1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(TIỂU LUẬN) đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng cộn g sản việt nam hiện nay

32 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đấu Tranh Trên Mặt Trận Tư Tưởng, Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Hiện Nay
Tác giả Nguyễn Minh Hồng
Người hướng dẫn Nguyễn Thành Long
Trường học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Lịch sử Đảng
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2023
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 32
Dung lượng 556,08 KB

Cấu trúc

  • A. Mở đầu (5)
  • B. Nội dung (6)
    • 1. Cách mạng Tháng Tám (6)
      • 1.1 Bối cảnh lịch sử (6)
      • 1.2 Diễn biến 2. Ý nghĩa lịch sử của CMT8 (8)
      • 2.1 Đối với dân tộc (11)
      • 2.2 Đối với thế giới (15)
      • 2.3 Kết luận 3. Nguyên nhân thắng lợi của CMT8 (16)
      • 3.1 Nguyên nhân chủ quan (0)
      • 3.2 Nguyên nhân khách quan (0)
      • 3.3 Nguyên nhân chủ yếu 4. Phân tích về bài học chớp thời cơ của CMT8 (18)
    • 5. Những bài học kinh nghiệm của CMT8 (0)
      • 5.1 Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ (20)
      • 5.2 Đánh giá đúng và biết tập hợp lực lượng yêu nước một cách rộng rãi với nòng cốt là liên minh công nông (0)
      • 5.3 Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, tập (24)
      • 5.4 Kiên quyết dùng bạo lực Cách mạng và biết sử dụng cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân (24)
      • 5.5 Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ (25)
      • 5.6 Xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền C. Kết luận (25)
  • D. Tài liệu tham khảo (29)

Nội dung

Nội dung

Cách mạng Tháng Tám

1.1 Bối cảnh lịch sử Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh không điều kiện Sự kiện đầu hàng của Chính phủ Nhật đã đẩy quân Nhật ở Đông Dương vào tình thế tuyệt vọng như rắn mất đầu, hoang mang vô cùng Chính Phủ bù nhìn Trần Trọng Kim rệu rã, tin Phát xít Nhật đầu hàng nhanh chóng lan truyền rộng khắp trong nhân dân Khắp nơi trên đất nước ta, Việt Minh nhanh chóng tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ trang, có tới hàng ngàn quân tham gia Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên giành chính quyền

Dù đang trong tình trạng sức khỏe yếu, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ ràng về thời cơ giành độc lập dân tộc: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc.” Khẳng định này có cơ sở vững chắc khi Đảng đã trải qua hơn 15 năm chuẩn bị kỹ lưỡng và phát triển qua từng giai đoạn.

Năm 1939, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, tình hình chính trị trong và ngoài nước đã có những biến động lớn, buộc Đảng ta phải điều chỉnh chiến lược lãnh đạo Sự chuyển hướng này được thể hiện rõ nét qua các hội nghị quan trọng như Hội nghị TƯ 6 vào tháng 11/1939 và Hội nghị TƯ 7 vào tháng 11/1940.

TƯ 8 (5/1941) với nội dung cốt lõi đó là :Đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của nhân dân Đông Dương, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động, chia lại đất công, giảm tô, đặt vấn đề khởi nghĩa vũ trang, xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có điều kiện là nhiệm vụ trọng tâm; tập hợp mọi lực lượng tiêu biểu để thành lập mặt trận chung lấy tên là: “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương” (11/1939) sau là

1 ( Võ Nguyên Giáp những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H trang 196).

Vào tháng 5 năm 1941, Việt Nam đã tuyên bố độc lập và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh bằng các hình thức chính trị phù hợp với tình hình mới Cách mạng Việt Nam cần phải đoàn kết, có mối quan hệ mật thiết và trở thành một phần không thể thiếu trong Cách mạng thế giới Chủ trương chỉ đạo chiến lược Cách mạng của Đảng đã được xác định qua các Hội nghị quan trọng.

6, 7, 8 là kim chỉ nam cho mọi hoạt động và có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của Cách mạng tháng Tám.

Lực lượng chính trị đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chú trọng xây dựng ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng Nhiều thanh niên ưu tú đã được đào tạo tại các trường của Quốc tế cộng sản Trong giai đoạn 1930-1931, Đảng tập trung vào việc xây dựng khối liên minh công-nông Đến năm 1936-1939, cuộc vận động dân tộc dân chủ diễn ra mạnh mẽ, đánh dấu bước tiến quan trọng khi Đảng hoạt động công khai, thu hút sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân và giai cấp trên toàn quốc.

Năm 1941, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp sức mạnh quần chúng, với các tổ chức quần chúng được gọi chung là “Hội cứu quốc” Mặt trận Việt Minh không chỉ phục vụ lợi ích của đất nước mà còn mang lại lợi ích cho nhân dân Việt Minh nhanh chóng trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc chiến cứu nước.

