tách rời nhau, bởi đó là nguyên tắc thể hiện bản chất chủ nghĩa xã hội

Theo chúng tôi, luận điểm về bản chất chủ nghĩa xã hội là vấn đề căn bản, là hạt nhân trong toàn bộ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội Để hiểu rõ quá trình hình thành luận điểm của Đảng ta về bản chất chủ nghĩa xã hội, cần phải nghiên cứu

và nắm vững quá trình hình thành và phát triển trong thực tiễn lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Cho đến nay, những suy nghĩ cơ bản góp phần hình thành luận điểm của Đảng ta về bản chất chủ nghĩa xã hội, đại thể có thể chia ra làm ba giai

đoạn: suy nghĩ về bản chất chủ nghĩa xã hội trong quá trình sửa sai, xóa bỏ chế độ

quan liêu bao cấp; suy nghĩ về bản chất chủ nghĩa xã hội trong quá trình tiến hành đổi mới; kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra khái quát khoa học về bản chất chủ nghĩa xã hội

Việc thực hiện bản chất chủ nghĩa xã hội là một quá trình tiến triển tuần tự Bởi lẽ, bản chất của chủ nghĩa xã hội không đứng im một chỗ, nó không thể vạch ra một ranh giới rõ ràng ngăn cách giữa những gì đã được thực hiện với những gì sắp thực hiện, mà được thực hiện từng bước theo một tiến trình tuần tự, luôn vận động Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu và nắm bắt bản chất đó một cách biện chứng

Xuất phát từ hiện thực, trước hết phải xác định được các giai đoạn phát triển của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Đảng ta đã khẳng định Việt Nam đang

ở giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa xã hội - giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã

Trang 5

hội Sự cống hiến của lý luận về giai đoạn này của chủ nghĩa xã hội là ở chỗ coi chủ nghĩa xã hội là một quá trình phát triển lâu dài; giai đoạn hiện nay ở Việt Nam chỉ là giai đoạn đầu trong quá trình phát triển lâu dài đó Vì vậy, khi tìm hiểu và nắm bắt bản chất của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xuất phát từ hiện thực của giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, vừa phải thấy rằng nước ta đã tiến vào xã hội xã hội chủ nghĩa, vừa phải thừa nhận còn rất nhiều khoảng cách và chủ nghĩa xã hội ấy chưa đủ tiêu chuẩn Từ chỗ chưa đủ tiêu chuẩn đến chỗ đủ tiêu chuẩn, tức là đến khi có chủ nghĩa

xã hội hoàn thiện, đó cũng là quá trình phát triển tự thân của chủ nghĩa xã hội Đồng thời, đây cũng là quá trình mà bản chất chủ nghĩa xã hội không ngừng được thể hiện Xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải làm cho lực lượng sản xuất phát triển Khoảng cách lớn nhất trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội hay cái gọi là “không

đủ tiêu chuẩn” chủ yếu nhất lúc này là ở chỗ lực lượng sản xuất chưa phát triển Vì vậy, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất tuy là nhiệm vụ căn bản, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, nhưng đối với nước ta hiện nay, nhiệm vụ căn bản đó lại càng quan trọng, càng bức xúc Không chỉ thế, chúng ta còn phải xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo để cuối cùng, đạt tới tất cả giàu có Việc thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội này cũng đòi hỏi chúng ta phải phát triển lực lương sản xuất Sự phát triển của lực lượng sản xuất, đến lượt nó, lại có quy luật riêng và cũng tiến triển một cách tuần tự, đòi hỏi phải có đường lối và chính sách đúng đắn, có chiến lược phát triển hợp lý và sự phấn đấu gian khổ, không mệt mỏi của nhân dân cả nước; tóm lại, phải trải qua một quá trình lâu dài Có thể nói, đặt vấn đề giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất ở vị trí hàng đầu, vị trí cơ sở, nổi bật trong định nghĩa bản chất chủ nghĩa xã hội là chính xác

và sâu sắc

Trong quá trình phát triển chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ

sự phân hóa giàu - nghèo Đó cũng là một trong những mục tiêu của việc phát triển lực lượng sản xuất và là sự thể hiện quan trọng bản chất của chủ nghĩa xã hội Tuy nhiên, nước ta đang ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ một cách căn bản, và trên tổng thể, trong xã hội ta không còn sự phân hóa giàu - nghèo thành hai cực đối lập nhau, nhưng không thể phủ nhận hiện tượng bóc lột vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực, sự chênh lệch giàu - nghèo bất

Trang 6

hợp lý cũng vẫn còn tồn tại trong xã hội Ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện lực lượng sản xuất hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng một chế độ sở hữu mà trong đó, công hữu là chủ đạo; đồng thời thực hiện chế độ phân phối mà trong đó, phân phối theo lao động là chủ đạo, cho phép các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, coi đó là sự bổ sung cần thiết cho kinh tế xã hội chủ nghĩa Chỉ đến khi nào các thành phần kinh tế khác gây tác động hạn chế sự phát triển lực lượng sản xuất thì khi đó, chúng mới mất đi lý do và giá trị tồn tại Vì vậy, chỉ có không ngừng phát triển lực lượng sản xuất mới có thể từng bước xóa bỏ hiện tượng bóc lột và sự phân hóa giàu - nghèo bất hợp lý Nói cách khác, việc hoàn toàn xóa bỏ bóc lột và xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo cũng là một quá trình không thể thực hiện được ngay khi mới bước vào chủ nghĩa xã hội

Tất cả cùng giàu là mục tiêu cuối cùng mà chủ nghĩa xã hội phải đạt tới, không thể thực hiện được ngay khi mới bước vào chủ nghĩa xã hội Cái gọi là tất cả cùng giàu

mà chủ nghĩa xã hội theo đuổi là toàn dân cùng giàu trên cở sở lực lượng sản xuất phát triển cao, của cải xã hội tuôn ra dồi dào Tất cả cùng giàu không có nghĩa là thực hiện chủ nghĩa bình quân trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém, đời sống vật chất thiếu thốn, cái gì cũng chia đều, cùng nhau đi đều bước để tiến tới tất cả cùng giàu Cách làm như vậy thường chỉ có thể dẫn tới tất cả cùng nghèo

Để thực hiện mục tiêu cuối cùng, mục tiêu căn bản là tất cả cùng giàu, một yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển lâu dài của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là cho phép một số người, một số địa phương giàu trước, người giàu trước lôi cuốn người giàu sau để cuối cùng, tất cả cùng giàu Làm như vậy đương nhiên phải trải qua quá trình lâu dài, phải cố gắng nâng cao năng suất lao động và giác ngộ tư tưởng cho mọi người; đồng thời phải có chính sách đúng đắn mới có thể đạt tới mục đích tất cả cùng giàu

Sự khái quát khoa học về những cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã cho chúng ta thấy rằng, trên tổng thể, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những việc mang tính chất căn bản là nên làm thì phải làm, có thể làm trước, nhưng vẫn phải tuân theo quy luật khách quan và tình hình cụ thể của đất nước, phải phân chia giai đoạn để từng

Trang 7

đề dân sinh Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ phương thức, biện pháp để giải quyết một cách hiệu quả vấn đề dân sinh Đó là thực hành tiết kiệm, phát triển sản xuất, gắn phát triển kinh tế với chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Những luận điểm sâu sắc của Người về dân sinh là sự thể hiện tập trung và thiết thực tư tưởng “lấy dân làm gốc”

Những cá nhân kiệt xuất được người đời tôn vinh như những vĩ nhân chính là bởi ở

bước thực hiện mục tiêu đã định của chủ nghĩa xã hội Như vậy, vừa có thể phân biệt ranh giới với tất cả những tư tưởng từng vin vào những thất bại của chủ nghĩa xã hội

để phủ nhận nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa, lại vừa phân biệt ranh giới với tất cả những tư tưởng chỉ khư khư giữ lấy những mô hình cụ thể không còn phù hợp với tình hình thực tế trong nước, với đặc điểm thời đại, coi thường những yêu cầu của bản thân chủ nghĩa xã hội

Có thể nói, những cơ sở lý luận nêu trên không chỉ đúng với Việt Nam, với giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, mà còn đúng với tất cả các nước đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là với những nước lạc hậu khi bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.70

Trang 8

họ luôn có những khát vọng cao cả và cống hiến hết mình vì hạnh phúc của con người, của nhân loại C.Mác từng coi đấu tranh cho con người là niềm hạnh phúc lớn nhất của ông Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao

cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng

có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành (chúng tôi nhấn mạnh - N.Đ.H)"(1) Luận

điểm này đã phản ánh một cách cô đọng, súc tích quan điểm của Hồ Chí Minh

về dân sinh hạnh phúc Người đã dành trọn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình đấu tranh cho mục đích cách mạng đầy tính nhân văn - độc lập cho dân

tộc và hạnh phúc cho nhân dân Với những hoài bão thiêng liêng cùng sự đấu tranh

không ngừng nghỉ, hy sinh quên mình để hiện thực hoá lý tưởng đó, Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng cao cả, trường tồn trong lòng dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ

Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam muốn thành công không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản; rằng, do điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và thời đại, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa Mục tiêu chủ đạo - sợi chỉ đỏ xuyên suốt hai cuộc cách mạng

đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là giành độc lập cho dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân; trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, là khát vọng mang tính phổ biến của các dân tộc thuộc địa, là điều kiện không thể thiếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội Người cho rằng, nếu không giành được độc lập, tự do cho dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khaông đòi được

Bắt nguồn từ lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí

Minh đã luôn kiên trì độc lập dân tộc, coi đó là mục tiêu hàng đầu của cách mạng

Việt Nam Người đã giải quyết vấn đề độc lập dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân - thực hiện độc lập dân tộc để tiến tới chủ nghĩa xã hội; gắn vấn đề dân tộc trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề giai cấp và quốc tế; gắn cách mạng giải

Trang 9

phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc

Với những quan điểm hết sức đúng đắn và sáng tạo về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, gần ba mươi năm sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, một cuộc cách

mạng mới đã lần đầu tiên nổ ra và thành công ở một nước thuộc địa - Cách mạng

tháng Tám năm 1945 Nếu Cách mạng tháng Mười Nga lần đầu tiên chọc thủng hệ thống tư bản chủ nghĩa ở khâu yếu nhất của nó, tạo nên một sự kiện chính trị làm rung chuyển thế giới, thì Cách mạng tháng Tám đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở

ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Như chúng ta đã biết, giải phóng con người, chăm lo cho con người có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn luôn là sự trăn trở, đồng thời là mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh Song, với nhãn quan cách mạng và khoa học, Người hiểu rằng, muốn giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội thì trước

hết dân tộc phải giành được độc lập Nhưng, độc lập sẽ không có ý nghĩa nếu những

nhu cầu của các cá nhân, gia đình và cộng đồng không được đáp ứng Người khẳng định rằng, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; "nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì" Rằng, nếu "chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì Dân chỉ biết rõ giá trị của tự

do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"(2)

