CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm về nông thôn
Trên thế giới hiện nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa nông thôn Một số người cho rằng nông thôn được xác định dựa vào mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng, tức là khu vực nông thôn có cơ sở hạ tầng kém phát triển hơn so với đô thị Ngược lại, có quan điểm cho rằng tiêu chí để xác định nông thôn nên dựa vào khả năng tiếp cận thị trường và phát triển hàng hóa.
Nông thôn thường có trình độ sản xuất hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn so với đô thị Một quan điểm khác cho rằng việc xác định khu vực nông thôn nên dựa vào chỉ tiêu mật độ dân cư và số lượng dân Theo đó, khu vực nông thôn có quy mô dân số và mật độ thấp hơn khu vực đô thị.
Nông thôn thường được hiểu là khu vực có dân cư chủ yếu làm nông nghiệp, nơi người dân dựa vào sản xuất nông nghiệp để sinh sống Tuy nhiên, quan điểm này chỉ đúng trong bối cảnh cụ thể của từng quốc gia, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế và các cơ chế áp dụng Ở những nước đang trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, khái niệm nông thôn đang dần thay đổi, khi mà sản xuất nông nghiệp không còn là nguồn sinh kế chính, mà các ngành công nghiệp và dịch vụ cùng với sự phát triển của các khu đô thị nhỏ cũng đang hình thành.
Tại Việt Nam, khái niệm "nông thôn" thường được hiểu là làng, xóm và thôn Theo GS.TS Hoàng Chí Bảo trong nghiên cứu về "Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay", làng Việt hình thành một cách tự nhiên, không qua sự can thiệp của chính quyền Trung ương, mang những nét đặc trưng riêng Qua các triều đại lịch sử, tên gọi của làng cũng đã có sự thay đổi, cho thấy sự đa dạng và đặc sắc trong văn hóa nông thôn Việt Nam.
"thôn" hoặc "làng xóm", cũng có khi làng cũng chính là "xóm".
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, nông thôn được định nghĩa là khu vực lãnh thổ của một quốc gia hoặc đơn vị hành chính nằm ngoài đô thị, với môi trường tự nhiên và điều kiện sống khác biệt so với thành phố Nơi đây chủ yếu có hoạt động kinh tế nông nghiệp, phản ánh sự đa dạng trong hoàn cảnh kinh tế xã hội của đời sống nông thôn.
Về mặt địa lý tự nhiên, nông thôn là một địa bàn rộng lớn tạo thành các vành đai bao quanh thành thị.
Nông thôn là khu vực chủ yếu cho các ngành sản xuất vật chất như nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, đồng thời cũng phát triển các ngành phi nông nghiệp như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Tổ chức xã hội và cơ cấu dân cư ở nông thôn chủ yếu bao gồm nông dân và gia đình họ tộc với mật độ dân cư thấp Bên cạnh đó, có một số người làm việc ở nông thôn nhưng lại sinh sống tại đô thị, trong khi cũng có những người làm việc ở đô thị nhưng cư trú tại nông thôn.
Nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và gìn giữ các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc, bao gồm phong tục, tập quán cổ truyền, các ngành nghề truyền thống và các di tích lịch sử.
Trình độ dân trí, khoa học công nghệ, và kết cấu hạ tầng của cộng đồng dân cư nông thôn thường thấp kém, thua xa so với đô thị.
Khái niệm "nông thôn" hiện nay đã được mở rộng, không chỉ giới hạn trong "làng" mà còn bao gồm các thị trấn có sự phát triển phụ thuộc vào nông nghiệp Những khu vực này gắn liền với nông thôn và cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho cư dân nơi đây.
Theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP, nông thôn được định nghĩa là khu vực không thuộc nội thành, nội thị và được quản lý bởi UBND xã Các vùng nông thôn Việt Nam có đặc điểm gắn liền với các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp Cộng đồng cư dân nông thôn thường thể hiện tinh thần đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên tình làng nghĩa xóm bền chặt, với lối sống và phương thức sinh hoạt khác biệt so với cộng đồng thành thị.
1.1.2 Khái niệm về nông thôn mới Đến nay chưa có khái niệm chính thức về nông thôn mới, nông thôn phát triển như thế nào, ở mức độ nào thì được gọi là nông thôn mới, vấn đề này mang tính lịch sử, tùy theo từng quốc gia, khu vực và tùy theo từng thời điểm phát triển, người ta có thể đưa ra tiêu chí về nông thôn mới khác nhau.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đặt ra mục tiêu xây dựng nông thôn mới đến năm 2020, với các tiêu chí như hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế hợp lý và tổ chức sản xuất hiệu quả Nghị quyết nhấn mạnh sự liên kết giữa nông nghiệp và sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, đồng thời đảm bảo xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc Bên cạnh đó, việc nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái và củng cố hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng là những mục tiêu quan trọng.
Nông thôn mới phải được xác định là một hình thức nông thôn hiện đại, khác biệt so với nông thôn truyền thống hiện nay Nó cần tập trung vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống người dân và phát triển kinh tế bền vững, từ đó tạo ra một môi trường sống tốt hơn cho cộng đồng.
Làng xã cần được xây dựng với tiêu chí văn minh, sạch đẹp và hạ tầng hiện đại, đồng thời giữ gìn không gian nông thôn đặc trưng, phản ánh qua cảnh quan và khuôn viên của các hộ gia đình.
Sản xuất cần phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa, đảm bảo thu nhập ổn định và tạo ra nhiều việc làm Mục tiêu là giảm tỷ lệ hộ nghèo đến mức thấp nhất, không để xảy ra tình trạng đói nghèo trong cộng đồng.
Thứ ba, đời sống về vật chất và tinh thần của dân nông thôn ngày càng được nâng cao.
