1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Khoa học lãnh đạo và quản lý tập bài giảng

318 3 1
Tài liệu được quét OCR, nội dung có thể không chính xác

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 318
Dung lượng 37,88 MB

Nội dung

Trang 1

_—————— — | | _ §012tv 6]

'— 99/10 _ |

' HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUOC GIA HO CHi MINH

HOC VIEN BAO CHi VA TUYEN TRUYEN

DE TAI CAP CO SO NAM 2009

KHOA HOC LANH DAO VA QUAN LY (Tập bài giáng) HỌC VIỆN BẢO CHÍ & TUYỂN TRUYỂN 49 - 20/0

Cơ quan chủ trì : Học viện Báo chí và Tuyên truyền Chủ nhiệm đề tài: TS Trương Ngọc Nam |

Trang 2

Chương I H Chương Il II IV Chương IH I II Chuong IV H Ii IV Chuong V 1L Chương VI MUC LUC DAT VAN DE

KHÁI QUÁT VỀ KHOA HỌC LÃNH ĐẠO VÀ SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC LÃNH ĐẠO

Khái quát về khoa học lãnh đạo

Sơ lược lịch sử phát triển của khoa học lãnh đạo QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI LÃNH ĐẠO

VÀ NGƯỜI BỊ LÃNH ĐẠO

Khái niệm người lãnh đạo và người bị lãnh đạo

Quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo Quyền uy lãnh đạo

Các đặc trưng cơ bản của lãnh đạo

CHỨC NĂNG VÀ QUYẾT SÁCH LÃNH ĐẠO, CHẤP HÀNH

VÀ THỰC HIỆN QUYẾT SÁCH LÃNH ĐẠO

Chức năng và quyết sách lãnh đạo

Chấp hành, thực hiện quyết sách lãnh đạo

KHOA HỌC DÙNG NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO VÀ PHÉP DÙNG NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ

MINH _

Khoa học dùng người trong hoạt động lãnh đạo

Phương pháp cơ bản nhìn nhận, phân loại cán bộ Nguyên tắc lựa chọn hiền tài của người lãnh đạo Phép dùng người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

CÁCH ĐIỀU HÀNH VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO Sự điều hành và cơ chế của hoạt động lãnh đạo

Phương pháp lãnh đạo

NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT THƯƠNG

Trang 3

11 Chương VH Il Chương VIH IT HIR IV Nghệ thuật lãnh đạo Tâm quan trọng của nghệ thuật thương thuyết trong hoạt động lãnh đạo RÈN LUYỆN PHẨM CHẤT VÀ TÁC PHONG

CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO

Rèn luyện phẩm chất của người lãnh đạo |

Tác phong lãnh đạo |

ĐÁNH GIÁ, BÌNH XÉT HIỆU QUÁ HOAT DONG LANH DAO Bản chất của hiệu quả lãnh đạo _

Nội dung và nguyên tắc của công tác đánh giá hiệu quả

lãnh đạo

Trình tự và phương pháp đánh giá hiệu quả lãnh đạo

Trang 4

ĐẶT VẤN ĐỀ

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đang tiến những bước vững

chắc vào thế kỷ XXI, thế kỷ được nhận định là sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi:

khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò

ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất; toàn cầu hoá

kinh tế là một xu hướng khách quan Trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội và

thách thức lớn Cả thuận lợi và thách thức đan xen đòi hỏi Đảng ta phải luôn

có quan điểm, đường lối đúng đắn, sáng suốt, trong đó vấn đề cốt lõi liên quan

đến sự thành bại của cách mạng là việc xây dựng hoàn thiện thể chế, đào tạo, _ bồi đưỡng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân Quán triệt quan điểm

của Đảng, việc học tập, nghiên cứu và vận dụng lý thuyết về khoa học lãnh

đạo là một nhu cầu cấp thiết đối với đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay

Hoạt động lãnh đạo vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, đang là vấn đề thu hút nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu trong giai đoạn hiện nay Khoa học lãnh đạo là ngành khoa học nghiên cứu những vận động của mâu thuẫn nội tại trong hoạt động lãnh đạo và chỉ ra tính quy luật chung trong nó, tổng hợp những kinh nghiệm lãnh đạo thành những nguyên tắc lãnh đạo, giúp cho các nhà lãnh đạo có những kiến thức cần thiết trong hoạt động lãnh đạo đạt hiệu suất cao Trên thực tế, khoa học lãnh đạo là một lĩnh vực nghiên cứu mới, đòi hỏi sự tìm tòi, khám phá và nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu

Để đấp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập lý luận và thực tiễn đặt ra hiện nay, trong khuôn khổ nội dung chương trình và thời lượng nhất định, Khoa

Xây dựng Đảng - Học viện Báo chí và Tuyên truyền biên soạn Tập bài giảng

Trang 5

cơ bản về khoa học và nghệ thuật lãnh đạo cho sinh viên các lớp cử nhân chính trị - chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước của Học

viện Báo chí và Tuyên truyền |

Nội dung của Tập bài giảng tập trung làm rõ bản chất và mục đích của hoạt động lãnh đạo; các yếu tố cơ bản và quan hệ qua lại giữa chúng trong hoạt động lãnh đạo; chức năng và tác dụng của hoạt động lãnh đạo; người lãnh đạo và những phẩm chất cơ bản của họ; quá trình và cơ chế của hoạt động lãnh đạo; phương thức và nghệ thuật lãnh đạo; đánh giá, bình xét hiệu quả hoạt động lãnh đạo Ngoài những nguyên lý, quy luật cơ bản của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở những quan điểm, đường lối của

- Đảng, nội dung tập bài giảng còn cập nhật những kiến thức mới về khoa học

và nghệ thuật lãnh đạo cả trong nước và thế giới |

Chúng tôi hy vọng rằng, tập bài giảng sẽ giúp ích phần nào cho người học trong việc vận dụng các kiến thức của môn khoa học lãnh đạo vào hoạt động lãnh đạo, quản lý trong thực tiễn ở các ngành, các cấp từ Trung ương đến

CƠ SỞ

Ở nước ta, khoa học lãnh đạo là một môn học còn rất non trẻ Việc nghiên cứu và giảng đạy bộ môn này trong các trường đại học và ở Học viện

Báo chí và Tuyên truyền còn là vấn đề mới mẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm Vì vậy, mặc dù tập thể tác giả có nhiều cố gắng để biên soạn song khó tránh khỏi thiếu sót Tập thể tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các

nhà khoa học, các sinh viên và người đọc để tập bài giảng ngày càng hoàn

Trang 6

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ KHOA HỌC LÃNH ĐẠO VÀ SƠ LƯỢC LICH SU PHAT TRIEN CUA KHOA HOC LANH DAO

I KHAI QUAT VE KHOA HOC LANH DAO

1 Khái niệm về hoạt động lãnh dao

Trong xã hội loài người, hiện tượng lãnh đạo mang tính phổ biến, Các tổ chức ở mọi thời đại, mọi ngành, mọi cấp đều gắn liền với hoạt động lãnh đạo

Hoạt động lãnh đạo là một khoa học nghệ thuật, đó là một nghề, một

lĩnh vực đòi hỏi học vấn và kỹ năng chuyên môn thành thạo, sâu rộng Học tập,

_ nghiên cứu, vận dụng lý thuyết về khoa học lãnh đạo là một nhu cầu của thời

đại, là yêu cầu cấp thiết trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển đất nước mạnh mẽ, bên vững,

đúng quy luật khách quan Do đó, không những chỉ người lãnh đạo đương thời phải học tập, những vị lãnh đạo tương lai cũng phải học tập, mà những người bị lãnh đạo cũng phải học tập, nhận thức đúng đắn về lĩnh vực này Khái niệm “lãnh đạo” là phạm trù cơ bản của khoa học nghiên cứu về lãnh đạo Khi nghiên cứu khoa học lãnh đạo, trước hết phải tìm hiểu đặc trưng bản chất của

lãnh đạo, những yếu tố cấu thành và quan hệ cơ bản nội tại

Hoạt động lãnh đạo là một quá trình hành vi giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo thông qua một phương thức nhất định, kết hợp lại cùng thực hiện một mục tiêu của tổ chức, cũng chính là quá trình vận động làm cho các yếu tố của hoạt động lãnh đạo liên hệ với nhau và tác động lẫn nhau |

Trang 7

- Chủ thể lãnh đạo: là người lãnh đạo, đó là người tổ chức, người chỉ huy trong khoa học lãnh đạo, có tác dụng và chiếm vị trí chi phối chủ đạo trong hoạt động lãnh đạo |

- Khách thể lãnh đạo: là người bị lãnh đạo, là đối tượng lãnh đạo của

chủ thể lãnh đạo, trong một số điều kiện nhất định nó lại có vị trí chủ thể hoặc vừa là khách thể vừa là chủ thể

- Đối tượng khách quan: Mục tiêu tổ chức chỉ là nhận thức, cải tạo thế

giới, cái gọi là đối tượng khách quan chính là đối tượng chủ thể và khách thể

lãnh đạo cùng tác dụng Đối tượng với nghĩa rộng chính là hoàn cảnh

- Công cụ hoặc thủ pháp: Là khâu trung gian liên kết giữa chủ thể, khách thể của lãnh đạo như cơ cấu tổ chức, quy định điều lệ, phương pháp,

phương thức lãnh đạo

Lưu ý rằng, hoạt động lãnh đạo đo nhiều yếu tố tạo thành, chính vì vậy

nó hình thành rất nhiều mâu thuẫn và mối quan hệ phức tạp, có thể coi hoạt

động lãnh đạo là sự vận động các mâu thuẫn phức tạp |

Hoạt động lãnh đạo chính là sự vận động từ những mâu thuẫn của bốn

yếu tố cơ bản trên đây cấu thành quy luật vận động của nó chính là đối tượng

nghiên cứu của khoa học lãnh đạo

Chủ thể lãnh đạo và khách thể lãnh đạo tức là người lãnh đạo và người

bị lãnh đạo, là yếu tố cơ bản của hoạt động lãnh đạo, và chính mâu thuẫn của hai đối tượng này cũng chính là mâu thuẫn cơ bản trong tất cả các mâu thuẫn

của hoạt động lãnh đạo Do người bị lãnh đạo, tức là khách thể lãnh đạo trong những điều kiện nhất định lại có vị trí chủ thể, làm cho mâu thuẫn này càng

quan trọng và càng phức tạp hơn nhiều so với các mâu thuẫn khác

Mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể của lãnh đạo là mâu thuẫn cơ bản

Trang 8

Hoạt động lãnh đạo là một thực tiễn xã hội, là hình thức đặc thù quan

trọng của thực tiễn xã hội Nó là quan trọng vì các thực tiễn của xã hội của loài người, đấu tranh sản xuất, đấu tranh xã hội, thực nghiệm khoa học đều không tách rời hoạt động lãnh đạo, tính chất, tác dụng, trình độ của chúng cũng quyết định hoạt động lãnh đạo Nó đặc thù vì hoạt động lãnh đạo có hai đặc trưng lớn khác với tất cả các hình thức thực tiễn xã hội khác:

Một là, đối tượng lãnh đạo của chủ thể lãnh đạo, tức là khách thể lãnh

đạo chỉ có thể là con người Đó là một đặc trưng mà mọi hiện tượng trong

xã hội khác đều không có Nó quyết định quan hệ cơ bản trong hoạt động lãnh

đạo chỉ có thể là quan hệ giữa người với người, mâu thuẫn cơ bản cũng chỉ là mâu thuẫn giữa người với người