Vì vậy, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, với cương vị người đứng đầu Nhà nước dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng và Chính phủ phải

cố gắng giải quyết thật tốt vấn đề dân sinh, trong đó tập trung thực hiện ngay những

Trang 10

đối diện với một loạt khó khăn to lớn, với "thù trong giặc ngoài", trong đó nạn đói được coi là một thứ giặc nội xâm nguy hiểm đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người Trong điều kiện như vậy, cùng với những biện pháp tích cực khác để giữ vững thành quả của cách mạng,Người đã kêu gọi toàn dân thực hiện những biện pháp cần kíp, cấp bách, tức thì để kịp thời cứu dân thoát khỏi nạn đói Đó là phong trào "nhường cơm

sẻ áo", "lá lành đùm lá rách" để cùng chia sẻ những khó khăn Bản thân Người đã nêu một tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, dành phần lương thực ít ỏi nhưng chan chứa tình người cho đồng bào bị đói

Khi trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan niệm sâu sắc và khoa học nhưng lại rất giản dị và gần gũi như những lẽ phải thông thường mà ai cũng có thể hiểu và cảm nhận được Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội

là " mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”(3), “ làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”, “ tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” và “ làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” Người coi chủ nghĩa xã hội là "làm sao cho nhân dân đủ

ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, người già không lao động được thì nghỉ", là "không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"(4) Tựu trung lại, “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”(5) Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, hạnh phúc của con người gắn với những biểu hiện rất cụ thể, thiết thực trong cuộc sống đời thường - có cơm ăn và áo mặc, được học hành, được chữa bệnh khi ốm đau, được nghỉ ngơi lúc tuổi già, của quảng đại quần chúng nhân dân chứ không phải là những gì cao siêu và trừu tượng Chính cách giải thích dễ hiểu và rất thiết thực của Người về chủ nghĩa xã hội đã tạo nên sức thuyết phục, cảm hoá mạnh mẽ mọi người lao động Việt Nam đang nung nấu khát vọng xây dựng một cuộc sống ngày càng đầy

đủ và hạnh phúc

Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã hội luôn quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh Coi việc chăm lo cho nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, có đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh là trách nhiệm cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định

Trang 11

là vốn quý giá nhất của xã hội Thực tế cho thấy, song song với nhiệm vụ tập trung

mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất, Người đã đặc biệt quan

tâm đến việc đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu bức thiết của nhân dân, coi đó là một

trong những công tác chủ đạo, căn bản và cần kíp của nhà nước dân chủ nhân

dân Dân dĩ thực vi thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời Vì vậy, làm thế nào cho dân

có ăn, có mặc, được sung sướng và hạnh phúc luôn là nỗi trăn trở lớn nhất của Hồ Chí Minh, đồng thời là nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Việt Nam

Việt Nam là một nước nông nghiệp và đại bộ phận dân cư là nông dân Trước Cách mạng tháng Tám, người dân Việt Nam phải oằn lưng sống trong tình cảnh “một cổ hai tròng” - sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân và phong kiến Họ hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, không có một "tấc đất cắm dùi" Chủ nghĩa Mác - Lênin

đã từng chỉ ra rằng, chính vì không có hoặc bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất mà người lao động phải bán sức lao động của mình, trở thành kẻ làm thuê để mưu sinh, phải chịu sự bóc lột về kinh tế, áp bức về tinh thần và đè nén về thể xác của giai cấp

thống trị Vì vậy, biện pháp quan trọng hàng đầu và mang tính nền tảng để giải

quyết vấn đề dân sinh ở Việt Nam chính là mang lại ruộng đất cho nông dân Như chúng ta đã biết, bên cạnh độc lập dân tộc, một trong những thành quả to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khác mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại

cho người dân là người cày có ruộng Thông qua cải cách ruộng đất, những người

nông dân Việt Nam vốn bao đời nghèo đói nay được cách mạng trao cho quyền làm chủ ruộng đất - tư liệu sản xuất căn bản và quan trọng nhất để mưu sinh, để có cơm

ăn áo mặc và sống một đời hạnh phúc

Về kế sách lâu dài, Hồ Chí Minh chủ trương phải thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí, tích cực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế Như chúng ta đã biết, trên nền tảng hoà bình và độc lập, cần phải thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển Đó là nhiệm

vụ kinh tế quan trọng của miền Bắc nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội Nền kinh tế quốc gia phải tận dụng được những nguồn lực tự nhiên và

Trang 12

con người để tạo nên sự phát triển mạnh mẽ, hướng đến tăng thu nhập và sự giàu có cho tất cả mọi công dân Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, việc tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm là

vô cùng cần thiết Các tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như ruộng đất, hầm mỏ, nhà máy,… phải thuộc quyền sở hữu của toàn dân Nền kinh tế phải phát triển theo hướng công nghiệp hóa, đi lên sản xuất lớn có khả năng tạo ra năng suất cao nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân

Đề cao yêu cầu phát triển kinh tế như một mục tiêu quan trọng mang tính nền tảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, song Hồ Chí Minh không coi đó là nhiệm vụ duy nhất, không tuyệt đối hoá mục tiêu phát triển kinh tế; trái lại, Người còn rất chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề dân sinh Quan điểm mang tính chỉ đạo trong tiến trình cải tạo và xây dựng xã hội mới của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, là phải tập trung hướng vào "làm cho người nghèo thì đủ ăn Người đủ ăn thì khá giàu Người khá giàu thì giàu thêm"(6) Theo đó, mọi đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ con người, hướng vào con người nhằm cải thiện và nâng cao từng bước đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân; phải coi lợi ích và quyền hạn của nhân dân là trên hết;

phải nhận thức và hành động theo nguyên tắc việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm,

việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh Đối với nhân dân, cần phải cố gắng thực

hiện đời sống mới: tiết kiệm, vệ sinh và văn hoá Mục đích của đời sống mới, như Hồ

Chí Minh đã khẳng định, chính là làm sao cho nhân dân ta có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ hơn, đời sống tinh thần ngày càng vui mạnh hơn

Ngày nay, chúng ta thường thấy trên các diễn đàn quốc tế, trong các văn kiện về chiến lược phát triển, người ta hay nói đến phát triển bền vững, trong đó kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện các mục tiêu xã hội (con người) được coi như một sự lựa chọn phát triển ưu tiên và khôn ngoan nhất của các quốc gia Xét ở một khía cạnh nào đó, theo chúng tôi, tư tưởng phát triển bền vững đã ít nhiều xuất hiện ở Hồ Chí Minh từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX Thật vậy, sự kết hợp mục tiêu phát triển kinh tế với chăm lo đời sống cho con người luôn được Hồ Chí Minh đặc biệt coi

Trang 13

phát triển kinh tế, cần phải chăm lo một cách thoả đáng và thường xuyên các nhu cầu

thiết yếu và cơ bản, bảo đảm cho người dân các lợi ích vật chất và tinh thần phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước Thêm nữa, khi hướng vào giải quyết vấn đề dân sinh, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở con người tư cách động lực phát triển của xã hội

Theo đó, chăm lo cho con người cũng chính là thực hiện kế sâu bền gốc, tạo nền tảng

cho sự phát triển vững chắc của xã hội

Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra mối quan hệ chặt chẽ, hài hòa giữa

xã hội và tự nhiên; hiểu rõ ý nghĩa và vai trò quan trọng không thể thay thế của môi trường sinh thái đối với sản xuất, đối với sự tồn tại và phát triển của con người Chẳng hạn, Người chỉ ra rằng, nếu tài nguyên rừng bị cạn kiệt do hoạt động khai thác mang tính tước đoạt, bóc lột tự nhiên của con người sẽ dẫn đến những tác hại không thể lường hết: không còn gỗ để xây dựng nhà ở, mất nguồn nước, đất đai bị xói mòn, rửa trôi trở nên bạc màu không thuận lợi cho sản xuất: "Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”(8) Người phê phán một cách nghiêm khắc hiện tượng phá rừng, coi đó là hành vi “đem vàng đổ xuống biển” Những luận điểm đó của Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa sâu sắc hơn khi mà ngày nay, con người đã dần nhận ra rằng, tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, đặc biệt một số nguồn tài nguyên, như rừng, đất đai, khoáng sản rất ít hoặc không có khả

Trang 14

năng tái tạo

Xuất phát từ những nhận thức trên, nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ và chăm sóc tự nhiên -

“cái nôi” của con người đã được Hồ Chí Minh xác định rất rõ ràng, coi đó là biện pháp thiết thực để duy trì sự tồn tại, phát triển của chính bản thân con người, nâng

cao chất lượng sống của con người trong hiện tại và tương lai Một mặt, Người khuyên nhân dân tích cực sản xuất, cần cù lao động nhưng phải thực hành tiết kiệm;

không chỉ tiết kiệm về thời gian, sức lực, mà tiết kiệm cả trong tiêu dùng của

cải Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về lối sống giản dị, tiết kiệm:

ngôi nhà sàn đơn sơ, bữa cơm thanh đạm, giường mây, chiếu cói Tiết kiệm ở đây hoàn toàn không phải là chấp nhận cuộc sống "khổ hạnh" thiếu thốn, mà chính là

nhằm xây dựng nước nhà, xây dựng tương lai Có thể nói, tư tưởng về thực hành tiết

kiệm của Hồ Chí Minh chứa đựng một giá trị văn hoá sinh thái nhân văn sâu sắc, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà yêu cầu sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên trở thành một nguyên tắc cơ bản của sự phát triển bền vững

Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn quan tâm nhắc nhở và động viên mọi ngành, mọi người

tích cực tham gia gìn giữ tự nhiên, bảo vệ môi trường sống; nhấn mạnh ý nghĩa trước mắt và lâu dài của việc trồng cây gây rừng: "phải trồng cây nhiều và tốt để lấy gỗ Cây ăn quả, cây làm củi, cây công nghiệp cũng là nguồn lợi to lớn Cũng nên ra sức trồng cây để chống gió cát, bảo vệ ruộng, chống xói mòn ”(9) Người đã đề xuất một “sáng kiến vĩ đại” mà ngày nay trở thành một phong trào xã hội rộng lớn, có ý

nghĩa đặc biệt thiết thực với cuộc sống của con người - phong trào Tết trồng cây đem

lại màu xanh và nhiều nguồn lợi to lớn cả về vật chất và tinh thần cho đất nước, con người Có thể thấy rằng, những tư tưởng về bảo vệ môi trường sống của Hồ Chí Minh chứa đựng ý nghĩa to lớn, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi mà những nguy cơ ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên đang trực tiếp đe doạ cuộc sống của con người hiện tại và các thế hệ tương lai

Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia cùng bà con nông dân tát nước chống hạn cứu lúa không chỉ thể hiện tác phong gần dân, bám sát thực tiễn đời sống và sản xuất,

mà còn biểu hiện mối quan tâm sâu sắc và thường trực của Người đối với cuộc sống của nhân dân Bởi, triết lý của Hồ Chí Minh là triết lý hành động, nói đi đôi với làm,

lý luận gắn với thực tiễn Mặc dù bận nhiều công việc quan trọng của Đảng và Chính

