Những ý kiến, những lời thơ hay và đẹp nói về "Truyện Kiều" Những ý kiến, những lời thơ hay và đẹp nói về "Truyện Kiều" 1 "Tố Hữu tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết,[.]
Những ý kiến, lời thơ hay đẹp nói "Truyện Kiều" 1… "Tố Hữu tử dụng tâm khổ, tự khéo, tả cảnh hệt, đàm tình thiết, khơng phải có mắt trơng thấu sáu cõi, lịng nghĩ suốt nghìn đời, thi tài có bút lực " (Mộng Liên Đường) "Ngọc diện khởi ưng mai thuỷ quốc Băng tâm tự khả đối Kim Lang " (Phạm Quí Thích) "Mặt ngọc nỡ vùi đáy nước, Lịng trinh khơng thẹn với Kim Lang" (Nguyễn Quảng Tn dịch) 3… Mười năm qua, trở lại hồ bình Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa Cảo thơm đặt trước đèn, giở Mỗi trang Kiều rung bóng trăng Chạnh thương Kiều đời dân tộc Sắc tài mà lại truân chuyên Cành xuân phải trao tay nước Cỏ bên trời xanh sắc Đạm Tiên Bỗng quý cô Kiều đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường Chàng Kim đến tìm, lau giọt khóc Và lò trầm đêm toả bay hương ("Đọc Kiều"- Chế Lan Viên) Trải qua bể dâu Câu thơ cịn đọng nỗi đau nhân tình Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều ("Bài ca mùa xuân 1961"- Tố Hữu) Tiếng thơ động đất trời Nghe non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du, Tiếng thương tiếng mẹ ru mhững ngày Hỡi Người xưa ta nay, Khúc vui xin lại so Người! ("Kính gửi cụ Nguyễn Du"- Tố Hữu) TRAO DUYÊN Xuất xứ: Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho quãng đời 15 năm trời lưu lạc Thuý Kiều Đại ý: Kiều trao duyên cho Thuý Vân, gửi lại em gái kỉ vật mối tình chung Nàng đau khổ khóc than cho mối tình đầu tan vỡ, cay đắng cảm thấy người phụ bạc Phân tích: Kiều cầu khẩn, van lạy em gái, cậy nhờ em gái "chịu lời", nhận lời chịu uỷ thác việc hệ trọng Em gái trở thành ân nhân chị gái Kiều lấy "lễ" đối xử với em: "Ngồi lên cho chị lạy thưa" "Lạy thưa" - cử trang trọng, trang nghiêm Kiều thổ lộ với em mối tình đẹp với chàng Kim: "Chén thề": chén rượu hai người uống trăng đêm tình tự thề nguyền: "Trăm năm tạc chữ đồng đến xương" "Quạt ước": quạt mà Thuý Kiều tặng Kim Trọng Đó mối tình thề nguyền thuỷ chung đẹp Trước gia biến "sóng gió bất kỳ", tình hiếu "khơn lẽ hai bề vẹn hai" Chị phải đặt chữ hiếu lên chữ tình Chị phải trao duyên cho em lẽ em "tình máu mủ" chị, đời em trẻ chứa chan hạnh phúc: "Ngày xuân em cịn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non" "Lời nước non" lời thề non thề biển; son sắc thuỷ chung "Thay lời nước non" nghĩa thay chị, em lấy chàng Kim trả nghĩa cho chàng Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thuý , tìm đến nơi "di trú" gia đình người yêu Vương Ơng khóc than nhắc lại lời Kiều trước lúc đi: "Dùng dằng bước chân Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần Trót lời nặng với lang quân, Mượn em Thuý Vân thay lời Gọi trả chút nghĩa người Sầu dằng dặc mn đời chưa qn " Qua đó, ta thấy lịng q hố thơm thảo Th Kiều Nàng bán để chuộc cha, để cứu gia đình Tình yêu dù tan vỡ nàng giữ lấy "nghĩa" với chàng Kim, "cậy em" "thay lời nước non" Chị có trải qua nhiều đau khổ "thịt nát xương mòn " thơm lây nghĩa cử em Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em Trao dun cịn vấn vương, bi kịch tình u Kiều nói: "Chiếc thoa với tờ mây, Duyên giữ, vật chung." Đã trao duyên rồi, lại nói "vật chung?" Đó quy luật tình u, nỗi đau Kiều "con tằm đến thác vương tơ" Lời than Kiều não nùng thê thiết lời trăng trối Kiều nói đến "hồn", đến "dạ đài", nói đến ngày mai bi thảm từ cõi âm trở về: "Mai sau dù có Đốt lị hương so tơ phím Trơng cỏ cây, Thấy hiu hiu gió hay chị Hồn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rảy xin chén nước cho người thác oan" Tình yêu tan vỡ, Kiều xem "chết", chết đau khổ Lời than Kiều thấm đầy lệ Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu tan vỡ, "trâm gãy bình tan" Đau đớn kể cho "tơ duyên ngắn ngủi", cho "phận bạc" Kiều gửi lạy tình quân Kiều cất tiếng gọi người yêu ngất đi: "Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thiếp phụ chàng từ đây!" Trao duyên cho em để mặc cho sỗ phận "nước chảy hoa trôi lỡ làng" Kiều ngỡ trả nghĩa chàng Kim bớt phần đau khổ Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại vô đau khổ Nguyễn Du với trái tim nhân đạo mênh mông, ông ghi lại biến thái tinh tế tâm hồn Kiều, đau đớn ứa máu người gái mối tình đầu tan vỡ Ta cảm thấy ông người chứng kiến lễ trao duyên Đây đoạn thơ xúc động "Truyện Kiều", gồm "câu thơ cịn đọng nỗi đau nhân tình" CHÍ KHÍ ANH HÙNG Phân tích: Từ Hải khẳng định rằng, Thúy Kiều có chàng Bình Ngun Qn có Mao Toại Sẽ có ngày chàng chứng tỏ khả với Thúy Kiều Mao Toại chứng tỏ khả