Hai là, tính gián tiếp trong mối liên hệ giữa hành vi của chủ thể lãnh

đạo với mục tiêu lãnh đạo Trước hết, chỉ xem xét trong thực tiễn lao động sản xuất, mục đích, mục tiêu của người lao động, thông qua hoạt động tự nhiên của người lao động để trực tiếp đạt được Công nhân làm việc, nông dân cày cấy, giáo viên lên lớp, nhà khoa học nghiên cứu đều thông qua hoạt động thực

tiễn của chủ thể để trực tiếp thực hiện mục tiêu của mình và đạt được mục đích của mình, Mối quan hệ giữa mục tiêu và hoạt động thực tiễn của chủ thể

là mối quan hệ trực tiếp

, Còn hoạt động lãnh đạo thì hoàn toàn khác, chủ thể lãnh đạo muốn thực hiện mục tiêu của mình, bắt buộc phải thông qua lao động của người khác, ít thì mấy người, nhiều thì hàng nghìn, hàng vạn người hoặc có thể nói, bắt buộc phải thông qua khâu trung gian là hoạt động của người bị lãnh đạo thì _mới có thể thực hiện được mục tiêu của mình Đây chính là tính gián tiếp

Trang 9

2 Đối tượng, tính chất khoa học lãnh đạo

a, Đối tượng của khoa học lãnh đạo ⁄

Khoa học lãnh đạo là một ngành khoa học nghiên cứu những vận động của mâu thuẫn nội tại trong hoạt động lãnh đạo và quy luật của nó Đây là một môn khoa học độc lập, có đối tượng nghiên cứu của mình, bởi vì khi nghiên cứu một mâu thuẫn đặc trưng trong lĩnh vực của một hiện tượng nào đó, thì

mâu thuẫn trở thành đối tượng của một ngành khoa học Mâu thuẫn đặc trưng

trong lĩnh vực của hiện tượng hoạt động lãnh đạo chính là đối tượng nghiên -

cứu của hoạt động lãnh đạo Mâu thuẫn này chính là rất nhiều mâu thuẫn do 4

yếu tố lãnh đạo cấu thành, đặc biệt là mâu thuẫn đặc trưng giữa chủ thể và

khách thể lãnh đạo

Mâu thuẫn nội tại của hoạt động lãnh đạo là những mâu thuẫn được tạo thành do các yếu tố hoạt động lãnh đạo, trong đó mâu thuẫn cơ bản là mâu

thuẫn giữa chủ thể và khách thể lãnh đạo Nhiệm vụ của khoa học lãnh đạo là

phải làm rõ tính quy luật nội tại của nó, để đáp ứng cho nhu cầu của thực tiễn công tác lãnh đạo Nhiệm vụ này chủ yếu là thông qua các tri thức về quy luật của hoạt động lãnh đạo, đóng góp những ý kiến, những chỉ dẫn khách quan

cho các cấp lãnh đạo và làm một người tham mưu quan trọng Từ đó hình thành hệ thống cơ cấu và các phạm trù khái niệm đặc trưng của mình Đó cũng là nội dung cần nghiên cứu của khoa học lãnh đạo, và toàn bộ nội dung của cuốn sách này được triển khai xoay quanh chủ đề này

Vấn đề mà khoa học lãnh đạo nghiên cứu là mâu thuẫn bên trong của hoạt động lãnh đạo, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa chủ

thể và khách thể lãnh đạo Chủ thể lãnh đạo có thể là cá thể, cũng có thể là

một nhóm, tập đoàn, điều này giống như chủ thể quản lý Khách thể lãnh đạo

Trang 10

Vì vậy, mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể của lãnh đạo và mâu thuẫn

giữa chủ thể và khách thể của quản lý là hai mâu thuẫn có tính chất khác nhau, không thể lẫn lộn Quy luật vận động của mâu thuẫn bên trong của hoạt động lãnh đạo là đối tượng nghiên cứu riêng, đặc thù riêng của khoa học lãnh đạo,

điều này nói lên rằng giữa hai ngành khoa học này cũng có những điểm đan

xen nhau Nhưng không thể nói hai ngành khoa học này có đối tượng nghiên cứu giống nhau

Khoa học lãnh: đạo mang tính lịch sử, kế thừa và biện chứng, ở mỗi thời đại khác nhau, mỗi xã hội khác rihau, thậm chí ở mỗi giai đoạn phát triển khác

nhau đều tồn tạt hoạt động lãnh đạo với hình thức và tính chất khác nhau, cách

xem xét, khảo sát, đánh giá về nó cũng khác nhau Nói cách khác, với xã hội

loài người thì lãnh đạo là phổ biến, còn đối với hình thái lịch sử cụ thể thì lãnh

đạo là đặc thù

b Tính chất đặc thù của khoa học lãnh đạo

Nếu xét từ góc độ nghiên cứu của khoa học lãnh đạo, thì khoa học lãnh

đạo chủ yếu nghiên cứu mối quan hệ chủ thể và khách thể, quan hệ giữa người

với người, tức là quan hệ sản xuất Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi nghiên cứu quan hệ sản xuất không thể tách rời với sức lao động, tức là quan hệ giữa con người với tự nhiên Điều đó quyết định khoa học lãnh đạo có

hai đặc trưng cơ bản: tính tổng hợp và tính ứng dụng

- Tính tổng hợp, liên ngành của khoa học lãnh đạo:

Tính tổng hợp của khoa học lãnh đạo chính là tính đan xen của nhiều khoa học, tức là liên quan đến khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học tư duy Đặc biệt, với nhiều ngành khoa học mới hiện đại, cơ sở của sự đan xen đó chính là khoa học về con người- với ý nghĩa là tổng hoà các mối quan hệ

xã hội Đề cập đến nghiên cứu quy luật vận động của mâu thuẫn giữa chủ thể

lãnh đạo và khách thể lãnh đạo, tức là mâu thuẫn cơ bản của hoạt động lãnh

đạo, chủ yếu là nghiên cứu thuộc quan hệ xã hội, thượng tầng kiến trúc, đó là lĩnh vực nghiên cứu của khoa học xã hội Hiển nhiên khoa học lãnh đạo không

Trang 11

học, luật học, lý luận học càng không thể tách rời lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và kế thừa những tri thức của tính hoa nhân loại về lĩnh vực khoa học - công nghệ, trước hết là khoa học xã hội, khoa học quản lý Hoạt động lãnh đạo còn liên quan đến việc phân công, tổ chức, điều tiết, điều khiển sức lao động, đó lại chính là lĩnh vực nghiên cứu _ của khoa học tự nhiên Khoa học lãnh đạo còn đan xen, liên quan đến nhiều ngành khoa học mới ra đời như khoa học môi trường, vận trù học, quản lý học,

cho đến hệ thống học, thông tin học, điều khiển học Đó là đặc trưng thứ

nhất của khoa học lãnh đạo - tính tổng hợp |

- Tinh tng dung thuc tiễn của khoa học lãnh đạo thể hiện trước hết, khoa học lãnh đạo là khoa học có tính lý luận cao, nhưng lý luận khoa học của

nó, những nguyên tắc, nguyên lý cơ bản của nó không phải là do chủ quan

sinh ra mà là sự tổng kết, khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động

lãnh đạo của con người Lý luận của khoa học lãnh đạo được ra đời từ thực

tiễn và nó trở lại chỉ đạo và phục vụ thực tiễn Nói cách khác, phục vụ cho thực tiễn chính là phục vụ cho việc khoa học hố cơng tác lãnh đạo -

Tính ứng dụng của khoa học lãnh đạo được quyết định bởi tính chất của khoa học này, đồng thời nó cũng là nhu câu của thời đại, là nhu cầu của công cuộc xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh Đó chính là đặc trưng thứ hai của khoa học lãnh đạo - tính ứng dụng

Tính ứng dụng 'của khoa học lãnh đạo không loại trừ tính lý luận Tính

lý luận của một môn khoa học là tiền dé của tính ứng dụng Không có tính lý

luận thì không thể nói đến tính ứng dụng Lý luận của khoa học lãnh đạo tuy

xuất phát từ kinh nghiệm, nhưng so với kinh nghiệm thì nó khác nhau về bản

chất, nó là kinh nghiệm đã được thăng hoa chat loc, là kinh nghiệm đã được quy phạm hoá

Tính tổng hợp và tính ứng dụng là hai đặc trưng lớn, cơ bản của khoa

học lãnh đạo Ngoài ra, khoa học lãnh đạo còn có tính quốc tế và tính dân tộc

Trang 12

Trong khoa học lãnh đạo, nói chung là những thành quả, những trị thức có liên quan đến lực lượng sản xuất, mọi quốc gia đều có thể vận dụng phổ biến Trước những thành quả liên quan đến quan hệ sản xuất, các quốc gia trên thế giới cũng có thể học Hỏi lẫn nhau Bởi vì, đơn giản là nhà khoa học có

tổ quốc, còn chính khoa học thì không có biên giới

Các nhà khoa học của bất kỳ quốc gia nào khi nghiên cứu khoa học lãnh đạo đều không thể không tính đến đặc điểm của dân tộc mình và tình hình cụ thể của nước mình Tính dân tộc là đơn tính, tính quốc tế là cộng tính, không có tính dân tộc thì không có tính quốc tế |

Khoa hoe lãnh đạo của Việt Nam cần tổng kết những kinh nghiệm chung của hoạt động lãnh đạo trong xã hội loài người, tham khảo những học

thuyết lý luận có liên quan của các nước trên thế giới, phản đối tư tưởng bế

quan toả cảng, nhưng cũng không thể tách rời hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Chúng ta không nên máy móc, dập khuôn áp dụng hoàn toàn các lý thuyết của nước khác mà cần phải xây dựng khoa học lãnh đạo kế thừa, tiếp

thu được truyền thống của ông cha ta và lựa chọn những kinh nghiệm thế giới

tương thích với điều kiện nước ta |

Việt Nam là một nước có nền văn hoá và lịch sử phát triển lâu đời, chính trong quá trình xây đựng và bảo vệ Tổ quốc, ông cha ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú về xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước, trong

đó có kinh nghiệm quý báu về lĩnh vực lãnh đạo của các triều đại nhà nước

phong kiến Việt Nam với sự tiếp thu, giao lưu ảnh hưởng của kinh nghiệm từ

nhà nước phong kiến Trung Hoa, của các quốc gia láng giéng va sau này của các nước phương Tây Tuy nhiên, cho dù kinh nghiệm phong phú, di san quý báu, nhưng do hoàn cảnh lịch sử trước đây, các thời đại trước chưa có điều

kiện tổng kết thành những lý luận khoa học để chỉ đạo thực tiễn

Chúng ta kế thừa đi sản của ông cha ta, đồng thời phải tiếp tục hấp thụ

những điều hay, những tỉnh hoa của nền tảng truyền thống để phát triển vượt

bậc hơn xưa mới đáp ứng được mong mỏi của người đi trước Một trong những nội dung quan trọng của khoa học lãnh đạo là kế thừa kinh nghiệm cổ truyền-

Trang 13

kinh nghiệm của cả chiều dài lịch sử nhưng phải vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vậtlịch sử, lấy thực

tiễn hiện đại kiểm chứng để tiến hành tổng kết một cách khoa học về mặt lý

Tuận, từ đó soi trở lại cho thực tại khách quan phong phú mà hành động phù hợp

Xây dựng khoa học lãnh đạo mang phong cách Việt Nam, cũng tức là vừa mang tính tiên tiến, hiện đại, quốc tế lại vừa đậm đà bản sắc dân tộc Như trên đã nói, thời phong kiến, việc tổng kết kinh nghiệm về khoa-học lãnh đạo

của ông cha ta không nhiều, sách vở, tài liệu bị chiến tranh, khí hậu, thời gian ˆ

huỷ hoại, thế nhưng chỉ riêng các tư liệu về chiếu chỉ, biểu của vua chúa các đời (kể cả Bộ Luật Hồng Đức đời Lê; Bộ luật Gia Long đời N guyễn), các bộ

sử, cuốn Binh thư yếu lược của Trần Hung Đạo, cuốn Hổ trướng khu cơ của

Đào Duy Từ cũng để lại cả một kho tàng to lớn về kinh nghiệm lãnh đạo,

dùng người, cai quản đất nước của ông cha ta Cho đến Hồ Chí Minh, lãnh tụ

thiên tài của dân tộc ta, danh nhân văn hoá thế giới xuất hiện thì những kinh

nghiệm, truyền thống xưa được Người đúc kết, vận dụng nhuần nhuyễn với

khoa học lãnh đạo hiện đại, đóng góp vào kho tàng lý luận về lãnh đạo trở nên

sâu sắc, độc đáo, hoàn thiện về nhiều mặt

Trong xã hội loài người, hiện tượng lãnh đạo là phổ biến, nhưng công tác lãnh đạo trở thành chuyên nghiệp, nên nghiên cứu về công tác lãnh đạo cũng trở thành một ngành chuyên môn Mặc đù là một hiện tượng lịch sử, một

sản phẩm của lịch sử, nó còn là sản phẩm của xã hội ngày nay

Sự ra đời của lý luận khoa học, trước hết là do nhu cầu của nhân loại

Lý luận mà con người không cần thì không thể là khoa học Nền sản xuất

xã hội hiện đại ngày càng xã hội hoá cao, khoa học càng hoàn thiện, sản xuất

xã hội phát triển càng mạnh, khoa học kỹ thuật ngày càng đổi mới, các nhà

lãnh đạo đứng trước đối tượng khách quan có khối lượng thông tin khổng lồ, _ luôn thay đổi, mối liên hệ rộng lớn, cơ cấu phức tạp và công năng da dang Đây là một thách thức của hiện thực, do đó không thể chỉ đơn thuần dựa vào kinh nghiệm, trí tuệ của một cá nhân mà công tác lãnh đạo được hiệu quả tốt