Trang 15

phủ, song mỗi khi có dịp đến thăm các địa phương, các đơn vị bộ đội, các nhà máy, công trường,… bao giờ Người cũng dành thời gian hỏi han tình hình đời sống, kiểm tra nơi ăn chốn ở của đồng bào, của chiến sĩ và công nhân, nhắc nhở cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên quan tâm chăm sóc đời sống của con người, nhắc nhở mọi người phải giữ gìn vệ sinh trong sinh hoạt, bảo đảm an toàn trong lao động sản xuất…

Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, lợi ích vật chất dù rất quan trọng, song không phải là duy nhất; ngoài đời sống vật chất, con người còn có đời sống tinh thần và những nhu cầu tinh thần đa dạng Vì vậy, chăm lo cho con người không chỉ là chú ý giải quyết những vấn đề ăn, mặc, ở, mà còn phải chăm lo đến đời sống tinh thần của họ Nếu con người chỉ ăn no, mặc ấm mà không có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh thì cũng không thể phát triển toàn diện Vì thế, Người căn dặn Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm đến vấn đề dân sinh, phải

có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống

của nhân dân Bởi lẽ, mục đích của chủ nghĩa xã hội không có gì khác hơn là không

ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động

Chú trọng giải quyết vấn đề dân sinh, hay nói cách khác là quan tâm đến mặt xã hội trong tiến trình phát triển là một sự sáng tạo, thể hiện sự nhạy cảm chính trị của Hồ Chí Minh Trong điều kiện trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống còn vô vàn khó khăn

và thiếu thốn, hơn mọi sự tuyên truyền hay thuyết phục một cách thuần tuý, người dân chỉ có thể cảm nhận những giá trị tốt đẹp, ưu việt của xã hội mới và đặt trọn niềm tin của mình vào chủ nghĩa xã hội như một tương lai sán lạn qua những biểu hiện thiết thực, những giá trị cụ thể, "mắt thấy tai nghe" dù chưa đầy đủ ngay lập tức,

mà cuộc cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mang lại cho họ ngày càng nhiều hơn Trên một phương diện nhất định, tương lai bắt đầu từ hiện tại chính

là với ý nghĩa đó

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn

kiên trì vận dụng và phát triển những quan niệm của Hồ Chí Minh về dân sinh Dân

giàu trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu của sự phát triển đất nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa Công cuộc đổi mới đất nước đạt được nhiều thành tựu

Trang 16

quan trọng và nhờ vậy, tạo nên diện mạo và sắc thái mới trong đời sống xã hội, trước

hết là trong lĩnh vực dân sinh Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc

đánh giá là hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2005; chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện theo chiều hướng tích cực: năm 1985 mới đạt 0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672, năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, dự kiến năm 2007 đạt trên 0,75% Thứ bậc

về HDI tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới Thứ bậc trên thế giới về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (105 so với 123), cao hơn hàng chục nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh (từ 17,8% xuống còn 14,8%)(10) Đó là những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng sống của con người

Với Hồ Chí Minh, bao giờ dân cũng là gốc nước và nước là của dân Những quan

niệm của Người về vấn đề dân sinh không chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân đạo cao

cả, mà còn hàm chứa trong đó những giá trị chỉ dẫn quan trọng mang tầm chiến lược, soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam trong việc giải quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh - một trong những nội dung căn bản nhất của thời đại ngày nay, đồng thời cũng là một nội dung chủ đạo của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa./

(*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Biên tập - Trị sự, Tạp chí Triết học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam

(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.4 Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.161

Trang 17

đa dạng Để hiện thực hoá những nội dung của tư tưởng dân sinh hạnh phúc, theo tác giả, ngoài những biện pháp cần thiết khác, cần tập trung vào hai giải pháp cơ bản, đó là: thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát triển nhanh và hiệu quả hơn kinh tế thị trường ở nước ta Thứ hai, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng phát triển kinh tế tri thức

Tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân được Hồ Chí Minh

Trang 18

diễn đạt một cách cụ thể, chi tiết trong những hoàn cảnh cụ thể ở những năm sau đó (Dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,… Không có gì quý hơn độc lập tự do,…) Người luôn cố gắng quán triệt, cố gắng thực hiện tư tưởng ấy vào đời sống thực tiễn hàng ngày của quốc gia, dân tộc Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh đạo dân tộc ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn ý thức sâu sắc mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa độc lập, tự

do và hạnh phúc Ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tương quan giữa các mục tiêu đó có

sự thay đổi, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử Xác định đúng tương quan này ở từng thời điểm lịch sử cụ thể và có phương cách giải quyết tốt chính là nghệ thuật và tài năng lãnh đạo của Hồ Chí Minh

Đầu năm 1945, khi bối cảnh quốc tế và trong nước thay đổi, thời cơ thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc đang đến gần, Hồ Chí Minh xác định: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,

mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1) Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, bên cạnh vấn đề bảo vệ nền độc lập dân tộc, vấn đề dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc đã được Người đặt ra trong những công việc cụ thể hàng ngày Sự linh hoạt trong việc giải quyết đồng thời cả ba mục tiêu dân tộc, dân sinh, dân quyền trong các công việc cụ thể hàng ngày, trong từng chủ trương chính sách, biện pháp thực hiện là một đòi hỏi tất yếu, đặc biệt là đối với Việt Nam - một dân tộc vừa giành được độc lập dân tộc, chính quyền còn non trẻ

Sự thành bại trong việc thực hiện mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố Từ thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, từ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, có thể rút ra rằng, trong số các yếu tố đó thì việc lựa chọn đúng và thực hiện tốt các giải pháp cụ thể để giải quyết tốt những vấn đề cụ thể ở từng thời điểm của quá trình cách mạng đóng vai trò hết sức to lớn Việc xác định đúng những vấn đề cấp bách, cụ thể để từ đó tìm ra được các giải pháp thích hợp để triển khai thực hiện trong thực tiễn vừa đòi hỏi ý chí và quyết tâm cách mạng, vừa đòi hỏi có tầm nhìn sâu rộng thông suốt cả ở tầm chiến lược lẫn chiến thuật, cả vĩ mô lẫn vi mô

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Xét về thực chất, trong nội dung,

Trang 19

mục tiêu này là sự tiếp tục mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc trong bối cảnh độc lập dân tộc đã được thực hiện về căn bản (Độc lập dân tộc bao hàm nội dung rất rộng và phong phú: dân tộc bình đẳng hoàn toàn, độc lập, tự chủ hoàn toàn triệt để, có đầy đủ chủ quyền về mọi mặt, như chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh,…, độc lập trong hòa bình, thịnh vượng, tự do, hạnh phúc và phát triển phồn vinh…) Tuy nhiên, sự kế tục

đó vừa là sự kế tiếp, kế thừa, vừa là sự phát triển, sự đòi hỏi ở mức độ cao hơn Mục tiêu này, có thể nói, tập trung và nhấn mạnh nhiều hơn vào khía cạnh dân sinh hạnh phúc (dĩ nhiên trong nó có cả nội dung dân quyền tự do và dân tộc độc lập) nhưng bao hàm và thể hiện nội dung dân sinh phong phú, đa dạng, nổi bật và rõ ràng hơn Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh bao chứa trong

nó cả hai khía cạnh, hai góc độ, hay hai lĩnh vực là cá nhân và xã hội trong sự thống nhất gắn bó với nhau Cá nhân và cộng đồng không thể tách rời nhau trong tiến trình phát triển, trong việc thực hiện dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc, lại càng không thể tách rời nhau khi thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay phù hợp với những nội dung của thời đại đặt ra do sự phát triển kinh tế - xã hội

và bối cảnh chung, những tư tưởng của dân sinh hạnh phúc trước đây đã trở nên chật hẹp và không đầy đủ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chính là một trong những bước phát triển tư tưởng dân sinh hạnh phúc mà Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã xác định ngay từ ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cho phù hợp với bối cảnh đất nước trong thời kỳ đổi mới

Gần đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng, đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế nên nội dung tư tưởng dân sinh cần được mở rộng, bổ sung và phát triển thêm để có thể bao quát hết những đòi hỏi của thực tế phát triển kinh tế, xã hội và định hướng tốt cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, quân sự Các nhà nghiên cứu cũng đã đề nghị trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh bằng cách bổ sung thêm vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh một mục tiêu nữa là hạnh phúc Cuộc thảo luận vẫn đang tiếp tục Nhưng có thể thấy rằng, đề nghị đó không phải không có những căn cứ nhất định Sau nhiều thập kỷ đấu tranh giành và bảo vệ độc lập, tự do và sau một giai đoạn khó khăn khủng hoảng của đời sống kinh

Trang 20

tế, đòi hỏi hạnh phúc, phồn vinh và phát triển trong giai đoạn hiện nay trở nên mạnh

mẽ hơn khi đất nước phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế Hạnh phúc gắn

bó với dân giàu, bổ sung cho dân giàu như là một mục tiêu đầy đủ, trọn vẹn hơn cho từng cá nhân và gia đình Dân giàu và hạnh phúc cùng với nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đảm bảo sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, gia đình và cộng đồng Xu hướng cá thể hóa trong hưởng thụ, nghĩa vụ, trách nhiệm là một xu thế chung của sự phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, xu hướng ấy không làm giảm bớt hoặc thủ tiêu sự phát triển của cộng đồng và xã hội; trái lại, làm tăng động lực và tốc độ của sự phát triển ấy Thủ tiêu xu hướng cá thể hóa trong sự phát triển, chỉ nhấn mạnh tính chất tập thể, cộng đồng, hòa tan cá nhân vào tập thể và cộng đồng như trước đây trong thời bao cấp là không thích hợp với phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế Chính vì vậy, hạnh phúc phải là một mục tiêu, một tiêu chí để đánh giá sự phát triển của xã hội hiện đại

Trong bối cảnh đất nước hiện nay, việc thực hiện mục tiêu dân sinh hạnh phúc với nội hàm bao quát rộng như trên cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau

Hiện nay, “nước ta vẫn đang trong tình trạng kém phát triển Kinh tế còn lạc hậu so

với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém”(2), cho nên việc thực hiện dân giàu… đương nhiên còn rất hạn chế Nhanh chóng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, tranh thủ cơ hội vượt qua thách thức là nhiệm vụ trọng tâm cần được thực hiện nhất quán, kiên quyết và ưu tiên hàng đầu Muốn vậy, cần phải:

1) Nhanh chóng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát triển nhanh và có hiệu quả hơn kinh tế thị trường ở nước ta Thực tiễn nhiều năm qua và kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, chỉ có thể phát triển kinh tế - xã hội nhanh, năng động và sớm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh bằng cách phát triển kinh tế thị trường Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hơn hai thập kỷ vừa qua đã làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội nói chung trở nên năng động và có tốc độ phát triển cao hơn hẳn so với các thời kỳ trước đây, bộ mặt xã hội thay đổi nhanh chóng Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải phát triển đồng bộ các loại thị trường và tạo những điều kiện vĩ mô thuận lợi cho sự hoạt động của cơ chế thị trường, khắc phục và thủ