Khái quát về xây dựng nông thôn mới
1.2.1 Vai trò của nông thôn mới trong phát triển kinh tế - xã hội
Xây dựng nông thôn mới là việc cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
Chương trình “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” hướng đến phát triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế và xã hội, đặc biệt là kết nối giữa nông thôn và thành thị Mục tiêu là không để khu vực nông thôn tụt hậu trong sự phát triển chung, đồng thời thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn Tuy nhiên, nhiều thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước… còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp và nông thôn còn lạc hậu và đời sống nhân dân còn thấp và “xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương, đất nước; đồng thời, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân sinh sống ở địa bàn nông thôn” Thông qua xây dựng nông thôn mới sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội ở vùng nông thôn, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và sự công bằng của đông đảo người nông dân, giải quyết các mâu thuẫn xã hội ở nông thôn, giảm thiểu nhân tố bất ổn tạo cơ sở vững chắc cho xây dựng nhà nước XHCN trong tương lai Cụ thể:
Để phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá mở và hội nhập, cần xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất, giao lưu buôn bán và khuyến khích người dân tham gia vào thị trường Bên cạnh đó, việc này cũng giúp hạn chế rủi ro cho nông dân, giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo và chênh lệch mức sống giữa các vùng, cũng như giữa nông thôn và thành thị Đặc biệt, cần chú trọng đến các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó kinh tế tập thể như hợp tác xã và tổ hợp tác đóng vai trò quan trọng.
Nhà nước chú trọng hỗ trợ các hợp tác xã trong việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và phát triển ngành nghề tại nông thôn.
Chính trị cần phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật, xây dựng hương ước và quy ước phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội để điều chỉnh hành vi con người Điều này đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép nước và phát huy tính tự chủ của làng xã Dân chủ ở cơ sở được tối đa hóa, tôn trọng hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và các hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, nhằm huy động sức mạnh tổng lực vào việc xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư là yếu tố quan trọng trong việc giúp cộng đồng xoá đói giảm nghèo và nâng cao mức sống Cần phát triển hình mẫu người nông dân sản xuất hàng hoá giàu có, đồng thời khuyến khích họ trở thành công dân tốt, góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Xây dựng nông thôn mới cần gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái, bao gồm bảo vệ rừng đầu nguồn, ngăn chặn ô nhiễm nguồn nước, không khí và chất thải từ khu công nghiệp để phát triển bền vững Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chính sách, xây dựng cơ chế và hành lang pháp lý, đồng thời hỗ trợ vốn, kỹ thuật và nguồn lực Sự tham gia tự nguyện và chủ động của nhân dân là yếu tố then chốt trong việc thực thi chính sách, từ đó tạo ra hiệu ứng tổng thể cho việc xây dựng mô hình nông thôn mới.
1.2.2 Mục tiêu xây dựng nông thôn mới
1) Xây dựng cộng đồng văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến.
2) Gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ và du lịch; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; từng bước thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
3) Xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; trình độ dân trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ.
4) Hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
1.2.3 Đặc điểm xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là một sự nghiệp cách mạng quan trọng, liên quan đến toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế - xã hội mà còn mang tính chất kinh tế - chính trị tổng hợp Qua việc xây dựng nông thôn mới, nông dân sẽ có niềm tin hơn, trở nên tích cực, chăm chỉ và đoàn kết, từ đó hỗ trợ lẫn nhau để phát triển nông thôn thành một nơi giàu đẹp, dân chủ và văn minh.
Khi nghiên cứu quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, cần hiểu rõ mục tiêu, đặc điểm, bản chất và chức năng của hoạt động này Điều này giúp nhận diện vai trò của xây dựng nông thôn mới trong quá trình phát triển, đồng thời xác định vai trò và nội dung quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này Các đặc điểm của xây dựng nông thôn mới cần được làm rõ để nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển bền vững.
Một là, tính kinh tế
Phát triển nông nghiệp hiện đại và bền vững dựa trên lợi thế nông nghiệp nhiệt đới là mục tiêu quan trọng Xây dựng nông thôn với nền sản xuất hàng hóa mở, kết nối thị trường và hội nhập là cần thiết Để đạt được điều này, cần hiện đại hóa hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện cho sản xuất và giao thương Việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn nhanh chóng, khuyến khích người dân tham gia thị trường sẽ giúp giảm rủi ro cho nông dân, điều chỉnh sự phân hóa giàu nghèo và nâng cao mức sống giữa các vùng Đồng thời, sản xuất hàng hóa cần đảm bảo chất lượng cao và mang đặc trưng riêng của từng địa phương.
Hai là, tính văn hóa – xã hội
Nông thôn phát triển theo quy hoạch hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái và phát huy giá trị truyền thống, tạo ra bầu không khí xã hội tích cực và đảm bảo an ninh chính trị Việc xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư không chỉ giúp xóa đói giảm nghèo mà còn khuyến khích người nông dân vươn lên làm giàu chính đáng Người nông dân sống ổn định, có trình độ văn hóa và tay nghề cao, duy trì lối sống văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống Họ tin tưởng vào sự quản lý của nhà nước và tích cực tham gia vào các phong trào chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình và xây dựng quê hương văn minh, giàu đẹp.
Ba là, tính dân chủ
Dân chủ nông thôn được củng cố và thực thi hiệu quả, với người dân và cộng đồng đóng vai trò chủ động trong giám sát các dự án đầu tư địa phương Các chủ thể nông thôn, bao gồm lao động nông thôn, chủ trang trại và các tổ chức, đều có khả năng tham gia vào quyết định chính sách phát triển nông thôn Thông tin minh bạch và công bằng giữa các bên liên quan là yếu tố then chốt, giúp người nông dân tự do lựa chọn phương án sản xuất và làm giàu hợp pháp Việc phát huy dân chủ gắn liền với tôn trọng pháp luật và quy ước cộng đồng nhằm điều chỉnh hành vi, bảo đảm tính pháp lý và tự chủ của làng xã Quy chế dân chủ ở cơ sở cần được tối đa hóa để hỗ trợ các hội, đoàn thể và tổ chức hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, từ đó huy động sức mạnh cho việc xây dựng nông thôn mới.
Bốn là, tính phối hợp
Kinh nghiệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên thế giới và một số địa phương trong nước
đề ra nhiệm vụ, chỉ tiêu vượt quá khả năng, không phù hợp với lộ trình phấn đấu
Việc kiểm tra, giám sát các hoạt động thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới cần tiến hành:
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch và pháp luật của nhà nước về nông thôn mới.
- Kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực của nhà nước.
- Kiểm tra, giám sát việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
- Kiểm tra, giám sát công tác quy hoạch.
- Kiểm tra, giám sát về kinh tế và tổ chức sản xuất.
Kiểm tra và giám sát việc thực hiện các chức năng của cơ quan nhà nước là rất quan trọng trong quản lý xây dựng nông thôn mới Đồng thời, việc tuân thủ pháp luật trong quá trình này cần được đảm bảo để đạt hiệu quả cao nhất.