Trang 14

Khoa học hoá công tác lãnh đạo đã trở thành một chủ đề lớn của xã hội ngày

nay ý

Nhu cầu đối với khoa học lãnh đạo của mọi người, tức là nhu cầu khoa học hố cơng tác lãnh đạo, chỉ là khả năng, tiền đề do khoa học lãnh đạo sinh ra Tính khả năng này có thể trở thành hiện thực hay không còn cần phải có đủ

các điều kiện nhất định, đó chính là sự phát triển của phân công xã hội, sự phân hoá của khoa học cho đến sự phát triển cao của khoa học kỹ thuật, để

cung cấp những biện pháp khoa học và cơ sở xã hội vững chắc cho -sự ra đời của khoa học lãnh đạo |

Tóm lại, xét về khía cạnh đầy đủ của môn học, một ngành nghề chuyên

môn hoá thì khoa học lãnh đạo là một môn khoa học mới xuất hiện trong xã hội hiện đại, và nó cũng là một ngành khoa học mới chỉ xuất hiện trong

xã hội hiện đại, tuy nhiên nó có cơ sở gốc rễ, gắn kết với các lý thuyết, kinh nghiệm trong quá khứ lịch sử

II SO LUGC LICH SU PHAT TRIEN CUA KHOA HOC LANH DAO

1 Hoạt động lãnh đạo trước khi có sự phân chia ngành nghề

chuyên sâu |

a Lãnh đạo và quản lý gắn với nhau thành một chỉnh thể

~ Sự xuất hiện các nghề nghiệp khác nhau, sự ra đời các bộ môn khoa học

khác nhau là kết quả sự phân chia khoa học, suy đến cùng là kết quả của sự

phát triển trong phân công xã hội Chúng ta nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển của lãnh đạo và tư tưởng lãnh đạo, trước hết phải nghiên cứu lịch sử phát

triển phân công xã hội

Trong lịch sử xã hội lồi người, phân cơng xã hội phát triển theo hai hướng: phân công ngang va phân công dọc Phân công theo các ngành nghề

lao động và phân công xã hội theo chiều ngang, từ đó sinh ra nghề nông, nghề

chăn nuôi, công nghiệp, thương nghiệp và các khoa học tương ứng Phân công theo chức năng các giai tầng khác nhau của quá trình lao động là phân

Trang 15

công xã hội theo chiều dọc, như phân công theo quy trình sản xuất: cung ứng, sản xuất, tiêu thụ trong một nhà máy chính là phân công đọc z

Hình thức thực tế của phân công xã hội trong đấu tranh xã hội và trong

sản xuất của xã hội loài người là sự phân công ngang Nhưng thực tiễn mọi

hình thức hoạt động trong xã hội loài người đều có một quá trình Trước hết, phải xác định làm gì, tiếp đó phải làm như thế nào và cuối cùng là đánh giá,

kiểm tra ra sao, phải tiến hành giám sát, điều chỉnh thế nào Đó chính là ba

Tiến hành phân công theo chức năng và theo quá trình thực tiễn là phân công đọc Ý nghĩa lịch sử của loại phân công xã hội theo chiều dọc không vì thế mà

thua kém so với phân công xã hội theo chiều ngang

Lao động quần thể trong xã hội nguyên thuỷ chưa tồn tại loại phân công

dọc, cho dù lúc đó đã có quyết sách và chấp hành Lao động cá thể càng không thể có loại phân công đọc, họ tự hạ quyết sách, tự thực hiện và tự giám sát Trong thời kỳ sản xuất nhỏ kéo dài của xã hội nô lệ và xã hội phong kiến,

chỉ áp dụng chế độ gia trưởng và tập quyền cao độ, kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất đồng thời lũng đoạn quyền quyết sách, tự thực hiện, tự giám sát Chủ

nghĩa chuyên chính là chế độ gia trưởng trên lĩnh vực chính trị

Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản cũng theo chế độ gia trưởng lũng

đoạn: quyết sách, chấp hành và đánh giá giám sát, tất thay đều do một mình ông chủ quyết định Về nguyên lý, nếu không có sự phân công giữa quyết sách và chấp hành thì không có sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý Hoặc có

thể nói, trong thời kỳ sản xuất nhỏ kéo dài cho đến thời kỳ đầu chủ nghĩa tư

bản, lãnh đạo và quản lý là hai nhưng gắn làm một |

Người ta hay ví von rằng một nhạc công khi độc tấu một loại nhạc cụ nào đó (viôlông, pianô, đàn bầu, sáo ) có thể tự chỉ huy, nhưng một dàn nhạc gồm nhiều nhạc công chơi các nhạc cụ khác nhau muốn hoạt động phải cần người chỉ huy - đó là nhạc trưởng Trong nền kinh tế cũng vậy, khi đã có sự phân công lao động nói chung cần có người chỉ huy, để hiệp đồng hành động

Trang 16

từng cá nhân thực hiện vận hành đồng bộ quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch

vụ chung (của tổ chức, đơn vị sản xuất kinh doanh đó) ⁄ b Sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý |

Sự phân chia giữa lãnh đạo và quản lý bắt đầu từ khi phân công xã hội tách rời hai khâu: ra quyết sách và việc thực hiện

Trong nền sản xuất lớn có sự phân công lao động chuyên môn ngày càng rạch ròi (vào khoảng cuối thế kỷ XVIID, khi khoa học kỹ thuật có nhiều

tiến bộ, nhiều nước tiến hành cơng nghiệp hố, nhưng có tình trạng là nhiều

“kẻ ngoài nghề” - nhà tư bản chiếm hữu tư liệu sản xuất lại lãnh đạo sản xuất đã làm tăng thêm trạng thái vô chính phủ trong sản xuất Đến thế kỷ XIX, các xí nghiệp của Mỹ bị sức ép cạnh tranh của thị trường, nếu muốn nâng cao chất lượng hàng hoá buộc phải thực hiện chế độ thuê giám đốc chuyên nghiệp, còn

gọi là chế độ chuyên gia giám đốc Đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo một số công ty xe hơi đân dụng ở Mỹ đã đề ra nguyên tắc “quyết sách tập trung,

quản lý phân tán” và xây dựng bộ quy chế phân quyền trong xí nghiệp Đặc điểm của cơ chế lãnh đạo này khác với cơ chế gia trưởng và tách quyền tài sản (quyền chiếm hữu) và quyên quản lý kinh doanh, thực chất là phân công riêng rẽ quyết sách và chấp hành Quyền lực quản lý hàng ngày và trách nhiệm được

phân định rõ ràng Do tính ưu việt của thể chế phân quyền và phân công giữa

quyết sách và chấp hành, về sau nó được các nước trên thế giới áp dụng khá

phổ biến |

Trên thực tế, sự phân công xã hội giữa quyết sách và chấp hành trên

[nh vực chính trị xuất hiện còn sớm hơn Tiêu biểu là sự phân chia cơ cấu lập

pháp và cơ cấu chấp hành theo quy luật: khi nhà nước pháp quyền dần lớn

mạnh, nền dân chủ phát triển tất yếu sẽ xuất hiện sự phân công xã hội mới

Sự phân công đó trên lĩnh vực quân sự diễn ra từ thế kỷ XIX, đó là việc bắt

đầu tách riêng bộ tư lệnh và bộ tham mưu Nhưng ở phương Đông, từ hơn 2000 năm trước, tại Trung Hoa vào đời Tây Hán, trong cuộc đối thoại nổi

Trang 17

tiếng “Luận tướng” giữa Hàn Tín và Lưu Bang đã từng biểu đạt tư tưởng phân định giữa soái và tướng: “Tướng tướng” và “Tướng binh”' z

Do đó có thể thấy, sự phân định giữa lãnh đạo và quản lý, tức là lãnh

đạo lo quyết sách, quản lý lo chấp hành đều là hiện tượng lịch sử, nhưng không phải từ trước tới nay đều đã có Nó là kết quả phát triển lâu dài của xã hội, là kết quả phát triển của sự phân công xã hội Phân công xã hội là cơ

sở khách quan, là nguồn gốc xã hội của sự phân chia giữa lãnh đạo và quản lý,

nếu tách rời cơ sở đó sẽ không thu được kết quả rõ ràng

Quan hệ giữa khoa học quản lý và khoa học lãnh đạo:

| Khoa học lãnh đạo là một ngành khoa học đan xen, nó đan xen và có

quan hệ với nhiều ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội Ngành khoa học có quan hệ mật thiết nhất và nhận thức dễ lẫn lộn nhất so với khoa học lãnh đạo đó là khoa học quản lý Vì vậy, cần phải nghiên cứu mối quan hệ giữa khoa học lãnh đạo với khoa học quản lý

Có người cho rằng lãnh đạo là một bộ phận của quản lý, hoặc cho rằng quản lý bậc cao chính là lãnh đạo, thì cũng chính là nói khoa học lãnh đạo là một bộ phận cấu thành của khoa học quản lý Một số học giả phương Tây, kể

cả một số nhà khoa học quản lý nổi tiếng đều giữ quan điểm này Lại có người

đưa ra lý giải ngược với điều này, họ cho rằng quản lý là một bộ phận của lãnh đạo và khoa học quản lý mới là một ngành của khoa học lãnh đạo Còn một quan điểm khác thì cho rằng khoa học lãnh đạo chính là khoa học quản lý, hai ngành khoa học này không có sự khác nhau về bản chất, có thể thay thế lẫn nhau Thật ra, tất cả những cách nhìn nhận này đều không chính xác Hai ngành khoa học này không những không phải là quan hệ giữa bộ phận và toàn

thể để có thể bao hàm lẫn nhau, cũng không phải là một quan hệ đồng nhất để có thể thay thế nhau Khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý, mỗi ngành đều

có đối tượng nghiên cứu của mình, là hai ngành khoa học độc lập với nhau, nó cũng giống như vật lý và hoá học là hai ngành khoa học riêng biệt vậy

Ì Tướng tướng: Người giỏi chỉ huy tướng là soái, là vua, là lãnh đạo Tướng binh: Người dùng bình càng nhiều càng tốt, đánh đâu thắng đó, rốt cuộc chỉ là tướng giỏi mà thôi

Trang 18

Khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý có ba điểm khác nhau về bản chất sau đây: ⁄

- Một là, phân biệt sự khác nhau về chức năng của quản lý và lãnh đạo Chức năng lãnh đạo và chức năng quản lý là hoàn toàn khác nhau Đối với chức năng lãnh đạo, nhiều chuyên gia có rằng trách nhiệm của người lãnh đạo, chung quy lại chủ yếu có hai việc là sử dung cán bộ và đưa ra chủ ý có tính chất quyết định Mọi kế hoạch, nghị quyết, mệnh lệnh, chỉ thị đều là đưa ra chủ ý — những ý tưởng nhằm giải quyết các công việc của tổ chức Để cho mọi chủ ý được thực hiện, cần phải đoàn kết cán bộ, cổ vũ họ thực hiện, cái đó thuộc vé “sit dung cán bộ”