Trang 21

tiêu cơ chế “xin cho” trong những lĩnh vực mà cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả hơn để giải phóng triệt để các nguồn lực cho phát triển Mặt khác, trong những lĩnh vực mà cơ chế thị trường đã hình thành và phát triển, thực tiễn cho thấy cần phải quản lý có hiệu quả hơn sự vận hành của các lĩnh vực đó, tránh để những sơ hở trong quản lý và mặt trái của kinh tế thị trường gây hậu quả tiêu cực cho đời sống kinh tế -

xã hội đất nước

Dĩ nhiên, để quản lý nền kinh tế thị trường có hiệu quả và khắc phục những mặt trái

của nó lại phải nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.Trước hết, Nhà

nước phải đảm bảo bằng được tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, tham gia và hỗ trợ việc xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và hệ thống an sinh xã hội để có thể hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực cả từ bên ngoài đến lẫn nảy sinh từ bên trong Đồng thời, chỉ có bàn tay của Nhà nước mới

có thể tạo ra được môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi nhằm giải phóng

và phát huy các nguồn lực xã hội để phát triển kinh tế - xã hội, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, có trật tự kỷ cương, nhân văn và công bằng

Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy, Nhà nước cần tiếp

tục giảm thiểu tối đa sự can thiệp hành chính, mệnh lệnh vào các hoạt động của thị trường và của các doanh nghiệp Cần phải dứt khoát và kiên quyết tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, triệt để xóa bỏ “chế độ chủ quản” Điều này đã được Chính phủ chú ý triển khai khá kiên quyết và mạnh mẽ, nhưng tình trạng “chế độ chủ quản” và sự “nhập nhằng” giữa hai loại chức năng nói trên vẫn còn tồn tại và gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống Nếu không có những bước đi dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn và triệt để hơn, sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta sẽ bị kìm hãm, tốc độ phát triển không nhanh, gây ảnh hưởng đến các mặt khác của đời sống xã hội

Để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng cần phải tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống các cơ quan sự nghiệp Hai hệ thống này có chức năng, nhiệm vụ, vai trò khác nhau đối với nền kinh tế và đời sống

xã hội Trong cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp trước đây, hai hệ thống ấy được nhập làm một, công chức và viên chức được xem là một; do vậy, các lĩnh vực

Trang 22

dịch vụ công cộng, như giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao… bị coi là lĩnh vực hành chính, khiến cho chúng bị kìm hãm hoặc phát triển lệch lạc trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận động và phát triển của xã hội và của chính các lĩnh vực đó Thực tế của công tác nghiên cứu khoa học ở các viện nghiên cứu cho chúng ta thấy rõ tác hại

của cơ chế này Trước mắt, cần phải tách biệt hai hệ thống cơ quan nói trên, một mặt,

là để thực hiện tách chức năng quản lý hành chính nhà nước ra khỏi chức năng quản

lý dịch vụ công cộng như một loại hình kinh doanh dịch vụ nhằm giảm thiểu sự can

thiệp hành chính của nhà nước Mặt khác, để tạo lập và phát triển các quan hệ thị

trường trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng nói trên, cần chấm dứt cơ chế “xin cho” trong các lĩnh vực này Chúng ta sẽ không thể tạo lập và cũng không thể phát triển thị trường khoa học công nghệ nếu cơ chế “xin cho” vẫn còn tồn tại dai dẳng, vẫn chưa dứt khoát chuyển khoa học công nghệ ra khỏi khu vực hành chính sự nghiệp và đưa vào khu vực dịch vụ công

Một nội dung khác của giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là phải đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ và hệ thống ngân hàng Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 - 1998 ở khu vực Đông Nam Á và cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng hiện nay trên thế giới càng cho chúng ta thấy tính cấp bách của việc đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ và hệ thống ngân hàng Hiện nay,

có hàng loạt yếu tố và hiện tượng cho thấy hệ thống tài chính, ngân hàng của nước ta đang bị nhiều rủi ro đe dọa Sự tụt dốc của thị trường chứng khoán, chỉ số lạm phát gần 30% trong nhiều tháng qua, lãi suất ngân hàng cao hơn mức chịu đựng của các doanh nghiệp, những thủ tục hành chính phức tạp và nhiêu khê trong lĩnh vực này cũng như sự xuất hiện quá ồ ạt, thiếu quy hoạch của nhiều ngân hàng mới trong thời gian qua, tình trạng nợ xấu khá trầm trọng, v.v đang chứng tỏ hệ thống ngân hàng của chúng ta trở nên đuối sức trong cuộc cạnh tranh ngay tại sân nhà và trước những thách đố của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế Tình trạng ấy làm cho sức mạnh của nền kinh tế quốc gia bị giảm sút nghiêm trọng Cần khẩn trương đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ và hệ thống ngân hàng để tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế thị trường, cho việc tạo lập và phát triển các lĩnh vực thị trường đồng bộ và tuân thủ các quy luật thị trường

Trang 23

Thêm nữa, để phát triển kinh tế thị trường không thể chỉ thúc đẩy mở rộng và thực thi các quan hệ thị trường trong tất cả các lĩnh vực, các vùng miền là đủ Trong điều kiện nước ta hiện nay và thực tiễn phát triển những năm qua cho thấy, việc định hướng và quy hoạch phát triển kinh tế thị trường của chúng ta vẫn rất yếu Để phát triển kinh tế nói chung, kinh tế thị trường nói riêng, việc định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế chính sách với tầm nhìn xa, sâu sắc

và chuyên nghiệp là rất cần thiết, nhưng còn phải dựa trên cơ sở tính đến các quy luật phát triển xã hội, các quy luật của thị trường cũng như bối cảnh hội nhập quốc tế và những lợi thế của đất nước, con người và thời đại

Vấn đề then chốt trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách là định hướng đúng xu thế phát triển và diễn biến của thời cuộc, có thể tận dụng và phát huy tối đa mọi nguồn lực và lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội Giải phóng được mọi nguồn lực và sử dụng chúng một cách tiết kiệm để đạt được mục tiêu dân sinh nói trên là điều có ý nghĩa sống còn đối với việc định hướng, quy hoạch, kế hoạch và chính sách Điều hành vĩ mô của nhà nước được thực hiện thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và định hướng phát triển Nhà nước sẽ mạnh, dù số lượng biên chế của nó không nhiều, nếu việc điều hành thỏa mãn được yêu cầu đó Ngược lại, bộ máy nhà nước dù lớn đến đâu nhưng việc điều hành không đúng yêu cầu thì nó không phải là một nhà nước mạnh

Nội dung quan trọng khác của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nhằm thực hiện mục tiêu dân sinh trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là tập trung mọi nguồn lực phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh Tư tưởng cho rằng các thành phần kinh tế: nhà nước, tập thể, tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), tư bản nhà nước, đầu tư nước ngoài đều là những bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là rất đúng đắn Có thể xem đây là một đột phá về mặt quan điểm rất căn bản Tư tưởng đó đưa đến hệ quả là các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh Tuy nhiên, những tư tưởng ấy trong thực tiễn lại chưa được thực thi một cách nhất quán, dứt khoát, triệt để và mạnh mẽ Sự phân biệt, định kiến với khu vực tư nhân vẫn còn khá rõ nét Chính vì vậy, xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức

Trang 24

sở hữu sẽ gạt bỏ bớt vật cản trên con đường phát triển kinh tế thị trường Hơn thế, cần phải tiến thêm một bước nữa bằng việc xem kinh tế tư nhân cũng là một động lực cơ bản của nền kinh tế

Đáng tiếc là cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một chiến lược phát triển doanh nghiệp đúng tầm, đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế Bởi vậy, việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp vẫn lúng túng, dường như chưa tìm ra lối thoát, hướng đổi mới doanh nghiệp chưa được xác định rõ ràng, quá trình diễn ra chậm chạp và kém hiệu quả, hệ thống doanh nghiệp tư nhân đang phát triển theo xu hướng tự phát, không có quy hoạch giống như nấm mọc sau mưa, khi nắng lên lại lụi dần hàng loạt Kinh tế tư bản nhà nước phát triển ì ạch, còn kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang chiếm thế thượng phong với những ưu đãi và cả những e

dè, sợ sệt, sùng bái của các cấp, các ngành Nếu không có chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp phù hợp, có thể sau mười năm, hai mươi năm nữa, các doanh nghiệp tư nhân sẽ là những vệ tinh nhỏ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khi đó, dù muốn hay không, thì động lực chính của nền kinh tế quốc gia là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Động lực ấy có thể quyết định đẩy nền kinh tế đi theo hướng nào và với tốc độ phát triển ra sao

Vấn đề quan trọng hiện nay là phải nhanh chóng, quyết liệt, mạnh mẽ và dứt khoát xóa bỏ mọi rào cản, mọi sự phân biệt đối xử, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng thực sự cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển trong mọi lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm Sắp xếp, quy hoạch và định hướng các doanh nghiệp tư nhân phát triển theo chiến lược quốc gia để kinh tế tư nhân mạnh dần lên và đủ sức thay thế các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Điều đó sẽ đảm bảo cho nền độc lập tự chủ, tự do của dân tộc, mới có thể đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hạnh phúc lâu bền

2) Giải pháp thứ hai là phải đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng phát triển kinh tế tri thức Vấn đề đặt ra ở đây là phải đẩy nhanh chứ không chỉ là đẩy mạnh Đẩy mạnh chưa hẳn đã phát triển nhanh còn phát triển nhanh có thể cần đẩy mạnh lúc này mà không cần đẩy mạnh lúc khác, có thể chỗ này cần đẩy mạnh chỗ kia lại chỉ cần đẩy nhẹ mà vẫn phát triển nhanh Yêu cầu đặt ra là làm sao để phát triển nhanh nhưng bền vững, do đó cần chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hóa,

Trang 25

hiện đại hóa theo hướng phát triển kinh tế tri thức Đây cũng chính là cách để chúng

ta phát triển “rút ngắn”, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước phát triển cao

Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng phải hướng đến kinh tế tri thức, bởi

đó là xu hướng phát triển của thế giới Nếu không có định hướng như vậy, nền kinh

tế của chúng ta sẽ không thể phát triển rút ngắn và càng không thể tránh được những bước đi không cần thiết mà trước đây các nước phát triển đã phải trải qua Bối cảnh quốc tế hiện nay đang tạo ra những cơ hội thuận lợi cho việc định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào kinh tế tri thức Nếu tận dụng được tiềm năng và lợi thế của đất nước, có chiến lược quốc gia phát triển các doanh nghiệp đúng đắn, thực hiện tốt giải pháp phát triển kinh tế thị trường thì việc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có thể thực hiện được