với Bình Nguyên Quân Từ Hải tự coi người phị tá Thúy Kiều, tơn Thúy Kiều chủ soái để sẵn sàng phục vụ Sống với vừa nửa năm Từ Hải đi: Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu động lịng bốn phương Từ Hải nói rõ mục đích mình: Bao mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường Bấy ta rước nàng nghi gia Thế nghĩa là, Từ Hải muốn để chứng tỏ khả phi thường với Thúy Kiều tạo dựng cho Thúy Kiều sống yên ấm Thúy Kiều mục đích Từ Hải Bản thân Từ Hải khơng có mục đích hay chủ trương cho riêng Ở đây, có liệu chưa thể lý giải: Từ Hải nói trước số cụ thể mang mười vạn tinh binh y chàng có sẵn số quân việc dẫn xong? Từ Hải vào ngày 15 tháng 12, nửa tháng tết (xem: Thời gian), việc tết chẳng có ý nghĩa chàng? Trước đi, Từ Hải hẹn ngày về: Đành lịng chờ lâu Chầy năm sau vội gì? ĐỀ 1: Phân tích đọan thơ “Thúc sinh từ biệt Kiều” “Người lên ngựa kẻ chia bào, Rừng phong thu nhuộm màu quan san Dặm hồng bụi chinh an, Trông người khuất ngàn dâu xanh Người bóng năm canh, Kẻ mn dặm xa xôi Vầng trăng xẻ làm đôi, Nửa in gối nửa soi dặm trường” BÀI THAM KHẢO Truyện Kiều Nguyễn Du tác phẩm đem lại tự hào cho dân tộc Chính kết hợp nhuần nhuyễn nghệ thuật điêu luyện nội dung phong phú đưa Truyện Kiều đến thành công rực rỡ Như ta biết Truyện Kiều có nhiều chia tay , phải nói chia tay Kiếu Thúc Sinh chia tay đầy tâm trạng người lẫn kẻ “Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu nhuốm màu quan san , Dặm hồng bụi chinh an Trông người khuất ngàn dâu xanh Người bóng nămcanh Kẻ mn dặm xa xơi Vầng trăng xẻ làm đôi, Nửa in gối nửa soi dặm trường” Chỉ vẻn vẹn tám câu thơ mà ta thấy ẩn chứa ý, bao tình, khơng tài nói hết Mỗi đầu đọan thơ, tác vẽ cảnh chia tay không ồn ngập nước mắt đầy uẩn khúc “Người lên ngựa, kẻ chia bào” Câu thơ bị chia làm hai Giờ chia tay điểm.Nguyễn Du tả nhiều Chính làm mờ nhạt hình ảnh hai nhân vật trung tâm lại tô dậm tâm trạng lưu luyến họ Thúc sinh lên ngựa, Thúy Kiều bịn rịn rời vạt áo chàng Thắm thiết hình ảnh người lại dùng dằng mãi, muốn chia xẻ đường hun hút dặm dài với người Cái quấn qt, nghĩa tình tô đậm lên khắc khỏai, ngổn ngang trăm mối phút chia tay Tiếp theo câu thơ đầy tâm trạng : “Rừng phong thu nhuộm màu quan san.” Thay tả hai người, tác giả lại tả rừng phong Khu rừng bước vào thu cịn khơng cịn cũ Có thay đổi mãnh liệt, sâu sắc “Rừng phong” “nhuốm màu” cách trở Tâm tạng người ảnh hưởng đến thiên nhiên làm cho quang cảnh chung quanh chùng xuống “Màu quan san”, từ ngữ thơ tạo cảm giác mông lung Không phải màu đỏ rừng phong mùa thu tranh cổ Trung Quốc Khơng phải màu cụ thể mà màu ly biệt, xa xôi… Cả câu thơ mang phong cách thơ Đường Cái ước lệ cách miêu tả lại khắc họa rõ tâm trạng bồi hồi xuyến xao người Và đến đến: “Dặm hồng bụi chinh an” Nguyễn Du không cần tả rõ “cách đi” Thúc sinh mà ta nhận cách vội vã chàng Nhịp thơ thúc hối, cấp bách đến nao lịng Bóng người khơng cịn , bị bụi hồng lên theo vó ngựa che khuất Nhịp độ thúc hối câu thơ gieo vào lòng người kẻ hụt hẩng, bâng khng khơng ngờ Nó làm tâm hồn người cô đặc lại nỗi buồn mênh mang Nhưng đám bụi vô tình : “Trơng nguời khuất ngàn dâu xanh” Đến đây, dư ảnh để tuởng tượng người khơng cịn nữa.Màu xanh ngàn dâu ám ảnh người , ám ảnh người đơn dừng lại Cịn đâu xanh ngát màu hi vọng mà màu xanh lạnh lẽo đến tê người Ý nghĩa màu xanh tác giả hóan đổi cách tài tình Trong mạch thơ nối nhau, quan san diễn tả nỗi buồn rõ nét hơn, cụ thể Cái cô đơn trống vắng khơng cịn lãng đãng vơ hình Những ngàn dâu xanh ngát ta bắt gặp thơ thời nói đến chia ly: “Cùng quay lại mà chẳng thấy Chỉ xanh xanh ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngát màu Lòng chàng ý thiếp sầu ?” (Chinh phụ ngâm) Ở sầu biệt ly xẻ chia "lòng chàng- ý thiếp" cịn nàng Kiều Nguyễn Du trơng theo “đám bụi hồng” xa tít tới chân trời mơ xanh ngàn dâu Có thể nói niềm hi vọng níu kéo người tiễn tan biến trước không gian bao la, rộng lớn đến tê lòng Rồi nguời lại hướng hòan tòan trái ngược nhau: “Người bóng năm canh, Kẻ mn dặm xa xôi” Nếu hai câu đầu người chủ thể khởi động hai câu vị trí đảo ngược “Người về” tâm trạng khắc khỏai mong chờ Người thui thủi đối mặt với để trở thành “chiếc bóng” suốt “năm canh”, cịn kẻ đơn đường thiên lý xa vời vợi mà không gian thờigian trải khôn , mênh mông, sâu thẳm Cuối hình ảnh vầng trăng : “Vầng trăng xẻ làm đôi ? Nửa in gối nửa soi dặm trường” Hai câu thơ làm cho mạch thơ thêm khắc khỏai Vầng trăng tâm hồn người kẻ Tâm hồn hai người gửi cho lúc chia tay , xa cách Vầng trăng bị “xẻ làm đôi” chứng tỏ tình nhớ thương thấm vào thiên nhiên , làm tâm hồn người rơi vào nỗi biệt ly khó địan