Việc thứ nhất nói ở đây, tức là định kế hoạch, ra quyết định chỉ đạo, ra mệnh lệnh, ra chỉ thị, nói tóm lại là đề ra quyết sách |

Việc thứ hai là “sử dụng cán bộ”, tức là cổ vũ, khuyến khích, tạo điều kiện để họ phát huy sở trường, thực hiện quyết sách Xin đặc biệt chú ý hai chữ “cổ vũ”, Sau khi đưa ra chính sách, cổ vũ họ thực hiện chứ không phải bản thân người lãnh đạo tự thân thực hiện Như vậy, chức năng của lãnh đạo là đề ra chính sách và cổ vũ việc chấp hành chính sách Còn chức năng quản lý thì ' lại khác, là chấp hành chính sách, là việc quán triệt chấp hành chính sách dưới

sự cổ vũ của người lãnh đạo Hai chức năng này khác nhau, có thể diễn giải một cách đơn giản: lãnh đạo chủ yếu là quyết sách, quản lý chủ yếu là chấp

hành |

Có người cho rằng khoa học lãnh đạo là lý luận về tài làm chủ soái còn

khoa học quản lý là lý luận về tài làm tướng, lãnh đạo chủ yếu “Tướng tướng”

(sử dụng tướng) còn quản lý chủ yếu “Tướng binh” (sử dụng binh), điều này là

hoàn toàn chính xác

Có người nêu ra lãnh đạo có quyết sách, lẽ nào quản lý lại không có

quyết sách? Đúng vậy, lãnh đạo có quyết sách, quản lý cũng có quyết sách,

mọi người đều có thể có quyết sách, nhưng quyết sách lãnh đạo, quyết sách quản lý, quyết sách thao tác là những khái niệm hoàn toàn khác nhau Quyết sách của lãnh đạo chỉ là những quyết sách chiến lược mang tính vĩ mô, toàn

Trang 19

cục Đó là những quyết sách đặc trưng mà bất kỳ một nhà quản lý hay nhà

thao tác nào cũng không thể có được ⁄

Đương nhiên, không nên quan niệm chỉ có cấp trung ương, chính phủ,

quốc hội mới có quyết sách chiến lược, mà chính quyền cơ sở, phòng ban cấp

dưới, công ty, xí nghiệp không có những quyết sách chiến lược Kỳ thực, các bộ ngành, mọi tổ chức các cấp đều có chiến lược của mình, nhưng tập thể

hay cá nhân đề ra quyết sách chiến lược đó thường là lãnh đạo của các tổ chức

¬= an

Hai là, nguyên tắc, nguyên lý khác nhau

Do chức năng không giống nhau, nên nguyên lý, nguyên tắc cho đến phương thức, phương pháp của lãnh đạo cũng khác với quản lý Chức năng của lãnh đạo là định ra những quyết sách chiến lược, nó quyết định vấn dé quan |

trọng về vận mệnh, tiên đồ của các tổ chức Vì vậy, người lãnh đạo phải tập

trung trí tuệ, sức lực để nắm những việc lớn hoặc nói cách khác, người lãnh

đạo phải làm việc lãnh đạo Người lãnh đạo tài giỏi đến đâu cũng rất khó có

thể tập trung để suy nghĩ những chỉ tiết cụ thể tồn tại và phát sinh trong quá

trình chấp hành những quyết sách, càng không thể nói họ nên di trực tiếp thực hiện “Trên người công nhân có bao nhiêu dầu mổ”, câu nói này rõ ràng không hợp lý Cho dù có sức lực, thời gian để nắm hết mọi việc lớn nhỏ, để tự mình làm hết thì cũng là không đúng, vì làm như vậy sẽ gây khó dễ, sẽ ức chế tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, không thể rèn luyện được cán bộ, làm

cho cán bộ không phát triển được và do đó không bồi dưỡng được lớp người

kế cận

Nguyên tắc cơ bản và phương pháp cơ bản của công tác lãnh đạo do chức năng của lãnh đạo quyết định là nắm việc lớn và không đi sâu vào VIỆC vụn vặt, lãnh đạo phải làm việc của lãnh đạo Nhưng quản lý thì lại khác, do chức năng của quản lý và quán triệt thực hiện một cách cụ thể quyết sách của

lãnh đạo, nên cần phải tính toán kỹ đến các tình tiết nhỏ nhất có thể xảy ra

trong quá trình chấp hành, cho đến các biện pháp có thể giải quyết chúng Những chỉ tiết nhỏ, những biện pháp này đối với người lãnh đạo nó là “việc

Trang 20

nhỏ” nhưng đối với người quản lý thì nó lại là “việc lớn”, sai một ly đi một

dặm, trong lịch sử đã có nhiều minh chứng do sai lầm của một tình tiết dẫn

đến sự thất bại của công tác quản lý Vì vậy, không thể coi nhẹ các tình tiết,

-đó là phương pháp và nguyên tắc cơ bản của công tác quản lý

Ba là, tiêu chuẩn của thành bại khác nhau hoặc mục tiêu khác nhau

Cho dù là người lãnh đạo hay người quản lý đều có sự phân biệt giữa thành công và thất bài Mọi người đều theo đuổi thành công và tránh thất bại

—— Nhưng tiêu chuẩn vệ thành bại của lãnh đạo và quản lý khác nhau Ví dụ,-

giám đốc nhà máy đưa ra quyết sách là sản xuất một loại sản phẩm, còn các

cấp quản lý thì đưa ra kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết sách của lãnh đạo Mục tiêu mà người quản lý theo đuổi đó là hiệu suất Người quản lý tốt là

người quản lý có hiệu quả Cái mà người quản lý theo đuổi không phải là hiệu suất mà hiệu năng Người lãnh đạo có hiệu suất chưa chắc là người lãnh đạo thành công, chỉ khi người lãnh đạo có hiệu năng thì mới là người lãnh đạo thành công

Nói đến hiệu năng, tức là muốn chỉ hiệu năng lãnh đạo hoặc hiệu năng

tổ chức, hiệu năng là tích hợp của cả mục tiêu và hiệu suất Nghĩa là hiệu năng được quyết định bởi mục tiêu của quyết sách có đúng hay không và việc chấp

hành quyết sách có hiệu suất hay không, đó cũng là hai nhân tố quan trọng

nhất của hiệu năng Chỉ có mục tiêu của quyết sách đúng đắn, việc chấp hành quyết sách lại có hiệu quả thì đó mới là người lãnh đạo thành công Một sản

phẩm sản xuất ra vừa nhiều, vừa tốt, nhưng nó không phải là nhu cầu của thị

trường, bán không được mà sản xuất càng nhiều thì càng lãng phí Đó thuộc

về quyết sách và là trách nhiệm của lãnh đạo

Tóm lại, mục tiêu của lãnh đạo và quản lý khác nhau, tiêu chuẩn của thành bại cũng khác nhau: của lãnh đạo đó là hiệu năng, của quản lý đó là hiệu suất

Ba van dé trên đây là khác biệt cơ bản giữa lãnh đạo và quản lý, giữa khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý Từ đó có thể đưa ra rất nhiều đặc trưng khác nhau giữa chúng Chẳng hạn, công tác quản lý tuy cũng cần các

Trang 21

ngành khoa học mềm, những kiến thức thông thái, nhưng những kiến thức

chuyên ngành của khoa học quản lý chủ yếu là thuộc khoa học cứng, kỹ thuật cứng như các ngành thuộc tài vụ, kế toán, giá thành Còn công tác lãnh đạo

thì khác, nó chỉ cần những ngành khoa học mềm, kỹ thuật mềm Đương nhiên,

cũng cần biết những khoa học cứng và kỹ thuật cứng, nhưng người lãnh đạo cũng không cần hiểu sâu, hiểu kỹ như những chuyên gia quản lý Vì thế, yêu cầu tố chất đối với người quản lý trong các ngành khoa học cứng thì phải “tinh

và sâu” còn đối với khoa học mềm thì chỉ cần “rộng và nhiều” Đối với người

lãnh đạo thì ngược lại, khoa học mềm cần “tinh và sâu”, khoa học cứng thì

“rộng và nhiều” |

Sự khác nhau giữa khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý là rất rõ ràng, và quan hệ giữa chúng cũng rất sâu sắc, mật thiết Lãnh đạo và quản lý đều có một quá trình ra đời và phát triển Lãnh đạo lại được tách ra từ quản lý, đó là

tính mật thiết trong quan hệ giữa hai ngành, khiến cho nhiều người không thấy

được ranh giới giữa chúng |

2 Chun mơn hố cơng tác lãnh đạo, lý luận về khoa học lãnh

đạo ở phương Đông |

Trong lịch sử loài người, lãnh đạo và quản lý từ chỗ “hai trong một”

đã phân chia thành hai loại độc lập tương đối, cuối cùng lại phát triển thành

chuyên mơn hố cơng tác lãnh đạo, đó là sự tiến bộ của lịch sử, sự phát triển của nền văn minh, Chun mơn hố cơng tác lãnh đạo là kết quả tất yếu của (

sự phát triển trong phân công xã hội, cũng là kết quả tất yếu của sự phát triển

nhận thức

| a Chuyén mơn hố cơng tác lãnh đạo là sản phẩm tất yếu của sự

phát triển trong việc phân chia giữa quyết sách và chấp hành, giữa tham mưu và quyết định

Sự phân chia giữa quyết sách và chấp hành: là sự phân chia chức năng “chỉ huy chung” trong lao động cộng đồng thành sự phân chia ra hai chức

năng khác nhau giữa quyết sách và chấp hành

Trang 22

Trong một doanh nghiệp thì hội đồng quản trị, tổng giám đốc, ban lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết sách, các bộ phận sự nghiệp, các chi nhánh công ty hoặc các bộ phận chức năng khác phụ trách việc quán triệt, chấp hành, quản lý hàng ngày Tên gọi của nó có thể rất đá dạng, nhưng hai loại chức năng quyết sách và chấp hành đều tương đồng Sự phân chia giữa khâu quyết sách và chấp hành chính là sự bắt đầu của quá trình chun mơn hố cơng tác lãnh đạo

Sự phân chia giữa khâu tham mưu và khâu quyết định: từ quyết sách va nhà chuyên môn phân ra thành hai chức năng tham mưu và quyết định độc lập

tương đối với nhau Quyết sách là một quá trình cực kỳ phức tạp gồm nhiều bước, nhiều khâu: trước hết phải điều tra nghiên cứu, tìm hiểu tình hình; tiếp

đó là đưa ra chủ ý, suy nghĩ phương pháp, vạch ra các phương án có thể; cuối

cùng là đưa ra quyết định lựa chọn từ trong các phương án đó Nói gọn lại thì tin tức, tư vấn, quyết định chính là các giai đoạn cơ bản của quyết sách Thời

xưa và trong sử sách cũ dùng tiếng Hán Việt thường gọi tắt là tin tức và tư vấn

là tham mưu (hoặc mưu) còn quyết định gọi tất là đoán, tuy nhiên, người ra quyết sách tự tham mưu, tự quyết định Dù lúc đó đã có những mưu sĩ, quân sư phụ trách việc tư vấn, nhưng đó không phải là sự phân công rạch ròi giữa mưu và đoán

Khâu tham mưu và quyết định bắt đầu được tách ra từ thế kỷ XX Tiêu

chí đánh dấu sự ra đời của nó là sự xuất hiện tham mưu tư vấn của nhân dân Tư vấn trong quá trình quyết sách được chia ra thành tư vấn nội bộ và tư vấn ngoại bộ (tư vấn bên ngoài) Tư vấn nội bộ tức là nhân viên tư vấn được tổ chức tư vấn là nhân viên thuộc quyền hoặc cơ cấu thuộc quyền của người ra

quyết sách Loại tư vấn này còn được gọi là tham mưu của nhân viên thuộc quyền Nhiều thời đại đều đã có tham mưu nội bộ, quân sư, “gián quan”