Về phương diện tư tưởng, hiện đã đến lúc cần phải mở rộng nội dung hiện đại hóa vượt khỏi phạm vi kỹ thuật và công nghiệp để đi vào lĩnh vực xã hội Nếu ở nông thôn công nghiệp hóa và hiện đại hóa chỉ dừng lại ở việc đưa công nghiệp hiện đại vào nông nghiệp và nông thôn thì xã hội không thể phát triển nhanh được Thậm chí, nếu không hiện đại hóa xã hội thì việc tiếp nhận công nghiệp với các sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao cũng gặp nhiều khó khăn Nếu không có những con người hiện đại và một xã hội hiện đại tương ứng thì công nghệ và kỹ thuật hiện đại chỉ là những thứ xa xỉ phẩm để trưng bày mà không thể sử dụng được Bởi vậy, việc hiện đại hóa

xã hội trong giai đoạn hiện nay cần được nhận thức đầy đủ và đặt ra như một nhiệm

vụ song song với nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa kỹ thuật và công nghiệp Hơn thế, phải xem hiện đại hóa xã hội là một nhiệm vụ cần được thực hiện trước một bước Bởi vậy, có thể và cần thiết phải diễn đạt giải pháp này bằng mệnh đề mới là đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội và công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Ở một số nước trên thế giới, kinh tế tri thức đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân và là động lực then chốt thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của đời sống xã hội Kinh tế tri thức trở thành một trong những định hướng phát triển chính của kinh tế thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa Hướng đến kinh tế tri thức là một tất yếu do đòi hỏi của

sự phát triển của các nước phát triển sau Để thực hiện điều đó, công nghiệp hóa phải

Trang 26

chú trọng phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm hàng hóa có giá trị gia tăng cao dựa trên nền tảng thông tin tri thức tiên tiến, hiện đại của nhân loại, phải trang bị các công nghệ tiên tiến cho nền kinh tế, nâng cao năng lực nắm bắt và sử dụng các công nghệ cao của đội ngũ trí thức và công nhân chuyên nghiệp Nhưng muốn vậy, phải đào tạo được đội ngũ trí thức và công nhân công nghệ cao Để làm việc này đòi hỏi phải đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nói chung cùng với việc phát triển khoa học và công nghệ Đây là cả một hệ thống những giải pháp gắn chặt với nhau trong một tổng thể không thể chia tách, đòi hỏi phải áp dụng đồng thời, đồng bộ

Trong điều kiện nước ta hiện nay, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội đòi hỏi phải cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ở từng thời kỳ cụ thể Cơ cấu kinh tế hiện đại, phù hợp theo cả ngành, lĩnh vực và lãnh thổ Đây là công việc thường xuyên, ở từng thời kỳ phát triển đòi hỏi phải tái cơ cấu lại các ngành, nghề, lĩnh vực, vùng lãnh thổ có chú ý đến xu thế phát triển của kinh tế thế giới, khai thác tối đa các lợi thế của đất nước Việc tái cơ cấu nền kinh tế cũng gắn chặt với việc quy hoạch, kế hoạch, chính sách và định hướng phát triển cũng như bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, kết cấu hạ tầng kinh tế… Do vậy, cần phải xem xét cơ cấu kinh tế không phải là một cái gì đó bất biến, cố định trong suốt thời gian dài và giống nhau ở mọi vùng, mọi lĩnh vực

Trong nhiều năm qua, chúng ta vẫn lúng túng với việc tái cơ cấu nền kinh tế Có lúc

đã quá chú trọng vào công nghiệp nặng, có khi lại tập trung vào sản xuất hàng xuất khẩu, có khi lại xem trọng công nghiệp vật liệu xây dựng, gần đây lại đầu tư nhiều vào thủy điện… khiến cho việc quy hoạch định hướng và tái cơ cấu không thể thực hiện được Tình hình ấy vẫn còn nguy cơ kéo dài trong thời gian tới Bởi vậy, vấn đề có ý nghĩa then chốt và cấp bách lúc này là phải xác định được chiến lược quốc gia về tái

cơ cấu lại nền kinh tế Tương tự như để xây dựng và phát triển một thành phố lớn cần phải có quy hoạch tổng thể hợp lý, khoa học và phù hợp với hướng phát triển của thành phố Việc xác lập một cơ cấu kinh tế hợp lý cũng cần có một chiến lược quốc gia về tái cơ cấu lại nền kinh tế Không làm được điều này, việc tái cơ cấu lại nền kinh

tế của nước ta vẫn trong tình trạng “nước đến chân mới nhảy”, hoặc “chữa cháy”, thụ

Trang 27

động, đối phó và kém chất lượng, phải trả giá cao Có chiến lược quốc gia về tái cơ cấu nền kinh tế tốt chúng ta mới có thể giữ vững ổn định và đảm bảo tính tích cực của các cân đối vĩ mô, đảm bảo nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế

Một nội dung khác của giải pháp này là chú trọng hơn nữa đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, kết hợp giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông nghiệp, nông dân và nông thôn một cách tổng thể và đồng bộ Vấn đề đặt ra đối với nông nghiệp và nông thôn hiện nay là phải tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, biến nông nghiệp thành sản xuất hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến và thị trường Muốn vậy, phải đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa và khả năng cạnh tranh

Dĩ nhiên, bên cạnh nông nghiệp và nông thôn, vấn đề phát triển công nghiệp và công nghiệp hóa các ngành kinh tế khác trên cơ sở tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại là nội dung cơ bản của giải pháp này Nhà nước cần có chính sách và cơ chế thích hợp

để phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn, công nghệ mới sẽ là công nghệ chủ đạo trong tương lai, phát triển các công nghệ chế tác và những lĩnh vực công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu Đồng thời, phải tích cực phát huy hiệu quả của các lĩnh vực công nghiệp, các khu công nghiệp đã được xây dựng nhằm tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp cho xuất khẩu và tiêu dùng

Vấn đề quan trọng hiện nay, theo chúng tôi, là cần có tư tưởng đổi mới hơn nữa, phải thay đổi quan niệm đã lạc hậu cho rằng chỉ có nhà nước mới có thể làm công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp có công nghệ cao, hiện đại Lúc này hơn lúc nào hết phải có cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để tất cả các thành phần kinh

tế, nhất là kinh tế tư nhân tham gia làm công nghiệp, đi vào các ngành công nghệ cao sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng, sản xuất các tư liệu sản xuất theo hướng hiện đại, phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ, vệ tinh cho các tập đoàn công nghiệp lớn Cần xem việc thu hút đầu tư vào những dự án công nghiệp có công nghệ hiện đại, tiết kiệm tài nguyên, thân thiện với môi trường, phù hợp với quy hoạch quốc gia về phát triển công nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển công nghiệp của đất nước

Có hai lĩnh vực quan trọng gắn liền với sự phát triển công nghiệp hiện đại và cũng thuộc phạm trù phát triển công nghiệp là lĩnh vực kết cấu hạ tầng như sân bay, cảng

Trang 28

biển, đường cao tốc, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi cấp thoát nước, bưu chính viễn thông… và lĩnh vực dịch vụ Sau khi xây dựng được quy hoạch tổng thể quốc gia về phát triển công nghiệp thì việc xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng Việc này phải tiến hành đồng bộ, thậm chí có bước đi trước so với việc xây dựng các ngành công nghiệp, các xí nghiệp, nhà máy Tình trạng xây dựng các nhà máy, khu công nghiệp nhưng kết cấu hạ tầng không đồng bộ, kể cả kết cấu hạ tầng xã hội, đã làm cản trở sự phát triển công nghiệp, gây lãng phí tài sản quốc gia và làm nản lòng các nhà đầu tư, làm nhân dân mất tin tưởng vào năng lực quản lý lãnh đạo của Nhà nước

Các ngành dịch vụ của ta hiện có chất lượng thấp, do vậy cần phải tạo ra bước phát triển vượt bậc để tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và đảm bảo phát triển bền vững Các ngành dịch vụ có chất lượng cao ở nước ta chưa có nhiều Hoạt động dịch

vụ phải đảm bảo tính chuyên nghiệp cao là một đòi hỏi khách quan của xã hội hiện đại Thiếu tính chuyên nghiệp các dịch vụ khó có thể có chất lượng cao, do vậy khả năng cạnh tranh sẽ kém Vì vậy, việc tạo dựng các ngành dịch vụ có chất lượng cao, phù hợp với điều kiện và tiềm năng của đất nước, có sức cạnh tranh cao là nhiệm vụ

cấp thiết hiện nay Có như vậy, một mặt, mới có thể đưa tốc độ tăng trưởng GDP lên

mức cao hơn, đồng thời có thể tái cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở các ngành công

nghệ cao và phát triển các dịch vụ chất lượng cao Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu

hóa và hội nhập, muốn nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu và thực hiện mục tiêu dân sinh nói trên thì việc phát triển các ngành dịch vụ là một lựa chọn tất yếu và tối ưu

Tất nhiên, để phát triển công nghiệp còn có nhiều vấn đề Nhưng ở nước ta hiện nay, những vấn đề được nêu ở đây, theo chúng tôi, là những vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa then chốt trong giai đoạn hiện nay Đẩy nhanh công nghiệp hóa nền kinh tế và hiện đại hóa xã hội theo hướng phát triển kinh tế tri thức, xây dựng xã hội thông tin phải trở thành quan điểm chính thức, chính thống trong giai đoạn sắp tới với độ dài vài ba thập

kỷ

Để thực hiện mục tiêu dân sinh với những nội dung tư tưởng nói trên, đương nhiên, phải thực thi đồng bộ hàng loạt các giải pháp khác cùng 2 giải pháp nói trên Song, theo chúng tôi, trong bối cảnh hiện nay của đất nước, hai giải pháp này là hai giải

Trang 29

pháp cần thiết trước tiên Điều này xuất phát từ thực tiễn phát triển đất nước trong mấy thập kỷ đã qua, từ kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới và từ thực tiễn hội nhập quốc tế trong thời gian gần đây Cũng phải nhấn mạnh rằng, đây là hai giải pháp nền tảng, cơ bản và có tính then chốt Nếu thực hiện tốt sẽ tạo đà phát triển mới cho nền kinh tế và tạo thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp khác./

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học, Phó Viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đảng 1930-1945 Ban Nghiên cứu lịch sử

Đảng Trung ương xuất bản, 1977, t.3, tr.196

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.69

DÂN SINH - NỀN TẢNG CHO VIỆC XÂY DỰNG XÃ HỘI HÀI HOÀ

TÔN VỸ BÌNH (*)

Dân sinh là vấn đề căn bản của xã hội hài hoà Hiện nay, ở Trung Quốc, công cuộc xây dựng kinh tế đã giành được những thành tựu to lớn; tuy nhiên, việc xây dựng xã hội vẫn còn tương đối trì trệ “Chú trọng cải thiện đời sống nhân dân, vươn tới xã hội hài hoà” là tư duy lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc Chỉ có thể giải quyết tốt những vấn đề dân sinh mới có thể xây đắp nền móng cho xã hội hài hoà Để giải quyết vấn đề dân sinh, cần phải nắm chắc tình hình cơ bản của đất nước, thực

sự cầu thị, tiến cùng thời đại, từng bước giải quyết các vấn đề trong quá trình phát triển Có thể khẳng định rằng, xây dựng xã hội hài hoà và cải thiện đời sống nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội, cần động viên khích lệ toàn xã hội cùng quan tâm và thực hiện