Lực lượng vũ trang đóng vai trò mấu chốt trong việc giành chính quyền cách mạng, được Đảng coi là lực lượng nòng cốt với vị trí quan trọng trong cuộc chiến Đầu những năm 1930, lực lượng này phát triển tự do và nhỏ lẻ, chưa có tổ chức Từ năm 1940, đội du kích Bắc Sơn trở thành hình mẫu cho các lực lượng vũ trang sau này Đến đầu năm 1945, đã hình thành một đội quân chính quy bên cạnh lực lượng dân quân tại các địa phương Quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ lực lượng vũ trang cách mạng, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn nuôi dưỡng bộ đội, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Căn cứ địa cách mạng đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng, nhằm chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Đây là nơi tập trung quân đội cách mạng, thực hiện các hoạt động chiến đấu và bảo vệ mặt trận, đồng thời cung cấp nhân lực và vật lực cho cách mạng Vào tháng 6 năm 1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang, từ đó căn cứ địa đã mở rộng ra nhiều khu vực khác Đảng cũng chú trọng đến việc đảm bảo thông tin liên lạc thuận lợi với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc Việt Bắc được chọn làm đầu não của cuộc kháng chiến nhờ địa hình thuận lợi và vị trí gần Trung Quốc, giúp nhận sự hỗ trợ từ các nước bạn Vùng giải phóng Việt Bắc trở thành hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, mở rộng ra để làm bàn đạp tiến sâu xuống đồng bằng, hướng tới giải phóng hoàn toàn đất nước.

Thời cơ của Cách mạng tháng Tám được coi là "ngàn năm có một" khi nhân dân ta có cơ hội giành độc lập Chưa bao giờ cách mạng nước ta lại hội tụ được nhiều điều kiện thuận lợi như lúc này, khi kẻ thù là Phát xít Nhật và tay sai của chúng đã bị quân Đồng Minh đánh bại trước khi ta hành động Trong khi quân Đồng Minh chuẩn bị vào Đông Dương, thời gian này là cơ hội quý giá, diễn ra ngắn ngủi từ khi Nhật đầu hàng cho đến khi quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật.

Vào đầu tháng 9, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã nhanh chóng tổ chức Tổng khởi nghĩa để giành chính quyền trên toàn quốc Nếu khởi nghĩa diễn ra trước khi quân Nhật đầu hàng, nguy cơ thất bại là rất cao Ngược lại, nếu khởi nghĩa xảy ra sau khi quân Đồng Minh vào Việt Nam, cũng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương

Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Hội nghị mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), kịp thời ra chỉ thị: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” Hội nghị nêu rõ: “Cuộc đảo chính đã tạo ra tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang mau chóng đi đến chín muồi” Hội nghị còn quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” trước đây bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.

Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương chính thức khai mạc tại Tân Trào (Tuyên Quang) Hội nghị nhận định các điều kiện khách quan, chủ quan đã chín muồi để khởi nghĩa nổ ra và thắng lợi; cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời nắm thời cơ phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh kéo vào Ba nguyên tắc để bảo đảm lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thắng lợi được Hội nghị để ra là: Tập trung lực lượng vào việc chính; thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội Hội nghị nhấn mạnh: Phải “tập trung lực lượng vào những chỗ cần thiết để đánh”, “đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê”

Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương vào ngày 13-8-1945 đánh dấu một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, một mốc son vẻ vang trong tiến trình đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã đồng loạt nổi dậy trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ ngày 14 đến 18/8/1945 Cuộc khởi nghĩa này đã giành thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam, cũng như tại các thị xã như Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, và Quảng Nam.

+ Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội

Ngay từ khi Nhật đảo chính Pháp, nhân dân Hà Nội đã sôi sục chuẩn bị đứng lên khởi nghĩa.

Những bài học kinh nghiệm của CMT8

Thời cơ lịch sử "ngàn năm có một" đã đến, và nhân dân cả nước quyết tâm giành độc lập Đảng đã nhanh chóng nắm bắt thời cơ này, lãnh đạo toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám 1945 của nhân dân ta là một minh chứng điển hình cho sự thành công trong nghệ thuật chuẩn bị lâu dài về lực lượng và nắm bắt thời cơ.

Để giành thắng lợi trong khởi nghĩa, việc chuẩn bị lực lượng là rất quan trọng và cần thực hiện một cách chu đáo, kéo dài trong nhiều năm Quá trình này của nhân dân ta diễn ra trong 15 năm, với mỗi phong trào cách mạng như một cuộc diễn tập Nguyên tắc chuẩn bị lực lượng tích cực là cốt lõi trong đường lối khởi nghĩa vũ trang Đồng thời, cần dự kiến các điều kiện thời cơ và biết chớp lấy thời cơ để dũng cảm phát động khởi nghĩa, nhằm giành lại chính quyền.

5 Những bài học kinh nghiệm mà Cách mạng Tháng Tám năm

5.1 Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân chủ và dân tộc

Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám thể hiện sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trong Cách mạng Dân tộc Dân chủ, Đảng ta khẳng định rằng nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ không thể tách rời Sự kết hợp này thể hiện rõ ràng trong quá trình đấu tranh giành độc lập và tự do cho dân tộc.