Trung Quốc cổ đại là một điển hình Nguy Trưng là “gián nghị đại phu” của vua Đường Thái tông Lý Thế Dân, cũng chính là gián quan lớn nhất của cả nước Đại Đường thời đó Trong triều đình phong kiến Việt Nam, tương tự như của Trung Quốc, gián quan thường có chức trách tham vấn, can ngăn vua khi

thấy những quyết sách của vua không đúng, ví dụ như Quan ngự sử Trương

Trang 23

Đỗ thời nhà Trần, đã ba lần can vua Trần Duệ Tông không nên thân chỉnh

đánh Chiêm Thành Nhưng nhiều khi việc quan mưu có mở rộng, hễ các trọng thần văn võ trong một triểu nào đó (Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm ), thậm chí cả trọng thần, danh sĩ hưu trí (Nguyễn Bỉnh Khiêm) nếu có ý tưởng giúp vua trị quốc an đân, để nghị vua thay đổi quyết định cho

chuẩn xác, đều có thể dâng sớ lên vua Nhìn chung, các loại tư vấn này chủ yếu là về chính trị, quân sự, xã hội và những người tư vấn có chức sắc dưới các

tên gọi như quân sư, ngự sử, gián quan, hội đồng tư vấn, hội đồng cơ mật, khu- mật viện |

Tư vấn ngoại bộ (tư vấn bên ngoài) tức là nhân viên tư vấn hoặc tổ chức

tư vấn không phải là cơ cấu thuộc quyên của người ra quyết sách Loại tham mưu tư vấn của nhân viên | |

Mỗi loại tư vấn có sở trường riêng, nhưng về mặt bảo đảm tính khách quan của tư vấn thì rõ ràng tham mưu tư vấn của nhân dân có ưu thế hơn tham mưu của nhân viên thuộc quyền |

Từ thế kỷ XIX, hoạt động tư vấn lan rộng ra toàn xã hội, từ các lĩnh vực chính trị, quân sự đã lan toả sang lĩnh vực kinh tế rồi dần thâm nhập vào các lĩnh vực kinh tế — xã hội Đến đầu thế kỷ XX, năm 1913, các dịch vụ tư vấn

phát triển lên những bước mới có quy mơ tồn cầu với việc thành lập “Liên

đoàn quốc tế các chuyên gia tư vấn” (Fédération International des Ingénieurs - FIDIC) CÓ tru so 6 Thuy Sĩ Ngày nay, dich vu tư vấn phát triển mạnh mẽ không chỉ ở các nước công nghiệp mà cả ở các nước đang phát triển, nhiều

nước trên thế giới còn thành lập tổ chức tư vấn ngành nghề có tính toàn cầu,

thậm chí còn có tổ chức tư vấn quốc tế mang tính toàn cầu Tại Việt Nam,

nghề tư vấn hiểu nghĩa hiện đại mới hình thành, hoạt động sôi nổi từ giữa

những năm 90 của thế kỷ XX, trong các lĩnh vực bước đầu đã có thành tựu, có

nh vực còn sơ khai Ví dụ, một số loại hình tư vấn về kinh doanh, dịch vụ

như: hoạt động tư vấn luật pháp, tư vấn quản lý, tư vấn đầu tư, soạn thảo dự án, tư vấn thị trường, tư vấn xây dựng, tư vấn bất động sản, tư vấn kế toán, kiểm toán Một nghề phát triển nhanh chóng như vậy rất hiếm thấy trong lịch sử

Trang 24

đã khẳng định trong xã hội hiện nay, sự phân chia giữa tham mưu tư vấn và quyết định đang là xu thế lịch sử tất yếu ⁄

Tổ chức tư vấn hiện đại, có tổ chức nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ vốn, đầu tư trực tiếp của chính phủ, nhưng nếu nó không phải là cơ cấu thuộc

quyền của chính phủ, nhân viên tư vấn của nó cũng không phải quan chức của chính phủ thì đó là tham mưu tư vấn của dân là “tư vấn bên ngoài” của người ra quyết sách Sự xuất hiện của nó chứng tỏ tham mưu tư vấn đã tách ra từ

quyết sách để trở thành một chức nghiệp độc lập Oo T7 TT Sự tách biệt giữa tham mưu và quyết định là sản phẩm của xã hội hiện đại, là kết quả tất yếu của sản xuất xã hội hoá cao độ và sự phát triển như vũ

bão của khoa học kỹ thuật Trong xã hội hiện đại luôn phức tạp, có nhiều biến

đổi, thông tin bùng nổ, sự thay đổi diễn ra nhanh chóng, kiểu cách “quan phụ mẫu” xưa kia trong thời đại sản xuất nhỏ ôm đồm hết thẩy, dựa vào kinh

nghiệm cá nhân để lãnh đạo không thể thích ứng với giai đoạn kinh tế tri thức

phát triển được nữa, cho đù chỉ ở khâu chế định quyết sách họ cũng không thể

bao hết toàn bộ quá trình Phải dựa vào “bộ óc bên ngoài” là xu thế tất yếu Chính vì vậy, đã nảy sinh sự phân chia giữa tham mưu và quyết định cuối cùng với việc tách tham mưu ra khỏi quyết sách, quyết định trở thành công tác

chuyên môn của người ra quyết sách |

_ Tren day da trinh bay, lanh dao phai lo quyết sách, quyết sách ở day là quyết sách theo nghĩa hẹp, tức là quyết định trong quá trình quyết sách Cái

khái niệm: “tài”(tài năng), “quyết” (cả quyết), “đoán” (ra quyết định), “trạch”

(biết lựa chọn) trong sử sách cũ thường có nghĩa hướng đến sự quyết định

kịp thời, đúng đắn Trong Bỉnh thư yếu lược, nhà chính trị quân sự, Anh hùng dân tộc Việt Nam Trần Quốc Tuấn đã bàn một cách toàn điện vấn đề này:

Quận được hay thua là đo ở người làm tướng chỉ huy Có phải bởi tướng làm

nên đâu, chỉ là do sự dùng người của tướng mà thôi Trí địch muôn người nhưng không dùng muôn người thì cũng như người như vậy; dũng nhất ba quân, nếu không khiến được ba quân thì cũng giống người nhát vậy Người

tướng tài rất đứng đắn nhưng biết biến hoá, lòng nhân từ nhưng rất quyết đoán,

Trang 25

tính cứng cỏi hay thương người, dũng cảm mà hay tường tận, có sách lược để dùng cái hay của mọi người và chế ngự được quan quân kẻ dưới, tôi chưa thấy ai như thế mà không dựng được cơ nghiệp để dẹp yên hoạ, loạn bao giờ Ở

Trung Quốc thời Xuân Thu, Xuân Thân quân Hoàng Yết của nước Sở nói: “Đương đoán bất đoán, phản thủ kỳ loạn” (lúc đáng quyết định mà không

quyết định thì ngược lại sẽ bị loạn) Thời Tam Quốc, nước Thục Hán có tình

trạng: “Chính sự vô cự tế hàm quyết ư Lượng” (việc chính sự bất kể lớn hay bé

_ đếu do Gia Cát lượng quyết định) Minh quân nhà Đường Lý Thế Dân haylàm -

theo can gián “Trạch kỳ thiện nhỉ tòng chỉ” (chọn cái hay cái giỏi của họ mà thực hiện theo) Những chữ “đoán”, “quyết”, “trạch” ở đây đều có chung một

nghĩa |

Như vậy, từ khi có sự phân công giữa quyết sách và chấp hành, tiếp đó có sự phân công trong nội bộ quyết sách, sự phân công giữa tham mưu và ' quyết định, thì quyết định trở thành công việc chuyên môn của người lãnh đạo Đó chính là chun mơn hố, chun nghiệp hố cơng tác lãnh đạo Có học giả khi nghiên cứu học thuyết, khoa học về tuyển chọn cán bộ cho rằng: chuyên môn của lãnh đạo là tuyển chọn, tuyển chọn như thế nào là chủ đề | quan trọng của việc nghiên cứu khoa học lãnh đạo Đó là điều hoàn toàn chính

Xác

„ b Đối với sự phân công giữa quyết sách và chấp hành, giữa tham mưu và quyết định, công tác lãnh đạo chuyên môn hoá là kết quả tất yếu do

sự phát triển nhận thức của loài người

Trong lịch sử loài người, phân công xã hội đã xuất hiện trong thời kỳ cuối xã hội nguyên thuỷ, người ta đã nhận thức được sự tồn tại, tác dụng, ý nghĩa của sự phân công này, nhận thức được các ngành nghề khác nhau được xuất hiện do sự phân công xã hội như nông dân thì trồng trọt, công nhân thì

làm thợ, thương nhân thì buôn bán Song, về sau này người ta mới nghiên cứu

nó với tư cách là một môn khoa học, do đó, sự ra đời các bộ môn khoa học tương ứng càng muộn hơn Trong quá trình lâu dài đó, một mặt, là quá trình

Trang 26

phát triển không ngừng của sự phân công xã hội, mặt khác, lại là quá trình nhận thức của con người ngày càng sâu sắc thêm z

Cái gọi là sự phân công xã hội là sự phân công chức năng chuyên môn, cố định hố chứ khơng phải là một người nào đó ngẫu nhiên lao động trong một nghề nào đó Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, sau khi sự phân

công trong xã hội vừa xuất hiện, mỗi người đều có phạm vi hoạt động đặc thù nhất định của mình Từ đó, mỗi cá nhân đều có thể làm công việc mà họ thành thạonHất, - —— — —- — — — — TS ST ——————

- Nhưng sự phân công xã hội là quá trình phát triển lâu dài, phân cơng xã hội cố định hố, chun mơn hố được bắt đầu chính bằng sự phân công ngẫu nhiên Quyết sách và chấp hành, tham mưu và quyết định trong phân

công xã hội là sản phẩm của xã hội hiện đại, nhưng từ xưa tới nay đã tồn tại

các hiện tượng, quá trình quyết định và chấp hành, tham mưu và quyết định,

giống như trước khi có sự phân công lao động chân tay và lao động trí óc cũng đã có lao động chân tay và lao động trí óc Như vậy, khi nghiên cứu về nhận thức phân công xã hội chúng ta cần ngược đòng lịch sử, xem xét từ thời cổ đại

Ở phương Tây, pháp luật La Mã cổ đại đã có quy định: “Chấp chính -

quan về hành chính không hỏi việc nhỏ nhặt”, nhưng không nói rõ: “chấp

chính quan” làm việc gì, dù trên thực tế là người có vị trí cao nhất ở La Mã!