tụ Cuộc chia tay Kiều Thúc Sinh chia tay định mệnh Chỉ cần đọc đọan thơ ta linh cảm bất trắc lần chia tay Chính tài tình Nguyễn Du tạo nên đọan thơ hay nhiều ý nghĩa Ý nghĩa thật sâu thóat khỏi văn ĐỀ 2: Nhân vật Thúy Kiều tác phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du có nguời có lịng “hiếu nghĩa đủ đường” nhân cách sáng Em chứng minh điều BÀI THAM KHẢO “Trăm năm cõi người ta, Chữ tài chữ mạng khéo ghét nhau” Mở đầu tác phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du viết Ông vịết cho người gái tài sắc vẹn tịan lại có đời đầy gian truân Đó Thúy Kiều Nàng thân tuyệt vời tài, sắc, nhân cách sáng , lòng hiếu nghĩa bề không thay đổi đời nàng đầy sóng gió vùi dập từ thân xác đến tâm hồn Điều thể rõ suốt nội dung truyện thơ mà người đọc dễ dàng nhận thấy Thúy Kiều sinh gia đình trung lưu, cha mẹ già yếu Vì lòng hiếu nghĩa nàng thể lòng hiếu thảo với cha mẹ già Nàng hi sinh đời gái , mối tình đầu đẹp tuyệt vời bán thân lấy tiền chuộc cha em khỏi vòng tù tội : “Hạt mưa sá nghĩ phận hèn Liều đem tấc đền ba xuân” Không ép buộc Kiều tự nguyện với tất lịng thương u gia đình, cha mẹ Nàng thật có hiếu với lịng hi sinh cao Đâu hết, lưu lạc rơi vào lầu xanh , không lúc Kiều không nhớ cha mẹ: “Xót người tựa cửa hơm mai Quạt nồng ấm lạnh giờ” Bị giam lầu Ngưng Bích với tâm trạng buồn tủi, lo âu tê tái nàng không quên đạo làm con, nàng cảm thấy có lỗi khơng cận kề chăm sóc cho cha mẹ lúc tuổi già bóng xế Nàng khơng trách gia đình mà ln lo lắng cho người Tấm lịng nàng thật cao quí Khi phải tiếp khách , lúc tỉnh rượu, tàn canh , tâm hồn thể xác rã rời nàng nhớ đến cha mẹ ngày già yếu : “Nhớ ơn chín chữ cao sâu Một ngày ngả bóng dâu tà tà” Kiều ln tâm hồn q nhà Phải nguồn sống nàng, giúp nàng quên phiền muộn ? Ngay khuyên từ Hải hàng nàng nghĩ đến gia đình : “Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha” Kiều nguời q tham cơng danh phú q Nàng mong cho cha mẹ vui lòng, mở mày mở mặt với người Nàng có cảm giác làm đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục song thân Không hiếu với cha mẹ Nàng cịn ln thương nhớ lo lắng cho em : “Sân hịe đơi chút thơ ngây” Nàng thương cho Thúy Vân, Vương Quan nhỏ dại, nàng mong cho hai em hạnh phúc Cuối tình cảm dành cho người yêu, nghĩa nguời thề nguyền hẹn ước Kiều phải chịu dằn vặt, đau khổ trao duyên cho em Nhưng nàng phải làm khơng nàng trở thành kẻ bạc tình : “Để lịng phụ lịng với ai” Đến xa cách , Kiều hình dung hình ảnh Kim Trọng thương lo cho chàng mịn mõi đợi mong : “Tưởng người nguyệt chén đồng Tin sương luống trông mai chờ” Nhân cách Kiều Tấm lòng hiếu nghĩa nàng không thay đổi Kiều sống có nghĩa có tình : mang ơn định phải trả ơn người cưu mang giúp đỡ thẳng tay trừng trị kẻ manh tâm hãm hại nàng.Khi lấy Từ Hải, ngồi lên “trướng hùm” vị trí “phu nhân”, Kiều khơng bỏ sót Ơn đền : Từ Thúc sinh, nàng ân cần đền đáp xứng đáng : “Gấm trăm , bạc nghìn cân” Cho đến mụ già quản gia nhà họ Họan, đến sư trưởng Giác Dun… Ĩan trả : Nàng khơng chưa Mã giám sinh, Tú bà Ưng Khuyển…thật sịng phẳng, rạch rịi “Thề lại gia hình” “Ai trơng thấy hồn kinh phách rời”…Nhưng đặc biệt, với Họan Thư, hành động “tha thứ” nàng lần làm bật chất nhân hậu nhân cách sáng, phong cách ứng xủ có tình có nghĩa nàng Tấm lịng hiếu nghĩa hịa quyện với nhân cách Kiều biến nàng thành người tuyệt vời Khi lọt vào lầu xanh, phải tiếp khách người mua vui , nàng ưu tư đơn độc Cuộc sống buông thả, sa đọa lầu xanh thú vui vật chất không làm Kiều thấy vui lên chút “Mặc người mưa Sở mây Tần Riêng biết có xn gì” Đối với nàng, ngày cịn vương vấn chốn lầu xanh khơng thể có niềm vui, khơng thể có mùa xn, ngược lại chuỗi ngày u ám, tối tăm “Vui vui gương kẻo Ai tri âm đó, mặn mà với ai?" Và “cung cầm nguyệt, nước cờ hoa”, nàng không cảm thấy vơi phiền muộn, nhục nhã, xót xa Mọi hành động nàng gượng ép, miễn cưỡng chốn lầu xanh vốn nơi cô gái có nhân cách sáng, lịng nhân hậu nàng Ngày xưa ngày nay, cô gái sa chân vào chốn bùn nhơ thường khó thóat mà có ngày bng thả cho đời muốn trơi đến đâu Nhưng Kiều khơng Nàng ln mang lịng niềm tâm : “Ơm lịng địi đọan xa gần Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau” Nỗi đau Kiều âm ỉ cháy cõi lòng Kiều ngày héo úa đau đớn dằn vặt Điều chứng tỏ lịng sáng Kiều làm vẩn đục Nàn vẫy vùng ,muốn thóat ra, muốn vươn lên khỏi chốn bùn nhơ Kiều khơng “thích hợp” với sống Ở cuối truyện, Nguyễn Du viết “Chữ tâm ba chữ tài” Thật vậy, Thúy Kiều với lòng nhân hậu, hiếu nghĩa nhân cách sáng thật đáng cho ta khâm phục, ngưỡng mộ Nàng thân viên ngọc q ngày mài dũa sáng bóng Truyện Kiều sống lòng ngưuời qua nhiều kỷ phần