1.4 Kinh nghiệm q ản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên thế giới và một số địa phương trong nước
Từ năm 2010, Trung Quốc đã khởi xướng xây dựng 10 làng mẫu với thiết kế kiến trúc thô cứng, đường thẳng và dân cư được phân chia theo kiểu ô bàn cờ Những ngôi nhà có kiến trúc tương đồng, thiếu cây xanh và không gian công cộng, khiến chúng trông giống phố hơn làng Tuy nhiên, các làng được xây dựng sau đó đã tiếp thu ý kiến đóng góp, cải thiện quy hoạch kiến trúc theo phong cách giống resort Các làng mới nổi bật với hạ tầng công cộng hiện đại, bao gồm đường sá, trụ sở, khu thể thao, khu vui chơi giải trí và dịch vụ phong phú.
Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng chương trình quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch là rất quan trọng, bao gồm việc tập trung dân cư vào khu vực có phong thủy tốt và hỗ trợ đầu tư hạ tầng công cộng Nhà nước cấp đất cho người dân xây dựng nhà ở, trong khi chi phí xây dựng do người dân tự lo nhưng phải tuân thủ quy hoạch và kiến trúc đã định Mỗi hương, xã đều có ít nhất 2-3 kỹ sư xây dựng và kiến trúc sư của Nhà nước để hướng dẫn và giám sát quá trình xây dựng Nhờ đó, các làng mới trở nên đẹp, hiện đại và văn minh, đồng thời vẫn giữ được bản sắc nông thôn Các làng mẫu của Trung Quốc đã thu hút hàng chục triệu khách tham quan trong và ngoài nước Hình ảnh các làng mới này tạo sự đối lập rõ rệt với những làng “cũ” chưa thực hiện chương trình NTM Chính quyền Trung Quốc khẳng định rằng mô hình làng mới được xây dựng nhằm thay đổi tư duy của người dân, cho thấy NTM là điều khả thi Những khu vực có điều kiện và cán bộ giỏi có thể hoàn thành trong 5-7 năm, trong khi những nơi khó khăn hơn có thể mất đến 50 năm Đến nay, đã có hàng chục ngàn làng mới được hình thành, nhiều làng còn đẹp hơn cả các làng mẫu ban đầu.
Chính phủ Trung Quốc xác định xây dựng nông thôn mới (NTM) là công trình thế kỷ, liên quan đến gần 1 tỷ nông dân, và cần sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp để thành công Để thu hút đầu tư, chính phủ đã triển khai nhiều chính sách nhằm truyền thông rộng rãi về lợi ích và cơ hội trong lĩnh vực nông nghiệp Mục tiêu là phát triển và hiện đại hóa nông nghiệp, bao gồm cải thiện hạ tầng sản xuất, chuyên môn hóa sản phẩm chủ lực, và kết nối thị trường trong nước và quốc tế Việc doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp không chỉ tăng cường sức cạnh tranh của nông sản mà còn nâng cao thu nhập cho khu vực nông thôn, từ đó góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Định hướng chính sách cụ thể đã giúp doanh nghiệp xác định lĩnh vực đầu tư dựa trên chi phí cơ hội và lợi thế Chương trình “sản nghiệp hóa nông nghiệp” lấy thị trường trong và ngoài nước làm hướng đi, nông hộ làm cơ sở, doanh nghiệp làm chỗ dựa, và hiệu quả kinh tế làm trung tâm Điều này dẫn đến việc chuyển dịch và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, tập trung vào chuyên môn hóa các nghề trụ cột và sản phẩm chủ đạo của nông nghiệp địa phương Để nâng cao hiệu quả kinh tế gắn với thị trường, sản xuất theo chuỗi giá trị được thực hiện, kết nối chặt chẽ giữa các khâu sản xuất, cung ứng và tiêu thụ Chính phủ cũng thực hiện giao đất cho nông dân nhằm hỗ trợ phát triển.
Nông dân có quyền nhượng lại hoặc cho doanh nghiệp thuê sản xuất, với giá cả do Nhà nước quy định Để thu hút đầu tư vào nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới (NTM), Chính phủ áp dụng chính sách thuế ưu đãi, giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp Doanh nghiệp sản xuất thuốc trừ sâu sinh học và phân hữu cơ được miễn thuế VAT, trong khi các doanh nghiệp hợp tác với nông dân cũng được miễn thuế thu nhập Hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho doanh nghiệp nông nghiệp có thể lên tới 20-25% tổng chi phí Doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nghèo còn nhận được mức hỗ trợ lớn hơn Chính phủ cam kết mua sản phẩm từ doanh nghiệp nông nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm tạo sự ổn định trước rủi ro Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp cũng được miễn một phần hoặc toàn bộ chi phí quảng cáo Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn phải thực hiện đấu thầu và ưu tiên cho những doanh nghiệp có lợi thế về kỹ thuật và tài chính Để tham gia vào sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp cần đầu tư vào thị trường chứng khoán Những chính sách này đã thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nông sản và cải thiện diện mạo nông thôn Trung Quốc.
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đối mặt với nhiều thách thức kinh tế, khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt 85 USD Đa số người dân sống trong cảnh thiếu ăn, với 80% dân số nông thôn không có điện và phải sử dụng đèn dầu Hàn Quốc chủ yếu là một nước nông nghiệp, nhưng thường xuyên phải chịu ảnh hưởng của lũ lụt và hạn hán, khiến chính phủ lúc bấy giờ lo lắng về việc giải quyết tình trạng đói nghèo trong xã hội.
Phong trào Làng mới (SU) được khởi xướng bởi Chính phủ Hàn Quốc vào năm 1970 với ba tiêu chí chính: cần cù, tự lực vượt khó và hợp tác cộng đồng Sau những dự án thí điểm thành công trong đầu tư nông thôn, nông dân đã tích cực tham gia vào phong trào này, cải tạo nhà ở từ mái lá sang mái ngói, mở rộng và nâng cấp đường giao thông, cũng như xây dựng các công trình phúc lợi công cộng Phương thức canh tác cũng được đổi mới, áp dụng canh tác tổng hợp với các sản phẩm chủ lực như nấm và cây thuốc lá nhằm tăng giá trị xuất khẩu Chính phủ đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo ra việc làm và cải thiện thu nhập cho người dân.