Quan điểm phát triển khoa học lấy dân làm gốc đã chỉ rõ rằng, chú trọng cải thiện đời sống nhân dân và vươn tới xã hội hài hoà là mục tiêu mới của phát triển kinh tế -

xã hội ở Trung Quốc Vấn đề dân sinh có quan hệ với lợi ích thiết yếu và cuộc sống

Trang 30

hàng ngày của quảng đại quần chúng nhân dân, gắn liền với công bằng xã hội, chính nghĩa và hài hoà Từ trước đến nay, đây vẫn là vấn đề mấu chốt, phức tạp và nóng bỏng của xã hội Giải quyết vấn đề dân sinh, thúc đẩy kiến thiết xã hội là yếu tố cơ bản của quá trình xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa

I Dân sinh - hạt nhân của quá trình xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa

Nói đến vấn đề dân sinh chính là nói đến vấn đề đời sống, kế sinh nhai của quảng đại quần chúng nhân dân C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trước hết, chúng ta phải xác định tiền đề đầu tiên của sự sinh tồn toàn nhân loại, cũng chính là tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử Tiền đề đó là: để có thể “sáng tạo lịch sử” thì con người cần phải có một cuộc sống đầy đủ”(1) Từ trước đến nay, vấn đề dân sinh giống như người bạn đồng hành cùng con người và sự phát triển của xã hội Vấn đề dân sinh là vấn đề của lịch sử, vấn đề của động thái, nội hàm của nó biến đổi không ngừng cùng với sự phát triển của xã hội Ngày nay, vấn đề dân sinh đã trở thành vấn đề được mọi người rất quan tâm, là một phạm trù vượt xa cuộc sống sinh hoạt thông thường của nhân dân, như ăn, ở, đi lại; nó liên quan đến rất nhiều phương diện khác, như an cư lạc nghiệp của nhân dân, đoàn kết ổn định xã hội, phát triển xây dựng quốc gia, v.v hay liên quan đến các vấn đề như: giáo dục, việc làm, phân phối thu nhập, bảo vệ xã hội, trị an xã hội, v.v Nho giáo thời cổ đại đã chỉ rõ “xã hội đại đồng” bao hàm yếu

tố dân sinh: “việc thực hành đạo lớn, lấy thiên hạ làm công Lựa chọn hiền tài, dạy

dỗ tín nghĩa hoà mục Cổ nhân không chỉ lo cho người thân, không chỉ lo cho con mình, mà chăm lo cho người già, tạo điều kiện cho người trẻ, nuôi nấng trẻ em trưởng thành, làm cho những người cô đơn bệnh tật đều được chăm sóc, nam có bổn phận, nữ có quy tắc, v.v làm cho có mưu phản nhưng không khởi dậy, đạo tặc xuất hiện mà không ra tay, cửa nhà không cần đóng, đó chính là đại đồng” (“đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công Tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mu Cổ nhân bất dú thân

kỳ thân, bất độc tử kỳ tử, sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấu hữu sở trường, căng quả cô độc phế tật giả giai hữu sở dưỡng, nam hữu phân, nữ hữu quy Hoá ác

kỳ khí ư địa dã, bất tất tạng ư dĩ; lực ác kỳ bất xuất ư thân dã, bất tất vi dĩ Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất tác, cố ngoại hộ nhi bất bế, thị vị đại đồng”(2) Ngày nay, nội dung chủ yếu của quá trình xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa càng cần phải gia tăng cải thiện đời sống nhân dân, tăng tiến hạnh phúc

Trang 31

của toàn thể nhân dân, nỗ lực để toàn thể nhân dân ai cũng được học hành, người tài thì được sử dụng, người lao động thì có việc làm, người có bệnh thì được chữa bệnh, người già thì được chăm sóc, ai cũng có chỗ ở, thể hiện một diện mạo mới của sự hài hoà dân chủ và giàu mạnh

Thứ nhất, “chú trọng cải thiện đời sống nhân dân, vươn tới xã hội hài hoà” là quan điểm lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc Nhìn lại các kỳ đại hội Đảng

trước Đại hội lần thứ XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong các báo cáo chính trị đều không có sự bàn luận chuyên sâu nào về nội dung của việc xây dựng xã hội Tuy nhiên, sau Đại hội Đảng lần thứ XVI, sự quan tâm chú ý của mọi người đối với vấn đề xây dựng xã hội ngày càng tăng, đồng thời trong thực tiễn đã dần dần hình thành nên lý luận về việc xây dựng xã hội, nhưng mọi người vẫn còn chưa hiểu sâu

về nội dung của việc xây dựng xã hội, trọng điểm của nó lại càng chưa được hiểu rõ Báo cáo tại Đại hội Đảng lần thứ XVII đã sánh cùng thời đại, trên cơ sở tiếp thu những thành quả sáng tạo lý luận mới và kinh nghiệm thực tiễn từ sau Đại hội Đảng lần thứ XVI, lấy việc xây dựng kinh tế, xây dựng chính trị, xây dựng văn hoá, xây dựng xã hội làm mục tiêu phát triển và kết cấu tổng thể “tứ vị nhất thể” của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc; đồng thời, lấy việc cải thiện đời sống nhân dân làm điểm mấu chốt của quá trình xây dựng xã hội một cách đúng đắn và có hệ thống: “xây dựng xã hội và hạnh phúc an khang của nhân dân có mối quan hệ rất chặt chẽ Cần phải dựa trên nền tảng của sự phát triển kinh tế, chú trọng hơn nữa việc xây dựng xã hội, ra sức bảo vệ và cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy cải cách thể chế xã hội, mở rộng các dịch vụ công cộng, hoàn thiện quản lý xã hội, xúc tiến xã hội công bằng chính nghĩa, nỗ lực để toàn thể nhân dân ai cũng được học hành, người lao động thì có việc làm, người có bệnh thì được chữa bệnh, người già thì được chăm sóc, ai cũng có chỗ ở, thúc đẩy xây dựng xã hội hài hoà”(3), từ đó đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc Thực hành quan điểm phát triển khoa học, giải quyết hoàn hảo vấn đề dân sinh, xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo lý luận hết sức quan trọng của

Đảng Cộng sản Trung Quốc Hạt nhân của quan điểm phát triển khoa học là lấy dân

làm gốc Con người là chủ thể của xã hội, là lực lượng chủ đạo của việc phát triển

sản xuất, cũng chính là giá trị của sự phát triển xã hội Nếu không chú trọng đến vấn

Trang 32

đề dân sinh của con người lịch sử cụ thể, mà chỉ lấy “con người” trừu tượng hoặc cộng đồng, tập thể nào đó làm gốc, hoặc lấy phương diện mang tính phi đời sống của con người làm gốc (như: “tính cách mạng” hoặc chỉ tiêu GDP), thì lấy dân làm gốc vẫn là “giả hiệu”, thậm chí có thể đối lập với chính bản thân con người Do đó, kiên trì quan điểm phát triển khoa học lấy dân làm gốc phải luôn đặt việc cải thiện đời sống nhân dân lên vị trí hàng đầu, chuyển sự quan tâm có tính chất phiến diện đối với “cách mạng”, đối với tăng trưởng kinh tế và tích luỹ của cải vật chất sang tập trung vào việc làm cho cuộc sống của nhân dân ấm no hạnh phúc, xúc tiến sự phát triển toàn diện của xã hội và con người Cần phải đặt nhiệm vụ trọng tâm ở các vấn đề: vì dân, làm lợi cho dân, ưu đãi cho dân, an dân, v.v Trong khi thúc đẩy xã hội phát triển cần chú trọng dân sinh, trong quá trình cải cách cần duy trì sự yên ổn của nhân dân, trong quá trình triển khai thực hiện cần làm cho dân được vui vẻ, hạnh phúc, trong quá trình duy trì trật tự ổn định xã hội cần chú ý vấn đề dân hoà Cần ra sức bảo vệ và cải thiện đời sống nhân dân, dùng toàn tâm toàn lực làm cho toàn thể nhân dân ai cũng được học hành, người lao động thì có việc làm, người có bệnh thì được chữa bệnh, người già thì được chăm sóc, ai cũng có nhà ở Chỉ có như vậy mới

có thể thể hiện được một cách thực sự quan điểm phát triển khoa học lấy dân làm gốc, mới có lợi trong việc duy trì và bảo vệ lợi ích căn bản của quảng đại quần chúng nhân dân, phát huy tính tích cực của quần chúng nhân dân, phối hợp nhịp nhàng quan

hệ nội bộ của quần chúng nhân dân, xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa tràn đầy sinh khí và sức sống

Thứ hai, vấn đề dân sinh có quan hệ đến lợi ích thiết yếu của quảng đại quần chúng nhân dân, có mối tương quan mật thiết với hạnh phúc của nhân dân và xã hội công bằng chính trực Vấn đề dân sinh hoàn toàn không phải là vấn đề có tính chất cao

siêu thâm thuý, sâu xa khó hiểu hay thần bí Giải quyết vấn đề dân sinh chính là giải quyết vấn đề lợi ích của quần chúng nhân dân một cách hiện thực nhất, trực tiếp nhất

và quan tâm nhất Nếu giải quyết tốt các vấn đề, như công bằng giáo dục, việc làm, phân phối thu nhập, hệ thống bảo vệ xã hội, trị an xã hội,… thì quần chúng nhân dân thực sự đạt được lợi ích thiết thực, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống của họ cũng được nâng cao

Vấn đề dân sinh, xây dựng xã hội có liên quan đến lợi ích, cuộc sống an khang hạnh