nhờ nhân vật Thúy Kiều ĐỀ 3: Có ý kiến cho : “ Trong lịch sử văn học nước ta, nói Nguyễn Du nhà thơ viết nỗi đau người, nỗi đau phụ nữ nỗi đau riêng thân mình” Em làm sáng tỏ nhận định số bài, đọan trích học (hoặc đọc thêm) Ơng BÀI THAM KHẢO : Trong thơ “ Kính gửi cụ Tố Như” Tố Hữu viết : “Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngó ý cịn vương tơ lịng Nhân tình nhắm mắt chưa xong Biết hậu khóc Tố Như ?” Gần ba kỷ trôi qua Thời gian đong đầy vầng thơ ngày lớp bụi mờ năm tháng qua lưu lại dấu chân Tố Như ! Là tiếng khóc người ? Ba kỷ trôiqua, Kiều đây, “Sở kiến hành” , người khóc người khóc người nỗi đau ngày Nên có nhận định “ Nguyễn Du người viết nên nỗi đau thân mình” Vươn lên hạn định không gian thời gian Tố Như hỏi nhiều hệ mai sau câu nhức nhối “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?” (Độc Tiểu ký) Người hỏi tất chúng ta, hỏi vòng quay lịch sử, hỏi đến nghìn năm sau câu hỏi đau xót khơng riêng cho mà cho tất người đau khổ xã hội người sống Ta khóc cho người hay khóc người ? Có lẽ hai , người thân cao nỗi đau đời vĩ đại , nỗi đau cho thân phận người, đặc biệt thân phận người phụ nữ lồng nỗi đau riêng thân người Xã hội đó, xã hội sẵn sàng vùi dập tài hoa, đọa đày số phận, bôi đen phẩm giá, tiết hạnh… Và Nguyễn Du nhận nỗi đau nỗi đau đời Tố Như sống biết vị mặn nước mắt , màu đỏ máu tim “Văn tế thập lọai chúng sinh” tiếng khóc lớn cất lên từ nỗi đau cao Trong xã hội mục ruỗng,bạo tàn, Tơ Như cất lên tiếng khóc cho tất số phận bi thảm người Tất họ sống dù mũ cao áo rộng , thu sinh nho nhã, đinh tay lấm chân bùn “cô hồn” vất vưởng, khổ đau, khơng nơi nuơng tựa Tố Như khóc cho họ, khóc cho tất Tố Như thương hại cho tất họ dù sống họ ai, họ làm Não nùng biết câu thơ đầy máu nước mắt: “Kìa đứa tiểu nhi bé, Lỗi sinh lìa mẹ lìa cha Lấy bồng bế thiết tha U tiếng khóc thiết tha nỗi lòng” Chúng đứa trẻ thơ chết yểu thơi, Tố Như khóc cho chúng khóc người thật sự, sống tàn nhẫn cướp sống em vừa nhìn thấy ánh mặt trời Tố Như nghẹn ngào thay cho cha mẹ em Một tình yêu nhân lọai cao Bởi Nguyễn Du sống khóc cho tất cả, người hiểu nỗi đau người xã hội Trước sau người có cảm gánh nặng đời đè lên vai người không ? Tố Như sống cõi sống mà dường chìm vào cõi chết để tìm chia xẻ với trăm ngàn oan hồn bạc mệnh: “Sống chịu đời phiền não Chết lại nhờ hớp cháo đa” Tất ân óan đời tan biến hết niềm thương cảm cao thượng chân thật Tố Như Người chết lặng dòng nước mắt, lời thơ khơng thể tạo thành dịng mà lại nấc lên đau đớn, nghẹn ngào Nỗi đau lâu vùi sâu lịng mà nhìn thấy tận mắt cảnh địan hồn thất thểu, lang thang vất vưởng cõi âm lặng lẽ nơi vô định, không chút ánh sáng ấm áp mà tịan bóng tối sâu thẵm mịt mùng, lạnh lẽo Người đứng trước vơ hạn đời tuần hịan biến chuyển, trước lạnh lẽo ngàn năm đời người vơ thủy vơ chung Và tiếng khóc người lặng lẽ chảy theo thời gian , theo đòan cô hồn đến tận ngày để làm nhức nhối vạn tim vết thương lành đau đớn Tố Như mang theo khối tình đau đớn suốt đời Bao nhiêu lần người xót xa lên lời thống thiết cho số phận nguời : “ Già giang lão trai, Một dây vô lại buộc hai thâm tình” “Rường cao rút ngược dây oan, Dẫu đá nát gan lọ người”.(Kiều) Khối tình từng phút làm quặn đau trái tim Người nguôi “Hồn không thấy trăm châu Hồn Nam Chỉ tịan người gầy gị khơng béo tốt” (Phản chiêu hồn) Và khối tình thật không nguôi tan cho dù gần ba kỷ trơi qua “Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” (Kiều) Nhưng có lẽ bật thơ Kiều hình ảnh người phụ nữ, tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi đau khổ xã hội phong kiến Hơn lần người thống thiết kêu lên : “Đau đớn thay phận đàn bà Lời bạc mệnh lời chung” (Kiều) “Cũng có lẽ lỡ làng kiếp Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh biết đâu” (Văn chiêu hồn) Từ vị trí người gái tài ba bị đời vùi dập, “thương hải tang điền” “Độc Tiểu ký”, “Long thành cầm giả ca” đến hạng người bị coi rẻ , bị chà đạp cô gái lấu xanh …Tất Nguyễn Du thương yêu , xót xa cất lên “tiếng khóc vĩ đại” cho số phận hẩm hiu Truyện Kiều, kiệt tác bất hủ Nguyễn Du biểu cao tình thương nỗi đau tim Tố Như Người thực hóa thân vào Kiều để làm sống lại cách sáng tạo nhân đạo tác phẩm Thanh Tâm Tài Nhân cách trọn vẹn, nói Xuân Diệu “ Tố Như đẻ Kiều từ trái tim” Thật vậy, khơng ơng khơng viết dịng thơ thống thiết nhức nhối lòng người đến thế: “Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy thưa” Gánh nặng đời oằn lên hai từ “cậy” “chịu” Tất nỗi đau Kiều , tất tình cảm Kiều dồn nén xuống cho lý trí lên tiếng, để tình u bừng dậy nhìn đến kỷ vật tình yêu Kiều nhiên chơi vơi thể trái tim bị vỡ thành