Tại các nước phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam thì việc

biểu đạt của các nhà tư tưởng, chính trị, quân sự của nhà nước phong kiến rất

phong phú và thú vị Họ có ý thức về sự phân chia giữa quyết sách với chấp hành, tham mưu với quyết định tương đối rõ ràng, dù rằng từ ngữ dùng để biểu

đạt rất đa dạng, hơn nữa còn khá mơ hồ

Về vấn đề phân biệt giữa quyết sách và chấp hành: Trên lĩnh vực quân

sự, trong cuốn sách Tôn Tứ binh pháp viết từ hon 2.500 năm về trước đã dé cập đến quan hệ giữa quyết sách và chấp hành: “Tướng năng quân bất ngự”

(quyết định của tướng giỏi, vua có thể không cần xem xét và phê duyệt);

' Năm 60 trước Công Nguyên, Julius Caesar được Viện nguyên lão bầu làm chấp chính quan nấm giữ công

việc hành chính và quân đội của nhà nước La Mã

Trang 27

tướng ở bên ngoài “quân mệnh hữu sở bất thụ” (lệnh vua có lúc, có việc có thể không chấp hành) Quan hệ giữa “quân” và “tướng” ở đây chính là quan hệ giữa quyết sách và chấp hành: một mặt, “tướng thụ mệnh vu quân” (tướng phải chấp hành mệnh lệnh của vua), “quân” là người quyết sách, là người lãnh đạo; mặt khác, “quân mệnh hữu sở bất thụ”, “tướng” với tư cách là kẻ chấp

hành, người bị lãnh đạo chấp hành quyết sách một cách độc lập tự chủ Về

“Tướng tướng” và “Tướng binh” của Hàn Tín, nhà quân sự thời Tây Hán, thì

- sự phân định soái tài và tướng tài cũng biểu đạt ý nghĩatươngtự — — — ——— —

Trên lĩnh vực chính trị, người chủ xướng học thuyết Lão Trang là Lão Tử có câu: “Vô: vi nhi trị” (không làm gì mà trị), “trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên” (trị nước lớn như làm thịt con cá nhỏ), “thuỳ củng nhi trị” (buông xuôi hai tay mà trị, “bất hạ đường nhi thiên hạ trị” (không cần đến công đường mà trị thiên hạ) Trong các câu đó, tuy đã có ý thức phân chia giữa

quyết sách và chấp hành, song cách biểu đạt rất mơ hồ Biểu đạt của Trần

Bình, danh tướng thời Tây Hán có rõ ràng hơn Trần Bình là tể tướng của hán Văn đế Lưu Bằng, thời của ông được gọi là thời “Văn cảnh chi trị”, rất đại

thịnh trong xã hội phong kiến Trung Quốc Khi Hán Văn đế đòi ông ta báo cáo về tình hình các vụ án hình sự trong cả nước và tình hình thu chỉ tiền bạc, lương thực quốc khố, ông ta đã trả lời rằng: “Vấn quyết ngục trách đình uý, vấn tiên cốc trách trị túc nội sử” (hỏi tội phạm xin hỏi đình uý, hỏi tiền bạc và

ngũ cốc xin hỏi quan nội sử quản thóc gạo), chức trách của tể tướng chỉ quản các việc sau: “Chủ thần thượng tá thiên tử âm dương thuận tứ thời, hạ dục vạn vật chi nghi, ngoại trấn phủ tứ di chư hầu, nội thân phụ bách tính, sử

khanh đại phu các đắc nhiệm kỳ chức yên” (như vi thần đây, làm “chủ thần”

thì trên là phải phò tá vua đoán định âm dương cho hợp bốn mùa, dưới làm

cho vạn vật sinh sôi nảy nở, ngoại trấn giữ vỗ về chư hầu man di bốn hướng,

đối nội làm cho bách tính thương yêu nhau, khiến các khanh đại phu làm trọn chức trách của họ) Ý nghĩa lời tâu thật rõ ràng: Việc vua hỏi không phải do

ông ta quản mà là việc của các bộ phận quản lý, chức trách của tể tướng chỉ là

Trang 28

nội, đối ngoại cho các quan khanh đại phu chấp hành, tức là giữ việc chủ thần

“Chủ thân” của Trần Bình và “Tướng tướng”của Hàn Tín cùng một nghĩa Ở

đây phân chia giữa quyết sách và chấp hành, tư tưởng lãnh đạo quốc gia phải “phân cấp quản lý” tương đối rõ ràng Nhận thức đó được sinh ra trong thời kỳ sản xuất nhỏ thật hiếm có Về mặt nhận thức, nhận thức này cao minh hơn

nhiều so với Gia Cát Lượng, nhà chính trị, tế tướng nước Thục Hán thời Tam

Quốc Gia Cát Lợng nổi danh là nhờ hết lòng vì công việc, nhưng ở góc độ khoa học lãnh đạo thì ông bị phê bình là ôm đồm, làm thay cấp dưới nhiều

việc, không đủ cả thời gian ăn nghỉ nên sức khoẻ suy kiệt

Đối với sự tách biệt giữa quyết sách và chấp hành thực hiện phân cấp

quản lý, người biểu đạt hoàn bị nhất và luận giải ở trình độ cao sự phân công

xã hội và thể chế quản lý là Dương Ngung', viên quan làm chủ bộ đưới quyền |

Gia Cát Lượng Dù Gia Cát Lượng là tế tướng, nhung Duong Ngung déu ty

giải quyết những việc như hiệu đính sách vở, xem xét trướng mục, thưởng phạt

sĩ tốt Ở góc độ phân công, Dương Ngung tiến ngôn một cách thành khẩn rằng: gà báo bình minh, chó trông nhà, nô tỳ nấu cơm, nô lệ làm ruộng, nếu như chủ

nhà ôm lấy để làm, thì “bất diệc lao hồ” (cũng không thể làm được), huống hổ

“Si tri hitu thé, bấc đắc thượng hạ tương xâm” (vị trí nào cũng có người, trên dưới không được xâm phạm lẫn nhau) Và ông đã dẫn chứng bài học cổ: ““Toa - nhi luận đạo vị chi chúa công, tác nhi hành chi vị chỉ sĩ đại phu” (ngồi đàm đạo công việc là việc của chúa công, bằng cách thao tác mà hành sự là VIỆC

của các sĩ đại phu) Ông còn dẫn ra các vị tiền bối như Trần Bình chỉ làm “chủ thần”, Bình Cát? không hỏi đến việc hình sự mà chỉ bàn định việc định ra luật

hình để ngăn chăn việc phạm tội Gia Cát Lượng nghe xong đã thành khẩn tiếp thu ý kiến của ông

Van dé phân chia giữa tham mưu và quyết định: Các nước phương

Đông từ xưa đã rất “trọng mưu”, “nạp gián” (thu nhận lời can), để xướng dân mưu, đã phân chia rõ ràng giữa tham mưu và quyết định Lịch sử nước ta còn

' Có sách dịch là Dương Nghỉ

? Tế tướng thời Hán Tuyên đế,

Trang 29

nhắc mãi Hội nghị Diên Hồng thời Trần, trước hoạ xâm lăng của giặc Nguyên Mông, khi được hỏi ý kiến, các bô lão đại diện cho ý kiến dân chúng đã tư vấn

cho triều đình nhà Trần quyết đánh Muu luge cua Nguyễn Trãi, Ngô Thì

Nhậm, tài tư vấn của Nguyễn Bình Khiêm, lời nói thẳng của Tô Hiến Thành,

Trần Thủ Độ, Lê Văn: Duyệt vẫn đậm nét trong kho tàng về khoa học lãnh

đạo của nước ta Trong hàng ngũ các nhà tham mưu, quân sư xuất sắc của

nước ta trước hết phải kể đến Nguyễn Trãi, người Anh hùng dân tộc đã có

2

Với cuốn Bình Ngô đại cáo dâng lên Lê Lợi, ông, đã vận trù với các bước

chiến lược cơ bản để giúp Lê Lợi giành thắng lợi vững chắc, sau này trên

cương vị của mình, Nguyễn Trãi tiếp tục có nhiều cống hiến về mưu lược an

bang trị quốc cho nhà Lê Trước thời nhà Lê, trong các giai đoạn nguy han của

đất nước, trước hoạ quân Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn không chỉ tỏ rõ tài

ba cầm quân đánh giặc, mà những tư tưởng, mưu lược dùng binh cổ kim

đã được ông biên soạn công phu trong cuốn Binh thư yếu lược Trần Quốc

Tuấn, Trần Nhật Duật còn là những người đi đầu trong việc đối xử, yêu quý nhân tài, trong đó có những người giữ nhiệm vụ cố vấn tham mưu cho các ông,

đặc biệt Trần Nhật Duật còn sử dụng cả cố vấn nước ngoài" Sau thời nhà Lê,

các vua chúa nước ta vẫn có ý thức biệt đãi quân sư Người Anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ nhờ biết dùng Quân thị lang Ngô Thì Nhậm giúp việc cơ

mưu, biết tôn La sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm thầy nên lúc sinh thời đập tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, đẹp yên cả thù trong giặc ngoài, bước đầu

có nhiều cải cách đựng nước Như vậy, ngay từ trong lòng chế độ phong kiến - _ nước ta đã tổn tại quan niệm phân chia giữa người ra quyết định, ban hành quyết sách (vua chúa) với những người có nhiệm vụ giúp việc cơ mưu, làm

Trang 30

“tư vấn” làm tai mắt, lòng dạ cho mình: Người làm tướng phải có “lòng dạ”, “tai mắt” và “nanh vuốt” Tướng tài phải có người nghe rộng biết nhiều làm

long da, có người xét việc sâu sắc, kín đảo làm tai mắt và phải có người đũng

cảm giỏi đánh trận làm nanh vuốt Không có lòng dạ thì như người đi đêm

không có đuốc, không có tai mắt thì như người làm việc trong xó tối, không

có nanh vuốt thì như người đói ăn phải nọc độc

Ở Nhật Bản, vào thế kỷ XI, do các ý kiến có tính tư vấn của các nhóm

— ————ÿõ sĩ samurai trên nhiều lãnh: địa quyết tâm chống quân Nguyên Mông ngay —————

tại bờ biển, nên triều đình Mạc phủ đã chuẩn bị sẵn trận địa trên bờ biển, đón

lõng quân địch, bẻ gãy lực lượng địch ngay khi mới lên bờ Các tư tưởng mới, tham mưu về chính sách cách tân đất nước của Yukichi Fukuzawa được Minh

Thị Thiên hoàng ủng hộ, từ đó nước Nhật sớm cải cách và trở thành hùng

Cường

| Tại Trung Quốc, ngay Từ thời nhà Chu, Khương Tử Nha đã đề ra “liên

mưu hậu sự hành giả xương, tiền sự hậu mưu giả vong” (kẻ bàn bạc tính mưu kế trước khi hành sự thì thắng, kẻ làm việc trước tính mưu kế sau thì thất bại),

đã chia ra mưu và hành, và cho rằng mưu trước sự sau, mưu xong mới hành là

không thể đảo ngược

Tỉnh hoa của Tôn tử binh pháp chính là tư tưởng mưu lược chứ không

phải phương pháp, nguyên tắc hành quân tác chiến cụ thể '““Thiên Kế”, '““Thiên

Mưu công” trong sách còn dành riêng bàn về vị trí tác dụng của mưu lược Tôn Tử hết sức nhấn mạnh tiên mưu hậu sự — “miếu toán” (vạch kế hoạch ở

trong phòng, trong màn trướng), “đa toán thắng, thiểu toán bấc thắng, là

- khoang vô toán hu?” (tính toán kỹ thì thắng, tính toán sơ sài thì không thắng,

huống hồ khơng tính tốn?), do đó để ra “thượng binh phạt mưu; bách chiến

bách thắng, phi thiện chỉ thiện giả dã, bac chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chỉ thiện gia đã” (thượng sách trong việc dùng binh là chỉnh phạt bằng mưu kế;

kẻ đánh trăm trận trăm thắng không phải là người giỏi nhất trong những người giỏi, người không đánh mà khuất phục được đối phương mới là người gIỎI

Trang 31

nhất trong những người giỏi) Tư tưởng mưu lược này đối với hậu thế vẫn ảnh

hưởng rất sâu rộng ⁄

Thời kỳ Xuân Thu — Chiến quốc, do trọng mưu và tôn hiền, đã hình thành nên làn sóng “dưỡng sĩ” VỊ vua giành được vị trí bá chủ chư hầu đầu tiên là Tề Hồn cơng thời Xuân Thu có hơn 80 mưu sĩ, do đó mà được “cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ” Bốn công tử nổi tiếng Mạnh Thường quân, Bình Nguyên quân, Tín Lăng quân, Xuân Thân quân ở các nước Tề,

guy: c xÀ hiên” (nuôi dưỡng đế " ba ngàn kẻ sĩ) Cuối thời Tần, Lưu Bang được coi là “thảo mãng anh hùng”

(anh hùng thô lỗ), “ngạo nhì mạn nhân” (kể ngạo mạn), đầu tiên ông ta cho

rằng được thiên hạ bằng cách “cư mã thượng” (ở trên lưng ngựa), luôn coi

thường mưu sĩ và nho sinh, sau đó từ kinh nghiệm thực tiễn dần dân ông ta

cũng đã hiểu được tác dụng của mưu sĩ Nhiều quyết sách trọng đại trong cuộc

chiến chống Tân và giao tranh Hán — Sở không phải xuất phát từ ý tưởng của

ông ta, mà là đo c ác mưu sĩ thượng thặng như Trương Lương, Trần Bình,

Lịch Tự Cơ giúp đỡ Khi tổng kết kinh nghiệm sau thắng lợi, ông cho rằng sở di ông ta chiến thắng là nhờ các mưu sĩ đã hết lòng tư vấn, vạch ra những mưu lược, điệu kế đúng đấn, kịp thời Đặc biệt, Lưu Bang đánh giá cao