Chính phủ đã đầu tư vào hạ tầng để giúp nông thôn phát triển và khôi phục tinh thần tự tin Hàn Quốc đã rút ra 6 bài học quan trọng từ thành công này.
Phát huy nội lực của nhân dân là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, với phương châm "nhà nước bỏ ra 1 vật tư, nhân dân bỏ ra 5-10 công sức và tiền của" Người dân có quyền quyết định loại công trình ưu tiên, tham gia công khai bàn bạc, thiết kế, thi công và nghiệm thu Năm 1971, Chính phủ hỗ trợ 33.267 làng, mỗi làng nhận 335 bao xi măng, và đến năm 1972, 1.600 làng được chọn hỗ trợ thêm 500 bao xi măng và 1 tấn sắt thép Sự hỗ trợ này đã trở thành chất xúc tác quan trọng thúc đẩy phong trào nông thôn mới, khuyến khích dân làng tự quyết định mức đóng góp đất và công sức cho các dự án.
Phát triển sản xuất là yếu tố then chốt để tăng thu nhập cho nông dân Việc xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất, cùng với việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và giống mới, giúp nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi, đồng thời hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa Chính phủ cũng đã đầu tư xây dựng nhiều nhà máy chế biến nông sản tại nông thôn và thực hiện các chính sách tín dụng nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất Kết quả, từ năm 1972 đến 1977, thu nhập trung bình của các hộ gia đình đã tăng gấp ba lần.
Đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn Hàn Quốc được xác định là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy phong trào SU, với đội ngũ cán bộ cơ sở tự nguyện và do dân bầu Hàn Quốc đã thiết lập 3 trung tâm đào tạo quốc gia cùng với mạng lưới trường nghiệp vụ địa phương Nhà nước hỗ trợ tài chính và tổ chức các lớp học kéo dài từ 1-2 tuần, nhằm trang bị cho cán bộ những kiến thức thiết thực về kỹ năng lãnh đạo, quản lý dự án và phát triển cộng đồng.
Phát huy dân chủ trong phát triển nông thôn là một yếu tố quan trọng, như đã thể hiện qua mô hình của Hàn Quốc Tại đây, các hội đồng phát triển xã được thành lập để quyết định việc sử dụng trợ giúp của chính phủ một cách công khai và dân chủ Quá trình này bao gồm việc bàn bạc và triển khai các dự án dựa trên nhu cầu thực tế của địa phương Thành công của Hàn Quốc nằm ở việc xã hội hóa các nguồn hỗ trợ, cho phép người dân tự quyết định lựa chọn dự án, phương thức đóng góp và giám sát công trình.
Phát triển kinh tế hợp tác tại Hàn Quốc đã dẫn đến việc tái thiết lập các hợp tác xã (HTX) mới, đáp ứng trực tiếp nhu cầu của cộng đồng và cán bộ được bầu chọn Phong trào SU đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển của HTX, giúp hoạt động đa dạng và hiệu quả trong các lĩnh vực như dịch vụ tín dụng, cung cấp đầu vào sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn và nhiều dịch vụ khác Trong 10 năm qua, doanh thu trung bình của mỗi HTX đã tăng từ 43 triệu won lên 2,3 tỉ won.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh toàn dân.
Chính phủ đã quy hoạch và xác định các loại cây rừng phù hợp, đồng thời hỗ trợ giống và tổ chức tập huấn cho cán bộ kỹ thuật về chăm sóc vườn ươm và trồng rừng Điều này nhằm hướng dẫn và yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc trồng rừng và bảo vệ rừng Nếu vào năm 1970, vấn đề phá rừng còn nghiêm trọng, thì sau 20 năm, rừng xanh đã phủ kín cả nước, được xem là một kỳ tích của phong trào SU.
1.4.2.1 Kinh nghiệm của huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Kinh nghiệm và bài học từ kết quả bước đầu trong xây dựng nông thôn mới ở Hải Hậu thời gian qua đó là:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN GIANG THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG
Thực trạng xây dựng nông thôn mới tại huyện Giang Thành
Việt Nam có nhiều lĩnh vực tiềm năng như nông nghiệp và kinh tế biên mậu, nhưng việc khai thác và phát triển vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn Quá trình xây dựng Nông thôn mới gặp nhiều khó khăn, từ quy hoạch, xây dựng đề án cho đến triển khai thực hiện.
Vốn đầu tư cho giáo dục và y tế còn hạn chế, dẫn đến chất lượng chăm sóc sức khỏe chưa được cải thiện nhiều Các thiết chế văn hóa như nhà văn hóa, sân vận động, thư viện và công viên chưa được đầu tư đầy đủ, làm cho phong trào văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao phát triển yếu Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vẫn ở mức cao, việc giảm nghèo chưa triệt để và dễ phát sinh tình trạng tái nghèo Bên cạnh đó, mặt bằng dân trí và tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, trong khi việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa đạt hiệu quả cao.
2.2 Thực trạng xây dựng nông thôn mới tại h yện Giang Thành
Huyện Giang Thành nhận thức rõ vai trò quan trọng của xây dựng “nông thôn mới” trong tiến trình phát triển và bảo vệ huyện Ngay sau khi tỉnh phát động phong trào, huyện đã nhanh chóng thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới và triển khai các kế hoạch tuyên truyền, vận động đến từng thôn để người dân tham gia đóng góp ý kiến Huyện cũng chỉ đạo thành lập Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới tại tất cả các xã và khuyến khích các tổ chức đoàn thể cùng tham gia vào mục tiêu chung Đặc biệt, UBND huyện phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”, tạo ra phong trào thi đua sôi nổi giữa các thôn và xã trong toàn huyện.
2.2.1 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
Nhà nước thực hiện quản lý thống nhất về xây dựng nông thôn mới, đồng thời phân cấp theo ngành và lãnh thổ Việc áp dụng nguyên tắc phân cấp hành chính tại Việt Nam và các quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương cấp huyện là rất quan trọng Các phòng ban quản lý nhà nước chuyên ngành và cơ quan hỗ trợ Ban chỉ đạo chương trình xây dựng nông thôn mới các cấp cần tuân thủ các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
UBND huyện thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới bằng cách thành lập Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia Ban chỉ đạo này được hỗ trợ bởi Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cơ quan có nhiệm vụ tham mưu và giúp việc cho Ban chỉ đạo trong quá trình triển khai các hoạt động xây dựng nông thôn mới.
Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện, phối hợp với các bộ phận khác và các cơ quan hữu quan như Công an, Phòng Tài chính – Kế hoạch, Phòng Công Thương, và Phòng Tài nguyên Môi trường.
Để đảm bảo quản lý nhà nước hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới tại huyện, các cơ quan như Y tế, Phòng Giáo dục – Đào tạo cần phối hợp chặt chẽ, nhằm tạo ra sự thống nhất trong công tác quản lý.
Sau khi tiếp thu Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 14/4/2009 và Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về Bộ tiêu chí Nông thôn mới và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 27/02/2013 cùng kế hoạch số 435/KH-BCĐXDNTM đã được ban hành để triển khai chương trình này Đồng thời, Kế hoạch số 18/KH-BCĐ ngày 28/3/2011 của Ban Chỉ đạo tỉnh Kiên Giang cũng đã được thực hiện nhằm thúc đẩy xây dựng nông thôn mới tại địa phương trong giai đoạn 2010-2020.
Từ năm 2011 đến 2015, huyện đã định hướng đến năm 2020 bằng cách thành lập Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 875/QĐ-UBND ngày 6/5/2011 Ban Chỉ đạo gồm 23 thành viên, do Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng ban và một Phó Chủ tịch làm Phó trưởng ban, bao gồm các đại diện từ các ban ngành, đoàn thể và cơ quan tham mưu của Huyện ủy Cơ quan điều phối được đặt tại phòng Nông nghiệp & PTNT, đảm bảo thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Huyện ủy và chương trình chỉ đạo của UBND huyện, đồng thời tổng hợp và báo cáo kết quả kiểm tra, sơ kết, tổng kết cho tỉnh và các cấp lãnh đạo theo quy định.
Các xã đã thành lập Ban quản lý xây dựng nông thôn mới với 22 thành viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm trưởng ban và Phó Bí thư Đảng ủy cùng Phó Chủ tịch làm phó trưởng ban Thành viên bao gồm trưởng các tổ chức đoàn thể, cán bộ phụ trách các lĩnh vực như văn phòng – thống kê, tài chính – kế hoạch, văn hóa – xã hội, địa chính – xây dựng, và trưởng các thôn Ban quản lý chủ yếu hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm Huyện ủy cũng chỉ đạo thành lập Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới do Bí thư Đảng ủy xã làm trưởng ban, gồm các ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ xã và bí thư chi bộ ấp, nhằm tập trung chỉ đạo và nắm bắt tình hình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới kịp thời.
Ban Quản lý tiếp nhận và triển khai các kế hoạch xây dựng NTM của Đảng ủy và cấp trên một cách nhịp nhàng Tuy nhiên, cấp xã gặp khó khăn do không có cán bộ chuyên trách, theo Quyết định số 1996 chỉ giao cho một người trong văn phòng UBND xã kiêm nhiệm Trình độ năng lực của cán bộ hầu hết còn yếu, dẫn đến việc điều hành và xử lý các vấn đề liên quan đến xây dựng cơ bản, quản lý vốn, cũng như thực hiện các tiểu đề án về sản xuất gặp nhiều trở ngại.
Qua 5 năm thực hiện, Ban chỉ đạo huyện, xã đã có 5 lần kiện toàn lại Ban chỉ đạo, Ban quản lý vốn cấp xã, đã thành lập Văn phòng nông thôn mới giúp việc cho Ban chỉ đạo theo Quyết định số 1996/QĐ-TTg ngày 4/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ Về cơ cấu BCĐ huyện - xã, Ban quản lý vốn xã thực hiện đúng theo Kế hoạch số 435/KH-BCĐXDNTM của BCĐ Trung ương hướng dẫn.
Trong quá trình xây dựng NTM, huyện đặc biệt chú trọng đến việc chuẩn hóa cán bộ và nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức trong Ban Chỉ đạo xây dựng NTM, cũng như toàn bộ cán bộ, công chức.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đã được cấp ủy chú trọng, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ huyện và cơ sở, đặc biệt là trình độ lãnh đạo quản lý cấp huyện trong xây dựng nông thôn mới Từ năm 2011 đến nay, tổng số cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo trong hệ thống chính trị là 478 người, bao gồm 7 thạc sĩ, 62 đại học và 38 trung cấp, cùng với nhiều cán bộ được đào tạo lý luận chính trị cao cấp.
42 đồng chí, trung cấp 115 đồng chí, sơ cấp 214 đồng chí.
Về chất lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp trong huyện:
- Trưởng, phó các phòng, ban, ngành cấp huyện và tương đương: tổng số 99 đồng chí, trong đó thạc sỹ 06 đồng chí (đang học 04 đồng chí), đại học
Trong số 79 đồng chí, có 5 đồng chí đạt trình độ trung cấp, 66 đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 25 đồng chí đạt trung cấp và 8 đồng chí đạt sơ cấp Tỷ lệ đạt chuẩn về trình độ chuyên môn đại học và cao cấp lý luận chính trị là 67%.
Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang
- Những kết quả đạt được
Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) được Huyện ủy quan tâm chỉ đạo với mục tiêu rõ ràng và giải pháp cụ thể từ đầu Hệ thống quản lý nhà nước về NTM được thiết lập và củng cố từ huyện đến ấp, giúp thực hiện chương trình hiệu quả hơn Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và người dân về ý nghĩa của NTM, được đưa vào nghị quyết của Đảng bộ tại các xã và nhận được sự đồng tình từ cộng đồng Quy hoạch và đề án xây dựng NTM được thực hiện theo quy trình hướng dẫn, với tất cả các xã hoàn thành đề án Kinh tế nông thôn chuyển dịch đúng hướng, tập trung vào phát triển sản xuất và nâng cao đời sống người dân thông qua mô hình sản xuất hiệu quả và ứng dụng công nghệ Đến năm 2015, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt gần 2.973,664 tỷ đồng, với thu nhập bình quân đầu người đạt 36 triệu/năm Nhiều lao động nông thôn được đào tạo nghề, tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp, góp phần giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp Nhờ phát triển kinh tế và tăng thu nhập, công tác giảm nghèo đã đạt hiệu quả cao.