trăm mảnh “Duyên giữ vật chung” Và tất nỗi đau , tất hãi hùng thảng đổ ập lên trái tim nàng : “Hồn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mangxuống tuyền đài chưa tan" Khơng Kiều , mà Nguyễn Du thảng kêu thét lên Chính nỗi đau người , trái tim người bị xé làm đơi : tình cảm lý trí Người Kiều Kiều Người Lời Kiều nói lời Người khóc than cho số phận “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình, lại thương xót xa” “Mặt dầy dạn gió sương Thân bướm chán ong chường thân” Những câu hỏi, trăn trở suy tư xóay vào lịng người đau buốt , nhức nhối ngàn năm khơng có lời đáp Nguyễn Du tự hỏi mình, hỏi tất người , hỏi lịch sử câu hỏi xé lòng chăng? Những lần Kiều bị hành hạ, đánh đập , roi giáng lên Kiều roi vô tình giáng lên trái tim ơng “Thịt da người” “Một sân lầm cát lầy Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc xương” Những nỗi đau đời Kiều, hay nỗi đau thân phận người phụ nữ bi kịch mà chuỗi bi kịch mà lần nàng Kiều tội nghiệp muốn ngóc lên, muốn thóat để “sống cho người” lại bị dập vùi, đầy đọa, bị dìm xuống sâu “đáy xã hôi” mục ruỗng, thối nát Chỉ biết ngậm ngùi trách…”ông Trời” ! “Hồng quân với khách hồng quần Đã xoay đến vần chưa tha” Có thể mà Kiều nhảy xuống sơng Tiền Đường để mong thóat khỏi xã hội Kiều phải tự tử nàng hiểu xã hội khơng chỗ cho nàng sống, cho Từ Hải sống ? Cũng thân Nguyễn Du Bao nhiêu lần người măc nhiên chấp nhận số phận “kiếp hồng nhan”, “đời thông minh” không may mắn, đầy nước mắt “đã mang nghiệp vào thân Thì đừng có trách trời gần trời xa” Đau khổ biết bao, nặng nề đời Nguyễn Du đau khổ Nỗi đau ấy, niềm trăn trở người kín đáo, tâm huyết ghi lại: “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” “Trăm năm sau nữa…trăm năm Biết người nhỏ lệ thầm khóc ta ?” Có hiểu cho nỗi lòng Người, hậu mai sau ? TRAO DUYÊN I)VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH Sau Thuý Kiều Kim Trọng thề với ,cùng đính ước tai biến xảy đến cho gia đình nàng Kiều phải hy sinh tình yêu với Kim Trọng , bán chuộc cha Đây đoạn miêu tẢ tâm trạng nàng sau định trao duyên cho Thuý Vân Đoạn trích trích từ câu 711 đến câu 757 tác phẩm “Truyện Kiều” II)CHỦ ĐỀ Trong đoạn trích Nguyễn Du khắc hoạ bật tình cảm thuỷ chung , son sắt Thuý Kiều Kim Trọng Ngồi Nguyễn Du cịn cho ta thấy Thuý Kiều người gái giàu lòng hy sinh , vị tha , biết quên hạnh phúc kẻ khác Đồng thời , qua đoạn thơ Nguyễn Du tố cáo bất nhân tàn bạo xã hội phong kiến vùi dập tình u đơi lứa , chà đạp , làm tan vỡ hạnh phúc quyền sống người lương thiện III) PHÂN TÍCH 1)Tâm trạng Thuý Kiều trao duyên cho em : Kiều ngại cho Kim Trọng việc đính , thề hẹn khơng thành : “Rằng lịng đương thổn thức đầy Tơ duyên vướng mối chu xong Hở mơi thẹn thùng Để lịng phụ lòng với ai” Đây tâm trạng phân vân Th Kiều, nói hay khơng nói điều sâu kín lịng mình? Nói thẹn vói Th Vân, mà khơng nói phụ lịng với Kim Trọng Đây tâm trạng dằn vặt , khó xử Từ tâm trạng dằn vặt khó xử Kiều đến định phải nói , khơng cịn hội khác Ngày mai nàng phải theo Mã Giám Sinh Lâm Truy Nhưng trước nói nàng quỳ xuống lạy Thuý Vân : “Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chi lạy thưa” Đây thái độ trân trọng Thuý Kiều đối vói Th Vân trân trọng với tình với người yêu Hơn Kiều sợ điều nói khơng Thuý Vân chấp thuận Lời Kiều nói với Thuý Vân lời đau đớn , tuyệt vọng: “Ngày xuân em cịn dài xót tình máu mủ thay lời nước non” Ngày xn Th Vân cịn dài có nghĩa ngày xuân Thuý Kiều hết Và Kiều lên lời tuyệt mệnh, hy sinh nàng đến mức thảm hại : “Chị dù thịt nát xương mịn Ngậm ngùi chín suối cịn thơm lây” Bi kịch dã lên đến cao điểm , Kiều trao duyên cho em tình nàng giữ Thế hết , nỗi tái tê dâng ngập hồn nàng , nàng đành vĩnh biệt người yêu 2) Tâm trạng Thuý Kiều sau trao duyên cho em Sau nói điều muốn nói , Kiêù cảm thấy thương , nghĩ đến ngày mai tăm tối mà phải trải qua “ Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc , lòng chẳng quên” Trong hai câu thơ Nguyễn Du dùng hai hình ảnh đối lập “nên vợ nên chồng “,”người mệnh bạc” để gợi nỗi thương tâm , chua xót Kiều Đã trao duyên cho em , Kiều băn khoăn lời thề chưa trọn nàng tâm làm tất , chịu đựng tất để trả nghĩa cho người yêu : “Hồn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai” Ở thuỷ chung son sắt tình u Th Kiều Lịng nàng “mang nặng lời thề” nên nàng quên Kim Trọng , nàng không đau đớn chưa thực hiên lời thề Và nỗi thương vơ hạn nàng Sự chia ly bày trước mắt , tình yêu nàng vừa đưa tay đón đổ vỡ tan tác , khiến nàng phải kêu lên tiếng kêu đứt ruột : “Bây trâm gãy , bình tan Kể xiết muôn vàn ân” Với hai hình ảnh “trâm gãy” “bình tan” với cách