Trương Lương, coi là người đã dồn hết tâm lực để “vận trù duy ác, quyết thắng

vu thiên lý” (tính toán trong màn trướng mà quyết định thắng lợi ở nơi xa nghìn dặm) Cụm từ “vận trù duy ác” ở đây và “miếu tốn” của Tơn Tử có hàm nghĩa hoàn toàn tương đồng

Đến đời nhà Thanh, địa vị của mưu sĩ có thay đổi Sau khi quân Thanh

chiếm được Trung nguyên, lật đổ nhà Minh, do không hiểu phong tục, dân tình của người Hán, nên quan viên các cấp đã phải thu hút khá nhiều văn nhân làm tham mưu, cố vấn cho mình và tổ chức thành “Mộ phủ” Thành viên của “Mộ phủ” gọi là “Mộ liêu”, hoặc “Mạc tân”, “Mạc hữu” Loại mưu sĩ “Mộ liêu” này khác với quan mưu truyền thống: Mộ là, không phải là quan viên, không có quan chức, không có thẩm vị Mạc chủ mới là quan viên Hai là,

quan hệ giữa quan và liêu không phải là quan hệ cấp trên cấp dưới mà là quan

Trang 32

hệ chủ và khách Ba /à, “Mộ liêu” tự do đến và đi, hợp thì lưu lại, không hợp

thì bỏ đi, không có sự ràng buộc về tổ chức Kiểu này hoàn toàn tương tự cơ cấu đân mưu hiện đại, có thể nói đó là hình thức mầm mống của dân mưu

hiện đại So với dân mưu hiện đại có bản chất khác, đó là “Mộ phủ” vẫn là tổ

chức thuộc quan phương, là vật phụ thuộc của quan phương, phải nhìn nét mặt

của chủ mà hành sự, không thể tư vấn một cách độc lập, tự chủ

Do đó có thể thấy, sự phân chia giữa tham mưu và quyết định ở Trung

ˆ Quốc đã phát triển lân lượt qua cá

ý thức, mà phát triển từng bước cả về chế độ tổ chức và phân công chuyên

môn Mưu sĩ đã trở thành con đường cống hiến của các phần tử trí thức, là một loại chức nghiệp từ đó có thể cung cấp chất xám để các nhà lãnh đạo lựa chọn Nhưng trước sau vẫn chưa phân cơng chun mơn hố mà chỉ là bậc

thang thăng quan, tiến chức | | |

3 Lý luận quản lý hành chính và quản lý kinh tế của phương Tây

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lý luận quản lý của phương Tây bắt

đầu ra đời và phát triển nhanh chóng, quan điểm của nó đa dạng, các trường phái cũng rất phong phú P.Druker, nhà quản lý học nổi tiếng người Mỹ cho

rằng, trong lịch sử nhân loại hiếm có một hệ thống mới giống như hệ thống

quản lý rất nhanh chóng được sự thật minh chứng là không thể thiếu được

Mỗi một hệ thống mới ra đời, sự phản đối mà nó gặp phải ít như thế, sự náo loạn và phản đối mà nó gây ra ít như thế, điều đó quả là hy hữu và lạirấthiếm -

thấy Lý thuyết của P.Druker được gọi là lý thuyết lãnh đạo bằng mục tiêu,

nghĩa là coi trọng kết quả, hiệu quả công việc hoàn thành Điều đó phản ánh

tính tất yếu lịch sử của sự chuyên mơn hố khoa học cơng tác lãnh đạo và

công tác quản lý |

Lý luận của quản lý của phương Tây gồm: quản lý hành chính học

nghiên cứu quản lý xí nghiệp trên lĩnh vực kinh tế, Đó là hai phương hướng

phát triển cơ bản của lý luận quản lý phương Tây Các nhà chính trị học và

quản lý hành chính học, chứ không phải các nhà quản lý kinh tế học đầu tiên

Trang 33

xem xét đến sự phân công xã hội giữa quyết sách và chấp hành, và coi hai vấn

đề đó lần lượt là đối tượng của các môn khoa học khác nhau z

Từ cuối thế kỷ XIX, nhà chính trị học người Mỹ (sau này là Tổng thống

Mỹ) Woodrow Wilson (1856 -1924) đã đưa ra tư tưởng hành chính học

chuyên nghiên cứu “chấp hành” sớm nhất Trong bài viết “Nghiên cứu hành chính” trên Tạp chí Chính trị học, năm 1887, ông cho rằng: “Chấp hành hiến

pháp khó hơn so với chế định hiến pháp Cần phải có một môn khoa học

—_——— — nghiên cứu về chấp hành”: chính Đó là hành chính học hoặc sau này phat trién ———

lên còn gọi là quản lý hành chính học Ở đây chúng tôi không muốn bình luận

quyết sách hay chấp hành, cái nào khó hơn, mà muốn nêu lên cái quý giá của nó ở chỗ nó đã chỉ ra quyết sách và chấp hành là hai chức năng khác nhau

trong trị lý quốc gia, cần phải có các bộ môn khoa học khác nhau chuyên

nghiên cứu về chấp hành Hành chính học là khoa học chuyên nghiên cứu về chấp hành Đáng tiếc là Wilson đã không chỉ ra chuyên nghiên cứu về chế _ định quyết sách là môn khoa học gì |

F.Coudnor ngudi dat nén mong cho chinh trị học và hành chính học đã chỉ rõ hơn trong cuốn Chính trị và hành chính Trước tiên, ông mượn lời

của nhà hành chính học người Pháp M.Dick Luk: “Chỉ có thể tưởng tượng có

hai loại quyền lực: một là chế định pháp luật và hai là chấp hành pháp luật, ngoài hai loại quyền lực đó ra không còn đất thừa cho hai loại quyền lực thứ ba tổn tại”, và sau đó cao hơn nữa, ông ta đề xuất: “chính trị phản ánh ý chí nhà nước” Phân biệt rõ ràng, chính xác chính trị là quyết sách, hành chính là

chấp hành Như vậy, quản lý hành chính học chỉ lấy chấp hành, không bao gồm quyết sách, làm đối tượng đã phát triển hẳn lên

Nhưng sau đó quản lý hành chính học phát triển không có tính đột phá, -

còn quản lý kinh tế học ra đời đầu thế kỷ XX lại phát triển cực kỳ nhanh

chóng, nội dung lý luận, trình độ phát triển của nó đã vượt qua rất xa quản lý

hành chính học Đối với Việt Nam, trước đây quản lý hành chính học có ảnh hưởng ít hơn so với quản lý kinh tế học, nhưng gần đây vai trò, vị trí quản lý

Trang 34

hành chính ngày càng được nâng lên, cùng với các ngành khoa học khác đã tác động mạnh mẽ vào sự phát triển khu vực công, khu vực.tư và cả xã hội

Người ta tổng kết rằng có các trường phái quản lý nổi tiếng là: trường phái cổ điển với hai nhánh là lý thuyết quản lý khoa học với đại diện là

F.Taylor va ly thuyết tổ chức cổ điển với đại hiện là H.Fayol và M.Weber;

trường phái hành vi với đại diện là E.Mayo; trường phái định lượng hay còn

gol là trường phái khoa học quản lý xuất hiện tại Anh vào đầu Chiến tranh thế

” ————— giới thứ hai, nội dung chính là lập các nhóm nghiên cứu kết hợp (Operatonal Research) gồm nhiều nhà khoa học các ngành liên quan đến vấn đề phải giải quyết mà các biện pháp truyền thống không cho phép, đó gọi là nhóm khoa học quản lý phải trình bày trước lãnh đạo cơ sở hợp lý nhất để đưa ra 2 quyết định đúng đắn

Học thuyết quản lý khoa học do F.Taylor (1845-1915), người được coi là “cha đẻ của khoa học quản lý”, trong cuốn Nguyên lý của khoa học quản lý 'xuất bản năm 1911 tuy chưa có khái niệm quyết sách rõ ràng, nhưng ông cho

ring trong hoạt động kinh tế có “chức năng kế hoạch và chức năng chấp

hành” và yêu cầu phải “phân định rạch ròi” hai loại chức năng đó Ông chỉ rõ:

phải có phân công giữa người quản lý và công nhân, người quản lý phụ trách

kế hoạch và huấn luyện công nhân phải “chấp hành” ra sao

Một nhân vật đại biểu được coi là một trong những sáng lập chính trị

của trường phái tổ chức cổ điển người Pháp là Henry (1841-1925) Tư tưởng

về quản lý của ông phong phú và sâu sắc, ông cho rằng quản lý không phải là

một tài năng thuộc về tư chất mà một kỹ năng như mọi kỹ năng khác Năm

chức năng 14 nguyên tắc quản lý nổi tiếng của ông đưa đến nay vẫn còn là

kinh điển của lý luận quản lý Theo ông, có 5 chức năng quản lý là “kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng, kiểm soát” Cái gọi là kế hoạch, theo ông, là đề ra

các hành động để tổ chức đạt được mục tiêu của mình Như vậy, ở đây “kế

hoạch” chính là quyết sách, còn “tổ chức, chỉ huy” là chấp hành Trong 14

nguyên tắc quản lý, nguyên tắc thứ nhất là “phân công lao động”, nguyên tắc thứ hai là “quyền lực (phân quyền, phân trách nhiệm), chỉ rõ việc phân công

Trang 35

nhân viên kinh doanh, quản lý, kỹ thuật của xí nghiệp, “kết quả của nó là chun mơn hố chức năng và phân tán quyền lực” “Phàm là nơi thực hiện

quyền lực thì phải có trách nhiệm”, quyền lợi và nghĩa vụ, quyền lực và trách _ nhiệm thống nhất với nhau, đều là những khái niệm chính trị, nhưng ông là

người đầu tiên dẫn vào lĩnh vực kinh tế Đó đều là những cống hiến cho tư tưởng quản lý của H.Fayol Tư tưởng quản lý của ông, nhất là 5 chức năng và

14 nguyên tắc quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến hậu thế, nhiều trước tác quản

a

" - ° `

H.Fayol và M.Weber đều đưa ra kế hoạch (tức thuyết sách) và chấp

hành, đồng thời chỉ ra sự phân công giữa chúng nhưng đều chỉ bao hàm trong quản lý.H.Fayol cũng lần đầu tiên đưa ra hai khái niệm kinh doanh và quản lý

khác nhau, nhưng kinh doanh là một bộ phận cấu thành quản lý Đây chính là

nguyên do nhiều cuốn sách viết về quản lý của phương Tây không phân biệt

rõ ràng lãnh đạo và quản lý hoặc coi lý luận lãnh đạo bao hàm trong quản lý

Điều đáng chú ý là, tuy H.Fayol đưa ra hai khái niệm lãnh đạo và quản lý

khác nhau, “không được trộn lẫn lãnh đạo và quản lý”, nhưng ông vẫn không

nói rõ sự khác nhau giữa chúng

Lịch sử khoa học quản lý còn tồn tại nhiều cách phân chia về các chức

năng quản lý Như trên đã nói, theo quan điểm của lý thuyết gia H.Fayol thì có 5 chức năng quan ly co ban: Dén nam 1937, L.Gulick va L.Urwick (1891-

1983) phat trién thanh 7 chttc nang (viét tat 1a POSDCORB): P — Planning — lập kế hoạch O — Organizing —t6 chitc S- Staffing — quan lý nhân sự D- Directing — chỉ huy CO — Coodinating — phối hợp R — Reviewing — báo cáo B- Budgeting — Tai chinh

Trong nhiing nam 60 cla thé ky XX, H.Koontz va C.O’Donnell nêu ra 5

Trang 36

này, một số chuyên gia cho rằng trong thời hiện đại khi nền hành chính quyền

truyền thống đang chuyển hoá sang nên hành chính hiện đại, thì chức năng

quản lý gồm năm chức năng (viết tắt là PAFHIER):

PA — Policy Analysic — phân tích chính sách F — Financial Manaygement — quản lý hành chính H — Human Resouce Manaygement — quan ly nhân sự I — Information Manaygement — quản lý thông tin

— External Relation — ê bê ai

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, một số lý thuyết gia người Mỹ như