Huyện Giang Thành đã tích cực triển khai chương trình phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, tập trung vào việc xây dựng và nâng cấp các công trình dựa trên nhu cầu cấp thiết của người dân Nguồn lực cho chương trình được huy động từ nhiều phía, trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất, cùng với sự đóng góp của người dân thông qua việc hiến đất và tham gia vào các hoạt động giải phóng mặt bằng Những nỗ lực này đã mang lại kết quả tích cực trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thành công bước đầu này không chỉ nâng cao vai trò của nông nghiệp và nông thôn trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà còn tăng cường lòng tin của cư dân nông thôn đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu.
Đến hết tháng 12/2015, toàn huyện đã đạt tổng số 52 tiêu chí xây dựng nông thôn mới (NTM), bình quân mỗi xã đạt 10,4 tiêu chí, tăng 28 tiêu chí so với năm 2011 Cụ thể, xã Vĩnh Phú đạt 11 tiêu chí, tăng 07 tiêu chí so với năm 2011; xã Vĩnh Điều cũng đạt 11 tiêu chí, tăng 06 tiêu chí so với năm 2011; và xã Tân Khánh Hòa đạt 11 tiêu chí.
05 tiêu chí so với năm 2011), Phú Lợi đạt 09 tiêu chí (tăng
05 tiêu chí so với năm 2011), Phú Mỹ đạt 10 tiêu chí (tăng 05 tiêu chí so với năm 2011).
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) ra đời phù hợp với nguyện vọng của người dân, nhờ đó được hưởng ứng mạnh mẽ Việc thực hiện chương trình dựa trên bộ tiêu chí được các cấp, ngành xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng, từ đó tạo ra quyết tâm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện Đồng thời, có sự đầu tư lớn từ trung ương và cấp tỉnh vào các vùng biên giới, đặc biệt chú trọng phát triển hạ tầng cơ sở tại những khu vực khó khăn.
Công tác tuyên truyền và chỉ đạo triển khai xây dựng nông thôn mới đã được hệ thống chính trị huyện quan tâm, với sự tham gia tích cực từ cấp cơ sở Điều này giúp người dân nhận thức rõ về chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, cũng như tính chất lâu dài của quá trình này Để thực hiện xây dựng nông thôn mới hiệu quả, cần tổ chức sản xuất tốt, huy động nguồn lực từ cộng đồng địa phương và dựa vào sức mạnh nội tại.
Để phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, cần huy động nguồn lực từ địa phương và sự đóng góp của người dân, đồng thời kết hợp với các chương trình, dự án khác để bố trí kinh phí hiệu quả cho các xã.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù huyện Giang Thành đã đạt được nhiều kết quả trong việc xây dựng nông thôn mới, nhưng vẫn tồn tại một số nhược điểm và hạn chế trong quá trình triển khai.
Công tác chỉ đạo thực hiện chương trình chưa được quan tâm đúng mức ở một số địa phương, dẫn đến nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế Lãnh đạo và chỉ đạo tại một số xã thiếu sự sâu sát và quyết liệt, trong khi nguồn lực đầu tư cũng còn hạn chế Một số phòng, ngành của huyện chưa chủ động đề xuất giải pháp để tháo gỡ khó khăn và đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình, cùng với đó là sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các phòng, ngành và địa phương, làm cho việc lồng ghép các chương trình, đề án, dự án trên địa bàn gặp nhiều khó khăn.
Công tác lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại các xã đang diễn ra chậm và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa và khu vực đông đồng bào dân tộc Khmer Lực lượng tư vấn thiếu kinh nghiệm và chưa phù hợp với tình hình địa phương, dẫn đến nhiều bất cập Quy hoạch đã được phê duyệt nhưng cần điều chỉnh, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và giao thông, tuy nhiên, việc điều chỉnh này vẫn chưa được thực hiện do thiếu nguồn kinh phí Hơn nữa, quá trình thực hiện quy hoạch chưa thực sự bám sát các nội dung ưu tiên đã đề ra.
Việc huy động nguồn lực cho chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn ngân sách nhà nước còn hạn chế Thêm vào đó, một số địa phương chưa sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, chủ yếu do công tác quy hoạch chưa phù hợp với thực tế.
Công tác đánh giá thực trạng nông thôn theo tiêu chí NTM tại một số xã hiện vẫn chưa chính xác và còn chạy theo thành tích, dẫn đến việc một số tiêu chí đạt nhưng chất lượng không cao Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi diễn ra chậm, trong khi các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo nghề nông thôn chưa phát triển đồng bộ với kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới Môi trường nông thôn đang gặp nhiều vấn đề nan giải và bức xúc tại các địa phương.
Công tác đào tạo nghề cho nông dân hiện nay chưa được kết nối chặt chẽ với các dự án, chương trình và nhu cầu lao động của doanh nghiệp Kế hoạch dạy nghề còn thiếu sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của thị trường lao động và sản xuất kinh doanh.
Mặc dù người dân được xem là chủ thể trong xây dựng nông thôn mới, nhưng vai trò của họ vẫn còn hạn chế Nhiều người chưa hiểu rõ về chương trình này và thường có tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ từ Nhà nước, dẫn đến việc chưa huy động được nguồn lực từ cộng đồng Do đó, chính quyền cần tham gia tích cực hơn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là đối với các hộ nghèo, nhằm cải thiện phương thức sản xuất và nâng cao đời sống người dân.
Công tác kiểm tra và giám sát xây dựng nông thôn mới hiện đang gặp nhiều bất cập, mặc dù được thực hiện định kỳ Đặc biệt, trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng, vẫn tồn tại nhiều sai sót và yếu kém trong quá trình thực hiện Hơn nữa, công tác thống kê và báo cáo của các xã còn sơ sài và chưa tuân thủ đúng hướng dẫn quy định, gây khó khăn cho công tác kiểm tra và giám sát tại các xã xây dựng nông thôn mới.
Huyện chỉ có 5 xã biên giới thuộc diện 135 của Chính phủ, cần nguồn vốn đầu tư lớn nhưng nguồn lực cho hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế và phân tán Trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, vốn huy động từ nhân dân và doanh nghiệp rất hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước.
Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý nhà nước trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Giang Thành, tỉnh Kiên
Để sản xuất ổn định với quy mô lớn và đảm bảo đầu ra, Nhà nước cần tạo điều kiện tiêu chuẩn hóa sản phẩm, đồng thời bảo vệ tính đặc thù của từng địa phương Việc tăng cường quảng bá thương hiệu và tiếp thị sản phẩm cũng rất quan trọng, do đó Nhà nước nên tích cực hỗ trợ trong việc quảng bá thương hiệu và tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm địa phương.