dùng câu cảm “Kể xiết muôn vàn ân !” Nguyễn Du khắc sâu thêm hoàn cảnh đáng thương Kiều Quá đau đớn xót xa cho tình ;quá lo lắng cho người yêu , Kiều quên Thuý Vân trước mặt , hình ảnh Kim Trọng lại nàng lên lời thật bi thiết : “Trăm nghìn lạy gởi tình qn Tơ dun ngắn ngủi có ngần Phận phận bạcnhư vôi Đã đành nước chảy hoa trơi lỡ làng Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang ! Thôi thiếp phụ chàng từ !” Ở Nguyễn Du dùng liên tiếp câu cảm thán , điệp từ (“phận”, “Kim Lang”) Cùng với từ láy “thôi , thôi” câu cuối làm bật oán than bi thiết Kiều Nguyễn Du đồng cảm sâu xa với nhân vật Ta cảm nhận nỗi đau Kiều nỗi đau Nguyễn Du IV)TỔNG KẾT : Nếu tình cảm tai biến gia đình , Kiều định bán để chuộc cha , đem lại yên ổn cho gia đình hy sinh nàng với lịng hiếu thảo đau khổ , ngại lời hẹn ước khơng trịn với Kim Trọng trao duyên cho em biểu lòng vị tha , hi sinh đáng trọng , lịng chung thuỷ sắt son c ó trước bất lực hồn cảnh Ngơn ngữ tinh tế , đọng, giàu hình ảnh , gợi liên tưởng phong phú phản ảnh cách sâu sắc cho tâm trạng đau xót NHỮNG NỖI LỊNG TÊ TÁI I/VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH: Đoạn trích từ câu 1233 đến câu 1270 Truyện Kiều Nguyễn Du Tiếc sau bị mụ Tú Bà Sở Khanh lập mưu đưa Kiều trốn khỏi lầu Ngưng Bích bắt để hành hạ bắt ép nàng phải tiếp khách , nàng không cịn lời lẽ để biện hộ cho nên đành phải chấp nhận Đây đoạn thơ Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Thúy Kiều sau tiếp khách làng chơi II/CHỦ ĐỀ : Thông qua việc miêu tả sống ê chề, tủi nhục , với tâm trạng đau đớn xót xa Thuý Kiều, người tài hoa bị dập vùi đời ô nhục đáng thương Nguyễn Du tồ cáo xã hội phong kiến tàn bạo nhẫn tâm chà đạp sống người lương thiện, bên cạnh tác giả cịn cho thấy đời bùn nhơ người lương thiện giữ đạo lý làm người III/ PHÂN TÍCH : 1.Nỗi đau sống bùn nhơ, tủi nhục : Từ người gái lương thiện trắng Kiều thực sống kiếp bùn nhơ tủi nhục, thực trở thành gái lầu xanh với bao nỗi ngao ngán, đau khổ Sau đêm tàn tiếp khách làng chơi Kiều lại giật đau đớn, xót xa, thương q đỗi : “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình lại thương xót xa” Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Kiều Nhà thơ đưa hai thời điểm : khứ để làm phép so sánh nhằm làm bật sống thật ê chề đáng thương Kiều “Khi phong gấm rũ là, Giờ tan tác hoa đường” Mới ngày sống êm ấm khuê phòng bên cha mẹ em mà nàng cánh hoa tan tác đường , hình ảnh so sánh thật độc đáo Tủi nhục ê chề nàng cảm thấy ghê tởm : “ Mặt dày dạn gió sương, Thân bướm chán ong chường thân” Tấm thân nàng mặc cho khách làng chơi dày vị, nàng đâu có chút niềm vui nào: “Mặc người mưa Sở mây Tần Riêng có biết xn gì” Ở nàng có độc, nàng khơng cịn tha thiết Tất gượng gạo thảm kịch đời “Đơi phen gió tựa hoa kề, Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu Cảnh cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Nàng chạy trốn cô đơn cầm kỳ thi họa đâu có tất tạm thời “Đơi phen nét vẽ câu thơ Cung cầm nguyệt, nước cờ dười hoa” Vui vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó, mặn mà với ai” Chạy trốn khơng , nàng đành trở với thực nỗi đau tê tái, đứt ruột, cô độc “Thơ gió trúc mưa mai Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài thân Ơm lịng địi đoạn xa gần, Chẳg vò mà rối, chẳng dần mà đau” 2.Một lòng đáng quý : Cái xã hội chế độ phong kiến đáng kinh tởm thực làm cho đời Kiêu tan nát ê chề, tủi nhục khơng thể hủy hoại thủy chung , hiếu thảo Kiều hay nói cách khác khơng thể chận khát vọng tình nghĩa có đạo lý ngu72i lương thiện Từ nỗi đau xót , ê chề, tủi nhục nơi chốn lầu xanh, từ cô đơn đến tận nỗi cô độc nơi đất khách quê người Kiều lại nhớ thương cha mẹ già yếu lại phải lo lắng cho nàng: “Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày ngã bóng dâu Dặm nghìn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận này.” Nàng lo lắng khơng biết hai em có thay nàng phụng dưỡng cha mẹ hay khơng: “Sân h cịn chút thơ ngây, Trân cam kẻ đỡ thay việc mình” Dịng nhớ thương nàng lại tiếp tục tn chảy, nàng lại nhớ đến Kim Trọng, nhớ lời thề xưa băn khoăn tự hỏi nơi xa xơi Kim có hiểu thấu cho lịng nàng ? “Nhớ lời nguyện ước ba sinh, Xa xơi có thấu tình ai?” Nàng lại ngại , lo lắng cho Kim Trọng, nhà Thúy Vân có thay kết dun chàng không “Khi hỏi Liễu Chương Đài, Cành xuân bẻ cho người chuyên tay Tình sâu mong trả nghĩa dày, Hoa chắp cánh cho chưa?” Còn nàng, tuổi xuân nàng, trắng nàng bị bọn buôn thịt bán người phá nát rồi, thật chua chát Tình nàng dứt đoạn rối tơ vònàng biết gửi nỗi nhớ quê nhà giấc mơ: “Mối tình địi đoạn tơ vị, Giấn hương quan luống lần mơ canh