J.Stoner, S.Robbins quy về 4 chức năng chính là: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh |

dao va kiém tra

Trong khoa hoc quản lý hiện đại, các chuyên gia thường tiếp cận theo

hai góc độ là quá trình quản lý và hoạt động của tổ chức để phân chia chức

năng quản lý theo quá trình, chúng ta có 4 chức năng quản lý chính:

| - Lập kế hoạch: Là việc điều tra nghiên cứu nhu cầu về sự hạn chế khả năng, dự báo cho tương lai, đưa hai quyết định, đặt mục tiêu, lập quy chế, xếp

đặt nhiệm vụ, cân đối tổng hợp, sắp xếp thời gian, bố trí không gian, thiết kế

ˆ cơ cấu và lộ trình đạt tới mục tiêu, để ra tiêu chuẩn đánh giá

- Tổ chức: Vừa bao gồm việc tổ chức xây dựng kế hoạch vừa bao gồm

tổ chức lực lượng (các nguồn lực thực hiện theo một kế hoạch đã định); đồng

thời, đảm trách việc bố trí nhân sự, chỉ huy, tuyên truyền quảng bá, bãi

nhiệm đối với các thành viên một cách kịp thời, đúng quy định

_- Lãnh đạo: tức là xây dựng một hệ thống chỉ huy, điều hành mạnh, hiệu quả cao, thông qua một mệnh lệnh thống nhất, bảo đảm cho hệ thống

được vận hành với tính liên tục cao và tính cân bằng động, làm cho giữa các yếu tố trong hệ thống có bước đi nhịp nhàng, phối hợp ăn ý, trôi chảy, thông

suốt

- Kiểm tra: Là căn cứ vào các thông tin phản hồi trong quá trình vận hành hệ thống, hoặc trong các kết quả đầu ra mà phát hiện kịp thời các sai sót,

Trang 37

tìm ra nguyên nhân để lập tức đưa ra các hành động, biện pháp sửa chữa, hoàn thiện : ⁄

Các chức năng quản lý nói trên mang ý nghĩa phổ quát cho mọi c hủ thể -

quan lý, mọi nhà quan lý, quản trị, không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi trường xã hội ở các quốc gia Tuy nhiên ở những tổ chức khác nhau, những cấp bậc khác nhau sẽ có sự khác nhau về mức độ, sự quan tâm và cách thức thực hiện các chức năng quản lý

trong lý luận đề xuất suy đoán “quá trình quản lý là quá trình quyết sách”, “quản lý chính là quyết sách”, “quyết sách là quản lý là một từ gần nghĩa,

đồng nghĩa”, khiến sự bấc phân giữa lãnh đạo và quản lý càng thêm rắc rối Nhân vật đại biểu của trường phái quyết sách là nhà kinh tế học người Mỹ H.Simon Ông cho rằng, quá trình kinh tế và toàn thể hoạt động thực tiễn

“không thể không bao hàm quá trình chế định của quyết sách và quá trình

chấp hành của quyết sách” sự phân công giữa nhân viên quản lý và nhân viên thao tác không giống nhau “chun mơn hố hàng ngang” truyền thống, mà là “chuyên môn hố hàng dọc” Ơng cịn đề xuất khái niệm quan trọng “chun mơn hố cơng việc quyết sách”, nhưng ông ta lại không đi sâu hơn khi đề xuất -bởi lẽ một khi chun mơn hố công việc quyết sách thì sẽ có chun mơn hố công việc chấp hành, từ đó mà có chuyên môn hố cơng tác lãnh đạo và chun mơn hố cơng tác quản lý và có khoa học lãnh đạo và khoa học quản ˆ

lý tương ứng Đồng thời, ông lại chỉ rõ lý luận quản lý vừa nghiên cứu cái thứ

nhất lại vừa nghiên cứu cái thứ hai, quyết sách là một bộ phận của quản lý và

kết luận “quản lý chính là quyết sách” Đó là một cách đề xuất cực đoan Tuy

nhiên, lý luận của H.Simon vẫn được coi là nguyên tắc, phương pháp quyết

sách và “nghiên cứu có tính mở đầu về trình tự quyết sách”, là cống hiến to

lớn đối với khoa học lãnh đạo, trong đó có rất nhiều nội dung là nội dung của

khoa học lãnh đạo Cống hiến của nó chủ yếu trên ba phương diện

Thứ nhất, về trình tự quyết sách, ông là người đầu tiên chỉ rõ bốn giai

đoạn của quyết sách, và sự phân chia tham mưu và quyết định trong quá trình

Trang 38

quyết sách, mưu trước đoán sau Ông cho rằng: “Chế định quyết sách bao gồm 4 giai đoạn: tìm ra lý do chế định quyết sách; tìm ra phương ấn hành động có thể; lựa chọn phương án tiến hành trong tất cả các phương án; tiến hành đánh giá việc lựa chọn đó” Trình tự quyết sách này chính là tin tức, tư vấn, quyết định mà chúng ta thường nói hiện nay, trong đó tin tức và tư vấn là tham mưu Trong quyết sách có tham mưu, có quyết định và tham mưu trước, quyết định

A19 sau Ông nói: “Nói chung, “hoạt động tình báo” trước “hoạt động thiết kế” và

tư tưởng phân chia giữa tham mưu và quyết định trong quá trình quyết sách

của ông rất rõ ràng Tuân theo trình tự quyết sách rất có ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo kiên trì thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá quyết sách

Thứ hai, về quyết sách phi trình tự trong loại hình quyết sách Về chủng loại quyết sách, nhiều người đã nghiên cứu chia ra quyết sách chiến lược, quyết sách chiến thuật, quyết sách chính trị, quyết sách kinh tế, quyết sách cá nhân, quyết sách tập thể, quyết sách chính xác rõ ràng, quyết sách mơ hồ

Đương nhiên, còn có thể có rất nhiều phương pháp phân loại khác Nhưng

H.Simon đã phân chia loại hình quyết sách đã có thành “hai loại quyết sách có

tính chất tương phản”, tức “quyết sách trình tự và quyết sách phi trình tự” Ông đã phân tích rõ ràng hai loại quyết sách, quyết sách trình tự là quyết sách “trạng thái lặp lại và xếp hàng”, xử lý chúng có “trình tự cố định”; quyết sách phi trình tự là quyết sách “biểu hiện mới mẻ, không cơ cấu, mức độ ảnh hưởng

không phải là nhỏ, xử lý loại vấn đề này không có “linh đơn điệu dược” Ông cũng chỉ rõ 3 đặc điểm lớn của loại quyết sách này: Mới là, mới mẻ, không xuất hiện lại; ha¡ là, “vô cơ cấu”, “tính chất và cơ cấu xác thực của nó không

nắm chắc được, bất định hoặc rất phức tạp”, tức là vấn đề có tính tuỳ cơ, tính mô hồ; bø ià, “có ảnh hưởng không phải là nhỏ”, vấn để “vô cùng quan trọng,

cần phương thúc vừa làm vừa xử lý thêm” Nói một cách ngắn gọn, quyết sách

phi trình tự là loại quyết sách không có sách để tuân theo, không có trình tự ổn

định

Trang 39

Đối với người lãnh đạo, quyết sách phi trình tự có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng Đối với người quản lý, hai loại quyết sách đó đều tồn tại, tỷ lệ quyết

sách quản lý trình tự ở cơ sở rất cao Song, đối với người lãnh đạo, họ hầu như thường phải đối mặt với loại quyết sách phi trình tự, giải quyết vấn đề quyết sách phi trình tự thể hiện rõ nhất phẩm chất, năng lực và trình độ lãnh đạo của người lãnh đạo Còn quyết sách trình tự không đòi hỏi người lãnh đạo phải đốc

sức, mà nhân viên chuyên môn có thể giải quyết, thậm chí còn có thể giải

2

n “4 nw

quyctraliot

Thứ ba, về nguyên tắc “hữu hạn lý tính” và “tính khả thi của quyết sách H.SImon gọi là.lý tính của con người là “1ý tính hữu hạn độ”, “bộ não con người không thể nắm và xem xét tất cả các mặt giá trị, tri thức và các hành vi

liên quan của mỗi quyết sách” Về lý tính của con người trong điều kiện lịch

sử nhất định, cách nhìn đó không nghỉ ngờ gì, là chính xác Đồng thời, đối với

quyết sách-phi trình tự không thể đòi hỏi “tối ưu”, chỉ có thể yêu cầu “ưu” trong điều kiện hiện có

Tóm lại, những nhà sáng lập khoa học quản lý, nhất là khoa học quản lý hành chính, khoa học quản lý kinh tế của phương Tây là những nhà chuyên môn, những nhà khoa học đầu tiên chuyên nghiên cứu về quyết sách và chấp

hành |

4 Khoa hoc lanh dao hién dai trén thé gidi va 6 Viét Nam

Trong các tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng, xã hội một khi có nhu cầu về mặt kỹ thuật, thì nhu cầu đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên hơn cả mười trường đại học Luận đoán này thích hợp với mọi thời đại với sự ra đời và phát triển của bất kỳ môn khoa học nào Sự ra đời của

khoa học lãnh đạo, trước hết là do nhu cầu của con người quyết định, “khoa

học” mà con người không cần thì chẳng có ý nghĩa gì

Về tổng thể xã hội loài người, bản chất của xã hội hiện đại khác với thời đại sản xuất nhỏ, đó là sự chuyển biến từ sản xuất sang sản xuất lớn xã hội hoá cao độ,

Trang 40

Thời đại sản xuất nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ hẹp, liên hệ giản đơn, lượng thông tin ít ỏi và biến đổi chậm Người lãnh đạo có thể dựa vào kinh nghiệm và tri thức cá nhân để lãnh đạo, dù rằng lúc đó cũng cảm thấy tri thức

kinh nghiệm của mình không đủ, cần mượn bộ có của mưu sĩ để bổ sung

Cuối kinh tế XIX đầu thế kỷ XX, xã hội loài người bước vào thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, đặc điểm chung của thời đại này là nền sản xuất xã hội hoá cao độ, khoa học kỹ thuật đồng bộ hoá Do sự phát triển của phân hàng hoá, kỹ thuật của các loại nhà máy càng chia ra càng nhiều, bộ môn khoa học càng chia ra nhiều, phân chia các môn học cũng càng ngày càng

nhiều; mặt khác, đồng thời với phân hoá cao độ lại diễn ra quá trình tổng hợp

cao độ, sự xuất hiện của ngành khoa học lớn có tính giao thoa, tính tổng hợp mới nổi lên trong xã hội hiện đại với những công trình nghiên cứu liên ngành

rộng rãi, liên quốc gia chính là kết quả tổng hợp cao độ, thẩm thấu va dan

xen lẫn nhau vào sự phân công phân hoá cao độ của khoa học kỹ thuật và sản xuất của xã hội hiện đại

Đặc điểm này của xã hội hiện đại, so sánh với sản xuất nhỏ trước đây không những khác biệt về quy mô, trình độ, số lượng mà còn khác nhau về

bản chất Äội /à, toàn bộ thực tiễn xã hội của sản xuất, nghiên cứu khoa học và phân loại liên hệ rộng rãi, cơ cấu phức tạp Tính phức tạp của công tác lãnh

đạo do nó đưa đến không nói cũng rõ, sai lâm của những quyết sách trọng đại sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền, gây ra ảnh hưởng toàn diện và sau sac Hai

là, sản xuất, khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển nhanh như vũ bão, do đó, tin

tức mà người lãnh đạo phải đối mặt không chỉ cực đại về số lượng mà còn

thiên biến vạn hoá phong phú, đa đạng, phức tạp Quyết sách khi đã sai, một

cái sai sẽ kéo theo nhiều cái sai; quyết sách chậm, bỏ lỡ thời cơ, thời gian sẽ

không trở lại Cho nên khoa học lãnh đạo là một môn khoa học để nghiên cứu

công tác lãnh đạo, là yêu cầu và nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội được

đặt ra trong xã hội hiện đại Các nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển coi công việc quyết sách là một môn khoa học, bất kể nó được gọi tên khoa

Ngày đăng: 08/11/2022, 23:20

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w