Trang 33

phúc của nhân dân, do đó cũng có quan hệ trực tiếp đến tính hợp pháp của bộ máy nhà nước, thậm chí có thể làm thay đổi bộ máy nhà nước Lịch sử đã chứng minh hết sức rõ ràng, để có thể đại diện cho ý chí của nhân dân, lắng nghe tiếng nói của nhân dân, quan tâm chú ý đến cuộc sống của nhân dân, chính quyền cần đặt việc giải quyết vấn đề dân sinh lên vị trí hàng đầu Có như vậy mới phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân, mới có thể có được sự ủng hộ giúp đỡ trong lòng nhân dân, mới có được tính hợp pháp cho nhân dân, mới có thể “trị vì lâu dài mà ổn định, giang sơn mãi mãi vững chắc” Chính vì lý do đó mà trong lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tập thể lãnh đạo các thế hệ đều luôn lấy vấn đề lợi ích của nhân dân cũng như vấn đề dân sinh và xây dựng xã hội làm nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng nhất của Đảng cầm quyền Mao Trạch Đông đã chỉ rõ: “Tất cả những lời nói và việc làm của người đảng viên Đảng Cộng sản phải lấy lợi ích lớn nhất của quảng đại quần chúng nhân dân, sự ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân làm mục tiêu cao nhất” Đặng Tiểu Bình đưa ra tiêu chuẩn “ba điều có lợi”, trong đó nêu rõ: tiêu chuẩn quan trọng để phán đoán sự thành công hay thất bại của sự nghiệp xây dựng xã hội là ở chỗ: có lợi hay không đối với vấn đề nâng cao mức sống của nhân dân, đồng thời nhấn mạnh xuất phát điểm và kết cục của tất cả các chính sách có được “nhân dân ủng hộ hay không ủng hộ”, “nhân dân tán thành hay không tán thành”, “nhân dân vui hay không vui”, “nhân dân đáp ứng hay không đáp ứng” Trong báo cáo tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XV, Giang Trạch Dân cho rằng, xuất phát điểm và đích của toàn bộ công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc chính là toàn tâm toàn ý vì lợi ích của nhân dân Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào được xem là thế hệ lãnh đạo đầu tiên đưa ra chủ trương lấy dân làm gốc, lập Đảng vi công, lãnh đạo vì nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân Ông chỉ rõ: “Chú trọng cải thiện đời sống nhân dân, vươn tới xã hội hài hoà” Trong báo cáo tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVII, Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh: “Kiên trì lấy dân làm gốc chính là lấy việc thực hiện sự phát triển toàn diện của nhân dân làm mục tiêu”, xuất phát từ lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân để mưu cầu phát triển, thúc đẩy phát triển, không ngừng đáp ứng nhu cầu văn hoá, vật chất ngày càng cao của quần chúng nhân dân, thực sự bảo vệ quyền lợi kinh tế, chính trị và văn hoá của quần chúng nhân dân, khiến những thành quả của sự phát triển mang lại điều tốt lành cho toàn thể nhân

Trang 34

dân”(4)

Thứ ba, vấn đề dân sinh không nằm ngoài chủ đề xã hội hài hoà, bản thân nó chính

là nội dung cơ bản của xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa.Nền tảng quan

trọng của xã hội hài hoà là phát triển vừa nhanh vừa tốt vấn đề an cư lạc nghiệp, cuộc sống hạnh phúc của quảng đại quần chúng nhân dân và duy trì trật tự ổn định xã hội Nói một cách cụ thể, giáo dục là nền tảng của dân sinh, ưu tiên phát triển giáo dục, thực hiện công bằng giáo dục, dốc toàn lực để nâng cao tố chất của nhân dân không chỉ là điều kiện tất yếu trong việc hướng đến sự giàu có của nhân dân, mà còn là công việc hệ trọng của quốc gia trên con đường hướng đến hài hoà, văn minh, dân chủ, giàu mạnh Việc làm là tiền đề cơ bản của sự phát triển cuộc sống sinh tồn của quần chúng nhân dân, chỉ khi “người cày có ruộng” thì mới có thể “đói có cơm ăn, rét có áo mặc” Phân phối thu nhập là nguồn gốc vật chất trực tiếp nhất mang lại lợi ích cho nhân dân; chỉ có giải quyết tốt vấn đề phân phối thu nhập, thực hiện công bằng hợp lý chính nghĩa, quần chúng nhân dân mới có thể cùng nhau hưởng thụ thành quả của phát triển cải cách, mới có tính tích cực và sức sáng tạo trên con đường nhanh chóng đi đến xã hội khá giả Bảo đảm xã hội là đảm bảo một cách căn bản cho đời sống nhân dân ngày càng sung túc, chỉ có đặt mọi người vào “mạng lưới bảo hiểm”, hoạt động sản xuất của quảng đại quần chúng nhân dân mới có cảm giác an toàn, mới có cảm giác nhận được sự ấm áp của chủ nghĩa xã hội Ổn định xã hội là tâm nguyện chung của quần chúng nhân dân Chỉ có hoàn thiện quản lý xã hội, duy trì đoàn kết ổn định xã hội mới có thể tiến hành cải cách thuận lợi và thực hiện đúng đắn mục tiêu hài hoà của sự phát triển xã hội

Hiện nay, giữa thành thị và nông thôn hay giữa các vùng miền giáo dục không công bằng, thu phí giáo dục lung tung, khó tìm được việc làm, kỳ thị nghề nghiệp, phân phối bất công, thu nhập có khoảng cách quá lớn, bảo đảm xã hội không sáng suốt, khó khăn trong việc khám chữa bệnh, chi phí khám chữa bệnh cao, giá nhà tăng vọt,

an toàn thực phẩm (điển hình như sự việc sữa bột Tam Lộc), an toàn sản xuất (điển hình như Khoáng Nan), môi trường trị an kém và những hành vi hủ bại tương ứng,…

đã trở thành vấn đề liên quan đến lợi ích của quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân quan tâm và tập trung nhiều ý kiến nhất Những vấn đề dân sinh cơ bản trên nếu không được giải quyết thì quần chúng nhân dân không thể hài lòng, khó

Trang 35

II Lấy phát triển kinh tế làm nền tảng, dốc toàn lực cải thiện đời sống nhân dân, nhanh chóng xây dựng xã hội hài hoà

Dựa trên nền tảng phát triển kinh tế, chú trọng xây dựng xã hội, ra sức cải thiện đời sống nhân dân, xúc tiến xã hội hài hoà là yêu cầu mới, mong đợi mới của mục tiêu phấn đấu thực hiện xây dựng toàn diện xã hội khá giả; cũng là sứ mệnh, nhiệm vụ mới trước nhân dân cả nước Hiện nay, ở Trung Quốc, công cuộc xây dựng kinh tế

đã giành được những thành tựu khiến cả thế giới quan tâm chú ý Tuy nhiên, việc xây dựng xã hội vẫn còn tương đối trì trệ, một số vấn đề, như việc làm, bảo vệ xã hội, phân phối thu nhập, y tế giáo dục, nhà ở, an toàn sản xuất, pháp luật và trị an xã hội, v.v có quan hệ rất chặt chẽ với vấn đề lợi ích thiết yếu của quần chúng nhân dân, cuộc sống của bộ phận những người có thu nhập thấp đang gặp rất nhiều khó khăn Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có thái độ “tranh thủ sớm chiều”, tinh thần gian khổ lập nghiệp, nghĩ những điều dân đang nghĩ, giải quyết những việc dân đang cần, giải quyết những khó khăn của nhân dân, cải cách những chế độ và cơ chế bất hợp

lý, tăng cường đầu tư, chú trọng hệ thống phục vụ công cộng, làm cho đời sống nhân dân ổn định, giàu có, hạnh phúc vui vẻ Chỉ có như vậy mới có thể thiết thực nâng cao mức độ thoả mãn của quần chúng nhân dân và trình độ hài hoà của xã hội

1 Tăng trưởng kinh tế - cơ sở của việc cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội

hài hoà

Phát triển kinh tế là nền tảng cho sự phát triển, sự sinh tồn của con người và xã hội,

là đưa ra con đường giải quyết vấn đề dân sinh Phát triển kinh tế có nghĩa là làm tăng thêm của cải cho xã hội, tăng sức mua của con người, cải thiện đời sống vật chất

Trang 36

của con người, có nghĩa là xây dựng nền tảng cho cuộc sống hạnh phúc của con người Chỉ có phát triển kinh tế, tăng thêm của cải cho xã hội mới có thể tạo điều kiện và môi trường tốt để giải quyết vấn đề dân sinh, thoả mãn nhu cầu trên nhiều phương diện của nhân dân Xét đến cùng, mở rộng cơ hội có việc làm, giáo dục được

mở ra, nghiên cứu khoa học, cung cấp bảo hiểm khám chữa bệnh và chăm sóc người già, giúp đỡ những vùng khó khăn, trị an xã hội, v.v đều cần đến sự phát triển kinh

tế, cần giúp đỡ rất nhiều và không ngừng về mặt tài chính

Sau cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đã kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì tiêu chuẩn phán đoán giá trị “ba điều có lợi” (phát triển lực lượng sản xuất, tăng cường tổng hợp sức mạnh của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân) - xem đó là tiêu chuẩn của sự thành bại để phán xét tất cả, dù thế nào cũng phải xây dựng Sự đồng tâm nhất ý phát triển, xây dựng kinh tế và xây dựng xã hội đã giành được những thành tựu khiến cả thế giới quan tâm chú ý Hơn 200 triệu người dân đã thoát khỏi khó khăn, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của nhân dân đã được nâng cao, dịch vụ công cộng đã được tăng cường Mấy năm gần đây, nhân dân

đã được hưởng các chế độ ưu đãi, như miễn thuế nông nghiệp, thực hiện toàn diện miễn phí giáo dục nghĩa vụ cho các vùng nông thôn, chế độ bảo hiểm khám chữa bệnh Nếu không có sự phát triển liên tục của kinh tế, cuộc sống của quần chúng nhân dân gặp nhiều khó khăn trong thời gian dài thì vấn đề dân sinh không thể giải quyết được

Đương nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, bên cạnh sự phát triển kinh tế nhanh chóng, việc xây dựng xã hội của Trung Quốc còn ngưng trệ, các vấn đề dân sinh vẫn còn rất nhiều, bộ phận những người có thu nhập thấp đang gặp khó khăn Để giải quyết những vấn đề này, việc xây dựng xã hội hài hoà cần kiên trì “phát triển”, đổi mới tư duy Phát triển vĩnh viễn là giai điệu chính và “đạo lý cứng” Dân số Trung Quốc đông nhất trên thế giới, mật độ dân số đã vượt xa mức bình quân của thế giới, đối lập với nguồn tài nguyên thiếu thốn hoặc nguồn nhân lực có hạn, cùng với vấn đề môi trường sinh thái suy yếu, v.v Tất cả những vấn đề đó chỉ có thể giải quyết được thông qua việc tiến thêm một bước trong sự phát triển kinh tế - xã hội Cùng với sự phát triển của thời đại, nội hàm của vấn đề dân sinh ngày càng phong phú, ngoại diên cũng ngày càng mở rộng, việc giải quyết các vấn đề mới cần phải gắn chặt với sự

Trang 37

phát triển

Dùng quan điểm phát triển để xem xét, giải quyết vấn đề dân sinh không giản đơn mang ý nghĩa là những thành quả cải cách đem lại điều tốt lành cho nhân dân, mà khiến cho quần chúng nhân dân đạt được cái lợi thực tế; trên thực tế, bản thân sự phát triển bao hàm trong nó hai hàm ý là phát triển kinh tế và phát triển xã hội Do vậy, càng phải chú trọng đến xây dựng xã hội, giải quyết giáo dục, việc làm, phân phối thu nhập, dưỡng lão, chữa bệnh, bảo đảm nhà ở, ổn định xã hội, v.v Vấn đề dân sinh, bản thân nó chính là ý nghĩa trong vấn đề phát triển xã hội, đồng thời có mối quan hệ với bối cảnh và chất lượng của sự phát triển Dựa trên nền tảng của sự phát triển, nỗ lực bảo vệ và cải thiện đời sống nhân dân, hoá giải các mâu thuẫn xã hội là chính sách căn bản duy trì sự ổn định hài hoà xã hội