dài” Lời oán than thảm thương Kiều trước sống bị chà đạp, bị vùi dập lời kêu cứu thống thiết người trước xã hội ác Kiều kéo lê đời vũng bùn nhơ nhớp xã hội “Song sa vị võ phương trời, Nay hồng lại mai hồng” Cách giải thích Nguyễn Du nguyên nhân đau khổ Kiều: Nguyễn Du xót thương Kiều , lên án xã hội phong kiến vô lương , đau nỗi đau Kiều: “Lần lần thỏ bạc ác vàng, Xót người hội đoạn tràng địi cơn” Nhưng lấy làm tiếc không thoả mãn chút với cách giải thích đầy cam phận đoạn cuối Đó cách giải thích theo thiên mệnh Cuộc đời Kiều đau khổ Trời đặt: “Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục lần thôi” III/TỔNG KẾT : Trích đoạn “Những nỗi lịng tê tái” thành công lớn Nguyễn Du nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật Với hình ảnh giàu gợi tả, với mối đồng cảm sâu xa nhân vật Thúy Kiều Nguyễn Du khắc tả đậm nét “những nỗi lòng tê tái” Kiều phải sống kiếp gái lầu xanh với tủi nhục ê chề Đồng thời Nguyễn Du cho ta thấy phẩm chất đáng quí Kiều Đó lịng hiếu thảo với cha mẹ lòng chung thủy với người yêu Từ ‘hoa’ ‘Truyện Kiều’ [Trần Văn Trình] Trong kho tàng văn học VN, khơng sánh với đại thi hào Nguyễn Du dù phạm vi hẹp: Cách dùng từ “hoa” viết hoa “Truyện Kiều” có đến hàng trăm câu thơ dùng từ “hoa” câu có ý nghĩa khác Trước hết từ “hoa” dùng nhiều lần tính từ đẹp, cao sang, quyền quý “thềm hoa”,“kiệu hoa”, “sân hoa”… Khi Thúy Kiều gặp Mã Giám Sinh, Nguyễn Du viết: Thềm hoa bước lệ hoa hàng Và nàng sa bẫy Sở Khanh, câu thơ Nguyễn Du dùng đến ba từ “hoa” để diễn tả tâm trạng Kiều khiến người đọc, người nghe liên tưởng hình ảnh Kiều bị giày vò nào: Giá đành nguyệt mây Hoa sao, hoa khéo đọa đày hoa Thông thường người ta dùng từ “hoa” với nghĩa danh từ để người gái đẹp, yêu kiều Nhưng cụ Nguyễn Du dành từ “hoa” độc đáo người trai để giãi bày tình cảm Thúy Kiều Kim Trọng “xăm xăm băng lối vườn khuya mình”: Nàng khoảng vắng đêm trường Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa Nếu theo quan niệm “cọc” “trâu” rõ ràng tình này, “cọc” băng vườn tìm “trâu” cách nhiệt tình, chủ động với bồng bột đáng yêu mối tình đầu Đặt vào bối cảnh đời Truyện Kiều thấy quan niệm cụ Nguyễn Du tình u nam nữ chân vơ tiến bộ, dân chủ, sánh ngang với mối tình thời đại Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nhiều lần trở lại dùng từ “hoa” với nghĩa nói Kim Trọng, mối tình Thúy Kiều với chàng Kim: Thề hoa chưa chén vàng Lời thề phụ phàng với hoa Hay: Hoa chắp cánh cho chưa Hoặc mô tả tâm trạng Thúy Kiều sau 15 năm lưu lạc gặp lại người yêu cũ: Trơng hoa đèn chẳng thẹn thùng ru Rất khó tìm thơ ca đại cách dùng từ “hoa” cụ Nguyễn Du để ám người trai, tình u từ phía người gái Có câu chung chung tượng trưng cho tình u đơi lứa Phải chăng, sống thực mãi sau, người Việt Nam yêu tìm thấy Truyện Kiều thơ hay để diễn đạt tình yêu tình huống, hồn cảnh, đủ cung bậc tình cảm với ý nghĩa vơ giàu có từ “hoa” Như nam nữ niên lễ hội, tình cờ gặp người mộng: May thay giải cấu tương phùng Gặp tuần đố thỏa lịng tìm hoa Khi diễn tả e dè, thẹn thùng hai cô gái: Hai Kiều e lệ nép vào hoa Khi người yêu bị gia đình ép duyên gả cho gia đình trọc phú hay bn bán lèo lái: Xót nàng chút phận thuyền quyên Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn Khi bày tỏ thái độ nghiêm túc mối tình đáng: Đừng điều nguyệt hoa Ngồi lại tiếc với Khi phê phán người tự cho “sành điệu” quan hệ nam nữ, hiểu chất bạn tình: Chơi hoa dễ người biết hoa Khi vỗ về, an ủi mối tình tan vỡ hàn gắn lại: Hoa tàn mà lại thêm tươi Trăng tàn mà lại mười rằm xưa Hay nói hẹn hị cặp tình nhân sau thời gian dài xa cách: Tình nhân gặp lại tình nhân Hoa xưa ong cũ phân chung tình Thế biết kho tàng ngơn ngữ tiếng Việt giàu có đến nhường Chỉ từ “hoa” thơi có hàng trăm cách biểu đạt khác nhau, cách tinh tế, nhẹ nhàng mà thâm thúy, mộc mạc mà sâu sắc Bút pháp ước lệ Nguyễn Du (Qua cảnh Thúy Kiều đưa tiễn Thúc Sinh) Mai Văn Hoan Ước lệ xem đặc điểm thi pháp văn học trung đại Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du sử dụng nhiều bút pháp ước lệ Có điều nhà thơ sử dụng cách linh hoạt, sáng tạo nên tránh sáo mịn, nhàm chán Khơng bút pháp ước lệ Nguyễn Du cịn góp phần diễn tả cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật Điều thể rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh tự thú với Hoạn Thư.Thường thường chia tay, người ta hay nắm lấy áo tỏ tình quyến luyến, bịn rịn Níu áo dần trở thành cách nói quen thuộc: "Chàng buông áo em ra/ Để em chợ chợ trưa" (Ca dao) Trong buổi tiễn đưa, Kiều níu áo chàng Thúc Cho đến lúc chàng lên ngựa, nàng chịu "chia bào" (buông áo) Theo logic bình thường, người