Trong ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức rõ ràng về mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chống Đế quốc và chống phong kiến, xác định rằng nhiệm vụ chống Đế quốc là chủ yếu Đảng đã đưa ra các khẩu hiệu cụ thể như giảm tô, giảm tức và chia ruộng đất cho nông dân nghèo để thực hiện từng bước cải cách ruộng đất Khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam và chủ trương tập trung vào việc chống lại đế quốc phát xít Nhật Pháp và bè lũ tay sai, nhằm giải quyết yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc Thắng lợi Cách mạng tháng Tám là minh chứng cho sự kết hợp đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

5.2 Đánh giá đúng và biết tập hợp lực lượng yêu nước một cách rộng rãi với nòng cốt là liên minh công nông.

Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công nhờ vào cuộc đấu tranh yêu nước của hơn 20 triệu người Việt Nam Sự nổi dậy của toàn dân chỉ có thể diễn ra khi có sự tham gia chủ lực của giai cấp công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Đảng đã xây dựng và củng cố lực lượng này qua ba cao trào cách mạng vào các năm 1931, 1936 và 1939, và đã phát triển mạnh mẽ trong tổng khởi nghĩa tháng Tám Dựa trên lực lượng chủ lực, Đảng đã xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tham gia vào cuộc tổng khởi nghĩa thành công.

Ngay khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn qua chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh, người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã tập trung vào việc xây dựng lực lượng Cách Mạng Ông khẳng định rằng để cứu nước và giải phóng dân tộc, cần phải theo con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, với Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong Hồ Chí Minh coi giai cấp công nhân là giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, có vai trò lãnh đạo trong khối liên minh toàn quốc giữa công nhân, nông dân và trí thức Ông nhấn mạnh rằng chỉ khi giải phóng giai cấp vô sản thì mới có thể giải phóng dân tộc, và cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể thực hiện được qua chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.

Giai cấp công nhân đóng vai trò trung tâm trong xã hội, đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất và mang sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng Để thực hiện sứ mệnh cao cả này, giai cấp công nhân cần thu hút và tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động và toàn thể dân tộc cùng đứng lên làm cách mạng.

Giai cấp nông dân Việt Nam, với bần nông và trung nông là lực lượng chủ lực của cách mạng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” Bần nông, lớp người đông đảo và nghèo khổ nhất, chịu sự bóc lột tàn bạo từ địa chủ phong kiến, luôn hăng hái tham gia kháng chiến và mong muốn thực hiện chính sách “dân cày có ruộng” Trung nông, những người cày ruộng của chính mình, cũng bị áp bức bởi địa chủ và bọn cho vay nặng lãi, nhưng họ cũng nhận thấy lợi ích từ chính sách này và nhiệt tình tham gia vào cuộc kháng chiến Do đó, cả bần nông và trung nông đều là những đồng minh vững chắc của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cho tự do và công bằng xã hội.

Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp nông dân đóng vai trò chủ lực do số lượng đông đảo của họ trong xã hội Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh một đất nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, vấn đề dân tộc thực chất chính là vấn đề của nông dân, và cách mạng dân tộc cũng gắn liền với lợi ích của họ.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nông dân Việt Nam có tinh thần cách mạng nhưng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo do thiếu gắn bó với phương thức sản xuất mới và hệ tư tưởng độc lập Họ cũng không đủ khả năng tự xây dựng một chế độ xã hội mới Bởi vì hoàn cảnh kinh tế lạc hậu, nông dân thường mang tính thủ cựu và rời rạc Do đó, giai cấp công nhân cần phải đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nông dân, biến họ thành một lực lượng vững mạnh, tạo nên sự liên minh giữa công nhân và nông dân.

Hồ Chí Minh, kế thừa tư tưởng truyền thống của dân tộc, đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của trí thức trong xã hội Việt Nam Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Người xác định trí thức là tầng lớp hàng đầu và ủng hộ các hoạt động yêu nước của họ Ông đã tố cáo những âm mưu và tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với trí thức, tiểu tư sản và học sinh, đồng thời quan tâm đến việc thức tỉnh tinh thần dân tộc và lòng yêu nước trong giới trí thức Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng vạch trần âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và phong kiến đối với tầng lớp trí thức nước ta.

Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc đặc điểm và tính chất của tầng lớp trí thức Việt Nam, nhấn mạnh rằng trí thức nước ta có sự khác biệt rõ rệt so với trí thức ở các nước tư bản đế quốc Trong khi trí thức tại các nước tư bản chủ yếu phục vụ cho giai cấp tư sản, thì trí thức Việt Nam, mặc dù có một số thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến và tư sản, vẫn phải chịu sự áp bức của đế quốc.

Trí thức Việt Nam mang tinh thần dân tộc và cách mạng, với học thức vững vàng giúp họ tiếp cận sách vở, hiểu biết về dân chủ và lịch sử cách mạng, đặc biệt là lịch sử cách mạng Pháp Nhờ đó, họ dễ dàng tiếp thu và đồng cảm với tinh thần cách mạng, từ đó thuận lợi hơn trong việc tham gia vào các phong trào cách mạng.

Ngày đăng: 02/12/2022, 09:04

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w