2 Bám chặt lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, xoay quanh các vấn đề dân

sinh cơ bản, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, xúc tiến xây dựng xã hội hài hoà

Vấn đề dân sinh có nội hàm phong phú, liên quan rộng rãi với các vấn đề khác, giải quyết nó là cả một hệ thống công trình phức tạp và to lớn Cần kiên định bám chặt lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, xoay quanh các vấn đề cơ bản, như “ai cũng được học hành, người lao động có việc làm, người có bệnh được chữa bệnh, người già được chăm sóc, ai cũng có chỗ ở”,… nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân

Ưu tiên phát triển giáo dục, thực hiện công bằng giáo dục xã hội Giáo dục là nền móng chấn hưng dân tộc, công bằng giáo dục là nền tảng quan trọng bảo đảm bình đẳng cơ hội và thực hiện công bằng xã hội Thực thi chiến lược “hưng quốc khoa học giáo dục” và “cường quốc nhân tài”, cần thực thi giáo dục tố chất, đổi mới quan niệm giáo dục, làm sâu sắc thêm phương thức và nội dung giáo dục, nâng cao trình độ hiện đại hoá giáo dục Giải quyết vấn đề công bằng giáo dục cần phải thực hiện tốt giáo dục cơ sở, mang đến cho nhân dân một nền giáo dục như ý Trọng tâm của giáo dục

cơ sở ở nông thôn cần phải tiếp tục củng cố thành quả giáo dục “song cơ”, cần phải

nỗ lực nâng cao chất lượng giáo dục theo chế độ bắt buộc 9 năm, cộng thêm sự trợ giúp tài chính đối với giáo dục bắt buộc ở nông thôn, thực hiện tốt chính sách “hai miễn một bù” Thành phố cần nhanh chóng giải quyết vấn đề con em của công nhân

Trang 38

và nông dân gặp khó khăn trong việc nhập học, quán triệt nguyên tắc công bằng trong giáo dục cơ sở, đảm bảo cho người dân ở thành phố và nông thôn có thể nhận được sự bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về quyền lợi giáo dục

Tìm mọi cách để mở rộng phát triển việc làm, thực hiện xã hội có đủ việc làm Người dân coi “dân dĩ thực vi thiên” Việc làm là đặc biệt cơ bản của dân sinh, chỉ khi người dân an cư lạc nghiệp, phát huy hết khả năng, có thể đạt được những điều mình mong muốn, như thế mới có thể thực hiện xã hội hài hoà ổn định Giữa tăng trưởng kinh tế và việc làm thể hiện mối quan hệ qua lại mật thiết Ở mức độ khái quát, việc làm là từ thay thế của phát triển Mặt khác, nâng cao mức sống của nhân dân, thực hiện xã hội công bằng là cơ sở quan trọng của việc thực hiện ổn định hài hoà xã hội Các cấp chính quyền cần phải đặt việc làm và tăng trưởng kinh tế vào vị trí quan trọng như nhau, thực thi mở rộng chiến lược phát triển việc làm, ủng hộ việc

tự chủ tạo nghiệp, thúc đẩy tạo nghiệp để mở rộng việc làm Cần hoàn thiện cơ chế tạo nghiệp thị trường, kiện toàn chế độ bồi dưỡng giáo dục chức nghiệp, xây dựng thống nhất quy phạm thị trường về nguồn nhân lực giúp đỡ công nhân tái việc làm, tích cực hướng dẫn lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn chuyển hướng sang lĩnh vực phi nông nghiệp, thiết thực làm tốt vấn đề việc làm của những sinh viên tốt nghiệp từ các trường, bộ đội phục viên, lực lượng lao động mới tăng cường Nỗ lực xây dựng chế độ bình đẳng về việc làm, mọi người ai cũng có cơm ăn, ai cũng được phát huy năng lực

Nâng cao thu nhập của người dân ở thành phố và nông thôn, thực hiện công bằng trong phân phối Chế độ phân phối thu nhập hợp lý là sự thể hiện quan trọng của công bằng xã hội Giải quyết vấn đề phân phối tất yếu phải tích cực thúc đẩy việc cải cách đổi mới chế độ phân phối thu nhập, từng bước hoàn thiện chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ đạo, đồng thời áp dụng nhiều loại hình phân phối khác, xây dựng và kiện toàn cơ chế tăng lương hợp lý, thông qua “mở rộng mức chung, nâng mức thấp, hạn mức cao” để giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, hình thành cục diện phân phối thu nhập “hai đầu nhỏ, ở giữa to”, làm cho quảng đại quần chúng nhân dân đều sống hạnh phúc, cùng được hưởng thành quả của cải cách mở cửa “Hiệu suất thứ nhất, mọi mặt công bằng”, đó là phương châm và nguyên tắc chỉ đạo đối với việc giải quyết vấn đề phân phối trong giai đoạn đầu tiến lên chủ nghĩa

Trang 39

xã hội ở Trung Quốc Vai trò của nhà nước là tăng cường điều tiết vĩ mô đối với phân phối thu nhập, chú trọng công bằng xã hội, nâng cao thu nhập cho người có thu nhập thấp, thúc đẩy mọi người cùng giàu có Cũng cần hoàn thiện chế độ thu thuế, điều chỉnh hợp lý sự chênh lệch về thu nhập, ngăn chặn phân hoá hai cực Cần làm tốt sự nghiệp công ích, sự nghiệp chung của xã hội, nhanh chóng xoá bỏ tình trạng bất công trong lĩnh vực phân phối sản phẩm công cộng; cần đặc biệt chú ý đến những khu vực nghèo khổ, giai tầng nghèo khổ, nhân khẩu nghèo khổ, những nhóm khó khăn đặc biệt, v.v Đảm bảo và duy trì mức sống cơ bản, đồng thời tăng cường giúp

đỡ người nghèo

Huy động quốc gia, tập thể, ngành nghề, xã hội, tính tích cực của cá nhân, xây dựng kiện toàn hệ thống đảm bảo và cứu trợ xã hội Chế độ đảm bảo xã hội có vai trò quan trọng đối với ổn định và hài hoà xã hội Hoàn thiện hệ thống đảm bảo xã hội, làm tốt

kế hoạch bảo hiểm cho người già, bảo hiểm y tế, bảo hiểm an toàn lao động, bảo hiểm thất nghiệp, v.v xây dựng chế độ y tế vệ sinh cơ bản bao trùm cả thành thị và nông thôn, nâng cao năng lực xử lý tức thời đối với những vấn đề vệ sinh công cộng đột xuất phát sinh, kiện toàn và hoàn thiện hệ thống bảo trợ, hỗ trợ, giúp đỡ, v.v đối với những tầng lớp khó khăn trong xã hội Toàn thể chính phủ và các nguồn lực xã hội cần giúp đỡ một cách thiết thực việc giáo dục đối với học sinh thành phố và nông thôn, cũng như vấn đề chăm sóc sức khoẻ, tích cực nghiên cứu những lộ trình mới trong vấn đề bảo hiểm y tế và chăm sóc sức khoẻ người già ở nông thôn, giải quyết thiết thực vấn đề các gia đình nông thôn không có khả năng khám chữa bệnh, cũng như vấn đề bệnh tật mà trở nên nghèo đói Có thể lợi dụng các hình thức đầu tư tài chính của chính phủ, tiến thêm một bước trong việc mở rộng thực lực và quy mô của vốn bảo hiểm xã hội, hoàn thiện chức năng đầu tư và đảm bảo nguồn vốn bảo hiểm

xã hội, đồng thời mở rộng bảo hiểm xã hội bao trùm toàn xã hội, tích cực sáng tạo điều kiện hướng đến các xí nghiệp dân doanh, hướng đến nông thôn(5)

Ngoài ra, cần phải hoàn thiện quản lý xã hội, tăng cường trị an xã hội và an toàn sản xuất, giải quyết triệt để các mâu thuẫn xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của quần chúng nhân dân; kích thích cao độ sức sáng tạo xã hội, hình thành cơ chế sáng nghiệp và quan niệm về sự thích ứng với chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội; khích lệ mọi người làm việc, giúp đỡ mọi người hoàn thành sự

Trang 40

nghiệp

3 Nắm chắc tình hình cơ bản của đất nước, thực sự cầu thị, tiến cùng thời đại -

phương pháp cơ bản để giải quyết vấn đề dân sinh, xây dựng xã hội hài hoà

Bảo vệ và cải thiện đời sống nhân dân cần phải kết hợp việc xây dựng lòng nhiệt tình với thái độ thực sự cầu thị, không được xem đó như là thành tích chính trị Cùng với việc giải quyết vấn đề dân sinh theo phương châm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bất luận là trung ương hay địa phương, các cấp chính quyền đều phải lấy việc giải quyết vấn đề dân sinh làm nhiệm vụ quan trọng Kỳ vọng của quần chúng nhân dân đối với việc giải quyết vấn đề dân sinh ngày càng cao Nhưng, nếu xem việc giải quyết vấn đề dân sinh như là thành tích chính trị, chú trọng chủ nghĩa hình thức tất sẽ dẫn đến chủ nghĩa thành tích hay lý thuyết xa rời thực tiễn, khó mà duy trì lâu dài được

Để bảo vệ và cải thiện đời sống nhân dân, cần kiên trì thái độ thực sự cầu thị, các biện pháp phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước và phù hợp với thực tế Từ sau công cuộc cải cách mở cửa, thực lực tổng thể kinh tế của Trung Quốc phát triển rất nhanh Tuy nhiên, do nền tảng quá mỏng, dân số đông, nên thu nhập bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, đầu năm 2007, chi phí tiêu dùng bình quân của khoảng 100 triệu dân chưa đến 1 USD/ngày/người; người già trên 65 tuổi đã vượt mức 7% tổng dân số cả nước, những người mù chữ hoặc biết chưa đến 1500 chữ vẫn còn khoảng hơn 100 triệu người Đối diện với nhiệm vụ khó khăn này, cần phải xuất phát từ đặc điểm cụ thể của Trung Quốc, các biện pháp phải phù hợp với tình hình thực tế và dốc hết sức lực để làm Trước mắt, việc nào có thể làm được thì cần phải làm một cách mạnh mẽ, quyết liệt để làm tốt; việc nào chưa thể làm được thì phải giải thích rõ cho quần chúng nhân dân, đồng thời tích cực tạo điều kiện để từng bước giải quyết vấn đề Giải quyết vấn đề dân sinh là một nhiệm vụ quan trọng, rất khó khăn và cần có nhiều thời gian

Để giải quyết vấn đề dân sinh, cần tăng cường nghiên cứu điều tra, đi sâu vào thực tế

và cơ sở, hiểu rõ dân tình dân ý Vấn đề dân sinh ở mỗi một khu vực khác nhau, mỗi cộng đồng người khác nhau có những đặc điểm khác nhau, phương pháp “đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân” thường chỉ có thể giải quyết được những khó khăn nhất thời, mà không thể giải quyết được bản chất vấn đề Chỉ có đi sâu vào thực tế,

Ngày đăng: 24/03/2014, 00:20

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w