có bng áo, người lên ngược Ở đây, Nguyễn Du cố ý xếp ngược lại: "Người lên ngựa, kẻ chia bào" Theo tôi, chi tiết cần quan tâm Bởi qua chi tiết ngỡ phi logic này, Nguyễn Du nỗi vấn vương, lưu luyến mà thể tâm trạng đầy lo lắng Kiều Nàng cố níu giữ Thúc Sinh giây phút cuối Kiều khuyên Thúc Sinh tự thú với Hoạn Thư mong muốn sống yên ổn lâu dài Nhưng nửa năm chung sống, qua chàng Thúc, nàng biết nhiều Hoạn Thư Riêng uy gái Thượng thư Bộ lại Hoạn Thư đủ cho Thuý Kiều e ngại Nàng lo sợ chàng, chỗ dựa chốn "nước non quê người", nàng lại rơi vào cảnh bơ vơ chân trời góc bể Vì vậy, nàng cố níu giữ chàng chàng lên ngựa Bằng chi tiết có tính ước lệ, Nguyễn Du phần diễn tả tâm trạng ngổn ngang trăm mối nàng Kiều Rừng phong thu lúc chớm thu dần ngả sang màu đỏ nhắc đến nhiều thơ cổ điển Trung Hoa Cái màu đỏ phong thu có tính ước lệ qua tay thiên tài Nguyễn Du biến thành “màu quan san” - gợi xa xôi, cách trở Phải thật hiểu tâm trạng bất an Kiều chia tay Thúc Sinh, Nguyễn Du sáng tạo “màu quan san” độc đáo Nghĩa phong ngả dần sang màu đỏ Kiều đưa tiễn Thúc Sinh lúc sang thu Nhưng "nhuốm màu quan san" lại phù hợp với tâm trạng lo lắng, bất an nàng Kiều lúc Chỉ thay dấu từ "nhuộm" sang "nhuốm" mà "màu quan san" thêm xa xôi, cách trở Đây dụng ý nghệ thuật Nguyễn Du chăng? Thúc Sinh rồi, Kiều đứng nhìn theo mãi: "Dặm hồng bụi chinh an/ Trông người khuất ngàn dâu xanh" Thường tả đoàn quân xuất trận có cảnh "dặm hồng bụi cuốn" Trong Binh xa hành Đỗ Phủ, với tiếng ngựa phi cảnh cát bụi bay ngút trời Người chinh phụ Chinh phụ ngâm : "Thét roi cầu Vị ào gió thu" "Bụi cuốn” nghĩa bụi mù trời, gió ào… Nguyễn Du tả cảnh Thúc Sinh Vơ Tích gặp Hoạn Thư chẳng khác chiến trận Theo logic bình thường khơng thật Nửa năm ăn với người đẹp, phải chia tay, chàng Thúc bịn rịn Nếu có phi chàng phi nước kiệu thơi Làm có chuyện "bụi cuốn" mù trời Ngay chia tay Hoạn Thư, vừa lên ngựa chàng đã: "thẳng ruổi nước non quê người ", không thấy Nguyễn Du miêu tả tý bụi Cho dù thẳng ruổi phi nhanh, phi theo kiểu nước mau gặp lại nàng Kiều Với tâm trạng háo hức, Thúc Sinh nhìn đẹp: "Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng" Phi nước đại khơng có tý bụi Cịn "phi nước kiệu lại "dặm hồng bụi cuốn"? Đây cảnh nhìn qua tâm trạng đầy lo âu nàng Kiều: chàng Thúc vào nơi đầy gió bụi, chẳng khác trận Bởi chàng chiến đấu với Hoạn Thư - chiến đấu không cân sức anh chồng non gan bà vợ vừa đầy uy lực, vừa đầy mưu ma, chước quỷ mà Kiều yên tâm Một lần ta hiểu thêm dụng ý nghệ thuật Nguyễn Du qua chi tiết tưởng bình thường Sau tiễn đưa Thúc Sinh: "Người bóng năm canh/ Kẻ mn dặm xa xơi", Kiều ngẩng lên trời hoảng hốt: "Vầng trăng xẻ làm đôi…" Vầng trăng đầu tháng nhìn qua tâm trạng nàng Kiều Nàng linh cảm chia lìa, "tan đàn xẻ nghé" Ca dao có câu tương tự: "Vầng trăng xẻ làm đôi/ Đường trần vẽ ngược xuôi chàng?" Sau thi sĩ Hàn Mặc Tử đau đớn lên: "Đêm cịn nửa trăng thơi Một nửa trăng cắn vỡ Ta nhớ người xa thương đứt ruột Gió làm nên tội buổi chia phôi" (Một nửa trăng) Nhưng theo tôi, hai câu Nguyễn Du mang nhiều tầng nghĩa Bởi trăng Nguyễn Du dù có bị xẻ làm đơi khơng chịu chia lìa: "Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường" Phải chăng, nhà thơ mượn hai nửa vầng trăng để bày tỏ niềm cảm thơng sâu sắc trước cảnh chia ly Thúc Sinh - Thuý Kiều? Và phải mong muốn Kiều Kiều nhờ nửa trăng giúp chàng Thúc thấu hiểu tâm trạng lẻ loi đơn mình, nửa nàng muốn trăng thay nàng soi đường cho chàng? Qua tưởng tượng Kiều, đường Thúc Sinh đầy gió, đầy bụi, đầy chơng gai hiểm trở Thúc Sinh đơn thương độc mã, ước nàng bên cạnh chàng… Rõ ràng chi tiết, hình ảnh có tính ước lệ quen thuộc, Nguyễn Du biến hoá, nhào nặn trở thành chi tiết nghệ thuật lạ, độc đáo Nếu theo logic bình thường ta bắt bẻ nhà thơ Song sáng tạo nghệ thuật có quy luật riêng Cái tưởng phi lý lại có lý ta hiểu dụng ý tác giả Lạ hoá bút pháp ước lệ biệt tài Nguyễn Du Càng đọc, nghiền ngẫm Truyện Kiều, khám phá nhiều điều mẻ giới nghệ thuật đa dạng ông ... chấp thuận Lời Kiều nói với Thuý Vân lời đau đớn , tuyệt vọng: “Ngày xn em cịn dài xót tình máu mủ thay lời nước non” Ngày xuân Thuý Vân dài có nghĩa ngày xuân Thuý Kiều hết Và Kiều lên lời tuyệt... Kiều, nói hay khơng nói điều sâu kín lịng mình? Nói thẹn vói Th Vân, mà khơng nói phụ lịng với Kim Trọng Đây tâm trạng dằn vặt , khó xử Từ tâm trạng dằn vặt khó xử Kiều đến định phải nói ,... cảm lý trí Người Kiều Kiều Người Lời Kiều nói lời Người khóc than cho số phận “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình, lại thương xót xa” “Mặt dầy dạn gió sương Thân bướm chán ong chường thân” Những