3.2.2 Giải pháp về tuyên truyền, vận động
Cần phát động mạnh mẽ phong trào xây dựng nông thôn mới trong toàn đảng bộ và nhân dân, tập trung vào việc tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa và nội dung của chương trình Điều này sẽ giúp tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và hành động của đảng bộ, đồng thời nâng cao sự đồng thuận trong xã hội Cần phân định rõ trách nhiệm của từng cấp, ngành, đoàn thể và hộ dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể Đặc biệt, người dân nông thôn cần nhận thức rõ vai trò chủ thể của mình, cũng như hiểu được lợi ích và trách nhiệm khi tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới, cần sử dụng hình thức đa dạng như băng rôn, panô, áp phích và khẩu hiệu tại các khu dân cư và tuyến đường chính, với nội dung dễ hiểu và rõ ràng Đặc biệt, tại những khu vực có đông đồng bào dân tộc, tài liệu cần được dịch sang tiếng Khme và người tuyên truyền phải sử dụng ngôn ngữ này để giải thích Cần tổ chức phát loa cổ động, cấp phát tờ rơi và đĩa ghi hình các mô hình nông thôn mới hiệu quả nhằm nâng cao nhận thức cho người dân Đài truyền thanh huyện nên thường xuyên tuyên truyền về mục đích và ý nghĩa của xây dựng nông thôn mới, đồng thời phối hợp với Đài truyền hình tỉnh để thực hiện các phóng sự liên quan Việc nâng cấp các trạm truyền thanh xã cũng rất quan trọng để địa phương chủ động phát tin tuyên truyền Tuyên truyền lồng ghép vào các cuộc họp dân, đặc biệt trong các sự kiện khởi công và khánh thành dự án, cần phân tích rõ lợi ích và ý nghĩa của xây dựng nông thôn mới để thu hút sự quan tâm của người dân, từ đó nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.
UBND và BCĐ, BQL xây dựng NTM các xã đã tổ chức tuyên truyền các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới qua hệ thống trạm phát thanh và các buổi sinh hoạt cộng đồng Mục tiêu là giúp người dân hiểu rõ các chủ trương, chính sách liên quan để thực hiện hiệu quả tại địa phương Bên cạnh đó, cần tăng cường vận động người dân tham gia đóng góp tài chính, đất đai và sức lao động, đồng thời giám sát quy hoạch và thay đổi các tập quán sản xuất không phù hợp Người dân cũng được khuyến khích chủ động lựa chọn mô hình sản xuất mới, tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cũng như thực hiện các tiêu chí nếp sống văn minh và đảm bảo an ninh trật tự xã hội.
Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện và Ban Thi đua khen thưởng huyện đã hướng dẫn các xã xây dựng kế hoạch thực hiện các cuộc vận động thi đua nhằm tạo ra phong trào sâu rộng trong cả nước về xây dựng nông thôn mới Mục tiêu là tổ chức tốt phong trào thi đua toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đồng thời tuyên truyền, phổ biến và nhân rộng những mô hình tốt cùng kinh nghiệm hay trong việc xây dựng nông thôn mới.
3.2.3 Giải pháp về rà soát điều chỉnh quy hoạch và thực hiện quy hoạch
Lập quy hoạch xây dựng NTM là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển nông thôn mới, không chỉ ở huyện Giang Thành mà còn trên toàn quốc.
Để xây dựng nông thôn mới (NTM) hiệu quả, cần nghiên cứu và đầu tư kỹ lưỡng nhằm phát triển các giải pháp quy hoạch khả thi và chất lượng, phù hợp với xu hướng phát triển của huyện Hệ thống quy hoạch cần đồng bộ, đầy đủ và sát thực tế, yêu cầu rà soát và điều chỉnh các quy hoạch hiện có để tránh chồng chéo trong các lĩnh vực như giao thông, thủy lợi, điện và khu dân cư Việc bổ sung quy hoạch cho các ngành, lĩnh vực còn thiếu là cần thiết, với quy hoạch chi tiết giúp triển khai thực hiện dễ dàng hơn Đặc biệt, quy hoạch cần phải thực tế và khả thi, tránh tình trạng quy hoạch treo hoặc kéo dài, như các quy hoạch vùng sản xuất lúa chất lượng cao hay quy hoạch hạ tầng đô thị Đầm Chít trước đây.
Việc lập quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới cần kế thừa hợp lý các quy hoạch và cơ sở vật chất hiện có, đồng thời lựa chọn và bố trí công trình hạ tầng một cách khoa học và thực tiễn, chú ý đến phương án ứng phó với biến đổi khí hậu Đối với các công trình hạ tầng đã có giá trị sử dụng lâu dài nhưng chưa đạt chuẩn, cần lập kế hoạch cải tạo, nâng cấp Các công trình xây dựng mới phải đáp ứng tiêu chuẩn nông thôn mới; những công trình cần nhiều vốn cần được thực hiện theo lộ trình, nhưng quy hoạch vẫn phải đảm bảo tiêu chuẩn và yêu cầu phát triển bền vững Chính quyền và cộng đồng dân cư trong xã cần là những chủ thể quyết định nội dung và thực hiện quy hoạch nông thôn mới tại địa phương.
Dựa trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện Giang Thành đến năm 2020, huyện cần tập trung vào các quy hoạch thiết yếu nhằm xây dựng nông thôn mới hiệu quả Những quy hoạch này đóng vai trò quan trọng và quyết định cho sự phát triển bền vững của Giang Thành trong giai đoạn hiện nay.
Huyện Giang Thành hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn trong quy hoạch vùng nguyên liệu cho sản xuất lúa chất lượng cao và phát triển cây con có giá trị kinh tế, cũng như vùng sản xuất lúa - tôm Để giải quyết tình trạng này, cần có sự thống nhất trong quy hoạch từ Nhà nước nhằm tránh các vướng mắc Yêu cầu tiên quyết là thực hiện quy hoạch tổng thể và cơ cấu lại ngành nông nghiệp, làm nền tảng cho các quy hoạch khác.
Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước cần xây dựng quy hoạch sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của từng vùng Việc lựa chọn giống cây có giá trị kinh tế cao và định hướng sản phẩm theo đặc thù của từng địa phương (xã) là rất quan trọng Cần phân chia khu vực sản xuất hợp lý cho các loại hình như lúa, hoa màu, cây ăn trái, nuôi thủy sản nước ngọt và nước mặn Thực hiện quy hoạch sản xuất hiệu quả sẽ là nền tảng để đầu tư vào hệ thống thủy lợi, lưới điện, giao thông và các quy hoạch khác một cách đồng bộ.
Hệ thống thủy lợi huyện Giang Thành cần được xây dựng phù hợp với quy hoạch thủy lợi chung của vùng Tứ giác Long Xuyên, nhằm kiểm soát lũ, ngăn mặn và cung cấp nước đảm bảo chất lượng Điều này sẽ phục vụ cho yêu cầu phát triển bền vững và hiệu quả cao cho từng tiểu vùng và từng ngành.
Quy hoạch xây dựng nhà máy chế biến thủy sản (tôm) tại xã Phú Mỹ là cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người dân địa phương.
Cần hoàn chỉnh quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông huyện với giải pháp về vốn và xác định các tuyến trọng điểm để đẩy nhanh đầu tư Việc ưu tiên đầu tư sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc đi lại, phục vụ cho các hoạt động trao đổi, mua bán, và giao lưu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội tại địa phương.
Điều chỉnh quy hoạch hạ tầng khu đô thị Đầm Chít, bao gồm giao thông, chiếu sáng, cây xanh, nhà ở và trung tâm thương mại, nhằm nâng cấp khu vực này lên thị trấn vào năm 2020 theo Nghị quyết Hoàn thành dự án tuyến dân cư vành đai biên giới giai đoạn 2, 3 và thực hiện Quyết định 1776 của Thủ tướng Chính phủ về ổn định dân cư biên giới giai đoạn 2014-2020 Đến năm 2020, đảm bảo 99% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và đủ điện cho sản xuất theo Nghị quyết Đại hội XII Đảng bộ huyện, cần tiếp tục phát triển lưới điện và hạ thế điện cho nhân dân Đặc biệt chú trọng quy hoạch hệ thống điện phục vụ sản xuất, nâng cấp hệ thống điện các tuyến kênh T3, T4, T5 từ 1 pha lên 3 pha và xóa hết vùng lõm, tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí sản xuất cho nông dân.
Một số đề xuất, kiến nghị
Một số đề x ất, kiến nghị
Qua thực tế nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn tại huyện, tác giả có một số đề xuất kiến nghị sau đây:
Chính phủ vừa ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, điều chỉnh chức danh, số lượng và chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn Nghị định mới tập trung vào việc tăng cường số lượng cán bộ công chức, đặc biệt là công chức chuyên trách về xây dựng nông thôn mới (NTM), đồng thời giảm bớt số lượng người hoạt động không chuyên trách tại cấp xã.
Để đạt được mục tiêu hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới vào năm 2020, cần tăng cường vốn đầu tư phát triển và vốn tín dụng ưu đãi cho các huyện, xã nghèo, xã biên giới và những khu vực đông đồng bào dân tộc thiểu số Do đặc điểm diện tích lớn và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn hạn chế của các xã này, việc đầu tư từ ngân sách nhà nước cần được chú trọng hơn nữa Mục tiêu là đạt tỷ lệ bình quân 50% số xã hoàn thành tiêu chí nông thôn mới trên toàn quốc.
3.3.2 Đối với tỉnh Kiên Giang
Cần xem xét điều chỉnh Quyết định số 1857/QĐ-UBND ngày 29/7/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang nhằm phù hợp với đặc thù của tỉnh Cụ thể, về tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa xã, không yêu cầu các trung tâm xã phải có đủ khu thể thao và không nhất thiết mỗi ấp đều phải có nhà văn hóa Đối với tiêu chí nghĩa trang và chợ nông thôn, chỉ nên xây dựng khi có nhu cầu thực tế để tránh lãng phí nguồn vốn đầu tư.
Để đạt được tiêu chí xã điểm vào năm 2018, huyện cần sớm đầu tư đồng bộ vào cơ sở vật chất văn hóa theo lộ trình quy hoạch Cụ thể, cần nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện, cải thiện các trạm y tế xã, xây dựng trường đạt chuẩn và phát triển hệ thống giao thông liên huyện như đường kênh T3 và kênh Nông Trường.
Theo quy hoạch, Trung tâm y tế huyện Giang Thành hiện tại chỉ là tạm thời Dự kiến, sẽ xây dựng bệnh viện đa khoa huyện và trung tâm y tế huyện tại khu vực Trung tâm hành chính huyện, cụ thể là ấp Khánh Hòa, xã Tân Khánh Hòa.
Trong quá trình thực hiện quy hoạch theo lộ trình, Sở Y tế tỉnh cần xem xét lại các tiêu chí đánh giá để đảm bảo trạm y tế xã Phú Lợi đạt chuẩn quốc gia.
- Việc phân cấp một số vốn đầu tư phát triển cho xã, theo Thông tư số
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc đầu tư dưới 3 tỷ đồng do Ban quản lý xây dựng NTM xã làm chủ đầu tư có tính khả thi không cao do năng lực cán bộ cơ sở thiếu chuyên môn kỹ thuật Do đó, đề nghị xã nên làm chủ đầu tư cho các công trình sử dụng nguồn vốn do dân tự đóng góp, đặc biệt là những công trình có vốn đầu tư dưới 1 tỷ đồng, phù hợp với các xã vùng sâu, vùng xa và khó khăn.
Chính phủ đã triển khai chương trình đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ nòng cốt ở các cấp, tập trung vào xây dựng, thẩm định và tổ chức thực hiện quy hoạch nông thôn mới Đặc biệt, chương trình chú trọng đến đội ngũ cán bộ cơ sở, những người trực tiếp tham gia công tác xây dựng nông thôn mới Đồng thời, các chính sách khuyến khích và thu hút cán bộ trẻ được đào tạo đạt tiêu chuẩn cũng được ban hành nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nông thôn mới hiệu quả.
Bài viết này phân tích thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Giang Thành, đồng thời trình bày định hướng phát triển nông thôn mới của tỉnh Kiên Giang và huyện Giang Thành Để hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị kỹ lưỡng, đầu tư hợp lý và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân Việc phân định rõ ràng vai trò và nhiệm vụ của từng bên liên quan cũng là yếu tố then chốt cho sự thành công của các giải pháp được đề ra.